Đó là tựa đề một cuốn sách của sử gia Tạ Chí Đại Trường mới xuất bản ở trong nước. Trong chuyến về quê năm ngoái tôi thấy cuốn sách ‘chuyện phiếm sử học’ trong nhà sách và vậy là mua ngay để đọc, và hôm nay có dịp giới thiệu đến các bạn.
“Phiếm” có nghĩa là trò chuyện lan man, linh tinh, chẳng đâu vào đâu, hay những chuyện không thiết thực. Nhưng chuyện phiếm sử học thì chắc chắn không phải là linh tinh. Ngược lại, đây là những câu chuyện thật (?) đã được ghi lại trong sử sách, nhưng vì nhiều lí do các sử gia trước đây và ngày nay bỏ qua, không đề cập đến. Tạ Chí Đại Trường đã làm cái công việc của người đi “lượm” lại những câu chuyện đó và kể cho chúng ta trong một cuốn sách nhỏ này. Những câu chuyện mà tôi nghĩ những ai chán ngán với học sử sẽ phải suy nghĩ lại.
Quyển sách ngắn thôi (chỉ trên 200 trang, khổ nhỏ) nhưng trữ lượng thông tin thì dồi dào lắm. Qua 200 trang sách, tác giả kể chúng ta nghe những chuyện liên quan đến tính dục (sex) qua các triều đại, đặc biệt là Nhà Trần; chuyện tiền bạc, văn chương; chuyện ‘thần tiền’ và ‘tiền thần’; và chuyện tây tiến bàn về biên cương Việt Nam qua các triều đại.
Tác giả dành nhiều trang kể chuyện … sex. Chuyện sex trong các triều đình phong kiến. Tác giả lí giải rằng những cái tên của cung điện của vua thực ra đều mang dục tính. Chẳng hạn như chữ “cung điện” nghe có vẻ sang và quan quyền, nhưng thực ra “cung” có nghĩa là “phòng”, “điện” là “nhà”. Các vua chúa ngày xưa đặt tên các phòng trong nhà (aka cung điện) như Phong Lưu, Tử Hoa, Bồng Lai, Cực Lạc, Trường Xuân (chỗ nằm ngủ). “Lý Thái Tổ cho mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, có nghĩa là con rồng cao cấp đi qua cửa ấy để hưởng thú vui chăn gối.” Tác giả hỏi có phải những cái danh xưng đó “cùng có ý nghĩa hưởng thụ xác thịt.”
Nhưng còn nhiều chuyện ‘ghê gớm’ hơn. Bằng một văn phong dung dị, tác giả kể rằng năm Ất Tị (1185) Kiến Ninh Vương và Long Ích đem hơn 12 ngàn lính đi đánh nhóm Sơn Lão ở Sách Linh để trả thù. Một viên chỉ huy của Kiến Ninh Vương cho bắt giam những người trong nhóm Sơn Lão, và còn đái vào miệng họ; nhưng bọn Sơn Lão cũng chẳng vừa, họ cắn vào âm hành của viên chỉ huy! Thế là Kiến Ninh Vương sai đám quan làm con cá gỗ để khoá miệng bọn Sơn Lão. Đọc chuyện này, chúng ta không thể không cười thầm, và tự hỏi có phải ‘cá gỗ’ có nguồn gốc từ những 1000 năm trước?
Ông lí giải về cái tên Lý Thường Kiệt cũng là một chuyện đáng chú ý. Ai cũng biết Lý Thường Kiệt là người hoạn quan. Ông lí giải chữ ‘Kiệt’ như sau: “‘Cát’ là phiên âm của sử quan Hán, chắc không đúng bằng lỗ tai của sử quan Việt đã chuyển sát hơn bằng chữ ‘kiệt’, không lầm lẫn được đó là chữ ‘cặt’/cu. Cũng như kích/kít/cát/cứt, trong phâm âm đùa bỡn, né tránh, người ta còn gọi con cu là ‘con kẹc’, rõ ràng là ‘kiệt’ nếu phóng tay văn hoa viết ra chữ Hán!” Ngay cả cái tên Tuấn của ông cũng có liên quan đến các tên trên. Ông viết “Cũng như bà chủ một nhà hộ sinh ở Chợ Lớn đã tự động khai sinh cho các cô cậu bé người Hoa ra đời ở đây là Tửng (Tuấn) và Muối (Muội( khiến cho cả khu vực có toàn thằng Tửng, con Muối … Vậy thì anh thanh niên Tuấn / Tửng vào cung đình Lý phải được gọi là thằng Cặt đúng như chỉ danh phái tính của anh, chứ không thể mang tên thằng Cứt.”
Nói đến sex thì không thể nào không đề cập đến hoạn quan. Lê Văn Duyệt là một hoạn quan nổi tiếng trong lịch sử. Hoạn quan thường bị mặc cảm vì nỗi nhục mất danh tiết nên họ bù đấp bằng tài năng của họ. Chẳng hạn như Tư Mã Thiên bên Tàu để lại những trang Sử kí cho hậu thế. Lê Văn Duyệt bên ta cũng cùng chung số phận với Tư Mã Thiên và từng thổ lộ tâm sự rằng “sinh ở thời loạn, không dựng được cờ trống đại tướng, chép công danh vào sách sử, không phải là trượng phu.”
Tác giả chứng tỏ đã đọc sách sử xưa rất kĩ, nhưng không phải kiểu tầm chương trích cú, mà biết rút ra những bài học cùng những câu chuyện và những tình tiết độc đáo. Ông chỉ ra rằng trong lịch sử nước nhà chỉ có một người đàn bà xưng vương, người đó là Trưng Trắc.
Có những câu chuyện sử làm chúng ta ngạc nhiên một cách thích thú. Chẳng hạn như Lê Lợi từng có thời đầu hàng quân Minh, làm quan tuần kiểm huyện Nga Lạc, nhưng các sử gia Việt Nam đã tránh không nói đến sự kiện này. Ông phê bình các sử gia hiện hành “Tất cả những lời ca tụng tránh né có nguyên nhân là vì, với thời đại ngày nay, ông vua có quyền sinh sát cũ đã choàng thêm cái áo thần thánh của bậc anh hùng cứu nước.” Thật ra, sử quan ngày xưa có ghi lại lời tâm sự thật của Lê Lợi: “Trẫm … từng đem hế của cảo để phụng thờ chúng, mong khỏi tai họa … (và) việc dấy nghĩa binh chỉ là sự bất đắc dĩ thôi …”
Ông có một văn phong rất độc đáo và … bình dân. Mô tả hình ảnh Ông Địa trong dân gian, ông viết bằng một văn phong hết sức bình dân: “Ông ngồi chễm chệ theo xe bán bánh mì, xe nước mía… với ly cà phê sữa bên cạnh, một thời tay gắn điếu thuốc Ba con Năm anh-tẹc, hay quá tồi với điếu Đà Lạt không thèm nghĩ tới.” Hay khi viết về Nguyễn Công Trứ ông dùng chữ rất bình dân “với một Nguyễn Công Trứ bị nợ đòi, một Tú Xương van nợ …” Viết về mốc biên giới, ông dùng câu chữ y chang như người dân hay nói: “Cột mốc chạy đặt vào phía bên kia vào lúc nửa đêm gà gáy để sáng ra, chủ nhân bị lấn, nếu biết, lại ôm đặt vào chỗ cũ, và chắc có càu nhàu chửi bới om sòm.” Tôi gọi ông là người “bình dân hoá” học thuật.
Dù với phong cách bình dân hoá như thế, quyển sách nhỏ này được nhiều người khen. Trong những người khen đó có nhà văn Nguyên Ngọc, Phan Huy Lê, và cả nhà hoạt động chính trị ở Pháp Nguyễn Gia Kiểng. Tôi rất đồng ý với nhận xét của ông NGK khi ông viết ‘mỗi tác phẩm của Tạ Chí Đại Trường là “một sự tìm kiếm công phu, có sự nhận định và lí luận rất thẳng thắn. Nó khác với những quan điểm sử quan thời trước, và đến mãi sau này nữa, là dùng lịch sử như là một dụng cụ để củng cố chế độ đương quyền.”
Thật vậy, nếu có một sử gia mà các tác phẩm đều mang tính độc đáo và độc lập, và văn chương lôi cuốn từ dòng chữ đầu đến câu cuối sách thì tôi nghĩ chỉ có một: Tạ Chí Đại Trường. Tôi rất hân hạnh giới thiệu cuốn chuyện phiếm này đến các bạn.
===
TB: Những chữ trong ngoặc kép là trích từ sách.
Tạ Chí Đại Trường là một sử gia độc lập (hiểu theo nghĩa ông không phục vụ cho chế độ nào hay thuộc loại ‘sử gia cung đình’). Trước năm 1975 ở miền Nam ông đã là một nhà khảo cứu thành danh với cuốn “Lịch Sử Nội Chiến tại Việt Nam 1771-1802” được Tổng thống VNCH trao giải thưởng. Sau 1975, cũng như nhiều người khác, ông bị bắt đi tù cải tạo, và sau khi ra tù ông có viết một tập hồi kí cải tạo, đọc cười ra nước mắt. Năm 1994 ông đi Mĩ định cư, năm 2015 ông về Việt Nam để “gửi nắm thân tàn”, và qua đời ở Sài Gòn vào ngày 24 tháng 3 năm 2016. Viết về Tạ Chí Đại Trường, học giả Nguyễn Huệ Chi nhận xét như sau: “Với tôi, ông ấy là người luôn ngẩng cao đầu, không chịu nghe mệnh lệnh của ai ngoài trái tin và con mắt nhìn sự thật. Ông Đại Trường là nhà sử học có tầm vóc và có nhiều khám phá về phương diện lịch sử Việt Nam trong giai đoạn trung đại, cận đại và hiện đại. Tiếc là có một quá trình dài từ năm 1975, giới khoa học xã hội miền Bắc nắm giữ tư thế ‘bên thắng cuộc’ nên không trao đổi học thuật với một nhà sử học chân chính của miền Nam như ông Đại Trường. Theo tôi, đấy là một thiệt thòi cho giới khoa học miền Bắc. Lẽ ra, nếu tiếp cận ông sớm, người ta đã nhận ra phải nhận thức lịch sử cho đúng và những gì phải thay đổi trong cách viết sử lâu nay”.
Sáng nay đọc tin tức mới biết Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, tác giả ca khúc nổi tiếng ‘Chiều mưa biên giới’ mới qua đời ở BV Chợ Rẫy ngày hôm qua 26/2/2018. Ông sanh năm 1932, và như vậy là thọ 86 tuổi. Những ai yêu nhạc thuộc thế hệ tôi và sau này có lẽ không ít thì nhiều nghe đến Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông. Ông là tác giả những ca khúc thịnh hành một thời và còn thịnh hành mãi đến ngày nay: Phiên gác đêm xuân, Chiều mưa biên giới, Mấy dặm sơn khê, Khi đã yêu, Nhớ một chiều xuân, Sắc hoa màu nhớ, v.v. Riêng ca khúc “Chiều mưa biên giới” qua tiếng hát Thanh Tuyền thì đã trở thành một bài ca kinh điển.
Ông là thầy dạy nhạc cho ca sĩ Thanh Tuyền. Thật ra, nghệ danh “Thanh Tuyền” là do ông đặt cho (vì chị ấy tên thật là Như Mai). Ông giải thích “Thanh là cao nguyên xanh, Tuyền là suối” (Thanh Tuyền là người Đà Lạt, nơi có hồ Tuyền Lâm). “Thanh Tuyền” do đó có nghĩa là suối nước chảy vô tận. Ông cũng chính là người tác hợp tiếng hát Thanh Tuyền và Chế Linh, cặp song ca làm mưa gió một thời trên sân khấu văn nghệ miền Nam trước 1975.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là người con của Tây Ninh. Gia đình ông thuộc nhóm giàu có thời đó (gọi là “điền chủ”). Ông từng theo học trường Thiếu sinh quân ở Vũng Tàu, nơi ông cũng tiếp thụ âm nhạc của các giáo sư Pháp giảng dạy. Ông vào quân đội năm 1951; được gửi đi huấn luyện chỉ huy quân đội ở Hà Nội; 1954 trở thành tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn trọng pháo 553 khi mới 24 tuổi; 1957 đi học ở Hawaii; 1972 được thăng chức đại tá và chuyển sang làm Chánh Văn phòng cho Tổng Tham mưu Phó đến năm 1975. Sau 1975, ông bị bắt đi tù cải tạo 10 năm trời. Ông tâm sự những ngày tháng sau tù: “Sau tháng 4/1975, tôi đi học tập ‘cải tạo’ 10 năm. Khi trở về nhà, tôi mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và thể xác bị suy sụp. Suốt 30 năm qua, tôi không tham gia bất cứ hoạt động nào ở trong nước cũng như ngoài nước.” Sau khi ra tù, dù có thể đi Mĩ theo diện HO nhưng ông chọn ở lại Việt Nam cho đến ngày qua đời.
Theo Nhạc sĩ Trần Quốc Bảo, sau 1975 gia đình ông sống nhờ quán bán bánh mì và giò chả (hiệu Nhiên Hương) tại nhà đường Nguyễn Trọng Tuyển, Phú Nhuận. Hai ông bà nhạc sĩ không có con. Ông được đồng nghiệp và bạn bè yêu quí. Như là lời nói hộ cho nhiều nghệ sĩ, Nhạc sĩ Trần Quốc Bảo nhận xét rằng: “Với thầy Đông, tôi chỉ biết nói rằng tôi kính phục ông nhất hai điểm, đó là tài hoa và tư cách.”
Tài hoa. Đó là chữ rất đúng để mô tả sự nghiệp âm nhạc của ông. Chẳng hạn như ca khúc “Chiều mưa biên giới” Trong một bài trả lời phỏng vấn Nhạc sĩ Trường Kỳ, ông cho biết hoàn cảnh ra đời của bài Chiều mưa biên giới như sau: “Bản nhạc Chiều Mưa Biên Giới được viết vào năm 1956. Khi ấy tôi là trung úy trưởng phòng hành quân của chiến khu Đồng Tháp Mười là người có trách nhiệm đề ra những phương án tác chiến. Lần đó tôi dẫn đầu một nhóm biệt kích bí mật đi điều nghiên chiến trường dọc theo biên giới Miên-Việt và Đồng Tháp Mười. Trên đường về, anh em chúng tôi lâm vào cảnh trời chiều gió lộng, mưa gào như vuốt mặt. Giữa cánh đồng hoang vắng tiêu sơ, lối vào tiền đồn thì xa xôi, thoáng ẩn hiện những nóc tháp canh mờ nhạt ở cuối chân trời. Và từng chập gió buốt kéo về như muới sát vào thịt da. Từ trong cảnh ấy, tận đáy lòng mình đã nghe nẩy lên những cung bậc rung cảm, những trường canh đầu tiên buồn bã cho bài Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu…”
Một ca khúc khác ít người biết đến là “Hải ngoại thương ca”. Thoạt đầu người ta tưởng đây là sáng tác cho ‘Việt kiều’, nhưng không phải. Ông sáng tác ca khúc này vào năm 1963, nhân vụ đảo chánh ở miền Nam và tướng Nguyễn Chánh Thi phải trốn ra ngoại quốc: “… Đến năm 1963, có một cuộc đảo chánh lần thứ nhì khiến chế độ của ông Ngô Đình Diệm bị suy sụp.. Lúc đó mọi người lên tiếng kêu gọi những anh em ly tán sau cuộc đảo chánh lằn thứ nhất đang ở ngọai quốc trở về. Lúc đó tôi thấy một số bạn bè của tôi vẫn còn do dự chưa muốn trở về . Điều này nó thôi thúc tôi viết bài Hải Ngoạii Thương Ca, có ý nói bây giờ trong nước cũng vui vẻ…”. Bài này mãi đến 2004 mới được trình diễn. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông tâm sự: ”Năm 2004 bài Hải Ngọai Thương Ca được đưa ra ngoài Hà Nội duyệt. Thì ngoài Hà Nội mới hỏi tôi: có phải bài Hải Ngoại Thương Ca Này mới viết không mà sao nó sát với đề tài của thời cuộc này quá vậy?. Nó hay đấy . Đấy là lời của một vị lãnh đạo của cục Văn Hóa Nghệ Thuật.”
Mấy năm gần đây, nhiều văn nghệ sĩ đã lần lượt ra đi về miền miên viễn. Những ‘cây đại thụ’ như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, đến những nhạc sĩ lừng danh như Thanh Sơn, Hoài Linh, Lê Trọng Nguyễn, Anh Việt Thu, Trần Trịnh, Nhật Ngân, Tùng Giang, Nguyễn Ánh 9, Nguyễn Hiền, Huỳnh Anh, v.v. đã khuất bóng. Bây giờ nhìn lại thời 20 năm văn nghệ miền Nam tôi thấy kinh ngạc về tính phong phú và đa dạng của nên văn nghệ đó. Chỉ nói riêng về âm nhạc thôi, 20 năm đó đã để lại cho nền văn hoá dân tộc nhiều dấu ấn qua những ca khúc đầy tính nhân bản. Có thể nói tính nhân bản trong âm nhạc là đặc điểm phân biệt rất rõ giữa văn nghệ miền Nam và miền Bắc trong thời chiến. Điển hình như Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, là một quân nhân trong thời chiến, nhưng nhạc của ông thì không thấy hình súng đạn, lửa khói hay màu máu đâu cả, thay vào đó là những lời ca thật đẹp, đầy chất lãng mạn, thấm đẫm tình quê hương và nhân bản.
Tôi muốn chia xẻ với các bạn loạt bài viết của thi sĩ Du Tử Lê về người nhạc sĩ tài hoa này dưới đây.
Hình ảnh người lính khác, trong nhạc Nguyễn Văn Đông (Du Tử Lê)
Du Tử Lê
Chúng ta có thể nói mà, không sợ sai lắm rằng, dân tộc nào cũng có cho riêng mình, một bài “Chiêu hồn tử sĩ.” Tử sĩ, những người lính trải qua nhiều thời kỳ, chết cho quê hương, tổ quốc họ. Do đó, ngay cả thời bình, hình ảnh người lính cũng xuất hiện rất thường, trong thi ca và, trong âm nhạc. Huống hồ chi, nếu đất nước đó, lại là một đất nước chìm, đắm triền miên trong chiến tranh.
Chân dung người lính, nói một cách đơn giản; hoặc còn được gọi một cách văn vẻ là “chinh phu,” “chinh nhân” hoặc, “chiến sĩ”… được mô tả như thế nào (?) ra sao (?) thì, chúng tùy thuộc cảm quan từng tác giả. Chúng không nhất thiết phải giống nhau, hay chỉ có một diện mạo. Thí dụ nhạc sĩ Lê Thương, người đã cống hiến cho nền tân nhạc Việt Nam, một trường ca bất tử: Trường ca “Hòn Vọng Phu.”
Với trường ca này, chính họ Lê cho biết, được gợi hứng từ tác phẩm “Chinh Phụ Ngâm Khúc” của bà Ðoàn Thị Ðiểm. Nên, người lính trong “Hòn Vọng Phu” của Lê Thương là một “chinh phu.”
Ở một số nhạc phẩm của nhiều nhạc sĩ khác, thì người lính trong ca khúc của họ, lại được gọi một cách dung dị, là “binh sĩ.” Thí dụ hình ảnh người lính trong ca khúc “Ly Rượu Mừng” của nhạc sĩ Phạm Ðình Chương. Một ca khúc như viên ngọc quý, càng ngày càng “lên nước” với thời gian. Trong ca khúc mà chúng ta thường được nghe trong mỗi độ Xuân về, họ Phạm cũng đã dành một vị trí trân trọng cho người lính, qua câu nhạc:
“…Rót thêm tràn đầy chén quan san / chúc người binh sĩ lên đàng / chiến đấu công thành / sáng cuộc đời lành / mừng người vì Nước quên thân mình.” (1)
Một trong những bất hạnh lớn của dân tộc và, đất nước Việt Nam là thường xuyên chìm, đắm trong chiến tranh, ly tán! Vì thế, hầu như nhạc sĩ nào của 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, ít hay nhiều, cũng đã ghi nhận hình ảnh người lính. Hình ảnh ấy có thể thấp thoáng hoặc, rõ nét. Ðích danh.
Vì vai trò của người lính ở đâu, giai đoạn nào, cũng vẫn là cái nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ quê hương, bảo vệ nòi giống; nên chân dung người lính thường được mô tả một cách hào hùng, lẫm liệt như hình ảnh người lính trong ca khúc “Biệt Kinh Kỳ” (nhạc Minh Kỳ, lời Hoài Linh):
“Bạn ơi! Khi nào ai hỏi đến tên tôi / đời tôi lính chiến cánh chim tung trời / ngày nào khi đất nước hết binh đao / giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu / trở về thành đô nắm tay ta mừng nhau.”
Hoặc lãng mạn, mang tính biểu tượng cực tả, như hình ảnh người lính, trở thành thương binh, trong ca khúc “Ngày Trở Về” của Phạm Duy:
“Ngày trở về có anh nông phu chống nạng cầy bừa / vì thương yêu anh nên ngày trở về / có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ…”
Ở một cực khác, cực đối nghịch, cũng với Phạm Duy, trong ca khúc “Kỷ Vật Cho Em” (thơ Linh Phương,) thì, chân dung người lính lại là:
“Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại / xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về / anh trở về có thể bằng chiến thắng Pleime / hay Ðức Cơ, Ðồng Xoài, Bình Giã / anh trở về, anh trở về hàng cây nghiêng ngả / anh trở về có khi là hòm gỗ cài hoa / anh trở về trên chiếc băng ca / trên trực thăng sơn màu tang trắng /… / Anh trở về chiều hoang trốn nắng / Poncho buồn liệm kín hồn anh / anh trở về bờ tóc em xanh / chít khăn sô lên đầu vội vã… em ơi!”
Trong 20 năm tân nhạc miền Nam, Việt Nam, Nguyễn Văn Ðông cũng là một nhạc sĩ nổi tiếng không chỉ với một hai ca khúc viết về người lính mà, với hầu hết những ca khúc ông viết về dề tài này.
Những ca khúc làm thành tên tuổi ông như ca khúc “Phiên Gác Ðêm Xuân,” ông sáng tác đêm giao thừa 1956, khi đang đóng quân ở Khu 9, Ðồng Tháp Mười. Hai ca khúc nổi tiếng khác của họ Nguyễn cũng được ra đời sau đó, là ca khúc “Chiều Mưa Biên Giới,” khi ông đóng quân gần biến giới Việt-Miên và “Mấy Dặm Sơn Khê,” khi đồn trú ở vùng cao nguyên Trung phần.
Nhưng chân dung hay, hình ảnh người lính trong các ca khúc vừa kể của Nguyễn Văn Ðông, tuy cũng đậm tính thơ mộng… Nhưng đó là cái thơ mộng dung dị, nhân bản, gần với đa số, với đám đông, những người lính vô danh.
Ông không vẽ chân dung người lính của ông bằng hình ảnh hào hùng lẫm liệt, như hai nhạc sĩ Minh Kỳ và Hoài Linh. Người lính trong ca khúc của Nguyễn Văn Ðông có thể đi ở hàng… cuối chót, của đoàn quân chiến thắng trở về thủ đô – Thậm chí, họ cũng có thể vắng mặt trong những cuộc duyệt binh, mừng thắng trận; khi ông viết:
“Ðón giao thừa một phiên gác đêm / chào xuân đến súng xa vang rền / xác hoa tàn rơi trên báng súng / ngỡ rằng pháo tung bay, ngờ đâu hoa lá rơi /…? Ước mong nhiều đời không bấy nhiêu / vì mơ ước trắng như mây chiều / tủi duyên người năm năm tháng tháng / mong chờ ánh xuân sang, ngờ đâu đêm cứ đi / Chốn biên thùy này xuân tới chi? / tình lính chiến khác chi bao người / nếu xuân về tang thương khắp lối / thương này khó cho vơi, thì đừng đến xuân ơi! (Trích “Phiên Gác Ðêm Xuân”)
Ông cũng không khẳng định người lính của ông phải là người tạo được những chiến thắng lẫy lừng, như chiến thắng Pleime, Ðức Cơ… mà, chỉ là những cá nhân bình thường, với những tâm tình, những khát khao, nhớ thương đời thường:
“Về đâu anh hỡi mưa rơi chiều nay / Lưng trời nhớ sắc mây pha hồng / đường rừng chiều cô đơn chiếc bóng / người tìm về trong hơi áo âm / gợi niềm xa xăm/ Người đi khu chiến thương người hậu phương / thương màu áo gửi ra sa trường / lòng trần còn tơ vương khanh tướng / thì đường trần còn mưa bay gió cuốn / còn nhiều anh ơi!” (Trích “Chiều Mưa Biên Giới”)
Ông cũng không quả quyết rằng, người lính của ông sẽ trở về bằng một chiếc quan tài có “cài hoa.” Mà, chân dung người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông là một chân dung bình dị, không quá đặc biệt. Không ngoại lệ. Ðó là một con người như bất cứ một con người nào thuộc về đám đông. Vì ngoài bổn phận người lính, thì trong thẩm sâu của tâm hồn người lính, vẫn là một con người (như mọi người,) với cá tính, rung động, cảm nhận chân thật khi đối đầu, cọ sát với thực tế và vận mệnh chung của dân tộc:
“Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng / ngoài mưa khuya lê thê, qua ngàn chốn sơn khê / non nước ơi, hồn thiêng của núi sông / kết trong lòng thế hệ, nghìn sau nối nghìn xưa / Bao ước mơ giữa khung trời phiêu lãng / chờ mùa xuân tươi sáng, nhưng mùa thắm chưa sang / anh đến đây rồi anh như bóng mây / chốn phương trời ấm lạnh, hòa chung mái nhà tranh / Anh như làn gió, ham ngược xuôi theo đường mây / tóc tơi bời lộng gió bốn phương / nước non còn đó, một tấc lòng / không mờ xóa cùng năm tháng / mấy ai ra đi hẹn về / dệt nốt tơ duyên…” (Trích “Mấy Dặm Sơn Khê”)
Nhạc sĩ Hoàng Thi Thao, một người gắn bó với sinh hoạt âm nhạc tự những năm giữa thập niên 1950, khi ông còn rất nhỏ, cho biết, người đầu tiên trình bày ca khúc “Chiều Mưa Biên Giới” của Nguyễn văn Ðông là ca, nhạc sĩ Trần Văn Trạch. Họ Trần mang ca khúc này qua Pháp trình diễn. Khi trở về Saigòn, vào đầu năm 1960, tại rạp Hưng Ðạo, cùng với nữ ca sĩ Thái Thanh, ông đã trình bày ca khúc ấy với ban Ðại Hòa Tấu do nhạc trưởng Nghiêm Phú Phi điều khiển.
Bên cạnh đó, theo một bản tin được phổ biến trên trang mạng Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia thì, sau khi hai ca khúc “Chiều Mưa Biên Giới” và “Mấy Dặm Sơn Khê” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông được bằng hữu trong giới, trân trọng giới thiệu với quần chúng, tác giả đã gặp nhiều khó khăn từ Bộ Thông Tin Saigòn… Cụ thể, năm 1961, bộ này đã ra quyết định cấm phổ biến hai ca khúc vừa kể với lý do: Nội dung “phản chiến!” Có thể đưa tới sự sa sút tinh thần của những người lính trấn đóng ở những vùng hẻo lánh, núi non, biên giới…
Hôm nay, nhìn lại, người ta thấy, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông không chỉ cho những người yêu nhạc của ông, một chân-dung-khác về người lính miền Nam Việt Nam, 20 năm. Mà, ở nhiều ca khúc còn lại, ông vẫn trung thành với cảm nhận rất nhân bản, rất con người của mình. Dù cho hình ảnh hay, chân dung của người lính, trong ca khúc của họ Nguyễn, không được chính quyền thời đó, chấp nhận.
Du Tử Lê
Chú thích:
(1) Nhạc sĩ Phạm Ðình Chương từng ghi lại trong tuyển tập nhạc nhan đề “Phạm Ðình Chương, Ly Rượu Mừng” do Phạm Thành xuất bản tại Hoa Kỳ, 1991, thì: Ca khúc “Ly Rượu Mừng” được ông sáng tác năm 1955 tại Saigòn. Ðể đăng trong giai phẩm Xuân Ðời Mới; theo yêu cầu của cụ Trần Văn Ân và, nhà văn quá cố Nguyễn Ðức Quỳnh, là hai người chủ trương báo này.
Nguyễn Văn Ðông và, điểm đứng chông chênh giữa hai đầu tả, hữu (Du Tử Lê)
Mặc dù họ Nguyễn tình nguyện hiến cuộc đời mình cho quân đội khi ông còn rất trẻ; nhưng bên cạnh tư cách một người lính, ông còn là một nhạc sĩ. Trong vai trò này, ông lại là nhạc sĩ miền Nam, được thế giới biết đến tên tuổi rất sớm.
Ðiển hình là sự kiện ngay từ năm 1961, nghệ sĩ Trần Văn Trạch đã được đài Europe No.1 và Ðài Truyền Hình Pháp thu âm, rồi thu hình ca khúc “Chiều Mưa Biên Giới” của ông, gây tiếng vang lớn ở Âu Châu. “Biến động” này đã tạo sức dội ngược về Việt Nam, khiến chỉ trong vòng 3 tháng, nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam của nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, đã bán hết 60,000 bản nhạc lẻ, phá kỷ lục số ấn bản lớn nhất từ xưa, ở thời điểm đó. Âm vang của ca khúc “Chiều Mưa Biên Giới” lại được khuếch tán thêm nữa, khi cũng trong năm 1961, nghệ sĩ Trần Văn Trạch, lần đầu tiên, trình bày ca khúc ấy tại “Ðại nhạc hội Trăm Hoa Miền Nam” với dàn nhạc của Ðài Truyền Hình Pháp, thu “play back.” (2)
Tôi cho họ Nguyễn là một trường hợp đặc biệt của giới văn nghệ sĩ miền Nam Việt Nam, 20 năm. Khi, một mặt, ông vẫn chu toàn nhiệm vụ “người lính gác giặc” của mình. Mặt khác, ông vẫn can đảm cất lên tiếng nói của lương tri. Tiếng nói của một kẻ sĩ trước thời cuộc. Những ghi nhận từ đáy tầng khát khao của dân tộc, đất nước…
Vì thế, ngay khi lệnh cấm của Bộ Thông Tin được báo chí thời đó đăng tải nơi trang nhất thì dư luận quần chúng khắp nơi đã đồng loạt phản ứng. Họ bênh vực họ Nguyễn, như bênh vực người phát ngôn trung thực nhất, về những mơ ước, khát khao thầm kín của họ. Phản ứng bất ngờ của đám đông cũng khiến nhiều cơ quan ngôn luận nhập cuộc. Lên tiếng bênh vực. Ủng hộ tinh thần tác giả “Chiều Mưa Biên Giới.”
Sự kiện vừa kể, cách gì, cũng không cứu được tác giả thoát khỏi 15 ngày trọng cấm! Lệnh phạt theo quân kỷ. Ban hành bởi Bộ Quốc Phòng. Lý do:
“Ðương sự đã không tuân hành huấn lệnh quy định rằng, bất cứ một quân nhân nào, khi sáng tác thơ, văn, âm nhạc… trước khi phổ biến cho công chúng, phải được nhân viên hữu trách của Bộ Quốc Phòng duyệt trước và, cấp giấy cho phép!…”
Lệnh phạt ấy còn kèm theo một điều khoản trói tay, triệt tiêu nỗ lực phát triển tài hoa, nghệ thuật của họ Nguyễn. Ðó là điều khoản:
“…Ðương sự không được phép xuất hiện trong mọi sinh hoạt ca nhạc nơi công cộng!”
Mặc dù khi ấy, với cấp bậc đại úy, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông đảm nhiệm nhiều chức vụ khá quan trọng như: Bí thư Tổng giám đốc Cảnh sát, Công an và, Chánh văn phòng Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.
Hồi tưởng thời điểm này, tác giả “Phiên Gác Ðêm Xuân” có lần đã tâm sự với một số người thân của ông rằng: Trở thành nhạc sĩ hay nghệ sĩ nói chung, là một trở ngại lớn cho ông, trên bước đường binh nghiệp. Bởi vì những cấp Bộ có trách nhiệm thăng chức đều không tin tưởng giới nghệ sĩ. Họ quan niệm nghệ sĩ là giới ăn chơi, hút xách, lãng mạn, tính khí thất thường… không thích hợp với vai trò điều quân khiển tướng. Mặc dù ngay tự khởi đầu binh nghiệp, họ Nguyễn đã chứng tỏ ông có đầy đủ uy tín, thành tích và, thâm niên để được đề bạt vào những chức vụ quan trọng hơn…
Trường hợp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông khiến không ít người liên tưởng tới trường hợp của cố Ðại Tá Anh Việt/Trần văn Trọng – Tác giả những ca khúc nổi tiếng như “Bến Cũ,” “Thơ Ngây”… Tuy ông không bị nhiều khó khăn, gập ghềnh như trường hợp họ Nguyễn; nhưng với thâm niên quân vụ như họ Trần, cuối cùng, chức vụ cao nhất mà nhạc sĩ Anh Việt được giao phó, cũng chỉ là cục trưởng Cục Quân Cụ mà thôi.
Về mặt trái của tấm huy chương hay sự nổi tiếng, theo ghi nhận của tác giả ca khúc “Về Mái Nhà Xưa” là, phản ứng đố kỵ, gièm pha của những người cùng ngành nghề! Khi họ thấy, một sớm, một chiều, chỉ với một ca khúc thôi, Nguyễn Văn Ðông đã được quần chúng nhiều giới khác nhau, ái mộ, như ái mộ một thần tượng mà họ chờ đợi đã từ rất lâu.
Bên cạnh đó, họ Nguyễn cũng kể lại một câu chuyện điển hình cho cái mà, ông gọi là “tai họa” cho bất cứ một nghệ sĩ nào, nếu may mắn có được một vị trí tương đối, trong guồng máy chính quyền hay, quân đội. Ðó là sự kiện một số không nhỏ những người thân quen, nhân danh “tình nghĩa nghệ sĩ” xin ông can thiệp để họ được làm lính kiểng, lính ma; hoặc, vận động, chạy chọt cho họ được thuyên chuyển từ các đơn vị tác chiến, tiền đồn về văn phòng hay, hậu cứ! Và, khi bị từ chối thì, cũng chính đám người đó, lại là những người tìm mưu, lập kế ám hại ông nhiều nhất.
Tác giả “Hải Ngoại Thương Ca” nhớ lại:
“Có lần Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gọi tôi vào dinh Ðộc Lập, trình diện ông. Ông bảo, ‘Anh bị rất nhiều người tố cáo rằng anh lợi dụng danh tiếng nhạc sĩ đi hại đời con gái người ta! Anh đã phá hoại gia cang nhiều gia đình người khác!Anh cũng bị tố là ăn chơi sa đọa, đơn tố cáo chất chồng ở đây.. ’ ’’. Anh phải stop ngay vì uy tín của quân đội…! ’ ’’”
Dù thường xuyên bị đe dọa bởi những cơn bão lớn, nhiều lúc tưởng chừng con đường binh nghiệp có thể bị cắt ngang, thậm chí rơi vào vòng lao lý, nhưng giữa hai con người quân nhân và nghệ sĩ, thời gian đã cho thấy họ Nguyễn vẫn chọn nghiêng nặng về phía con người nghệ sĩ. Phải chăng, từ sâu thẳm tâm hồn mình, ông từng tự nhắc nhở mình rằng: “Lòng trần còn tơ vương khanh tướng – thì đường trần mưa bay gió cuốn – còn nhiều anh ơi”?
Tôi nghĩ, ý niệm “khanh tướng” này của tác giả, nhiều phần đi ra từ câu thơ cổ “nhất tướng công thành vạn cốt khô.”
Vì thế, sau hai ca khúc bị cấm phổ biến là “Chiều Mưa Biên Giới” và “Mấy Dặm Sơn Khê,” nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông vẫn tiếp tục sáng tác những ca khúc mang tính “phản chiến” như các bài “Lá Thư Người Lính Chiến” Bài này bị Bộ Thông Tin cấm lưu hành vì các câu, “Mẹ ơi! Cầu xin cho xóm làng quê hương xóa mờ chiến trường – Ðồng bào ta cùng thương nhau xóa hận thù đi – xóa đi đường ranh giới…” Mặc dù, hai câu chót, trong phần ca từ của bài này, ghi rõ rằng, “Mẹ ơi và con trai của mẹ ngày mai sẽ về… sẽ về – Mẹ ơi! Mẹ hiền ơi! Chớ buồn vì con, nước non chưa tròn…”
Cách khác, dù mong mỏi hòa bình đến cho dân tộc, nhưng không vì thế mà tác giả từ chối nhiệm vụ của một người lính.
Ca khúc nhan đề “Anh Trước Tôi Sau,” Nguyễn Văn Ðông viết để tưởng niệm người bạn thuở cùng học với ông ở trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tầu: Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân, Tư lệnh sư đoàn bị bắn rớt máy bay, tử nạn khi ông mới 37 tuổi, cũng bị xếp vào loại nhạc “phản chiến.” Nội dung ca khúc này chỉ muốn nói, là những quân nhân đã tự nguyện hiến mình cho tổ quốc thì, cái chết là điều đương nhiên sẽ phải đến với người lính. Khác nhau chăng chỉ là thời gian. Sớm, muộn!
Riêng ca khúc “Anh” tức “Anh Nhớ Gì Không Anh” của họ Nguyễn thì bị cấm vì các câu như: “Nước mắt dân Hời, thành quách một thời tan tành hệ bởi đâu? Sao ta nỡ xa ta, xẻ chia sơn hà cho Bắc Nam mình xa cách nhau!”
Như đã nói, cái tinh thần kẻ sĩ, cái ý thức đất nước, dân tộc, khiến Nguyễn Văn Ðông chấp nhận thua thiệt trong binh nghiệp, nhưng bảo vệ được khí tiết của một kẻ sĩ thao thức, trằn trọc trước tang thương đất nước. Nhưng đó là sự lên tiếng của một người lính tự nguyện. Một người lính vẫn làm tròn bổn phận của một công dân thời đất nước binh đao, ly loạn… Sự kiện này vẫn khác, hoàn toàn khác với những nhạc sĩ cũng giương cao ngọn cờ phản chiến; nhưng lại là những người từ chối trách nhiệm của một công dân trước thời cuộc.
Hơn một lần, nhạc sĩ Hoàng Thi Thao từng nói với tôi, “Về phương diện nhạc chống chiến tranh thì, Nguyễn Văn Ðông là người thứ nhất, người đầu tiên xông xáo vào con đường nhậy cảm và, gai góc này.”
Tuy nhiên, tôi vẫn thấy cần phải ghi nhận một cách công bình rằng, tiếng nói của Nguyễn Văn Ðông, cách gì, cũng vẫn là tiếng nói phản ảnh tâm tư của một nghệ sĩ đau đáu trước những đau thương, tang chế của đất nước – Song song với con người chọn con đường binh nghiệp khi còn rất trẻ. Ðó là sự khác biệt to lớn, giữa một người đứng trong lửa đạn và, những người đứng ngoài, với những kêu đòi vô trách nhiệm.
Trong đời nhạc Nguyễn Văn Ðông, tình yêu tổ quốc luôn nồng nàn, như thể đó là tình yêu thứ nhất của đời ông:
“Và xin em hiểu rằng, người đi giúp nước nào màng danh chi – Cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy – Lòng anh vẫn nhớ tình người hôm nay – Ðời dâng cho núi sông – Lòng này thách với tang bồng – Ðừng làm má thắm phai hồng, buồn lắm em ơi!…” (Trích “Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp”)
Hoặc:
“Người về đây giữa non sông này – Hội trùng dương hát câu sum vầy – Về cho thấy con thuyền nước Nam – Ði vào mùa xuân mới sang – Xa rồi ngày ấy ly tan – Tôi đi giữa trời bồi hồi – Cờ bay phất phới tôi quên chuyện ngày xưa – Mong sao nước Việt đời đời – Anh dũng oai hùng chen chân thế giới…” (Trích “Hải Ngoại Thương Ca”)
Tôi cho đó là tấm lòng, là trái tim của một nghệ sĩ chọn ở với tổ quốc của mình, bằng một tình yêu một chiều; mà, không một tình yêu nào có thể so sánh hoặc thay thế được.
Du Tử Lê
Chú thích:
(2) Ðại nhạc hội này do nhà xuất bản Trăm Hoa Miền Nam tổ chức. Nhân đây, cũng xin lưu ý: “Trăm Hoa Miền Nam” và “Tinh Hoa Miền Nam” là hai nhà xuất bản nhạc lẻ khác nhau.
Binh nghiệp và nhạc nghiệp Nguyễn Văn Ðông (Du Tử Lê)
Có một vài tài liệu ghi nhận rằng, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông sinh năm 1934. Nhưng theo sự xác nhận của họ Nguyễn thì, ông sinh năm 1932 tại quận Nhất, thành phố Saigon. Nguyên quán của ông là tỉnh Tây Ninh, huyện Bến Cầu. Thuở bé Nguyễn Văn Ðông học trường Huỳnh Khương Ninh, phường Ðakao, Tân Ðịnh, Saigon. Năm 1945- 1946 loạn lạc, trường Huỳnh Khương Ninh đóng cửa.
Gia đình gửi ông vào trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, ở thành phố Vũng Tàu, khi ấy ông mới 14 tuổi. Và, con đường binh nghiệp của ông, chính thức khởi đi từ đấy.
Năm 1950 Nguyễn Văn Ðông tốt nghiệp trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, cũng là nơi xuất thân của trên dưới 30 tướng lãnh thuộc quân lực VNCH cũ. Trong đó, có Thống Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của QL/VNCH, người được coi là anh cả của Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Năm 1951 Nguyễn Văn Ðông được cử theo học khóa 4 trường Võ Bị Sĩ Quan Vũng Tàu. Họ Nguyễn tốt nghiệp thủ khoa với cấp bực thiếu úy năm 1952. Tưởng cũng nên nói thêm rằng, Ðại Tướng Cao Văn Viên, người giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH sau cùng của miền Nam Việt Nam, cũng tốt nghiệp thiếu úy khóa 1 của trường này.
Năm 1953, Thiếu Úy Nguyễn Văn Ðông tốt nghiệp khóa “Ðại Ðội Trưởng” tại Trường Võ Bị Ðà Lạt. Cũng năm này, ông có chân trong ban giám khảo chấm thi Khóa Võ Bị Ðà Lạt 1953 do Quốc Trưởng Bảo Ðại chủ tọa lễ bế giảng khóa.
Năm 1954, họ Nguyễn lại được gửi ra Hà Nội theo học khóa “Tiểu Ðoàn Trưởng” tại Trường Chiến Thuật Hà Nội. Ra trường, ông được chỉ định vào chức vụ tiểu đoàn trưởng Trọng Pháo 553. Ðó là năm 1955, khi họ Nguyễn mới 24 tuổi, một tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của quân đội.
Trải qua nhiều chức vụ, nhiều đơn vị và đồn trú ở nhiều nơi chốn khác nhau, trước khi được đưa về Saigon, giữ những chức vụ tương đối quan trọng; cấp bực sau cùng của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông là đại tá, Trưởng khối lãnh thổ Bộ Tổng Tham Mưu. Ông cũng từng được trao tặng huân chương cao quý nhất; đó là Bảo Quốc Huân Chương.
Khi biến cố Tháng Tư, 1975 xảy ra, như tất cả những sĩ quan QLVNCH khác, Nguyễn Văn Ðông bị tù cải tạo. Sau 9 năm 6 tháng, ông được trả về ngày 01 Tháng Giêng, 1985 với lý do:
“Ðương sự bị bệnh sắp chết, nên cho phép gia đình đem về nhà chôn cất!”
Tuy thuộc diện HO, đủ điều kiện để xin định cư tại Hoa kỳ, nhưng gia đình thấy họ Nguyễn đau bệnh quá nặng, không biết chết lúc nào, nên đã giữ ông ở lại, thể theo ước nguyện của ông là, khi chết xin được chôn tại quê nhà.
Về sự kiện này, tác giả “Về Mái Nhà Xưa” cho biết, ông cũng không hiểu do đâu, mà Trời Phật đã nhìn lại ông và, cho ông sống, dù là một đời sống “rất lê lết” (chữ của ông), cho đến ngày hôm nay.
Về cái mà tôi muốn gọi là “nhạc nghiệp” của nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Văn Ðông, theo một số tài liệu đã được phổ biến ở hải ngoại cũng như tại Việt Nam thì: Nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông chính thức tham dự vào sinh hoạt âm nhạc ở miền Nam Việt Nam vào khoảng giữa thập niên 1950. Ông nổi danh ngay với những ca khúc đầu tay như “Chiều Mưa Biên Giới,” “Phiên Gác Ðêm Xuân,” “Súng Ðàn”… là ba ca khúc ra đời trong năm 1956 và được phổ biến rất rộng rãi. Nhưng ca khúc “Thiếu Sinh Quân Hành Khúc” bài hát được công nhận là ca khúc chính thức của trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, Nguyễn sáng tác năm 1948, khi mới 16 tuổi, mới thực sự là sáng tác đầu tay của người nhạc sĩ đa tài này.
Ngoài bút hiệu và cũng là tên thật, Nguyễn Văn Ðông, họ Nguyễn còn dùng nhiều bút hiệu khác như Phượng Linh, Phương Hà, Ðông Phương Tử, Vì Dân, Hoàng Long Nguyên.
Cũng ngay từ giữa thập niên 1950, trong vai trò trưởng đoàn văn nghệ Vì Dân ở Saigon, Nguyễn Văn Ðông đã nhận được sự hợp tác của rất nhiều ca, nhạc sĩ tên tuổi thời đó, như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Ðàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ thuộc lãnh vực kịch nghệ, điện ảnh, cải lương danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch… Ông cũng cho thấy tài tổ chức và điều khiển các chương trình đại nhạc hội lớn, rất thành công tại Saigon, cũng như các tỉnh.
Về sinh hoạt liên quan tới đài phát thanh thì, ngay từ năm 1958, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông đã là trưởng ban nhạc “Tiếng Thời Gian” của đài Saigon. Ban nhạc của ông quy tụ những tên tuổi như Lệ Thanh, Anh Ngọc, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Ðàm…
Ở cấp độ quốc gia thì, năm 1959, họ Nguyễn được chọn làm trưởng ban tổ chức “Ðại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc,” tập hợp hơn 40 đoàn văn nghệ, đại diện cho toàn miền Nam; tranh giải liên tiếp 15 ngày đêm tại Saigon. Với tất cả những thành tích kể trên, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông đã được trao tặng “Giải Âm Nhạc Quốc Gia.” Bà cố vấn Ngô Ðình Nhu là người trao tặng giải thưởng này cho họ Nguyễn.
Nói tới nhạc nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông mà, không nói tới thời gian họ Nguyễn làm giám đốc hãng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, nổi tiếng một thời ở miền Nam, tôi cho là một thiếu sót quan trọng.
Ở vai trò này, với sự hợp tác tích cực của những nhạc sĩ như Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Y Vân, Lê Văn Thiện… Hai hãng đĩa của ông đã đem sự giầu có, phong phú cho sinh hoạt tân nhạc cũng như cổ nhạc miền Nam, 20 năm; với những album riêng cho từng ca sĩ.
Quay lui lại thời điểm đầu thập niên 1960, sự kiện trung tâm băng nhạc Sơn Ca cho ra đời những băng nhạc chỉ với một tiếng hát như Sơn Ca 6, tiếng hát Giao Linh; Sơn Ca 7, tiếng hát Khánh Ly; Sơn Ca 8, tiếng hát Lệ Thu; Sơn Ca 9, tiếng hát Phương Dung; Sơn Ca 10, tiếng hát Thái Thanh và ban hợp ca Thăng Long… cùng một số băng nhạc riêng, dành cho nhạc Trịnh Công Sơn, là một sáng kiến cực kỳ mới lạ. Nó mở đầu cho những album sau này, với một tiếng hát, của nhiều trung tâm băng nhạc khác.
Lại nữa, tôi cho rằng chúng ta cũng sẽ không phải với nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông, một người, không chỉ tận tụy cống hiến trọn cuộc đời mình cho nền tân nhạc miền Nam, 20 năm; mà ông còn là người có công đầu trong nỗ lực khai sinh, hình thành rồi phát triển một hình thái nghệ thuật mà, sau này chúng ta quen gọi là hình thái âm nhạc “Tân Cổ Giao Duyên.”
Trước khi đi sâu vào lịch sử hình thành của hình thái nghệ thuật từng được chào đón tại miền Nam Việt Nam, tính đến Tháng Tư, năm 1975, chúng tôi muốn nhắc tới bài “Tân cổ giao duyên” đầu tiên của hình thái phối hợp nghệ thuật đặc biệt này. Ðó là bài “Khi Ðã Yêu” sáng tác của Phượng Linh và soạn giả Ðông Phương Tử. Do 2 nghệ sĩ nổi tiếng của sân khấu cải lương là Thanh Nga, Minh Phụng thu âm lần đầu, năm 1963, tại Saigòn. Bài “Tân cổ giao duyên” này, sau đó, đã được nhà xuất bản Hồng Hoa ấn hành thành nhạc bản.
Tuy là hai bút hiệu khác nhau, nhưng sự thực, chỉ là một.
Những người yêu nhạc Nguyễn Văn Ðông hẳn không quên, với bút hiệu Phượng Liên, ông là tác giả của những ca khúc nổi tiếng như “Bóng Nhỏ Giáo Ðường,” “Niềm Ðau Dĩ Vãng,” “Ðom Ðóm,” “Khi Ðã Yêu,” “Thương Muộn,” “Lời Giã Biệt” v.v… Và, bút hiệu Ðông Phương Tử họ Nguyễn dùng cho tất cả những sáng tác liên quan đến phần cổ nhạc.
Nhưng phải đợi tới sáng tác “Tân cổ giao duyên” thứ hai, cũng của Nguyễn Văn Ðông, đó là bài “Mùa Sao Sáng,” do Mộng Tuyền trình bày, thì phong trào “Tân cổ giao duyên” mới thực sự rộ lên, không chỉ tại Saigon mà, khắp mọi miền đất nước.
Vì ca khúc “Mùa Sao Sáng” ký tên Nguyễn Văn Ðông, nên bài Tân cổ giao duyên “Mùa Sao Sáng” được phổ biến với hai tên: Nhạc Nguyễn Văn Ðông, Soạn giả Ðông Phương Tử. Bài tân cổ giao duyên này, theo thiển ý của chúng tôi, rất thích hợp cho những mùa Lễ Giáng Sinh của người Việt Nam, nơi quê người.
Nguồn gốc “Tân Cổ Giao Duyên” và nguyên nhân “lấn sân” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông (tiếp theo) (Du Tử Lê)
Sau khi in lại phóng ảnh bìa của hai bài “Tân cổ giao duyên” nhan đề “Khi Ðã Yêu” và “Mùa Sao Sáng” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông, do nhà xuất bản Hồng Hoa ấn hành (3); chúng tôi nhận được một phóng ảnh bản tin “Cổ Nhạc Việt Nam số 3,” của nhà Ðồng Nai xuất bản (in kèm bài này), do một thân hữu gửi tặng. Nguyên văn trang nhất của bản tin đó như sau:
“Ðôi lời giao cảm,
“Những năm gần đây, phong trào nghe nhạc ‘Tân-Cổ Giao-Duyên’ rất thịnh hành, lan rộng từ thành thị đến thôn quê. Ðồng bào các giới nhiệt liệt tán thưởng, ưa thích. Môn ‘Nghệ Thuật Mới’ đến với chúng ta như một cơn bão, thách thức với thời gian và nhân-sinh quan nghệ-thuật.
“Tân-Cổ Giao-Duyên là gì?
“Là bài ca 6 câu vọng cổ được cắt bớt đi 2 hoặc 3 câu để xen vào đó một đoạn “Tân nhạc mà chúng ta gọi nôm na là nhạc mới.
“Sự kết hợp giữa Tân và Cổ nhạc thật là kỳ thú, đem lại cho người nghe những âm hưởng luôn luôn biến thoát, làm tăng thêm sự cảm khoái của người thưởng thức và cả người nghệ sĩ diễn tả.
“Trước hướng đi lên của nền nghệ thuật mới, Nhà xuất bản ‘Ðồng Nai’ chúng tôi tiền phong cho ấn hành một loạt bài ca ‘Tân Cổ Giao Duyên’ để giúp cho các bạn mộ điệu có thể tự học lấy dễ dàng.
“Nhờ sự hợp tác của một số nhạc sĩ hữu danh Tân-Cổ, các bản nhạc này được trình bày bằng các phương pháp ký âm rất giản dị. Nhà xuất bản chúng tôi cũng đặc biệt nhờ nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông nghiên cứu ghi ký âm pháp sự hòa hợp giữa Tân và Cổ nhạc bằng các phương pháp dễ hiểu, hợp mọi trình độ nhạc lý.
“Mục đích nhằm vào:
“1- Giúp ca sĩ cổ nhạc và các Ban Tân và Cổ nhạc có thể nhìn vào bản này, hòa tấu ăn khớp ngay như bên giới Tân nhạc.
“2- Người ca sĩ cổ nhạc có dịp làm quen với các ký âm pháp, và trong thời gian ngắn sẽ ca hát rành rẽ các bài bản Tân nhạc như các ca sĩ Tân nhạc.
“3- Với lối trình bày tân-tiến hình thức của bản nhạc, người ca sĩ cổ nhạc khi cầm bản nhạc này trình bày trước nhạc hội, quan khách, sẽ làm tăng thêm vẻ duyên dáng lịch sự, trí thức như các ca sĩ tân nhạc mà ta vẫn thường thấy trên các sân khấu Ðại Nhạc Hội và Ðài Phát Thanh.
“Ngay bây giờ, các bạn mộ điệu muốn học hỏi, trau dồi nghề nghiệp, hãy sưu tầm ngay cho đủ bộ các ấn phẩm của chúng tôi được đánh dấu từ số 1.
“Nhà xuất bản ‘Ðồng Nai’.”
Với tài liệu vừa trình bày, chúng ta thấy, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông không chỉ là một trong những người có công đầu về sự hình thành và, phát triển phong trào “Tân cổ giao duyên” mà, ông còn là người nghiên cứu và phổ biến nhu cầu ký âm để các bản nhạc “tân cổ giao duyên” có thể in ra cho các nghệ sĩ cổ nhạc cầm lên sân khấu hát một cách dễ dàng như một bản tân nhạc vậy.
Ðề cập tới nguyên nhân sâu xa đưa đến sự hình thành hình thái nghệ thuật “Tân cổ giao duyên,” một số nhân vật tham gia từ đầu cho biết: Vào năm 1962, các hãng băng đĩa nhạc Saigon chuyên sản xuất các chương trình ca cổ nhạc thuần túy, bị thất thu nặng nề, vì số người mua đĩa sút giảm hẳn. Trước tình hình thương vụ bị suy giảm một cách đáng ngại, các hãng băng đĩa cổ nhạc bàn nhau, tìm một hướng đi mới, hầu cứu vãn tình thế. Thời gian đó, trong số các hãng chuyên sản xuất chương trình cổ nhạc có Kỹ Sư Ngô văn Ðức; du học ở Pháp về. Kỹ Sư Ðức nối nghiệp cha là ông Năm Mạnh, làm chủ hãng đĩa Asia. Hãng này chuyên in, sản xuất đĩa 33 và 45 tours, cung cấp cho các Trung tâm băng đĩa như Hồng Hoa, Sóng nhạc… Ông Ðức là người có công đứng ra mời gọi các soạn giả và, các chuyên gia âm nhạc hiến kế cải cách cấu trúc 6 câu của cổ nhạc. Và, Kỹ Sư Ngô văn Ðức đã nhờ nhạc sĩ Nguyễn văn Ðông nghiên cứu lắp ráp phần tân nhạc, còn soạn giả Viễn Châu, tức Bảy Bá (nổi tiếng với bài ca cổ nhạc “Tình Anh Bán Chiếu” do Út Trà Ôn ca,) nhận lãnh nghiên cứu sắp xếp phần cổ nhạc, sao cho ăn khớp với phần tân nhạc… Kết quả nhạc sĩ Nguyễn văn Ðông đã cho xuất bản bài ca “tân cổ” mẫu; tựa đề “Hướng dẫn ca và kỹ thuật sáng tác bài tân cổ giao duyên.” (Sự kiện này,được nhà xuất bản Ðồng Nai ghi công, như chúng tôi đã sao lục ở trên).
Tóm lại, sự khai sinh của hình thái nghệ thuật “Tân Cổ Giao Duyên” là một công trình tập thể, với sự đóng góp tài năng, trí tuệ của nhiều người. Trong số đó, công lao của Kỹ Sư Ngô văn Ðức không nhỏ. Dù cho ông không phải là nhạc sĩ hay, nhà chuyên môn nghiên cứu âm nhạc. Tuy nhiên, một thân hữu khác của chúng tôi lại cho hay, vấn đề khởi nguồn “tân cổ giao duyên,” tới nay vẫn bị/được một số người trong nghề, cho rằng họ mới là những người có công…
“Nhưng tiếc thay, cho đến nay, chưa một ai, trong số những người đó, trưng dẫn được một bằng cớ cụ thể về ‘thành tích’ của họ!” Nhân vật này nói.
Trở lại với nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông, trong phần tiểu sử do một số trang mạng phổ biến thì, họ Nguyễn không chỉ có những đóng góp đáng kể cho phong trào “Tân cổ giao duyên” mà, ông còn là đạo diễn, viết nhạc nền, sáng tác ca khúc lồng trong trên dưới 50 vở tuồng cải lương nổi tiếng ở miền Nam. Ðiển hình như các vở tuồng “Nửa Ðời Hương Phấn” của soạn giả Hà Triều-Hoa Phượng; “Sân Khấu Về Khuya” của soạn giả Năm Châu; “Mắt Em Là Bể Oan Cừu” của soạn giả Vân An v.v…
Giải thích cho sự “lấn sân” từ “tân’ qua “cổ” nhạc một cách “ngọt ngào” của mình, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông cho biết, miền Nam Việt Nam, đặc biệt là miền Tây Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long, đa số người dân thích ca cổ nhạc hơn tân nhạc. Thị phần tiêu thụ băng đĩa cổ nhạc và tuồng cải lương chung cả nước, cũng lấn lướt bên tân nhạc. Ông nói:
“Thí dụ một chương trình tân nhạc phát hành lần đầu tiên tiêu thụ được 10 ngàn đĩa, thì chương trình cổ nhạc tiêu thụ được 3 lần nhiều hơn. Mặc dù chi phí đầu tư có nhỉnh hơn đôi chút. Nhưng nhà đầu tư rất an tâm vì không sợ bị lỗ vốn…”
Theo một tài liệu chúng tôi hiện có thì, vào năm 1960, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông cùng một người bạn vong niên là nhà doanh nghiệp Huỳnh Văn Tứ, đồng sáng lập hãng băng đĩa Continental. Ông Huỳnh văn Tứ đảm trách vai trò Giám đốc sản xuất. Họ Nguyễn đảm nhận trách nhiệm Giám đốc nghệ thuật. Hãng đĩa Continental có 36 chi nhánh, phát hành toàn miền Nam – Chủ trương phát triển cùng lúc 2 bộ môn tân và cổ nhạc. Khi đó, tác giả “Phiên Gác Ðêm Xuân” được rất nhiều soạn giả cải lương nổi tiếng cộng tác. Nhưng các soạn giả này lại không rành lắm về tân nhạc. Do đó, việc dàn dựng kịch bản thường không ăn khớp với tân nhạc. Ðể bổ khuyết, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông phải “lăn lưng” vào cuộc. Ông dành thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi… sau một thời gian ông đâm ra yêu thích bộ môn nghệ thuật ấy.
Ông kể: “Tôi rất nhớ ơn cố soạn giả Hoàng Khâm và các tay danh cầm bên cổ nhạc như Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm… Họ đã chỉ vẽ cho tôi một cách tận tình, không giấu nghề. Vì thế mà chỉ một năm sau, tôi đã có thể tự tin đủ sức bước sâu vào lãnh vực mới mẻ này; cũng với tất cả đam mê, như khi tôi ‘khám phá’ thế giới tân nhạc, trước đó vậy.”
Du Tử Lê.
(Mời đọc Thứ Năm, 24 Tháng Mười Hai, kỳ chót: “Ám ảnh mùa Xuân và, những tiếng hát liên hệ đặc biệt với đời – nhạc Nguyễn Văn Ðông.”)
Chú thích:
(3) Nữ nghệ sĩ cổ nhạc Phượng Liên, nổi tiếng trước Tháng Tư, 1975 ở quê nhà, sau khi đọc bài “Binh Nghiệp và Nhạc nghiệp Nguyễn Văn Ðông,” đăng tải trên NB Người Việt, số Thứ Năm, đề ngày 9 Tháng Mười Hai, 2009, đã điện thoại cho chúng tôi, cho biết, theo chị thì bài tân-cổ “Khi Ðã Yêu,” với hai giọng ca Minh Phụng và Thanh Nga, không thể ra đời năm 1963. “Có thể nó ra đời vào năm 1973.”
Ám ảnh mùa Xuân và, những tiếng hát liên hệ đặc biệt với đời-nhạc Nguyễn Văn Ðông
Du Tử Lê
(Tiếp theo và hết.)
Một trong những nét đặc thù của cõi nhạc Nguyễn Văn Ðông là hình ảnh cùng những cảm nhận của ông về mùa Xuân. Ca khúc của họ Nguyễn viết về mùa Xuân chiếm một một con số không nhỏ, trong sự nghiệp âm nhạc của ông. Ngoài những ca khúc mùa Xuân xuất hiện ngay tự nhan đề của ca khúc như “Phiên Gác Ðêm Xuân,” “Nhớ Một Chiều Xuân,” “Dáng Xuân Xưa”… người nghe còn gặp thêm nhiều hình ảnh mùa Xuân trong nhiều ca khúc khác nữa, của ông.
Nhưng, nếu mùa Xuân lấp lánh, lảnh lót những hồi chuông hy vọng, phản ảnh niềm vui tái sinh của vạn vật sau một mùa đông dài; như mùa Xuân căng nhựa sống trong “Xuân Ca” của Phạm Duy: “Xuân tôi ra góp chung câu gào thiết tha – Là xinh, là tươi có Xuân thuở xưa ước mơ hiền hòa – Xuân xanh lơ, hắt hiu trong trời nắng mưa – Vườn Xuân là Xuân có hoa ngày mai hát Xuân thật dài (…)Xuân yêu đương muốn căng lên nhựa sống ngon – Tìm em gặp em đón Xuân nghìn năm bão Xuân ngập lòng…”
Hay lộc non và sữa ngọt trong ca khúc “Anh Cho Em Mùa Xuân” của Nguyễn Hiền (thơ Kim Tuấn): “Anh cho em mùa Xuân – mùa Xuân này tất cả – lộc non vừa trẩy lá (…)Anh cho em mùa Xuân – trẻ nô đùa khắp trời – niềm yêu đời phơi phới – Bàn tay thơm sữa ngọt – dải đất hiền chim hót – mái nhà xinh kề nhau…”
Hoặc tiếng chim, tiếng cười trong “Ðón Xuân” của Phạm Ðình Chương: “Xuân đã đến rồi, gieo rắc ngàn hồn hoa xuống đời – Vui trong bình minh, muôn loài chim hát vang mọi nơi – đem trong tiếng cười, cho kiếp người tình thương đắm đuối – ánh Xuân đem vui với đời…”
Thì, mùa Xuân trong ca khúc của Nguyễn Văn Ðông, chẳng những không tiếng cười mà, ngược lại, đầy bóng đêm, chia ly và, tang tóc: “Ước mong nhiều đời không bấy nhiêu – vì mơ ước trắng như mây chiều – tủi duyên người năm năm tháng tháng – mong chờ ánh Xuân sang, ngờ đâu đêm cứ đi – Chốn biên thùy này Xuân tới chi? Tình lính chiến khác chi bao người – Nếu Xuân về tang thương khắp lối – thương này khó cho vơi, thì đừng đến Xuân ơi!…” (Trích “Phiên Gác Ðêm Xuân”
Hoặc: “Chiều Xuân có một người ngơ ngác đi tìm – một tình thương nơi phương trời cũ – chiều nay hoa Xuân bay nhiều quá – chiều tàn dần phai trên ngàn lá – Tìm đâu bóng hình ai? – Chiều nay có một loài hoa vỡ bên trời – đợi mùa Xuân sang tô mầu nhớ – Dừng chân trông hoa Xuân hồng thắm – buồn tìm về tình ai đằm thắm – giờ vun vút trời mây…” (Trích “Nhớ Một Chiều Xuân”)
Giải thích về sự “bất thường” trong những ca khúc mùa Xuân của mình, Nguyễn Văn Ðông cho biết: Ông có những mùa Xuân buồn trong quãng đời thơ ấu, nhiều bất hạnh! Như gia đình lâm cảnh tang thương. Người thân yêu ly tán trong chiến tranh, ông mất mùa Xuân tuổi thơ khi cha mẹ bị tù đày. Lớn lên đi lính, ông lại thường bị ứng trực vào mùa Xuân ở các đơn vị hẻo lánh…
Nói về cõi nhạc của Nguyễn Văn Ðông với một chiều dài rực rỡ gần như phủ kín hành trình 20 năm âm nhạc miền Nam Việt Nam mà, khá nhiều ca sĩ, từng bước vào, ở lại, đập cùng một nhịp đập với trái tim ca khúc của ông. Trong số này, có hai nữ ca sĩ nổi tiếng, đến với đời nhạc họ Nguyễn rất sớm và, cũng rất sớm, dấy lên nhiều dư luận, đồn đãi… Ðó là ca sĩ Hà Thanh và Thanh Tuyền.
Về trường hợp nữ ca sĩ Hà Thanh, họ Nguyễn xác nhận: Hà Thanh hát nhiều nhất ca khúc của Nguyễn Văn Ðông. Hà Thanh từng phát biểu với báo chí thuở đó rằng, cái “air” trong nhạc Nguyễn Văn Ðông rất hợp với chất giọng Hà Thanh. Nên Hà Thanh đã rất hân hoan, mỗi lần cô được họ Nguyễn mời hát.
Nhưng duyên cớ nào đã đưa Hà Thanh, đứa con cưng của một Huế trùng điệp thành quách khép kín, dời cư vào Saigòn, để từ đó, trở thành một trong vài “phát ngôn nhân” tiêu biểu nhất, cho đời nhạc Nguyễn Văn Ðông thì, sự việc đó, có thể tóm tắt như sau:
Tác giả “Chiều Mưa Biên Giới” kể, ông gặp Hà Thanh lần đầu tiên vào năm 1963 tại Sàigòn. Khi ấy, họ Nguyễn là trưởng ban “Tiếng Thời Gian” của Ðài phát thanh Saigon, quy tụ nhiều tiếng hát nổi tiếng thời đó. Người đưa Hà Thanh tới gặp Nguyễn Văn Ðông cùng Ban “Tiếng Thời Gian” ở Ðài Saigon chính là nhạc sĩ Mạnh Phát. Lần đó Hà Thanh từ Huế vào thăm gia đình người chị cả ở Sàigòn, họ Nguyễn mời Hà Thanh hát một bài, lưu kỷ niệm cho ban “Tiếng Thời Gian.”
Sau khi nghe trực tiếp, họ Nguyễn cho rằng đấy là giọng ca thiên phú, hiếm hoi, khả năng chuyển tải hồn tính ca khúc vượt trội, cộng thêm căn bản nhạc lý vững… Từ nhận định này, hôm sau, Nguyễn Văn Ðông đã mời Hà Thanh thâu thanh bài “Về Mái Nhà Xưa” cho Hãng băng đĩa nhạc Continental. Buổi thâu được Ban Giám Ðốc Hãng và toàn thể Ban nhạc ưng ý và không tiếc lời khen ngợi… Rồi Hà Thanh trở về Huế. Vì tinh thần liên tài, họ Nguyễn đề nghị, được Ban Giám Ðốc Hãng Continental đồng ý: Mời Hà Thanh về Sàigòn cộng tác. Ông là người viết thư mời, phân tích, thuyết phục Hà Thanh… Và, Hà Thanh đồng ý.
Ngay tự bước chân thứ nhất ở Saigòn, Hà Thanh đã được các đài phát thanh và, hầu hết các hãng đĩa, các trung tâm băng nhạc ở Sàigòn luân phiên mời thâu thanh… Từ đó, song hành với những ca khúc bất hủ của Nguyễn Văn Ðông là, những nụ cười mà định mệnh đã gửi theo từng bước đi của Hà Thanh. Cho tới ngày cô lập gia đình. Ngưng bặt tiếng hát.
Về trường hợp nữ ca sĩ Thanh Tuyền (hiện định cư tại Hoa Kỳ) thì, người đầu tiên phát hiện tiếng hát Thanh Tuyền cũng là tác giả “Thương ca hải ngoại.”
Trong quá khứ, hơn một lần nữ ca sĩ Thanh Tuyền đã trả lời báo giới Saigon rằng: Nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông mà Thanh Tuyền quen gọi là “Thầy Ðông” chính là người đã đặt tên và tạo cho Thanh Tuyền có được sự nghiệp ngày nay…
“Ông giống như một dưỡng phụ của Thanh Tuyền vậy,” Thanh Tuyền nói.
Quay lại những thước phim cách đây gần nửa thế kỷ, người ta được biết: Năm 1964, khi tác giả “Mấy Dặm Sơn Khê” được đi nghỉ dưỡng sức ở Ðalat, các bạn ông làm việc ở Ðài phát thanh Ðalat kể với ông về một nữ sinh Trường Bùi thị Xuân, tên Như Mai (hằng tuần vẫn hát cho đài,) theo họ, là một tiếng hát đầy triển vọng, nếu được hướng dẫn đúng mức. Tin tưởng lời giới thiệu, họ Nguyễn đi gặp song thân của nữ sinh Như Mai. Gia đình chấp thuận cho nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông đưa Như Mai về Saigòn, để đào tạo thành ca sĩ chuyên nghiệp.
Họ Nguyễn nhớ lại, khi ấy ông còn độc thân, ngày ăn cơm chợ, tối ngủ ở đơn vị, không thích hợp với việc chăm lo chuyện ăn ở, đi lại cho một thiếu nữ nhỏ tuổi, xa nhà như thế. Ông nhờ nhạc sĩ Mạnh Phát, một nhân viên dưới quyền ông, ở hãng băng đĩa nhạc Continental, tiếp tay. Mạnh Phát – Minh Diệu nhận lời. Hãng đĩa Continental lo mọi phí tổn ăn ở cho Như Mai. Nguyễn Văn Ðông đặt tên mới cho Như Mai là Thanh Tuyền: Dòng suối xanh của cao nguyên Ðalat…
Là một cô bé thông minh, dường như được sinh ra, để ca hát, nên chỉ trong vòng 8 tháng, tiếng hát Thanh Tuyền đã được thu băng, rồi được ra mắt công chúng. Khi ấy, mới vừa đúng 17 tuổi, Thanh Tuyền đã được mời hát, thu đĩa, thu băng, như một ca sĩ chuyên nghiệp, tên tuổi.
Cho tới ngày hôm nay, sau mấy chục năm, Thanh Tuyền vẫn không hề phụ lòng tin tưởng của “Thầy Ðông,” khi cô vẫn còn là tiếng hát đầu của nhiều chương trình cũng như băng video ca nhạc ở hải ngoại.
Trước khi chấm dứt bài viết về con “Thiên lý mã” của dòng âm nhạc miền Nam, 20 năm, chúng tôi muốn ghi lại ở đây, mối tình của họ Nguyễn với một người con gái, nơi quê hương của ông. Ðó là người được xác nhận là linh hồn của ca khúc “Về Mái Nhà Xưa,” một trong những ca khúc “tìm về” mà, tôi cho là hay nhất và, cũng cảm động nhất của nền tân nhạc miền Nam 20 năm.
Quý độc giả theo dõi bài viết này hẳn còn nhớ, Tây Ninh là nguyên quán của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông. Gia đình ông nguyên là điền chủ ở Huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Mỗi năm, vào những dịp giỗ chạp lớn, ông được cha mẹ cho về nguyên quán. Gần bên ngôi từ đường của dòng họ Nguyễn, là nhà ông Hương Cả, một chức sắc lớn nhất làng. Ông Hương Cả có một cô con gái xinh đẹp. Hai bên gia đình cùng giao ước kết thông gia khi hai trẻ lớn lên. Khi ấy tác giả “Về Mái Nhà Xưa” và cô bé kia, mới trên dưới 10 tuổi. Ở tuổi niên thiếu này, cả hai chỉ biết hẹn hò trèo cây, hái trái, hay chơi trò trốn bắt… (Những kỷ niệm ấy là tố chất cho họ Nguyễn sau này, viết được ca khúc nhan đề “Ðom Ðóm”). Tuy thơ dại nhưng tình bạn thắm thiết cũng đã đủ gây thành men nhớ nhung và, đôi khi nước mắt, cho mỗi lần đôi trẻ phải chia tay.
Họ Nguyễn kể, khi cách mạng mùa Thu 1945 bùng nổ, ông Hương Cả bị đưa ra trước tòa án nhân dân; lãnh bản án “cường hào ác bá.” Ông bị xử bắn. Xác ông bị thả trôi sông. Riêng cha mẹ nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông từ Saigon tản cư về, thì bị liệt vào hàng “địa chủ ác ôn.” Ông bà bị bắt làm tù lao công khổ sai. Tịch biên tài sản; sung vào quỹ kháng chiến. Gia đình ly tán. Cửa nhà tan nát. Dôi trẻ trôi giạt, mỗi người một phương. Họ bặt tin nhau!
Cuối thập niên 50, nhớ thương bạn, họ Nguyễn cải trang tìm về chốn cũ… Tận mắt nhìn thấy cảnh xưa điêu tàn và, những người làng còn lại, không một ai cho ông chút tin tức nào về người con gái của ông Hương Cả! Về lại Saigòn, họ Nguyễn viết: “Về đây ngơ ngác chim bay tìm đàn – Về đây hoang vắng lạnh buốt cung đàn – Tôi lắng nghe tâm tình nhân thế – qua đáy tim chưa đục sông mê (4) – qua ước mơ duyên tình đơn sơ – Về đây đâu phút xưa vui sum vầy – thềm hoang thêu nắng, phượng thắm rơi đầy – anh có nghe trong lòng thu chết – bao lá khô phai nhạt hương đêm – tan tác bay phiêu bạt giữa trời quê – Nơi xưa quê nghèo, nhà tranh nát tiêu điều – tình xưa khôn hàn gắn – người đã đi rồi – người về đâu có hay – đâu vòng tay đắm say?…” (Trích “Về Mái Nhà Xưa.”)
Tôi vẫn nghĩ, những người sinh trong hai thập niên 1930 và, 1940 ít, nhiều đều là nạn nhân của cuộc chiến miền nam 20 năm. Ðổ vỡ, chia ly, tuyệt vọng… là thuộc tính của hoàn cảnh loạn ly này. Nên, tôi mong, người phụ nữ, linh hồn của ca khúc vừa kể, nếu còn đâu đó, tình cờ đọc được những hàng chữ này, xin hiểu rằng, cách gì, sự lỡ làng một đời của bà, chí ít cũng được ghi dấu trong sự nghiệp âm nhạc phong phú, bất tử của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông… Trong khi hàng ngàn, hàng triệu những cuộc tình ly tan, oan khốc khác, cũng chìm vào quên lãng. Dù những cây phượng vĩ, mỗi năm vẫn cho chúng ta những cánh hoa rực rỡ, và, những chiếc lá khô vẫn tiếp tục “phai nhạt theo hương đêm” vậy.
Du Tử Lê
(22 Tháng Mười Hai, 2009)
Chú thích:
(4) Câu hát “qua đáy tim chưa đục sông mê,” có bản chép là “qua trái tim chưa đọng song mê,” theo tác giả là sai và, vô nghĩa. Giải thích về hai chữ “song mê,’ họ Nguyễn kể, Tây Ninh, nguyên quán của tác giả, có Thánh Thất Cao Ðài, rất nổi tiếng. Theo các vị trưởng lão, tín đồ Cao Ðài thì chuyện luân hồi, hóa kiếp theo truyền thuyết của đạo Cao Ðài, có thể tóm tắt như sau:
Con người khi chết, ai cũng bị quỷ sứ dắt hồn xuống âm phủ, để Diêm Vương xét công, luận tội. Kẻ ác bị đưa vào địa ngục thọ hình. Người tốt được trở lại trần thế, làm người. Trên đường đi hóa kiếp, quỷ A tu la dẫn hồn đến một nơi gọi là bến Mê, rồi băng qua một chiếc cầu gọi là cầu Giải kiết. Cầu này bắc ngang qua sông Mê. Ðến giữa cầu, quỷ A tu la xô hồn xuống sông. Hồn gào thét vùng vẫy kêu cứu, làm vẩn đục cả dòng sông. Khi hồn kiệt sức, ngất đi, lúc đó, quỷ A tu la mới vớt hồn lên dẫn đi tiếp về dương gian. Từ đó, hồn không còn nhớ gì về kiếp trước của mình nữa…
I have just read a great book on narcissism in science (“An essay on science and narcissism“). The author is a prominent immunologist named Bruno Lemaitre, and he is from the Ecole Polytechnique Fédérale de Lausanne (EPFL) in Switzerland. Narcissism is a phenomenon (I guess I can use that word) characterized by exaggeration of self-importance; exaggeration of achievements; a sense of excessive admiration; pre-occupation with fantasies about success, power, brilliance; taking advantages of others to get ahead; and arrogance. I am sure that most of us, who are (or have been) working in scientific research, have seen people with these traits. The book by Lemaitre is a wonderful exposition of narcissism in science and how the phenomenon has affected and continue to have effect on the integrity of science.
Lemaitre appears to be an ideal person to tell us about narcissism, because he had first hand and personal experience. In previous years, his work led to the discovery of the Toll-like receptor that subsequently won a Nobel prize. But he was not the winner; his boss Jules Hoffman was. According to his account, Hoffman was initially not interested in his work, but when Hoffman realized its importance he became interested in it and went on to claim Lemaitre’s work as his own! Anyway, the story is more complicated than that, but you get the overall picture. The conflict was actually featured in Science and various media outlets.
That incident stimulated Lemaitre to study the prevalence and impact of narcissism in science. And, he has done a great job. The result of his research is this book which is aptly titled “an essay“. In the essay, Lemaitre presents and articulates many lively and sometimes graphical accounts of scientists with traits that we are all too familiar with: arrogance, power games, fraternity networking, societal politics, exaggeration of self importance, and the propensity to get-ahead rather than to get-along. They are collectively referred to as narcissists. The exact prevalence of narcissists is unknown (because there is no systematic study on the phenomenon), but it is generally believed that narcissists are present in every domain and hierarchy of science. These narcissists are only interested in fame and glory. They shamelessly self promote their work, and in the mean time, radiate their achievements in the popular media and scientific conferences.
Based on empirical observation and analysis of narcissism, Lemaitre argues that in modern science, many people reaching the top of the hierarchy are not necessarily competent in their trade. These people actually possess non-scientific skills, including manipulation of power games, gaining media profile and fraternity networking, that helped project them to top academic post and glory. In other words, many “successful scientists” are not successful per se but they are narcissists. And, the presence of narcissists in science, therefore, represents a threat to the objectivity and integrity of science.
However, like two sides of a coin, narcissism can also have positive effect on science. In the book, Lemaitre points out that because scientists high in narcissism are often motivated by power and success, they tend to promote their own vision of science in a way that their own discipline is benefited from the vision. And, because narcissists can easily gain public recognition through their energized self-absorption, they also tend to attract more research funding than non-narcissistic scientists. Oh dear!
Scientists like analysis, and Lemaitre is not an exception. In the book, Lemaitre distinguishes two types of scientists: N-drive and S-drive scientists. N-drive scientists (or narcissistic type) are those with the following personalities: “seduction, writing and oratory skills, network size, connection with politicians and journal editors, board memberships, on journals and foundations, capacity for misconduct and unfair reviewing, personal wealth, presence of a trophy partner.” On the other hand, S-drive scientists are characterized by “hard working, good memory, creativity, manual skills and dedication to the production of solid data.” Ironically, N-drive scientists or narcissists are the ones who get an upper hand in terms of attracting funding and recognition. However, given that they have little or no substantive skills, their work may be superficial and irreproducible. Thus, the presence of N-drive scientists could partly explain why modern science is suffering from the crisis of irreproducibility. To me, this is an interesting hypothesis that deserves to be studied further.
Toward the end of the book, Lemaitre also touches on the work of Michael Polanyi (1891 – 1976). Perhaps, most of us have not heard of Polanyi, but he was a working scientist who has made important contributions to the philosophy of science. Polanyi argued that objectivism can never provide a true status of scientific knowledge. For those of you who are not well verse with objectivism, this school of philosophy postulates that science provides a direct view of reality which is correct and independent of emotion and passion. Polanyi thought that postulation was false, because in reality scientific knowledge as projected by scientists is a product of both objective observation and a dose of personal perspectives. Putting things in context, I guess we can say that narcissism does contribute to the distortion of scientific knowledge.
After reading the book/essay, I ask myself what moral lesson(s) can be learned from this exposition? Well, here is an advice from Lemaitre that may answer that question: “I think we need to remain closer to the reality of science (do not listen to the ‘buzz’), reduce the influence of the media, promote long-term evaluations (notably with retrospective analysis), look at productivity and not production, and increase the penalties against misconducts.” From my perspective, the lesson from this book can be summarized in a single sentence that was wisdomized by Trinh Cong Son (a famous Vietnamese music composer): “be kind to each other“. And, we should strive to be a S-drive scientist rather than a N-drive scientist.
Năm ngoái, một người em họ tôi ở Los Angeles hỏi những hóa chất trong ngành nail có ảnh hưởng gì đến sinh sản. Lí do là vì em ấy quan sát thực tế thấy có vài trường hợp người làm nail bị sảy thai. Tôi nói “không biết” và thêm rằng vài ca sảy thai thì không nói gì được về nguyên nhân đâu. Tôi hứa sẽ tìm hiểu và trả lời. Mấy ngày sau đó nhân dịp rảnh rổi ở nhà tôi vào Pubmed và đọc được vài bài báo liên quan, nên đã tổng hợp lại để chia sẻ cùng đồng hương. Viết xong nhưng quên gửi đi, và hôm nay thì tìm thấy trong các file cũ và post lên đây cho các bạn xem.
Kĩ nghệ làm đẹp móng tay (hay gọi tắt là kĩ nghệ nail) đã giúp cho nhiều người Việt chẳng những ‘thoát nghèo’ mà còn làm giàu ở Mĩ. Từ Mĩ, kĩ nghệ này đã lan truyền sang các nước như Úc. Nhưng đằng sau kĩ nghệ này là những rủi ro trực chờ mà hình như cộng đồng người Việt ít khi nào đề cập đến.
Sau khi tìm hiểu vấn đề tôi rất ngạc nhiên vì chưa có những nghiên cứu có hệ thống để đánh giá sức khỏe của công nhân ngành nail. Thật vậy, chúng ta chưa có nhiều dữ liệu để nói gì về mối liên hệ nhân quả giữa phơi nhiễm hóa chất trong nghề nail và sức khỏe. Lí do là vì ngành nail mới phát triển chủ yếu 2 thập niên gần đây, nên chưa có nhiều nghiên cứu và chưa thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu y khoa.
Nhưng các sản phẩm và chất liệu dùng trong kĩ nghệ nail là những hóa chất độc hại lẫn những hóa chất không độc hại. Một số hóa chất như formaldehyde, toluene, dibutyl phthalate (còn gọi là “bộ tam độc hại”) có thể có liên quan đến ung thư và các bệnh nội tiết. Toulene là hóa chất thường được sử dụng để làm cho móng tay bóng và ‘trơn tru’, nhưng có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh và gây tác hại đến sức khỏe tái sản sinh. Formaldehyde được dùng để làm cho nail cứng và diệt trùng, nhưng cũng là một hóa chất từng được biết đến như là chất có thể gây ung thư. Dibutyl phthalate là hóa chất cũng được sử dụng để làm bóng móng tay, nhưng có liên quan đến sức khỏe sản phụ và tái sản sinh.
Cách đây 2 năm, nhật báo New York Times có đi hai bài viết khá dài về kĩ nghệ nail ở Mĩ. Hai bài viết rất dài, nêu lên nhiều thảm trạng của kĩ nghệ nail. Bài đầu tiên (1) nói về tình trạng lương thấp và công nhân nail bị bóc lột bởi những người chủ, cộng thêm vấn đề thiên vị sắc tộc và các lạm dụng khác. Bài thứ hai (2) viết về những hóa chất dùng trong kĩ nghệ nail có thể (xin nhấn mạnh: có thể) liên quan đến ung thư, sẩy thai, bệnh phổi, và một số bệnh cấp tính khác.
Thật ra, nói đến kĩ nghệ nail ở Mĩ thì chủ yếu là trong cộng đồng người Việt. Có thể nói không ngoa rằng người Việt đang thống trị kĩ nghệ nail ở Mĩ (và có thể toàn cầu). Chỉ riêng California, đã có hơn 300,000 người đăng kí hành nghề nail, nhưng tình trạng sức khỏe của họ thì ít khi nào được quan tâm.
Dù ít nghiên cứu, nhưng cũng đã có ít nhất 10 nghiên cứu về sức khỏe của các nhân viên trong các tiệm nail ở Mĩ và Hàn Quốc. Tất cả các nghiên cứu này được thiết kế dạng survey và nghiên cứu cắt ngang (cross-sectional), thậm chí chẳng có thiết kế gì mà chỉ là những quan sát thuần túy. Tất cả nghiên cứu đều có cỡ mẫu nhỏ (khoảng 30 đến 70 công nhân). Với những thiết kế nghiên cứu như thế, các chứng cứ và dữ liệu không có giá trị khoa học cao. Tuy không có giá trị khoa học cao, nhưng các nghiên cứu này vẫn nêu được một số vấn đề sức khỏe của các công nhân ngành nail. Sau đây là một số nghiên cứu cụ thể:
Những vấn đề cấp tính thường được nhắc đến hay báo cáo là nhức đầu, khó thở, dị ứng da. Nhưng cũng có nghiên cứu báo cáo một số vấn đề nghiêm trọng như sẩy thai, sanh non, và sanh con thiếu cân (3).
Một nghiên cứu ở Oregon trên 65 công nhân nail trong cộng đồng người Đông Nam Á, kết quả cho thấy 20% công nhân than phiền về dị ứng và cảm thấy khó chịu mũi. Gần 3/4 công nhân ít khi nào dùng găng tay (4).
Một nghiên cứu (5) trên 74 công nhân qua phỏng vấn trực tiếp, đa số các công nhân này báo cáo họ bị dị ứng da, mắt, có vài vấn đề về hơi thở, và nhức đầu. Tác giả đề nghị nghiên cứu thêm về nguy cơ ung thư vú và các bệnh nội tiết ở những công nhân này.
Một nghiên cứu khác cũng qua phỏng vấn trên 71 công nhân nail nêu vấn đề phẩm chất không khí trong môi trường làm việc, và có vài công nhân báo cáo những triệu chứng liên quan đến hô hấp và xương (6).
Một nghiên cứu bệnh chứng cho thấy so với nhóm chứng, công nhân nail có những vấn đề liên quan đến cổ (tỉ số odds 5.0), vai (15.0), tay và cổ tay (3.6), và đau lưng (3.5). Triệu chứng liên quan đến mũi cũng khá phổ biến, với tỉ số odds là 6.2 so với nhóm chứng (7).
Nhìn chung, kĩ nghệ nail đem lại công ăn việc làm cho rất nhiều phụ nữ Việt, và một số ít trở nên giàu có nhờ vào kĩ nghệ này. Nhưng tình trạng sức khỏe của các công nhân làm việc trong kĩ nghệ nail cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu có hệ thống. Những dữ liệu ban đầu cho thấy các công nhân kĩ nghệ nail mắc một số chứng cấp tính, nhưng nguy cơ sảy thai và nguy cơ mắc bệnh mãn tính lâu dài thì vẫn còn là một câu hỏi lớn, chưa có câu trả lời dứt khoát. Trong khi chưa có câu trả lời, có lẽ biện pháp tốt nhất mà các công nhân kĩ nghệ nail cần phải cẩn thận tránh hay giảm phơi nhiễm các hóa chất độc hại có thể gây tác hại đến sức khỏe về lâu dài.
Tâm lí “bộ lạc” thường ngự trị trong suy nghĩ và nhận thức về chức danh giáo sư, và thường dẫn đến những so sánh phiến diện. Những cơ sở dữ liệu trắc lượng khoa học như Scopus, ISI và Google Scholar làm cho giới khoa học trở nên ám thị về năng suất khoa học của họ và của người khác.
GS. Nguyễn Văn Tuấn hiện đang giữ chức giáo sư của ĐH New South Wales và ĐH Công nghệ Sydney (Úc) cho biết, hệ thống giáo dục Úc không quá máy móc các tiêu chuẩn và quy trình bổ nhiệm giáo sư. Thực tế nước này có rất nhiều trường hợp bổ nhiệm “thần tốc”. Dân trí trân trọng giới thiệu bài viết “Sự đa dạng của chức vụ và danh xưng giáo sư” của GS. Nguyễn Văn Tuấn:
Những chuyện “khó tin” về bổ nhiệm chức vụ giáo sư ở Úc
Chức danh giáo sư là một đề tài của nhiều bàn luận. Gọi “giáo sư” là học hàm, chức danh, hay chức vụ, mỗi người hiểu một cách khác nhau. Những hiểu biết đó tùy thuộc vào tầm nhìn cá nhân, bối cảnh và kinh nghiệm của người phát biểu.
Những tranh luận này thường nói lên những sự vô lí hay những tiêu chuẩn của chức danh cao nhất trong các bậc thang khoa bảng. Cũng có nhiều người so sánh tiêu chuẩn và qui trình bổ nhiệm chức danh giáo sư ở Việt Nam với nước ngoài. Ở đây, tôi chỉ chia sẻ cùng các bạn tính đa dạng của chức danh giáo sư ở nước ngoài, mà cụ thể là nước Úc này, để thấy rằng người ta không quá máy móc trong các tiêu chuẩn và bổ nhiệm như nhiều người nghĩ.
Tôi không đề cập đến những trường hợp được đề bạt hay bổ nhiệm qua một qui trình chuẩn và dựa trên các tiêu chuẩn khoa bảng nghiêm chỉnh. Theo qui trình chuẩn, các ứng viên phải trải qua những chức vụ như tutor (trợ giảng), lecturer (giảng viên) hay assistant professor (giáo sư trợ lí), senior lecturer (giảng viên cao cấp), associate professor (ở Việt Nam dịch là phó giáo sư), và professor (giáo sư thực thụ).
Nếu một người có thành tích tốt thì đoạn đường từ tutor lên professor phải tốn ít nhất 15-20 năm. Rất nhiều người chỉ dừng lại ở chức associate professor và nghỉ hưu.
Nhưng trong thực tế cũng có những trường hợp bổ nhiệm “thần tốc” trong hệ thống đại học. Và, những bổ nhiệm này hoàn toàn được phê chuẩn nghiêm chỉnh. Ở đây, tôi chỉ đề cập đến những trường hợp [có thể xem là] ngoại lệ trong việc bổ nhiệm chức vụ giáo sư ở vài đại học danh tiếng ở Úc.
Trường hợp 1: từ giám đốc tập đoàn thành giáo sư hiệu trưởng đại học
Chúng ta thường nghĩ rằng hiệu trưởng đại học phải là người trong khoa bảng, và chức danh tối thiểu phải là professor hay associate professor. Đó là cách hiểu cổ điển; đối với đại học hiện đại được xem là một “tập đoàn”, thì việc bổ nhiệm người ngoài đại học là chuyện khá bình thường.
Ví dụ như Đại học New South Wales (nay đổi tên chính thức là “UNSW Sydney”) từng có tiền lệ bổ nhiệm một tổng giám đốc của một tập đoàn báo chí Fairfax làm hiệu trưởng và giáo sư đại học. Thật ra, trước khi làm tổng giám đốc của Fairfax, ông cũng từng có thời làm giám đốc trường quản trị kinh doanh của UNSW Sydney.
Ông có bằng MBA nhưng không có bằng tiến sĩ. Nhưng khi ông được bổ nhiệm hiệu trưởng của UNSW Sydney, thì người ta phải tìm cho ông một chức danh cao nhất, và đó là “professor“.
Trường hợp 2: chuyên viên cấp trung trở thành giáo sư đại học và nắm giữ phần nghiên cứu khoa học
Chuyện có vẻ khó tin, nhưng hoàn toàn có thật ở một đại học Úc. Ông ấy là một chuyên gia về máy tính và từng làm việc cho một tập đoàn máy tính lừng danh của Mĩ. Ông ấy chưa có bằng tiến sĩ, nhưng có bằng cao học (masters). Ông ấy được đánh giá và có tiếng là một nhà quản lí giỏi. Thế là đại học bổ nhiệm ông vào chức phó hiệu trưởng, phụ trách mảng nghiên cứu khoa học.
Nhưng ở chức vụ đó thì phải có một chức danh khoa bảng cho xứng đáng để có chính danh nói chuyện với các giáo sư khác. Thế là trường đại học đề bạt ông ấy lên chức giáo sư thực thụ (professor)! Tôi chưa thấy một đại học nào khác ở Úc có trường hợp này.
Trường hợp 3: từ lecturer (giảng viên) lên thẳng professor (giáo sư)
Trong hệ thống chức vụ khoa bảng ở Úc thì một nghiên cứu sinh sau khi tốt nghiệp tiến sĩ và đã qua hậu tiến sĩ, phải kinh qua 3 bậc (lecturer (giảng viên), senior lecturer (giảng viên cao cấp), và associate professor (giáo sư trợ lí) trước khi đến chức professor (giáo sư) và mỗi bậc cần khoảng 3-5 năm. Nhưng có vài học Úc bổ nhiệm giáo sư không theo các nấc thang khoa bảng bình thường đó.
Ông ấy là một giảng viên thuộc một trường đại học trong nhóm Go8 (tức “Group of Eight”, nhóm 8 trường đại học hàng đầu của Úc [1]), với thành tích khoa học trung bình. Nhưng đùng một cái, một trường đại học nhỏ hơn mới thành lập một trung tâm nghiên cứu về một lĩnh vực “nóng” và cần người làm giám đốc.
Thế là ông ấy được mời về làm giám đốc, và được thăng chức thẳng lên professor. Quá trình thăng chức cho ông ấy làm nhiều người trong khoa ngạc nhiên, nhưng nói chung chẳng mấy ai ganh tị, vì họ thấy ông ấy may mắn và nói cho cùng thì “việc ai nấy làm”.
Trường hợp 4: bổ nhiệm giáo sư làm quản lí
Nhiều trường đại học ngày nay, như nói trên, là những tập đoàn giáo dục. Trong những “tập đoàn” đó, ngoài giảng dạy và nghiên cứu khoa học, việc kinh doanh và đem tiền về cho đại học trở thành một áp lực cho các giáo sư. Do đó, đại học thành lập rất nhiều doanh nghiệp nhỏ trong đại học nhưng mang những cái tên rất khoa học.
Thường, các “giáo sư truyền thống” không có khả năng quản lí nên họ hoặc là làm ăn thua lỗ, hoặc không phát triển được doanh nghiệp. Trong bối cảnh như thế, trường đại học có xu hướng bổ nhiệm các chuyên gia từ kĩ nghệ làm giám đốc các doanh nghiệp con, và vì trong đại học, nên phải cho họ một chức danh khoa bảng. Chức danh cao nhất là giáo sư. Đó chính là lí do tại sao có nhiều người mang danh giáo sư nhưng họ chủ yếu làm quản lí chứ không giảng dạy và rất ít nghiên cứu.
Trường hợp 5: bổ nhiệm giáo sư với thành tích khoa học cấp giảng viên
Tại một đại học trong nhóm Go8 của Úc mới có một trường hợp cũng gây ngạc nhiên cho nhiều người trong giới khoa bảng vì người được bổ nhiệm chức vụ professor có thành tích khoa học rất khiêm tốn. Như là một qui ước bất thành văn, một giáo sư thực thụ (full professor) ở Úc phải có ít nhất 50 bài báo khoa học (thường là 100 trở lên), và tập san công bố phải thuộc loại “coi được”.
Đó là chưa kể đến thành tích… xin tiền. Thế nhưng trong thực tế cũng có người trong một ngành khoa học xã hội, với số công trình (bài báo) nghiên cứu chưa đầy con số 5 và chưa bao giờ có một bài báo nào trên tập san ISI, và chưa có thành tích xin tài trợ từ các cơ quan như ARC, thế nhưng trường đề bạt lên chức giáo sư thực thụ. Sự đề bạt cũng làm nhiều người cau mày, nhưng rồi ai cũng nhún vai nói “tại thời thế, thế thời phải thế”!
Trường hợp 6: bổ nhiệm giáo sư để … bóc lột
Chữ “bóc lột” tôi dùng có vẻ quá đáng. Một dạng bổ nhiệm khác cũng phi truyền thống là giáo sư kiêm nhiệm, hay nói theo tiếng Anh là “conjoint” hoặc “adjunct”. Đây là những trường hợp mà đương sự là một nhà khoa học, thường có bằng tiến sĩ (nhưng không nhất thiết), được các đại học bổ nhiệm làm “conjoint professor” hay “adjunct professor“, có thể tạm dịch là “giáo sư kiêm nhiệm”.
Những người này thường là các bác sĩ cao cấp trong các bệnh viện, hay các chuyên gia cao cấp trong kĩ nghệ, họ có công đóng góp cho đại học qua việc nhận sinh viên về làm thực hành. Đại học bổ nhiệm họ không qua phỏng vấn; họ chỉ cần điền một cái đơn, và hội đồng khoa bảng của đại học xem xét và bổ nhiệm. Tiêu chuẩn bổ nhiệm chủ yếu là đóng góp cho trường qua đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Do đó, ở các trường y ở nước ngoài có rất nhiều giáo sư, nhưng họ chỉ tồn tại ở dạng kiêm nhiệm, vì họ là người của bệnh viện hay viện nghiên cứu. Họ không nhận lương của đại học, nhưng khi họ nghiên cứu và công bố khoa học thì đại học yêu cầu họ phải ghi tên đại học trong bài báo! Nhiều người xem đây là một hình thức bóc lột tri thức rất tuyệt vời!
Đại học không trả lương cũng chẳng cho phụ cấp gì cả, mà chỉ trao cho cái chức danh “conjoint professor” và kẻ được trao chức danh phải làm việc cho họ.
Trên đây chỉ là 6 trường hợp cho 6 loại giáo sư đại học ở Úc. Những trường hợp trên nói lên rằng chức danh hay chức vụ giáo sư ở nước ngoài rất đa dạng. Không phải ai có danh xưng giáo sư đều có thành tích khoa học như nhau. Lí do là vì mỗi trường có một bộ tiêu chuẩn riêng, trường danh tiếng và nặng về nghiên cứu khoa học có tiêu chuẩn có thể cao hơn trường kém danh tiếng.
Thật ra, ngay cả trong trường thì bộ tiêu chuẩn cũng khác nhau giữa các khoa và chuyên ngành. Do đó, khó có thể nói chung chung rằng “nước ngoài người ta làm như thế,” vì nó còn phụ thuộc vào “nước ngoài” là nước nào và theo hệ tiêu chuẩn nào.
Những trường hợp trên đây là ở Úc, nhưng tôi biết một số nước tiên tiến trên thế giới cũng có những bổ nhiệm phi truyền thống như vừa đề cập. Khi đại học phát triển cao và có tiếng, những qui định chỉ là để tham khảo chứ không phải để tuân theo một cách máy móc. Họ đặt ra qui định thì họ có thể sửa qui định.
Hiểu về giáo sư còn phiến diện
Nhiều người quá bận tâm với những tiêu chuẩn cân đo đong đếm hay danh xưng cá nhân, nên cách hiểu về giáo sư còn phiến diện. Tâm lí “bộ lạc” thường ngự trị trong suy nghĩ và nhận thức về chức danh giáo sư, và thường dẫn đến những so sánh phiến diện. Những cơ sở dữ liệu trắc lượng khoa học như Scopus, ISI và Google Scholar làm cho giới khoa học trở nên ám thị về năng suất khoa học của họ và của người khác.
Nhiều người liên tục vào các trang này để xem năng suất của họ và so sánh với các đồng nghiệp khác trên thế giới; họ trở nên bồn chồn, bất an, và có khi tức tối trước thành tựu của đồng nghiệp, nhưng cũng không hài lòng với chính họ. Đó gần như là một căn bệnh thời đại.
Giáo sư là chức vụ dành cho người giảng dạy và/ hay nghiên cứu khoa học; đó là một cách hiểu cũ, không còn thích hợp cho ngày nay nữa. Trong thực tế, các đại học phương Tây (như Úc) có 3 ngạch giáo sư. Ngạch 1 dành cho những người nghiên cứu khoa học; ngạch 2 dành cho những người giảng dạy và họ ít làm nghiên cứu khoa học; ngạch 3 là những người làm quản lí và phục vụ, họ chẳng giảng dạy cũng chẳng làm nghiên cứu khoa học, nhưng họ là quan chức cao cấp và có công lớn gây dựng đại học, nên họ cũng được đề bạt chức professor.
Không nên quá bận tâm với những chức danh hoặc danh xưng phù phiếm, mà nên quan tâm đến cống hiến mang tính thực chất. Nói cho cùng thì mức độ đóng góp vào sự phát triển của khoa học và giáo dục là một thước đo chuẩn nhất và quan trọng nhất. Theo đuổi những danh xưng và tranh cãi về tiêu chuẩn với những con số chỉ làm cho người ta thiếu tập trung -thậm chí quên lãng – khái niệm phụng sự cho khoa học và xã hội.
—-
* [1] Các đại học trong nhóm Go8 bao gồm Đại học Quốc gia Úc (ANU), Đại học Sydney, Đại học New South Wales, Đại học Melbourne, Đại học Monash, Đại học Queensland, Đại học Adelaide, và Đại học Western Australia. Đây là các đại học “nghiên cứu”, và tiêu chuẩn về chức vụ giáo sư của họ khác với các trường ngoài Go8.
Tôi hân hạnh giới thiệu đến các bạn một bút kí của Nhà văn Ngô Thế Vinh nhân chuyến về thăm Việt Nam vào cuối tháng 12 và đầu năm 2018. Bài viết về con đường sách rất nổi tiếng ở Sài Gòn. Cũng như các bài viết khác của anh, bài này cũng kèm theo những hình ảnh sống động và những dữ liệu làm chúng ta (người đọc) suy nghĩ. NVT
Hình 1: Trên Đường Sách, cũng là đường mang tên Đức TGM Nguyễn Văn Bình (1910-1995), bên hông Bưu Điện, chạy dài từ Nhà Thờ Đức Bà tới đường Hai Bà Trưng, như một tụ điểm sinh hoạt văn hoá và du lịch, đang rộn rã không khí Giáng Sinh 2017 với ban nhạc Santa Claus có lẫn cả một ông Tây béo mập cao ngồng thổi kèn, vây quanh là tấp nập khách đi xem, chụp hình, ngồi tụ tập trong các quán cà phê sách, và một số thì tìm mua sách. Đường Sách Nguyễn Văn Bình ngày nay là hình ảnh một mini-đường sách Lê Lợi của hơn 40 năm trước. [Photo tư liệu Ngô Thế Vinh]
CON ĐƯỜNG SÁCH LỊCH SỬ
Khởi từ ý tưởng của báo Tuổi Trẻ, ngày 15.10.2015, Sở Thông Tin và Truyền Thông Thành phố đã khởi công xây dựng con Đường Sách trên đường Nguyễn Văn Bình [là tên Đức TGM Nguyễn Văn Bình] phường Bến Nghé, Quận I TP. HCM. Đây là một con đường nhỏ nằm bên hông Bưu điện Thành phố, nối liền Nhà Thờ Đức Bà và đường Hai Bà Trưng nhưng có ưu điểm là nằm ngay trong khu vực trung tâm Thành phố, đây không chỉ là một không gian sinh hoạt văn hoá mà còn là một tụ điểm du lịch, là nơi thường xuyên có nhiều du khách ghé qua.
Sau gần 3 tháng thi công ngày 09.01.2016, Đường Sách chính thức được khai trương. Chỉ với con đường nhỏ chiều dài 144 m, lòng đường 8 m, hai bên vỉa hè rộng 6 m, với thiết kế một bên là 20 gian hàng sách, một bên là café sách và khu triển lãm. Hai đầu Đường Sách là hai bức tượng điêu khắc Cô gái bên trang sách và Suy ngẫm – hai tác phẩm được tuyển chọn từ Trại điêu khắc quốc tế TP.HCM.
Ông Lê Hoàng khi còn làm Giám đốc Nxb Trẻ đã mơ ước có một không gian chỉ có sách và sách và ông là một trong những người đã đứng ra vận động cho việc hình thành con Đường Sách và sau đó trở thành giám đốc Công ty Đường Sách Thành phố. Đường Sách đã trở thành một không gian khá lý tưởng để các nhà xuất bản, nhà kinh doanh sách có cơ hội học hỏi chia sẻ những kinh nghiệm nghề nghiệp, và cả tiếp cận với giới bạn đọc. Đường Sách trở thành một không gian biểu tượng của văn hoá đọc, nơi gặp gỡ của những người yêu sách, cũng là điểm hẹn lý tưởng cho những người bạn trong và cả ngoài nước.
Hình 2a: từ hướng Nhà Thờ Đức Bà tới đường Hai Bà Trưng, bên trái là 20 gian hàng sách; phải, với bạn trẻ ngồi đọc sách ngoài trời. [photo by Ngô Thế Vinh]
Hình 2b: mấy tụ điểm để du khách chụp hình; trái, bức tượng đồng “hai bé ngồi chống lưng đọc sách”, phải, cô gái ngồi đàn guitare live trong một khu
đọc sách ngoài trời. [photo by Ngô Thế Vinh]
Hình 3a: bên phải Đường Sách là các cửa hàng café sách, các khu triển lãm; Phương Nam Book Café đẹp khang trang lúc nào cũng đông khách; phải, do thiếu diện tích mặt bằng, có thêm mấy Kiosk sách bên lề phải Đường Sách phía ngã ba Hai Bà Trưng – Nguyễn Văn Bình, anh chị Long đôi vợ chồng rất yêu sách, gốc người Sài Gòn cũ, chị gốc nhà giáo rồi làm công chức Nha Quân pháp trước 1975, nay sống bằng nghề buôn sách cũ. [photo by Ngô Thế Vinh]
Hình 3b: trái, thiếu diện tích mặt bằng, cả trên lòng đường cũng được tận dụng cho những Kiosk sách di động trên Đường Sách, với các bạn trẻ đứng ngồi tĩnh lặng say mê đọc sách, gợi lại hình ảnh thật đẹp của Sài Gòn trước 1975 với đường sách Lê Lợi, nhà sách Khai Trí thuở nào; phải: Quán Sách Mùa Thu với thêm dòng chữ “về lại chốn thư hiên”, nơi có thể tìm hoặc đặt mua những cuốn sách cũ “tàn dư văn hoá Mỹ Nguỵ” nay trở thành quý hiếm.
[photo by Ngô Thế Vinh]
Không biết tôi đã đứng trong Quán Sách Mùa Thu bao lâu, trong một không gian rất nhỏ, cô chủ quán sách thì tế nhị và lặng lẽ; tôi có cảm giác thời gian như dừng lại. Cầm trên tay những cuốn sách cũ, rất cũ xuất bản lần đầu tiên từ những thập niên 50s, 60s, 70s có những cuốn mà tác giả đã từng là bạn văn còn sống hay đã mất và cả ngạc nhiên nữa là sao những cuốn sách ấy lại có thể sống sót sau cuộc “phần thư”. Rồi tôi bị kéo về thực tại khi có tiếng nói của một thanh niên, có lẽ là sinh viên hỏi cô chủ quán về một đầu sách: Mùa Hè Đỏ Lửa của Phan Nhật Nam. Được biết, các quán sách tuy không có sách nhưng vẫn có thể nhờ kiếm hay đặt mua. Sách có thể gửi ra hải ngoại và trả bằng thể tín dụng. Sự kiện thế hệ sau chiến tranh, tìm đọc Ký của Phan Nhật Nam trên Đường Sách, chắc là điều mà bạn tôi cũng muốn được nghe.
Hình 3c: Gặp lại cả những cuốn sách của bạn tôi, GS Nguyễn Văn Tuấn, Viện Nghiên cứu Garvan Úc châu. Từ một thuyền nhân bị đầy ải cách đây hơn 36 năm, anh trở thành một giáo sư, một nhà khoa học và hàng năm anh vẫn trở quê hương giảng dậy tại các đại học từ Nam ra Bắc. [photo by Ngô Thế Vinh]
Từ ngày có con Đường Sách, không chỉ các tác giả trong nước có sách xuất bản đều mong muốn có dịp ra mắt sách tại nơi đây. Cả học giả nước ngoài cũng chọn Đường Sách là nơi giới thiệu sách của mình.
Như TS Môi Sinh Nguyễn Đức Hiệp cũng là nhà nghiên cứu đã từ Úc về Sài Gòn 22.07.2016, cùng một lúc ra mắt 3 cuốn sách nghiên cứu về Sài Gòn – Chợ Lớn. [Hình 4a]
Như nhà sử học TS Nguyễn Duy Chính từ Mỹ về cũng ra mắt ký tặng bộ sách đồ sộ 10 cuốn nghiên cứu về thời Tây Sơn và quan hệ với triều đại nhà Thanh. [Hình 4b]
Như nhà văn Nguyễn Thị Thuỵ Vũ nổi tiếng từ trước 1975 còn ở lại trong nước, sau ngót nửa thế kỷ sống ẩn dật ở một miền quê, thì nay đã có mặt trên Đường Sách 19.03.2017 để ra mắt một loạt 10 tác phẩm của bà mới được Nxb Phương Nam tái bản. [Hình 4c]
Đặc biệt hơn nữa, có cả các học giả người nước ngoài như GS Larry Berman cũng chọn Đường Sách để giới thiệu bản dịch cuốn The Perfect Spy / Điệp Viên Hoàn Hảo mà ông là tác giả. [Hình 4d]
Hình 4a: trái, TS Nguyễn Đức Hiệp chuyên gia môi sinh cũng là một nhà nghiên cứu từ Úc châu, ra mắt bộ sách 3 cuốn Sài Gòn – Chợ Lớn trên Đường Sách 22.07.2016; từ phải, TS Nguyễn Đức Hiệp, TS Nguyễn Thị Hậu, và ông Tim Doling; phải, TS Nguyễn Đức Hiệp ký sách cho một bạn đọc trên Đường Sách năm 2017. [nguồn: trái, ảnh L. Điền; phải: tư liệu Nguyễn Đức Hiệp]
Hình 4b: Nhà sử học TS Nguyễn Duy Chính [giữa] từ Mỹ về cũng ra mắt ký tặng bộ sách đồ sộ 10 cuốn nghiên cứu về thời Tây Sơn và quan hệ với triều đại nhà Thanh tại Quán sách Nxb Văn Hoá Văn Nghệ trên Đường Sách 05.11.2016. [nguồn: tư liệu Nguyễn Duy Chính]
Hình 4c: nhà văn Nguyễn Thị Thuỵ Vũ sau ngót nửa thế kỷ sống ẩn dật, nay ở tuổi 80 đã có mặt trên Đường Sách 19.03.2017 để ra mắt một loạt 10 tác phẩm của bà mới được Nxb Phương Nam tái bản. [nguồn: photo by L. Điền TTO]
Hình 4d: GS Larry Berman, từ Đại học UC Davis, ra mắt cuốn The Perfect Spy / Điệp Viên Hoàn Hảo mà ông là tác giả tại gian hàng First News trên Đường Sách, ngày 23.01.2016 [nguồn: ảnh BTC báo Thanh Niên]
Và Hội đồng Anh / British Council cũng đã chọn Đường Sách để tổ chức hoạt động tưởng niệm 400 năm (1616-2016) ngày văn hào William Shakespeare qua đời.
Hình 5: Tác phẩm điêu khắc Cô Gái Bên Trang Sách nơi cuối Đường Sách, tiếp giáp với đường Hai Bà Trưng. [photo by Ngô Thế Vinh]
THÁNH GANDHI KHÔNG NÓI THẾ
Kế ngay bên bức tượng Cô Gái Bên Trang Sách, là một tấm bảng hiệu cao hơn đầu người, với một câu trích dẫn mà tác giả được ghi là Mahatma Gandhi [sic]. Tôi rất quan tâm và cả thắc mắc về tên tuổi của Gandhi trên tấm bảng hiệu. Gandhi là một trong những thần tượng thời sinh viên tuổi trẻ của tôi, một con người suốt đời tranh đấu theo con đường bất bạo động, được tôn xưng như một vị thánh; vậy sao ông lại có thể liên hệ tới một ý tưởng rất bạo động là “đốt sách”. Tuy chưa biết tác giả của câu trích dẫn trên là ai, nhưng trực giác cho tôi biết chắc chắn không phải của Gandhi.
Vẫn bị ám ảnh về những vụ đốt sách sau 30.04.1975, không thể đợi tới ngày về Mỹ, tôi thấy cần truy nguyên ra ai là tác giả của câu nói ấy. Vì đang lưu lại trong một khách sạn ở Sài Gòn, không tiện cho một tìm kiếm rộng rãi trên mạng, và qua iPhone, tôi liên lạc ngay qua một eMail kèm theo hình chụp [Hình 6] gửi mấy người bạn trẻ ở hiện ở California như sau:
Vũ Nguyễn ơi
Confidential_ nhờ Vũ search, là có hay không
một original quote như trên của M.G. Thanks
All the best
aVinh
Hình 6: tấm bảng hiệu uy nghi cao hơn đầu người với hàng chữ: “Không Cần Phải Đốt Sách để phá huỷ một nền văn hoá, Chỉ Cần Buộc Người Ta Ngừng Đọc mà thôi.” [sic] Tác giả câu nói ấy được ghi là của Mahatma Gandhi. [photo by Hoàng Long]
Và tôi có ngay câu trả lời cùng một lúc trong cùng ngày tới từ hai người bạn trẻ Vũ Nguyễn và Ngọc Dung.
Vũ Nguyễn viết:
“Thưa anh Vinh, câu ấy vốn của nhà văn Ray Douglas Bradbury (22 August 1920 – 5 June 2012), nguyên văn thế này:
“The problem in our country isn’t with books being banned, but with people no longer reading. Look at the magazines, the newspapers around us – it’s all junk, all trash, tidbits of news. The average TV ad has 120 images a minute. Everything just falls off your mind… You don’t have to burn books to destroy a culture. Just get people to stop reading them.”
Ray Bradbury nói câu này khi trả lời phỏng vấn bởi Misha Berson, của tờ The Seattle Times (12 March 1993). Sau được các báo như Reader’s Digest trích dẫn lại. (The Reader’s Digest, Vol. 144, No. 861, January 1994, p. 25).
Một dị bản về sau của câu này là: ” We’re not teaching kids to read and write and think… There’s no reason to burn books if you don’t read them.” [Roger Moore, in The Peoria Journal Star, August 2000].
Cùng một lúc Ngọc Dung, cô bạn đồng trang lứa với Vũ Nguyễn có ngay một câu trả lời khẳng định: “câu này của Ray Bradbury anh Vinh ạ”.
Hình 7a: Câu trích dẫn của Ray Bradbury (DOB) “You don’t have to burn books to destroy a culture. Just get people to stop reading them.” bên cạnh là chân dung tác giả. [nguồn: internet, sưu tầm Ngọc Dung]
Hình 7b: Trên Amazon có bán poster với câu trích dẫn của Ray Bradbury “You Don’t Have to Burn Books to Destroy a Culture. Just get people to stop reading them.” với giá US$ 15.95 [nguồn: Amazon.com, sưu tầm Ngọc Dung]
NHỮNG NGƯỜI BẠN VÀ CÁC LỜI BÀN
Qua sự kiện này, anh Phạm Phú Minh Chủ Bút Diễn Đàn Thế Kỷ cũng là tác giả cuốn ký “Hà Nội Trong Mắt Tôi”, bày tỏ cảm tưởng: “Vậy là Ngọc Dung và Vũ Nguyễn đã giải được nghi vấn ai là tác giả câu nói được gán cho Gandhi tại giữa “Đường Sách” Sài Gòn.” Anh Minh tiếp: “Gọi là “Đường Sách” mà trương lên một câu “nói không có sách, mách không có chứng”, đó là một sự lạ của Việt Nam. Từ sáng tới giờ tôi cứ thắc mắc trong lòng, tại sao lại có hiện tượng này. Câu nói của Ray Bradbury thì cũng không phải là một danh ngôn lừng lẫy gì lắm và ra đời cũng chưa lâu, hẳn giới sách vở ở Việt Nam lấy làm thích ý tưởng đó nên đem dịch ra và trương lên. Dĩ nhiên họ biết tác giả câu nói đó là ai, vậy tại sao họ không ghi đúng tên tác giả là Ray Bradbury, mà lại bịa ra tên giả Mahatma Gandhi? Quả thật tôi nghĩ không ra. Mong các bạn góp ý kiến giải thích hiện tượng này.”
Tiếp theo thắc mắc của anh Phạm Phú Minh, nhà sử học TS Nguyễn Duy Chính, tác giả của bộ sách đồ sộ 10 cuốn về Vua Quang Trung và đời Nhà Thanh, anh cũng đã từng ngồi ký sách trên Đường Sách, [Hình 4b] anh có một phát biểu mà anh khiêm cung gọi đó là “ý mọn”:
” Theo tôi thì quan trọng không phải ai nói mà là với mục đích gì. Nếu tôi nhớ không lầm, trước đây đạo diễn Trần Văn Thuỷ khi làm cuốn phim “Chuyện Tử Tế” đã dẫn ở đầu cuốn phim một câu đại khái “Chỉ có thú vật mới quên đi nỗi đau của đồng loại mà quay lại lo riêng cho bộ da của mình” rồi gán cho tác giả là Karl Marx. Sau này ông ta có thú nhận Marx không nói câu đó nhưng câu nói đã trở thành một “điểm nhấn” của bộ phim. Thêm một dật sự khác là Tô Đông Pha khi làm văn đã viết một câu gán cho cổ thư khiến giám khảo không dám nhận là không biết mà sau hỏi lại: “Thầy lấy trong sách nào thế?” Có lẽ người dẫn câu này muốn ám chỉ một cái gì đó nên phải lấy tên Gandhi cho thiên hạ khỏi vặn vẹo vì trong nước rất dễ bị lôi thôi nếu có “ý đồ”. Chắc chắn là câu này sẽ được nhiều người nhớ đến hơn khi lấy tên Gandhi là tác giả.”
Với ý kiến của Anh Chính, cũng vẫn anh Phạm Phú Minh tiếp tục bày tỏ:
“Ý kiến của anh Chính rất thú vị. Nó lại cho ta hiểu thêm câu: Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Tên của một tác giả chỉ là một phương tiện, trong một hoàn cảnh nào đó thì người ta có thể thay đổi đi, để đạt được điều mà người ta muốn. Nhưng “hoàn cảnh nào đó” là hoàn cảnh nào? Bởi vì một xã hội gọi là bình thường và lành mạnh thì không thể lúc nào cũng lấy hoàn cảnh ra mà biện minh cho hành vi sai trái của mình được. Ví dụ Việt Nam bây giờ đã thoáng hơn và người dân hiểu biết hơn rất nhiều so với thời Trần Văn Thủy làm phim Chuyện Tử Tế, làm sao người ta đủ can đảm lấy tên ông Gandhi để thay cho Ray Bradbury? Nhất là trong một biểu ngữ dựng công khai giữa nơi Đường Sách, khiến ông bạn Ngô Thế Vinh của chúng ta đâm ra nghi ngờ! Sự dễ dãi, sự “tự cho phép” thiết nghĩ cũng phải có giới hạn thôi chứ? Làm quá thì hóa ra coi thường sự hiểu biết của xã hội. Thông tin về câu “Chỉ có thú vật…” cũng rất thú vị, bởi vì chính tôi lâu nay cũng tưởng là câu của Karl Marx. Bây giờ thì không chắc điều đó đúng hay sai, nếu sai thì là do dây chuyền, mà người đầu tiên làm cho sai chưa chắc là Trần Văn Thủy. Tôi đồng ý với anh Chính những người trưng câu này của Ray Bradbury chắc là khoái chí với hai chữ ĐỐT SÁCH, nên phải mượn tên Gandhi để che chắn thôi. Để tên tác giả là một người Mỹ thì dễ bị lên án hơn là một ông Ấn Độ!”
Và cuối cùng là phát biểu của Vũ Nguyễn, người bạn trẻ tìm ra ngay câu trả lời ai là tác giả câu trích dẫn:
“Vũ trước nay vẫn đinh ninh câu “Chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi đau đồng loại mà chăm chút bộ lông của mình” là của Karl Marx trong Tư Bản Luận mà không buồn truy nguyên. Nay anh Chính nói mới biết là không phải. Giờ thì ngờ rằng câu đó do chính Trần Văn Thuỷ bịa ra, như Tô Đông Pha bịa câu “cổ văn” mà qua mặt giám quan tam lão. Trước khi có phim “Chuyện Tử Tế” có lẽ ở Việt Nam chẳng ai biết câu này. Lần đầu tiên đọc câu quotation này ở đoạn mở đầu phim, đa số khán giả của bộ phim đều cho rằng tác giả hẳn là một tay triết gia uỷ mị nào đó của bọn tư bản giãy chết. Cho đến phút cuối cuốn phim, khi đạo diễn đọc câu thuyết minh “May quá. Câu ấy là của Karl Marx” cả rạp mới ồ lên … “À ra vậy. Bác Các/ Karl, bác Lê/ Lenin bao giờ cũng chí phải!” Điều đó cho thấy câu “danh ngôn” này chưa tồn tại ở Việt Nam trước khi có phim “Chuyện Tử Tế” của Trần Văn Thuỷ ra đời.
CỦA CAESAR TRẢ VỀ CHO CAESAR
Trở lại với câu trích dẫn nơi [Hình 6]:
“Không Cần Phải Đốt Sách để phá huỷ một nền văn hoá, Chỉ Cần Buộc Người Ta Ngừng Đọc mà thôi.”
“You don’t have to burn books to destroy a culture. Just get people to stop reading them.”
Ray Bradbury phát biểu câu trên cách đây mới có 24 năm khi trả lời phỏng vấn của Misha Berson, của tờ The Seattle Times (12 March 1993); trong khi Mahatma Gandhi thì đã chết cách đây 69 năm rồi [30 tháng 01 năm 1948]. Vậy hãy trả cho Ray Bradbury câu nói của Ray Bradbury và cũng đừng cưỡng gán cho thánh Gandhi đã trở về tro bụi trước đó từ lâu [ông đã được hoả thiêu theo nghi thức Hindu] nay bị cho là tác giả của một câu nói mà ông không hề hay biết.
Sau chuyến đi khảo sát môi sinh ĐBSCL, trở lại Sài Gòn, tôi không có một lịch sinh hoạt gặp gỡ nào trước khi trở về Mỹ. Với tôi, Đường Sách là một khoảng xanh tĩnh lặng, một gạch nối giữa quá khứ và hiện tại mà đã hơn một lần muốn trở lại và cả rất yêu mến. Nhưng cũng mong sao, mọi người cố giữ cho nơi đây vẫn là một khoảng không gian xanh tinh khiết, không có những cơn gió độc mang tới những hạt giống xấu, để mãi mãi nơi đây là thửa vườn gieo trồng những hạt giống tốt của tâm hồn.
An image of a 43-year-old woman with Hajdu-Cheney syndrome. Image from J Radiol Case Rep. 2014 Sep 30;8(9):1-8 .
In medical research, we sometimes discover things from abnormal cases, and that is precisely the case of a recent study in Molecular Cell (1). In this paper, the authors report that a mutation in a putative gene for the Hajdu-Cheney syndrome can be utilized for developing a new treatment target for osteoporosis. That’s exciting!
Hajdu-Cheney syndrome (HCS), also called “acro-osteolysis” (i.e., breakdown of bone tissue), is a very rare genetic disease, with only 50 cases or so being reported in the world. People with HCS have prominent characteristics such as short stature and developmental delay, short and broad digits, facial dysmorphism, and polycystic kidkeys. Mutations at the NOTCH2 gene have been known to be associated with HCS. This gene codes for protein that is involved in bone maintenance. Moreover, HCS patients are associated with osteoporosis and fractures, tooth abnormalities and periodontal disease. That is why HDS has been a “research target” for osteoporosis researchers for some time.
In a recent paper, a group of investigators from Japan used the HCS model in mice to show that bone loss (in mice) could be reversed. The investigators discovered that a mutation in the NOTCH2 gene together with a protein called FBW7 are involved in the maintenance of bone. The experiment was elegant: they first knocked out the gene for FBW7 in the bone, and the mice became osteoporotic much like HCS; they then used a medication (zoledronic acid) to block osteoclas formation and the result was a reverse of bone loss.
I guess the implication from these results is that (a) zoledronic acid can be used to treat osteoporosis in patients with HCS, and (b) the NOTCH2 and FBW7 system may be a new target for developing new therapies for the treatment of osteoporosis and bone loss in the elderly.
In medical research, outliers are interesting cases because they may point to new discoveries. In Siddharta Mukherjee’s The laws of medicine (2), he notes that normality teaches us rules, but ‘outliers’ teach us laws, and this is quite true for the HCS story.
This is an important study (1) that compares the anti-fracture efficacy between alendronate and romosozumab. In short, the result showed that romosozumab has a better efficacy than alendronate. In the authors’ words:
“Clinical fractures occurred in 198 of 2046 patients (9.7%) in the romosozumab-to-alendronate group versus 266 of 2047 patients (13.0%) in the alendronate-to-alendronate group, representing a 27% lower risk with romosozumab (P<0.001). The risk of nonvertebral fractures was lower by 19% in the romosozumab-to-alendronate group than in the alendronate-to-alendronate group (178 of 2046 patients [8.7%] vs. 217 of 2047 patients [10.6%]; P=0.04), and the risk of hip fracture was lower by 38% (41 of 2046 patients [2.0%] vs. 66 of 2047 patients [3.2%]; P=0.02).”
As far as I know, this is the first major head-to-head clinical trial in osteoporosis. From now on, clinicians have a new and effective therapy for women and men with osteoporosis.
Romosozumab versus Alendronate and Fracture Risk in Women with Osteoporosis
Background
Romosozumab is a monoclonal antibody that binds to and inhibits sclerostin, increases bone formation, and decreases bone resorption.
Methods
We enrolled 4093 postmenopausal women with osteoporosis and a fragility fracture and randomly assigned them in a 1:1 ratio to receive monthly subcutaneous romosozumab (210 mg) or weekly oral alendronate (70 mg) in a blinded fashion for 12 months, followed by open-label alendronate in both groups. The primary end points were the cumulative incidence of new vertebral fracture at 24 months and the cumulative incidence of clinical fracture (nonvertebral and symptomatic vertebral fracture) at the time of the primary analysis (after clinical fractures had been confirmed in ≥330 patients). Secondary end points included the incidences of nonvertebral and hip fracture at the time of the primary analysis. Serious cardiovascular adverse events, osteonecrosis of the jaw, and atypical femoral fractures were adjudicated.
Results
Over a period of 24 months, a 48% lower risk of new vertebral fractures was observed in the romosozumab-to-alendronate group (6.2% [127 of 2046 patients]) than in the alendronate-to-alendronate group (11.9% [243 of 2047 patients]) (P<0.001). Clinical fractures occurred in 198 of 2046 patients (9.7%) in the romosozumab-to-alendronate group versus 266 of 2047 patients (13.0%) in the alendronate-to-alendronate group, representing a 27% lower risk with romosozumab (P<0.001). The risk of nonvertebral fractures was lower by 19% in the romosozumab-to-alendronate group than in the alendronate-to-alendronate group (178 of 2046 patients [8.7%] vs. 217 of 2047 patients [10.6%]; P=0.04), and the risk of hip fracture was lower by 38% (41 of 2046 patients [2.0%] vs. 66 of 2047 patients [3.2%]; P=0.02). Overall adverse events and serious adverse events were balanced between the two groups. During year 1, positively adjudicated serious cardiovascular adverse events were observed more often with romosozumab than with alendronate (50 of 2040 patients [2.5%] vs. 38 of 2014 patients [1.9%]). During the open-label alendronate period, adjudicated events of osteonecrosis of the jaw (1 event each in the romosozumab-to-alendronate and alendronate-to-alendronate groups) and atypical femoral fracture (2 events and 4 events, respectively) were observed.
Conclusions
In postmenopausal women with osteoporosis who were at high risk for fracture, romosozumab treatment for 12 months followed by alendronate resulted in a significantly lower risk of fracture than alendronate alone. (Funded by Amgen and others; ARCH ClinicalTrials.gov number, NCT01631214.)
Trên suốt chuyến bay của hãng Hàng Không Nga Aeroflot từ Paris đến Mockba (Moscow), tôi ngồi cạnh Janna. Menshikova Janna, một cô gái Nga tóc vàng, mắt xanh, nói tiếng Anh lưu loát. Thật ra tôi chỉ ý thức sự hiện diện của Janna lúc máy bay bình phi. Từ lúc đặt chân vào tới lúc phi cơ cất cánh, tôi mãi sợ. Thảm lót sàn rách nát, có chỗ cộm lên từng cục, nhất là ngay cửa vào, chỗ để mấy xe thức ăn, thảm rách được lấp liếm qua loa như một đống giẻ dơ bẩn khiến tôi suýt vấp ngã. Chưa hết, chỗ để hành lý trên đầu hành khách không có nắp đậy an toàn, nó chỉ là một loại kệ chạy dài gắn vào thân phi cơ. Lạy Trời, lúc đáp, tôi nói thầm.
“Ðó là cái giá cậu phải trả cho việc thăm địa ngục, thiên đàng rẻ hơn nhiều,” anh bạn hôm chở tôi đi xin visa và lấy vé tại Paris đã nói với tôi như vậy.
780 US dollar vé khứ hồi Paris-Mockba, 250 dollar một đêm tại khách sạn 4 sao Intourist, 40 dollar thủ tục xin visa. Ðặt phòng tại Intourist là điều kiện bắt buộc để xin chiếu khán. Người ta viện cớ công an tại đó làm việc thường trực nên tiện cho việc đóng dấu lưu trú. Một hình thức “đăng ký hộ khẩu.” 250 dollar, vị chi 25 tháng lương của công nhân Nga cho một đêm tại “trái tim” Liên Xô cũ. Cái giá phải trả cho một người mang quốc tịch của xứ tư bản “giãy chết.”
Chiếc phản lực 2 máy, TU151 đầy hành khách, đa số người Nga, một ít người da trắng có lẽ là Mỹ hoặc Pháp, một vài người Nhật. Tôi phân biệt điều này nhờ lối ăn mặc và cách nói chuyện. Người Nga hoặc áo lông, áo da, ồn ào, đi lại luôn. Những người khác mặc vest, trao đổi kín đáo.
Không một lời loan báo, phi cơ rú lên từng chập rồi cất cánh.
“Chắc lần đầu anh đi máy bay Nga,” một giọng nữ rót vào tai tôi. Quay sang, cô gái tóc vàng ngắn, mắt xanh, mặc bộ đồ nâu đang nhìn tôi như chế giễu. Trông cô bình thản đến độ tôi phát thẹn với nỗi lo sợ của mình.
“Vâng, sao cô biết?” tôi nhát gừng.
“Gương mặt anh tố cáo điều đó,” cô cười, hơi thở thơm chi lạ, một thứ mùi sữa trộn ít vị đắng của thuốc lá. “Tôi quen rồi,” cô tiếp, “như thế này đối với tôi là nhất. Tôi thường chỉ bay trong nội địa, đây cũng là lần đầu tôi ra khỏi nước và trở về.”
Sau đó tôi biết tên cô là Menshikova Janna, làm về tin học cho một hãng Nga có liên lạc buôn bán với Pháp, và cô trở về sau 3 tuần công tác ở Paris.
Thấy tôi chỉ uống tí café mà không ăn, Janna nhỏ nhẹ, “anh ăn đi, Mockba chẳng có gì đâu.” Nhiều người cũng nói với tôi như thế, thậm chí còn có người khuyên nên mang theo mì gói đủ cho thời gian ở Nga. Thức ăn không đến nỗi tệ, Janna ăn hết phần của cô. “Anh nên nhớ đây là mua ở Pháp, lúc bay trở lại từ Mockba, anh sẽ thấy khác hẳn,” cô nói, “tệ hơn nhiều lắm.”
Nhiệt độ trong máy bay mỗi lúc một nóng, tôi có cảm giác ngồi cạnh một lò lửa, dĩ nhiên cô gái Nga bên cạnh đã là một thứ lửa rồi. Ðúng là chơi dại, mùa Ðông nước Nga đã hại tôi. Trang bị đến tận răng, quần áo trong, quần áo ngoài, chân đi hai đôi tất len, còn lại đi giầy bốt cao cổ, mồ hôi tôi bắt đầu rịn ra ướt cả người.
“Thích chứ anh,” Janna trả lời câu tôi hỏi, “sự thay đổi ở nước tôi là một điều tốt, mọi việc thoải mái hơn trước nhiều, bằng chứng là tôi có thể đi đây đó, ngay cả đi nước ngoài. Kinh tế à, khó khăn hơn trước nhưng chúng tôi chấp nhận. Ông Yeltsin thì tôi nghĩ khó ngồi lâu nếu không ổn định sớm tình hình, giá là ông Gorbachev thì chắc tốt hơn. Tôi tin là nhiều người Nga thích ông Gorbachev hơn.”
“Có bao giờ cô gặp người Việt Nam ở Nga chưa?”
Vô tình, Janna tạt vào mặt tôi, “Có chứ, chẳng có gì tốt đẹp về họ cả, buôn chui bán lận, gấu ó lẫn nhau là tất cả chuyện về họ.”
Tôi bị thương tổn như chính mình bị chỉ trích. Im lặng một hồi lâu, tôi hỏi Janna, “Cô có biết, tôi cũng là người Việt?”
“Ồ, xin lỗi anh,” Janna lúng túng, “tôi tưởng anh là người Nhật. Ðiều hồi nãy tôi nói không có gì là tuyệt đối. Dĩ nhiên, tôi vẫn tin họ có người tốt.”
Người Nhật! Hai tuần lễ trước ở Tiệp Khắc, một người bản xứ cũng hỏi tôi như thế! Hình như đối với nhiều nước, một người Á Châu thong dong đây đó thì chỉ có nghĩa họ là người Nhật.
Câu chuyện về đồng bào tôi bên Nga vô tình khiến cả hai chúng tôi không ai nói với ai câu nào một hồi lâu. Anh bạn đi cùng không chịu được khói thuốc, ngồi cách tôi sáu hàng ghế đang ngủ ngon lành. Tôi nhìn đồng hồ, 4 giờ 10. Bay 3 tiếng rưỡi, hai thủ đô cách nhau hai múi giờ, phi cơ sẽ đáp lúc 7 giờ Mockba.
“Anh buộc dây lưng vào, phi cơ sắp đấy, chẳng ai nhắc và loan báo đâu,” Janna dịu dàng, “còn điều này nữa, cẩn thận những thứ trên đầu.”
Tôi thầm cám ơn Janna. Phi cơ giảm cao độ, nhiệt độ nóng dữ dội và quả tình, không một lời loan báo, phi cơ đáp. Tôi không tin mắt tôi nữa, ngoại trừ những túi xách lớn vừa khít từ trần phi cơ xuống đến tấm kệ, những túi nhỏ là vật dụng như cặp táp, nón áo đổ ào xuống đầu hành khách. Một vài hàng ghế trống ngã gập về phía trước. Lúng túng đến thảm hại là một người Á Ðông (chắc là người Nhật) ngồi cách tôi ba hàng ghế phía trái, anh đang cuống cuồng lượm những tấm hình rớt ra từ một túi nylon đổ xuống từ trên đầu. Những hành khách khác bình thản… như hơi thở thu lượm mọi thứ trên sàn. Janna chìa tay ra bắt tay tôi, dù sao đi nữa. Welcome to Mockba.
II. Intourist Motel: Có tiền mua tiên… thì được; thực phẩm..thì không
Sau khi đưa passport cho nhân viên khách sạn làm thủ tục đăng ký công an, Bằng, Toàn và tôi lên phòng thay quần áo. Từ cửa sổ tầng 20 của khách sạn, thủ đô Mockba chìm trong tuyết. Ánh đèn vàng bệch của thành phố kèm chút sáng trăng giúp tôi nhận ra vị trí Quảng Trường Ðỏ, lặng lờ, quạnh quẽ cách khách sạn khoảng 200 thước. Như vậy chúng tôi đang ở trung tâm của Mockba.
“Chỉ có café, bia, nước ngọt, không có gì ăn cả,” người phục vụ tại quán ăn của khách sạn tỉnh queo trả lời tôi.
Oh! My God! Cái gì, khách sạn quốc tế 4 sao giữa thủ đô mới 8 giờ 30 tối đã không còn gì ăn. Bằng và tôi ngán ngẩm nghĩ tới 5 ngày còn lại. Thấy quan tài rồi bạn ta ơi!
“Cơ bản là thế đấy anh ạ,” Toàn điềm nhiên như không, “bây giờ ngoài phố cũng chẳng đào đâu ra cái ăn, tối nay ta khắc phục vậy, mai em sẽ làm việc.”
Ba tách café đen nhỏ 11 dollars, tôi lại nhớ tới câu “giá của địa ngục.” Mấy bàn còn lại lác đác người ngoại quốc, hai bàn Á Châu chắc chắn là thương gia Nhật, còn lại là da trắng. Phải kể là khách sạn đầy… tiên. Tóc vàng có, nâu có, áo da có, áo lông thú có, cô nào cũng đẹp, khêu gợi qua lại như đèn kéo quân.
“Các anh hưởng đêm Mockba nhé,” một trong ba cô vừa sà vào bàn chúng tôi nói, “170 dollars kể cả phòng.”
Mười bảy tháng lương của công nhân Nga, tiên chứ đến… thánh chúng tôi cũng từ chối.
“Hay là các anh muốn xem chỉ tay,” cũng cô lúc nãy, “rẻ thôi 20 dolars.”
Cũng có màn này nữa sao? Quả tình bàn ngay bên cạnh đang có một chàng G.I. chìa tay để tìm hiểu tương lai… ông Bush. Tôi diễu cô gái vừa hỏi, “How to say thanks in Russian?” Cả ba cô ngúng nguẩy bỏ đi một nước.
Ngồi lại một mình, Toàn hẹn quay trở lại sáng hôm sau, Bằng đi ngủ trước, tôi ra quầy mua một lon Heinneken giá 5 dollars. Ðói. Biết vậy tôi đã nghe lời Janna nuốt hết dĩa thức ăn trên phi cơ. Anh G. I. bàn bên đã xong phần bói toán và đang nhai bánh khô. Ðây là thực phẩm mang theo, anh vừa nói vừa nheo mắt với tôi. Tôi cười ruồi cho quên cơn đói.
Ðói nhưng cảm giác an toàn của khách sạn giúp tôi hoàn hồn khi nghĩ lại những chuyện xảy ra tại phi trường Chérémétiévo lúc trước đó.
Làm xong thủ tục nhập cảnh, nghĩa là đóng dấu “thành thật khai báo” vật dụng đem theo và móc hết tiền trong túi cho nhân viên hải quan kiểm tra. Bằng, người bạn đi cùng và tôi xách vali ra cửa. Một đám đông hỗn độn, lố nhố mời chào taxi, hỏi mua bán và đổi dollar. Chúng tôi dứt khoát từ chối hết và lóng ngóng tìm kiếm. Ðây rồi, anh chàng Á Châu này một triệu phần dầu là người Việt Ta, bằng chứng là anh ta chẳng cầm tấm bảng viết tên tôi đó sao? Một màn giới thiệu, Toàn sinh viên tốt nghiệp ngành điện, du học Mockba từ 1981.
“Bây giờ bọn anh mặc em bố trí nhé, không được rời em, tình hình căng lắm.” Tôi suýt phì cười vì lối nói đặc biệt XHCN của Toàn.
Vừa ra tới đường, mặt tôi rát bỏng vì lạnh. Không rõ nhiệt độ bao nhiêu nhưng tôi cóng cả người. Tôi chợt hài lòng vì lúc lên phi cơ đã quyết định không cởi bớt lớp áo ngoài. Trong tích tắc, cả hơn chục người vây quanh chúng tôi. To lớn, bặm trợn, nón và áo lông cũ kỹ, đám người này kỳ kèo đòi đưa chúng tôi về khách sạn với giá 20 dollars. Toàn cố kéo chúng tôi ra khỏi đám người này và dặn, đừng lên xe bọn này, nó sẽ “trấn” anh dọc đường đấy.
Chúng tôi cố đón taxi, một, hai, rồi ba chiếc vừa dừng lại đã vội rú đi ngay. Bọn đầu gấu vây quanh chúng tôi giơ tay hăm dọa nên không tài xế nào dám rước chúng tôi.
Một chiếc dừng lại, tôi vội vàng mở cửa chui vào, chợt thấy Bằng hốt hoảng nhảy dựng về phía sau tay ôm vali che ngực. Thật lẹ, tôi vọt ra khỏi xe quay người lại. Thì ra một trong những tay kỳ nèo chúng tôi nãy giờ đã rút dao găm ra và đâm ngập vào bánh xe phía Bằng đứng. Tội nghiệp người tài xế, không rước được khách lại bị đâm lủng bánh xe, anh ta đang cố lái ra khỏi đám người hung dữ này.
Tên vừa đâm xe bám lấy tôi, “Anh không đi xe tôi thì không xe nào dám đón đâu,” hắn nói.
Tôi bắt đầu sợ, đất lạ không biết xoay sở ra sao. Tôi hỏi Toàn, “Báo công an được không?” Toàn trả lời, “Ai người ta thèm để ý mà báo, chúng nó ăn chia với nhau hết rồi.” Tôi giành quyền “bố trí” và đưa ra “phương án”: “Này Toàn, cứ gọi taxi, khi xe dừng là lên ngay khóa cửa trong, bảo tài xé chạy, bánh xe bị đâm thì thay dọc đường, bọn tôi trả thêm tiền.”
Phương án diễn ra đúng như dự định, nửa giờ sau có một ông già dừng lại đón chúng tôi. Như một con cắt, chúng tôi đã khóa cửa xe từ bên trong. Bụp! Bánh xe phía tôi ngồi bị đâm, mặc kệ xe cứ thế lao đi. Thế mà, đã thoát đâu, hai chiếc xe của bọn này cúp đầu xe chúng tôi chặn đường, ông tài xế bẻ gắt về bên trái, leo lề và dọt ra khỏi phi trường.
Vừa chạy được khoảng 15 phút, xe phải tấp vào bên đường thay bánh. Hai bên là rừng, tuyết phủ trắng xóa, đường vắng ít xe qua lại. Chợt một chiếc xe ngừng ngay sau chúng tôi, hai người nhảy xuống tiếng Nga lào xào. Tôi xanh mặt, ông già này mà là người của bọn kia thì đối phó sao đây? May quá, họ lên xe đi tiếp. “Yên tâm rồi, bọn họ hỏi đường đó mà,” Toàn nói. Hai mươi phút sau xe tiếp tục lăn bánh, vừa chạy được một quãng tôi thấy bên lề đường, một taxt không hành khách, tài xế đang lui cui thay bánh. Không biết đó có phải là chiếc xe đã đón hụt chúng tôi lúc nãy không, tôi tự hỏi?
Xe dừng lại ở số 3 đại lộ Tverakaia, Intourist đây rồi. Ngoài 300 rúp Toàn trả, tôi dúi vào tay ông tài xế 20 dollars, mắt ông ánh lên vẻ như sướng. 20 dollars tức là 2,000 rúp bằng lương hai tháng của công nhân Nga, cũng đủ đền bù công ông vất vả.
Ðêm Mockba lạnh lẽo, tôi đói cồn cào. Mockba ơi! Tôi thầm gọi, tôi sẽ nhớ mãi ngày 14 Tháng Hai này.
III. Ốp Búa Liềm: Một khía cạnh sinh hoạt của người Việt trên đất Nga
“Bọn anh đừng nói gì cả nhé, cứ quan sát thôi, mọi việc mặc em bố trí, người Việt buôn bán tại đây rất ngại người lạ dòm ngó. Có ai hỏi thì cứ bảo ở Việt Nam qua du lịch.” Toàn dặn đi dặn lại điều đó trước khi chúng tôi đặt chân tới Ốp Búa Liềm.
Ốp tiếng Nga có nghĩa là ký túc xá dành cho công nhân. Ốp Búa Liềm, tọa lạc trên đường Rustavenli cách trung tâm Mockba 25 phút lái xe, là ký túc xá của công nhân nhà máy Búa Liềm, là nơi ở của 100 công nhân Việt Nam và khoảng vài chục người khác được gọi là dân “lưu vong” đến đây trú ngụ và buôn bán bất hợp pháp. Bằng cách dùng tiền “đút lót” người quản lý Ốp và công an, những người sống bất hợp pháp này thản nhiên như ruồi trong sinh hoạt ra vào ốp.
Theo một bản tin của Sứ Quán Việt Nam tại Nga, kể từ Tháng Mười Hai, 1989, Cộng Sản Việt Nam đưa sang Liên Xô (tên gọi chỉ các nước Cộng Hòa hiện nay độc lập) 103,392 người lao động hợp tác trong đó có 52% là nữ. Sau nhiều đợt bổ sung và đưa về nước, tính đến nay tổng số người Việt ở Liên Xô còn lại là 52,000 được phân bổ làm việc tại 370 nhà máy, xí nghiệp ở 73 tỉnh, thành phố thuộc Liên Xô. Trong số người trên đã có đến 40,000 làm việc tại 260 xí nghiệp rải rác ở 49 tỉnh thuộc Cộng Hòa Nga. Trước khi Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết sụp đổ, với đồng lương trung bình là 200 rúp một tháng, so với giá thịt heo 1 rouble/1 kg, gạo 0.80/kg, tủ lạnh loại 120 lít/250 rúp, đời sống công nhân Việt Nam ở đây tương đối khá ổn. Sau khi Cộng Hòa Nga tự trị và trở thành một nước trong Cộng Ðồng Thịnh Vượng Chung, lương những người công nhân này thay đổi, 500 rúp một tháng nhưng thịt heo tăng lên 100 rúp/1kg, gạo 40 rúp/1kg, tủ lạnh dung lượng 120 lít/5,000 rúp một cái.
Trở lại sinh hoạt của Ốp Búa Liềm, chúng ta có thể tóm tắt thế này. Ðây là nơi sẵn sàng thu mua tất cả mọi mặt hàng xuất xứ từ bất kỳ đâu, kể cả mua hàng tấn hàng của “ai đó” “đánh” từ Việt Nam sang bằng máy bay Aeroflot. Dĩ nhiên người mua thanh toán ngay bằng tiền mặt – “đồng xanh.” Những tiếng lóng chúng tôi nghe người Việt nói với nhau ở Ốp Búa Liềm: Xanh (dollar Mỹ), Ðỏ (vàng), bộ đội (những người Việt sống bất hợp pháp ở Nga), gió béo (áo gió loại lớn), gió gầy (áo gió loại nhỏ), quần bò (quần jean)… về giá cả, một chiếc áo gió béo tại Việt Nam giá khoảng 4 dollars khi “đánh” qua Nga người chủ hàng lời từ 2-3 dollars một cái. Qua tay nhiều trung gian, người tiêu thụ phải mua với giá khoảng 18 dollars tức 1,800 rúp một chiếc. Một bộ đồ ngủ mua tại Việt Nam khoảng 2 dollars, bán tại Nga là 5 dollars. Ngoài ra chúng tôi quan sát thấy nhiều mặt hàng khác như xà bông tắm giặt, đồng hồ điện tử, thuốc lá, cá khô, quần bò được bán sỉ tại đây. Có thể nói Ốp Búa Liềm cũng như các ốp khác, Ốp 5, Ốp Ngọn Cờ,… là một trong những nguồn cung cấp hàng không những cho người Việt mà cả cho người bản xứ tại Nga và các nước Cộng Hòa vùng Baltic. Những ngày ở Nga, tôi nghe nhiều người nói là do buôn bán, có ít nhất năm ba người Việt tài sản lên tới một triệu dollars.
Do số người tấp nập ra vào buôn bán, một dịch vụ khác đã được người Việt tại Ốp Búa Liềm “triển khai triệt để”: dịch vụ ăn uống. Ở hành lang, ở cầu thang, chúng ta thấy các tờ giấy dán trên tường với dòng chữ: “phòng 412 có phở, bò, gà,” 220 có bánh cuốn,” “lầu 3, phòng 309 có bia, rượu, đồ nhậu đủ loại”… Những người buôn hàng ăn này kiếm được khá tiền. Một dĩa bánh cuốn nhỏ 35 rúp, một dĩa xôi đậu xanh 50 rúp, một tô phở (thật ra chỉ là mì sợi) 30 rúp… Ngoài ra chúng tôi còn gặp người bán tiết canh lòng lợn tại các phòng. Buôn bán, ăn nhậu, bài bạc dẫn đến ẩu đả, đâm chém là việc thường xảy ra. Tình trạng nhân viên sứ quán Việt Cộng tại Nga “ô dù” (che chở) “tư túi” (tham nhũng của công) được mô tả là đầy rẫy.
Sáng ngày 15 Tháng Hai, chúng tôi có đến Ðôm 5 mà không được phép vào vì đêm trước một công nhân Việt Nam buôn vàng bị chết vì nổ bình hơi lúc phân kim. Ðôm 5 là cư xá của sinh viên Việt Nam thuộc quyền quản trị của Viện Hàn Lâm Nga. Ðôm 5, Ốp Búa Liềm, Ốp Ngọn Cờ đều là nơi buôn bán nổi tiếng của người Việt tại Mockba. Theo lời Toàn, trước kia còn có Ốp Jean chuyên bán quần bò nay đã bị dẹp.
IV. Ở tận sông Hồng em có biết… quê hương Nga hổng có gì ăn
Câu trên là một đoạn trong bài hát của cộng sản được cải lời mà người dân trong nước vẫn hát sau 1975. Quả tình “quê hương Nga” hổng có gì ăn thiệt. Trong suốt thời gian 6 ngày ở Mockba, Toàn, Bằng và tôi khốn khổ tột cùng trong việc tìm cái ăn.
Ngày nào cũng thế, dù ra khỏi thành phố 2 tiếng lái xe, đến giờ trưa chúng tôi vẫn phải quay trở lại trung tâm Mockba kiếm thức ăn. Hoặc Toàn vào Ốp Búa Liềm mua, hoặc ghé McDonald’s, còn nếu muốn ăn quán thì thường phải đi mấy chỗ liền mới tìm được quán mở cửa. Chưa hết, còn phải biết cách “làm việc riêng” nữa, nghĩa là đút tiền thì mới có bàn ngồi (mặc dù bàn còn trống). Quán Peking chẳng hạn, quán lớn nhất Mockba, nếu ngồi khu trả bằng “xanh” tức dollar Mỹ thì 20 dollars một dĩa cơm chiên tôm gà. Cũng y như vậy bên khu trả bằng rúp thì giá là 300 rúp một dĩa tức là 3 dollars. Mà bên nào cũng thế đều phải biết “làm việc riêng.”
Quán Korean ở đường Kalantchiovskaia là tôi không quên được. Cách Quảng Trường Ðỏ một tiếng lái xe, quán này là loại hợp doanh của người Bắc Hàn và Nga. Nhìn ba cái chén được dọn ra tôi đã hết cảm thấy đói. Hai trong ba cái, miệng chén bị bể bằng đầu ngón tay út, lòng chén còn bợn chút bột xà bông rửa. Tôi quyết định ăn bánh bao để khỏi dùng chén. Tôi ăn uống dễ tính vậy mà mới cắn miếng đầu tiên tôi đã vội nhả ra lấy muỗng moi ruột và bỏ vỏ xuống bàn. Bằng hỏi, “Tệ lắm hả?” Không muốn “đi vào vết xe” của tôi, Bằng cũng chỉ moi ruột bánh bao ăn.
Tô “phở lạnh” mới kinh. Gọi là phở nhưng thật ra là mì với ít cọng hành và vài lát thịt, còn nước dùng, tôi thề có Trời nó là nước lạnh thuần túy không mắm muối.
Cả Bằng và tôi đều đụng đũa rồi bỏ nguyên tô. Toàn khôn hơn, đã chọn món thịt nướng ngay từ đầu. Chúng tôi bắt chước Toàn gọi hai đĩa thịt nướng. Cũng an ủi phần nào, có còn hơn không. Lúc sau về lại Pháp, Bằng có nói với tôi, tí nữa anh ọc ra giữa bàn khi thử món phở lạnh nhưng đã cố gắng nuốt cơn nôn nao xuống.
Lúc đứng dậy trả tiền, chúng tôi xúc động vô cùng khi thấy một gia đình Nga bốn người đang ngấu nghiến bánh bao ở bàn bên cạnh. Tôi nghĩ, giá họ được thưởng thức bánh bao Bà Cả Cần ở Saigon trước 1975.
McDonald’s thì khác hẳn, rộng rãi, sạch sẽ, nhân viên phục vụ vui vẻ, niềm nở. So sánh giữa một tiệm McDonald’s tại Nga và loại tiệm này tại Mỹ, chúng ta thấy tiệm ở Nga có bốn điểm khác biệt; rộng gấp mười những tiệm bên Mỹ, không có café, ketchup phải trả tiền giá 5 rúp một gói và cuối cùng là, khách ăn xong cứ để mặc mọi thứ trên bàn, người phục vụ sẽ dọn dẹp. Chúng tôi ăn bốn cái Big Mac, bốn ly medium Coke, hai gói French Fries giá 7 dollars. Rẻ bằng một nửa bên Mỹ nhưng sau những ngày đầu tò mò, số người Nga vào McDonald’s giảm hẳn đi vì giá vẫn quá cao so với lương của họ.
Ðọc tới đây chắc có người sẽ tự hỏi, cái ăn kiếm khó thế làm sao dân Nga sống, không lẽ họ sống bằng… khẩu hiệu. Xin thưa, sống được chứ, nhưng với giá bao cấp. Chế độ bao cấp, đại loại là, lương công nhân 1,000 rúp một tháng, gia đình hộ 2 phòng, 50 rúp một tháng tiền nhà, điện ga sưởi 30 rúp, xăng 1 lít/1 rúp (tức 1 dollar Mỹ mua được 25 gallon). Số tiền còn lại là mua thực phẩm giá quốc doanh tức phải xếp hàng, 8 rúp một ổ bánh mì, 60 rúp một chai vodka… Riêng về nhà ở, toàn thành phố Mockba chỉ có một loại nhà là chung cư cao 20 tầng, ngoài ra không tìm đâu ra một căn nhà xây riêng rẽ. Tập thể hóa đến thế đúng là “cái nôi của vô sản.”
V. Quảng Trường Ðỏ và phố Arbat
Cả ngày Chủ Nhật 16 Tháng Hai chúng tôi dành để thăm Quảng Trường Ðỏ và phố Arbat.
Trời bão tuyết và nhiệt độ được loan báo là 18 dưới 0 độ C. Vừa ra khỏi taxi, chúng tôi đụng đầu ngay với một đám biểu tình với cờ búa liềm, hình Lênin. Những người này phản đối việc chính phủ Yeltsin dự định dời xác Lênin ra khỏi Quảng Trường Ðỏ. Ðoàn người dễ có đến cả ngàn, tương đối trật tự, vừa tiến vào lăng Lênin vừa hô khẩu hiệu. Tôi nói với Bằng, “Diễn tập dân chủ đây, trước kia thì sức mấy, chết với KGB ngay.”
Một bà già Nga 62 tuổi, bà Katarosvic, đề nghị làm hướng dẫn viên cho chúng tôi với giá 50 rúp. Tính ra chỉ có 50 cent Mỹ cho 3 tiếng đồng hồ, bà dẫn chúng tôi xem mộ Peter Đại Đế và con cháu, những kiến trúc cổ của các nhà thờ Chính Thống Giáo Nga, những khẩu đại bác của Nã Phá Luân để lại trong cuộc rút chạy 1812… Riêng lăng Lênin chúng tôi từ chối vào xem, chẳng ích lợi gì cả. Với một giọng Anh rất khó nghe, bà Katarosvic đã rất vất vả khi phải giải thích cho chúng tôi về các di tích ở quảng trường này. Giống như bao bà mẹ khó tính khác, bà muốn “gìn giữ” chúng tôi như “bảo vệ con ngươi trong mắt mình,” bà dặn đi dặn lại, đừng mua gì ở đây, nón hồng quân, đồ kỷ niệm chúng nó bán đắt lắm và nhất là đừng cho lũ thanh niên bám theo kia thuốc lá, chúng nó không tốt lành gì đâu. Các cô cậu Nga bám theo tôi xin thuốc lá làu bàu tiếng Nga với bà.
Lúc chia tay, tôi biếu bà Katarosvic 400 rúp, bà ngần ngừ có ý không muốn nhận vì số tiền nhiều quá. Tôi nhét vào túi bà rồi leo vội lên xe taxi. Tội nghiệp bà thư ký hành chánh của chính phủ, hai ngày cuối tuần làm thêm như vậy không rõ bà kiếm được bao nhiêu. Tôi cầu chúc cho các bà mẹ Nga cuộc đời sớm sáng sủa.
Rời McDonald’s lúc 3 giờ, chúng tôi mua thêm 2 ly Coke và đi Arbat. Kinh nghiệm mấy ngày nay cho thấy chẳng đào đâu ra được nước uống dọc đường, dù là nước lạnh.
Arbat là một khu phố chuyên bán những đồ vật kỷ niệm cho du khách tọa lạc ngay trung tâm Mockba trên đường Kalinine, người qua lại tấp nập. Tôi nhận ra nhiều loại ngôn ngữ ở đây, Mỹ, Pháp, Đức, Nhật và cả Việt Nam nữa. Riêng những người Việt Nam đến đây để bán hàng. Nón lông có huy hiệu hồng quân 10 dollars, quần áo mùa đông của Hồng Quân 60 dollars, búp bê Nga La Tư 12 con 70 dollars, áo phụ nữ làm bằng lông thú giá từ 160 đến 900 dollars. Một người bạn gái bên Pháp cho tôi biết giá một bộ áo lông như thế tại Paris đắt gấp bốn lần. Khu Arbat ăn mày đông vô kể. Họ bám theo chúng tôi và chỉ xin… dollar thôi. Cho 50 rúp không chịu, nhất định xin bằng được 1 dollar, họ còn kèo nài cả thuốc lá và bật lửa nữa. Toàn đã phải “rủa” tiếng Nga và giằng họ ra chúng tôi mới đi thoát. Tôi ghi nhận thấy hiện tượng bói toán, chỉ tay khá phổ biến ở đây. Hai ba người lính Nga túm tụm quanh một bà xem chỉ tay. Hình ảnh này tôi cũng thấy ở khách sạn Intourist đêm đầu tiên, Cửa hàng mậu dịch quốc doanh gần khu Arbat thì sơ sài. Mặt hàng chỉ có ít quần áo, chén dĩa, vật dụng trong nhà như xà bông, kem đánh răng, thuốc lá. Thuốc lá thì tệ vô cùng, bập được vài hơi lại tắt, mùi khét lẹt.
Ngay cửa ra vào, cơ man là người. Đàn ông, con gái, bà già, con nít, những người này tay cầm đôi giày, cái áo, gói thuốc, chai rượu mời chào người qua lại. Trước khi đi kiếm cái ăn (lại cái ăn), chúng tôi ghé ngang International Bar and Shopping mà người bản xứ gọi là cửa hàng ngoại tệ. Ở đây chỉ nhận “xanh” tức dollar Mỹ. Đủ thứ, quần áo, máy móc, bánh kẹo, rượu thuốc lá toàn đồ ngoại. Một hộp bánh ngọt 11 dollars (loại này mua ở Savon tại Mỹ 5 dollars) rượu Remy Martin loại 3/4 lít giá 40 dollars (mua tại Mỹ 28 dollars)… Thấy tôi tò mò quan sát hai người Việt Nam mua máy cassette ở đây, Toàn ghé tai tôi nói nhỏ, “Dân Ốp Búa Liềm đấy anh ạ.” Ra khỏi quán Hà Nội lúc 12 giờ 30 khuya, trời lạnh như cắt từng thớ thịt. Nằm trên đại lộ Profsolozlae (nghĩa là công đoàn) đối diện quán Hà Nội là đài kỷ niệm Hồ Chí Minh. Nó là một tấm đồng tròn đường kính khoảng 3 thước ở giữa khắc khuôn mặt Hồ Chí Minh. Tôi chỉ tay lên đó và hỏi Toàn, “Dân Nga đã giật sập các tượng đài Lênin, họ còn để lại cái bia ở đây làm gì?” “Rồi cũng đến phiên thôi anh ạ,” Toàn đáp. “Toàn nghĩ gì về ông ấy?,” tôi tiếp. “Em cũng chẳng ưa đâu anh ạ, anh bảo thời buổi này còn ai tôn sùng lãnh tụ nữa cơ chứ.” Toàn trả lời.
Đón mãi taxi không có, tôi sắp chết rét thì nguyên một chuyến xe bus ngừng lại. Trên xe chỉ có hai bà già Nga ngủ gà ngủ gật. Sau một màn mặc cả với Toàn, tài xế ngoắc tay bảo chúng tôi lên, xe quay ngược lại hướng cũ và đưa chúng tôi về chỗ ở trong khu nhà tập thể của nhân viên Viện Hàn Lâm nơi Toàn làm việc. Hai trăm rúp tức 2 dollars mà được nguyên chiếc xe bus “phục vụ.” Toàn nói với tôi, xe quốc doanh đấy, họ làm “nghiệp dư” kiếm sống.
Quả tình tôi rất ái ngại và cảm thấy có lỗi với bà già lên xe trước bọn tôi, nay phải đi thêm một đoạn nữa. Tôi nói cảm tưởng này với Toàn, Toàn bảo, chả hơi đâu mà “thơng vay khóc mướn”,
bọn Nga chúng nó sống quen thế rồi trong xã hội Cộng Sản.
Sáu ngày với cái lạnh và đói ở Mockba rồi cũng đến lúc chia tay. Bằng và tôi bay về Paris ngày 19 với lời cầu xin mọi việc êm xuôi. Qua cổng hải quan, kỷ niệm chót của chúng tôi tại xứ này là mỗi đứa phải “thông cảm” 20 dollars cho nhân viên di trú kiểm soát thông hành. Nếu không, người “anh em” gây khó dễ thì “làm gì nhau.”
Phi cơ đảo một vòng trên bầu trời Mockba, mới 5 giờ chiều mà trời tối sập.
Thôi nhé, từ giã Mockba. Tôi chợt nhớ Jenna. Cầu chúc xứ sở cô sớm tốt đẹp. Tôi cũng ước mong điều đó cho đất nước tôi, Việt Nam./.
Chó (tên khoa học là canis familiaris) có mặt trên trái đất này rất lâu đời. Tất cả các giống chó, dù là chó rừng hay chó gia dụng, đều thuộc một họ động vật canidae, (từ đó mới có danh từ carnivores – động vật ăn thịt) khởi sinh vào khoảng 50 triệu năm về trước. Chó là động vật tách rời khỏi đại gia đình canoidae (bao gồm cả gấu và chồn) sớm nhất, và đó là lí do tại sao chất liệu di truyền của chó giống với các động vật vừa kể hơn là giống với mèo hay cầy hương. Trong họ canidae có 3 chi: cáo (fox), chó sói (wolf) và chó nhà.
Chó và con người có một lịch sử dài chung sống với nhau, và tương kính nhau. Chả thế mà người ta vẫn thường nói chó là bạn tốt nhất của con người. Theo nghiên cứu khảo cổ học mới nhất thì chó và người đã đồng hành và chung sống với nhau ít nhất là 60 ngàn đến 100 ngàn năm về trước, tức là từ thời con người còn trong giai đoạn săn bắt hái lượm. Đó là một mối liên hệ rất lâu đời, lâu hơn cả mối liên hệ giữa con người và các gia cầm khác như gà, heo hay mèo (trên dưới 8 ngàn năm).
Nhìn qua lăng kính di truyền học, cấu trúc DNA của con người giống với chó hơn là giống với chuột. Có nhiều bệnh mà con người mắc phải cũng là những bệnh mà chó hay bị như ung thư, tiểu đường, bệnh tim mạch, động kinh, v.v… Giới khảo cổ học nghiên cứu về cách thức chôn cất chó của con người khắp nơi trên thế giới và đi đến một nhận xét là cách chôn cất chó ngày xưa cũng rất giống với cách chôn cất con người. Ở Việt Nam ta còn có tục thờ chó bằng cách chôn chó trước cổng nhà hay đặt chó vào bàn thờ như một thần linh.
Quê hương của chó: Đông Á
Một số nghiên cứu trong vòng mười năm trở lại đây cung cấp cho chúng ta rất nhiều thông tin thú vị về lí lịch sinh học của chó và mối liên hệ giữa chó và con người. Cũng như trong con người, đơn vị cấu trúc cơ bản của chó là gen, hay nói cho đúng hơn là DNA. Khác với con người chỉ có 23 nhiễm sắc thể, chó có đến 39 nhiễm sắc thể. Không ai biết chó có bao nhiêu gen, nhưng có ước tính cho rằng con số khoảng 35.000 đến 50.000 gen. Qua so sánh sự phân phối gen và khoảng cách di truyền giữa các loài chó trên thế giới, các nhà khoa học có thể truy tìm nguồn gốc của chó.
Ngày 8/12/2005, một nhóm gồm 47 nhà khoa học Mĩ và Âu châu tuyên bố rằng họ đã giải mã khoảng 99% DNA (tức khoảng 2,5 tỉ mẫu tự DNA) trong chó [1]. Trước đó chỉ 4 tháng (Tháng 8/2005) một nhóm khoa học gia Hàn Quốc tuyên bố rằng họ đã thành công nhân bản chó (còn gọi là cloning – tạo sinh vô tính) bằng cách dùng tế bào mầm (stem cells) [2]. Thành công này được xem là một bước tiến ngoạn mục của khoa học, vì nó có thể dẫn đến các thuật điều trị những bệnh như ung thư, tiểu đường, tâm thần phân liệt, v.v… bằng tế bào mầm. Nhưng con chó đó (tên là SNUPPY, viết tắt Seoul National University) đã chết vào năm 2016, thọ đúng 10 tuổi.
Hơn 10 năm trước, một loạt 3 công trình nghiên cứu [3-5] dựa vào DNA được công bố đã cho chúng ta một “câu chuyện” khác với câu chuyện xương xậu của loài chó mà chúng ta từng biết. Những phát hiện của ba công trình nghiên cứu này đều nhất quán hai điều: tổ tiên của các loài chó hiện nay ở Mĩ là loài chó sói, và quê hương của chúng là vùng Đông Á. (Tưởng cần nhắc lại rằng trước đây, dựa vào các hiện vật khảo cổ, giới khoa học tin rằng quê hương của loài chó là ở Trung Đông. Quan điểm này được xem là một “chân lí”, được giảng dạy trong nhà trường trong một thời gian khá lâu.)
Phát hiện về Đông Á là quê hương của các loài chó cũng gây ra một vài tranh chấp khá … khôi hài. Khi nghe tin này, một số nhà khoa học Trung Quốc bèn nhanh nhẹn tuyên bố rằng “Đông Á” ở đây có nghĩa là Trung Quốc, và Trung Quốc mới đích thực là quê hương của chó. Tuy nhiên, các nhà khoa học phương Tây, kể cả tác giả công trình nghiên cứu, thì dè dặt hơn, họ nói bằng chứng hiện nay chưa cho phép họ xác định được Đông Á là Trung Quốc hay một nơi khác như Đông Nam Á chẳng hạn.
Gia súc, kể cả chó, gắn liền với nền văn minh nông nghiệp. Đã từ lâu, thế giới vẫn cho rằng Trung Quốc là cái nôi của nông nghiệp, thế nhưng ngày nay chúng ta cũng biết rằng quê hương nguyên thủy của cây lúa rất có thể là ở chung quanh vùng Đông Dương – Mã Lai – Miến Điện, vì ở đây khí hậu nhiệt đới là môi trường thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp, và văn minh Hòa Bình là nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới, khoảng 15.000 năm trước. Ngoài kĩ thuật trồng lúa và cây trái, một thành tựu đáng kể khác của người Hòa Bình là thuần hóa một số gia súc như trâu, chó, lợn, gà, v.v… Theo E. Darwin và nhiều nhà khảo cổ học sau này, Đông Nam Á đóng vai trò rất lớn trong việc phổ biến các gia súc này.
Tuy chưa thể nói Đông Nam Á là quê hương của chó, nhưng cần chú ý thời điểm 15.000 năm phát triển nông nghiệp ở Đông Nam Á trùng hợp với thời điểm thuần hóa loài chó như vừa đề cập trên. Gần đây, nhiều bằng chứng di truyền học cho thấy nhiều loài gia cầm như dê và gà đều có nguồn gốc từ Đông Nam Á, quê hương nguyên thủy của nông nghiệp.
Thời điểm thuần hóa: 15.000 năm ?
Chó có lẽ là con vật đầu tiên được con người thuần hóa. (Nhưng cũng có nhiều nhà nhân chủng học cho rằng con người mới chính là sinh vật được thuần hóa đầu tiên!) Tuy nhiên thời điểm chó được thuần hóa vẫn còn là một nghi vấn khoa học đang được bàn cãi. Giới khảo cổ học dựa vào các di chỉ khảo cổ nhận xét rằng xương chó cổ xưa nhất chỉ mới 14.000 năm mà thôi. Ngày nay, dựa vào phân tích DNA, các nhà khoa học tại Thụy Điển ước đoán rằng thời điểm mà chó được thuần hóa là khoảng 15.000 năm đến 40.000 năm về trước. Thời điểm 40.000 năm dựa theo giả định rằng tất cả loài chó được thuần hóa từ một con chó sói duy nhất, và rõ ràng là giả định này khó mà chấp nhận được, cho nên các nhà khoa học chọn con số 15.000 năm (tức thời con người còn sống trong xã hội săn hái) là đáng tin cậy và có cơ sở nhất.
Nhưng bằng cách nào mà con người thời săn hái biết trước được ích lợi của việc thuần hóa loài chó sói? Cụ thể hơn, câu hỏi được đặt ra là chó được chọn lựa để thuần hóa vì chúng dễ bảo hay dễ huấn luyện? Có quan điểm cho rằng chó sói tự chúng thuần hóa. Chó sói, vừa là một sinh vật săn và lượm, chắc chắn đã từng quanh quẩn các chòi của con người để tìm thức ăn, và những con nào “học” hay sợ hãi con người, chúng sẽ sống sót và sinh sôi nẩy nở. Nếu giả thuyết này đúng thì đó chỉ là một hình thức lựa chọn tự nhiên. Từ quan điểm này, có thể cho rằng con người đã thuần hóa chó như là loài vật trong nhà vì chúng dễ huấn luyện hơn là dễ sai bảo.
Một quan điểm khác thì cho rằng con người đã thuần hóa chó cho các mục tiêu săn bắt. Những người sống bằng nghề săn lượm thời tiền sử thường bắt những thú hoang nhỏ và giữ chúng trong nhà để chúng trưởng thành trong nhà đến khi không còn “quản lí” được nữa. Một khi chó đã được thuần hóa, chúng trở nên có ích trong xã hội săn bắt, dù rất khó mà biết được đặc tính nào của chúng làm cho chúng trở nên đối tượng để thuần hóa. Chúng có thể là những thú vật giữ nhà, săn bắt, hay nguồn thực phẩm trong trường hợp khẩn cấp.
Nhiều nghiên cứu tâm lí cho thấy chó có khả năng nhận thức được hành vi và tín hiệu từ con người nhạy hơn khỉ. Khi nhìn vào con người, khỉ không biết người này có mang theo một món thức ăn hay không; trong khi đó chó có thể nhận biết rằng người đó có hay không có mang theo thức ăn! Chó sói, dù lanh lẹ và thông minh, nhưng không có khả năng tiếp nhận và diễn dịch các tín hiệu từ con người như loài chó nuôi trong nhà. Điều này cho thấy loài chó gia dụng ngày nay đã được thuần hóa vì chúng có khả năng diễn dịch được hành vi của con người.
Tuy nhiên, khi hai sinh vật sống gần nhau trong một thời gian dài, một sinh vật có thể ảnh hưởng đến một sinh vật khác và làm thay đổi vài đặc tính của nó. Có thể nói rằng chó có khả năng cảnh giác con người hay săn lùng những con vật khác để đôi bên, con người và chó, cùng có lợi. Con người có lẽ chọn những khả năng của chó, nhưng chó cũng có lẽ muốn hành xử như con người – dĩ nhiên là không cố ý – nhưng giúp cho con người dùng có khả năng tồn tại tốt hơn. Và chính vì thế mà chó ngày nay có khả năng nhận thức được những hành vi của con người.
Chó sói không phải là sinh vật dễ thuần hóa. Các nhà nghiên cứu Nga từng tiêu ra 26 năm để thuần hóa loài chó sói màu xám (silver fox), họ chỉ chọn chó nào có tính dễ chế ngự để thuần hóa. Sau khi chọn lựa từ 45.000 chó sói trong vòng 40 năm, họ chỉ thành công thuần hóa khoảng 100 con! Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng khi bị được thuần hóa (hay chế ngự) các chú chó sói này cũng biểu hiện một vài thay đổi về sắc diện: tai trở nên mềm mại hơn, và đuôi biến thành màu trắng.
Đọc đến đây có lẽ nhiều bạn đọc ngạc nhiên tại sao thế giới lại bỏ ra hàng triệu đô-la để nghiên cứu những vấn đề có vẻ xa rời thực tế như thế? Câu trả lời ngắn là tri thức: chúng ta muốn có thêm tri thức. Vả lại, cái thời điểm mà tổ tiên chúng ta bắt đầu có liên hệ với chó là một sự kiện cực kì quan trọng trong lịch sử con người. Khi con người biết thuần hóa chó cũng có nghĩa là thời điểm mà con người biết chi phối đến cuộc sống (và số phận) của của loài vật khác và cây cỏ. Thành công này dẫn đến phát minh nông nghiệp, nuôi gia cầm và tiến bộ công nghiệp cho đến ngày nay.
Một điều khá trớ trêu là dù Đông Á nay được chính thức xem là quê hương của chó, và cấu trúc di truyền của chó rất gần với con người, nhưng cũng chính từ Đông Á, một số dân lại có truyền thống … ăn thịt chó! Không ít người Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam ta một mặt xem chó là bạn thân thiết của con người, nhưng mặt khác cũng không ngần ngại biến “bạn” thành mâm cỗ! Hi vọng rằng phát hiện mới nhất về quê hương của chó là một điểm khởi đầu để những cư dân nào ở Đông Á, kể cả Việt Nam, còn xem chó là một nguồn thực phẩm nên suy nghĩ lại thói quen này.
Chú thích và tài liệu tham khảo:
[1] Lindblad-Toh K, et al. Genome sequence, comparative analysis and haplotype structure of the domestic dog. Nature 2005; 438:803-819.
[2] Lee BC, et al. Dogs cloned from adult somatic cells. Nature 2005 4;436:641. Xem phần đính chính tại trong số Nature 2005;436:1102.
[3] Savolainen P, et al. Genetic Evidence for an East Asian Origin of Domestic Dogs. Science 2002: 1610-1613.
[4] Leonard JA, et al. Ancient DNA Evidence for Old World Origin of New World Dogs. Science 2002: 1613-1616
[5] Jonathan I. Bloch and Doug M. Boyer. Grasping Primate Origins. Science 2002: 1606-1610.