Ngày 30/4: Đọc lại Hồi kí Nguyễn Hiến Lê

Ông Nguyễn Hiến Lê là một học giả nổi tiếng trước 1975. Ông là người gốc Hà Nội nhưng từng ở Long Xuyên trong một thời gian dài, nơi ông soạn nhiều quyển sách có giá trị. Ông tự nhận là người “có cảm tình với ‘cách mạng'”. Nhưng sau 1975 thì ông vỡ mộng, và có viết hồi kí. Sau đây là những trang/dòng bị kiểm duyệt trong cuốn hồi kí viết về những gì xảy ra sau 1975.

Hồi Kí Nguyễn Hiến Lê by Nguyễn Hiến Lê

Trong bài này ông ghi lại những thất bại sau 1975. Đó là sự mất đoàn kết, phân chia giai cấp, thiếu kỉ luật, suy sụp kinh tế. Ông viết về một xã hội sa đoạ, với tham nhũng tràn lan, ăn cắp, và buôn lậu, và kì thị Bắc – Nam. Ông tóm tắt về một thời mà có lẽ ngày nay ít ai quan tâm hay biết đến:

 Sự ngạo mạn của những người ‘thắng cuộc’: những biện pháp nhằm san bằng chế độ cũ để không để lại dấu vết nào cả. “Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ“. Nhưng khổ nỗi những nhân viên cũ là những người có học và thực tài, còn người mới thì vừa dốt, vừa ngạo mạn, nên chẳng làm được gì!

 Chia rẽ Nam – Bắc: ngay từ thời đó (1980) dấu hiệu chia rẽ Nam – Bắc đã rõ nét. Ông viết “Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hóa, kĩ thuật – điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học – thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến.”

• Ngay cả cùng phe cũng chẳng có đoàn kết: “Cùng là công nhân viên cả, mà bọn ở Bắc vô không ưa bọn Liên khu 5; hai hạng đó đều khinh bọn ở bưng trong Nam về; bọn này lại không chơi với bọn trước kia tập kết ra Bắc, nay trở vô Nam; bọn ‘nằm vùng’ cũng không ưa bọn tập kết về đó.”

• Khinh miệt: ông so sánh: “[…] Trước ngày 30-4-75, miền Nam rất chia rẽ: nhiều giáo phái, đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kĩ thuật, nghệ thuật, văn hóa; nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc […] cả về đạo đức nữa: vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham (tôi nói số đông), ít chịu làm cái việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm chứ đừng nói là người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là ngụy hết, nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau: cùng là ngụy với nhau mà!”

Thời đó, tôi còn ở trong nước, và có thể nói là cảm nhận TỪNG CHỮ của ông. Thậm chí, ông viết còn chưa đủ về tình trạng bi đát lúc đó. Ông viết những dòng chữ này từ năm 1980, nhưng tôi nghĩ đến nay thì vẫn đúng y chang!

***************

Kết Quả Sau 5 Năm

Thất bại trong hoà bình

Mấy tháng đầu sau ngày 30-4-75, các bạn kháng chiến, già cũng như trẻ, nhất là trẻ, đều có tâm lí chung là hăm hở hưởng thụ sau mấy chục năm gian khổ sống chui, sống nhủi trong rừng, trong bụi, dưới hố dưới hầm. Đành rằng phải bắt tay ngay vào việc kiến thiết, nhưng đã có đường lối sẵn rồi, có kinh nghiệm hai chục năm ở Bắc thì không có gì khó; vả lại đã thắng được Mĩ, thành cường quốc thứ ba trên thế giới, sau Nga và Trung hoa thì có việc gì mà làm không được, chỉ trong 5 năm sẽ tiến bộ, hai chục năm sẽ đuổi kịp Nhật bản về kinh tế.

Muốn kiến thiết thì trước hết phải san phẳng chế độ cũ đã không để lại một dấu vết nào cả. Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ. Phải diệt bọn tư bản, chiếm nhà cửa, tài sản như núi của họ, chia nhau mỗi người một chút. “Đó là quyền của mình mà!”

Thời chiến hễ nung được lòng yêu nước của quốc dân rồi, giữ cho lòng đó đừng giảm, quốc dân kiên trì chịu đựng được tớỉ phút chót thì không còn vấn đề gì nữa: thiếu cái gì đã có Nga, Trung hoa cung cấp cho; trái lại trong thời bình mới phải đương đầu với nhiều vấn đề nội bộ, ngoại giao, kinh tế, nhất là kinh tế. Nước ta nghèo, thiếu vốn đầu tư thiếu kĩ thuật gia, khó phát triển kinh tế mau được. Thất bại về kinh tế thì sự nghiệp của cách mạng sụp đổ.

Bây giờ 5 năm sau ngày 30-4-75, hết kế hoạch ngũ niên đầu tiên rồi, chúng ta mới thấy cơ hồ chẳng tiến bộ về một phương diện nào hết mà còn thụt lùi nữa, và ai lạc quan tới mấy cũng phải nhận chúng ta đã bỏ phí 5 năm, và không biết phải mấy năm nữa mới bắt lại được thời gian đã mất đó. Trong khi ấy thì thế giới cứ vùn vụt tiến tới.

1) Không đoàn kết

Thất bại lớn nhất, theo tôi, là không đoàn kết được quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mĩ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng sau, cuối 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc. Tôi nhớ như ở phần trên tôi đã nói năm 1976, trong một cuộc hội nghị ở Sài gòn, bàn về vấn đề thống nhất quốc gia, một học giả lão thành miền Bắc, ông Đào Duy Anh (đã có hồi sống ở Nam nhiều năm, có nhiều bạn thân ở Nam) khi được mời phát biểu ý kiến, chỉ nói mỗi một câu đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan trọng nhất là phải thống nhất nhân tâm đã. Cả hội trường sửng sốt và làm thinh.

Ông Anh đã nhận xét đúng và dám nói. Quả thực là lúc đó có sự chia rẽ nặng giữa người Nam và người Bắc, Nam đã không muốn thống nhất với Bắc rồi. Từ đó, tinh thần chia rẽ cứ mỗi ngày mỗi tăng, năm nay (1980) có thể nói 90% người miền Nam hay hơn nữa, muốn tách khỏi miền Bắc.

Có nhiều nguyên nhân.

Nguyên nhân chính theo tôi là người miền Bắc vơ đũa cả nắm, coi người Nam là “ngụy” hết, trụy lạc, bị nhiễm độc nặng của Mĩ. Ngay hạng trí thức miền Bắc như ông Đào Duy Anh cũng có thành kiến rằng dân Sài gòn hư hỏng quá rồi Họ chỉ nhìn bề ngoài, chỉ thấy một số thanh niên híp pi, lêu bêu ở ngoài đường; tôi phải giảng cho họ hiểu rằng đó chỉ là thiểu số, chứ đại đa số người trong này ghét Mĩ, ghét văn minh Mĩ, có thể nói gia đình nào cũng có người có cảm tình với kháng chỉến, giúp kháng chiến cách này hay cách khác, nếu không vậy thì làm sao kháng chiến thành công được. Chỉ nội một việc biết người nào đó là kháng chiến mà không tố cáo cũng đủ có công với kháng chiến, chớ đừng nói là còn che chở, giúp tlên bạc, tiếp tay cho nữa. Chỉ trừ một số phản quốc, theo Mĩ, Thiệu triệt để vì quyền lợi, còn thì không có gia đình nào trong Nam là ngụy cả. Một số người yêu nước, có tư cách, mới đầu gia nhập kháng chiến, sau vì lập trường chính trị, phải rời hàng ngũ, về thành, mà không ưa Pháp, Mĩ, hạng đó không nên coi người ta là ngụy. Bọn thanh niên hư hỏng chỉ ở Sài gòn mới có nhiều, mà tỉ số không cao so với những thanh niên đứng đắn.

Người Bắc coi người Nam là ngụy, đối xử với người Nam như thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”, tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mĩ thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến, anh là ngụy thì tôi mới có lí, anh đừng nói nữa”.

Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hóa, kĩ thuật – điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học – thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú…

Trong mỗi cơ quan ở Sài gòn cũng có sự chia rẽ. Cùng là công nhân viên cả, mà bọn ở Bắc vô không ưa bọn Liên khu 5; hai hạng đó đều khinh bọn ở bưng trong Nam về; bọn này lại không chơi với bọn trước kia tập kết ra Bắc, nay trở vô Nam; bọn “nằm vùng” cũng không ưa bọn tập kết về đó; bị khinh nhất là bọn ngụy được tạm dùng lại, mà bọn này thạo việc hơn hết. Chỉnh vì thiếu đoàn kết cho nên trong cuộc hội họp nào người ta cũng hô hào “Đoàn kết, đại đoàn kết”. Còn ở trong phòng họp thì ai cũng hoan hô tinh thần đoàn kết, ra khỏi phòng rồi thì hết đoàn kết. Người ta chỉ đoàn kết với nhau vì quyền lợi thôi; đo đó mà có tinh thần bè phái, gia đình trị, và ở Bắc có câu này: Nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế.

2) Bất công

Điểm thứ nhì làm cho chúng ta thất vọng là xã hội còn bất công hơn thời trước nhiều.

Có người nói một số “ông lớn” đi đâu cũng có người hầu xách bình nước sâm Cao li để ông lớn uống thay trà; một ông nọ luôn luôn có một bác sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt hầu vì ông không chịu được quạt máy. Tôi không biết những tin đó đúng hay không, chỉ biết những tin đó do “anh em cách mạng” đưa ra cả.

Một ông bạn tôi bảo có vô nhà thương mới thấy có cả chục (sic) giai cấp bệnh nhân, tùy giai cấp mà được ở phòng nào, khám bệnh ra sao, trị bệnh ra sao, cấp thứ thuốc nào v.v…

Người chết cũng phân biệt giai cấp khi đăng cáo phó: cán bộ thường thì được mấy phân trên cột báo, cán bộ bự thì được mười mấy phân; lời cáo phó cũng theo những tiêu chuẩn riêng. Đúng là đường lối Staline.

Sài gòn được giải phóng vài năm thì ta thấy xuất hiện ngay một hạng giàu sang mới nổi, thay thế bọn giàu sang thời Thiệu, và cũng thích những xa xí phẩm (áo hàng thêu, hột xoàn, máy điều hòa không khí v.v…) của thời Thiệu. Tiền đâu mà họ mua những thứ đó nhỉ?

Sự bất công chướng nhất, tàn nhẫn nhất là lương công nhân viên từ 1975 cứ đứng yên trong khi sự phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết, chỉ còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là trong khi mãi lực của đồng bạc năm 1980 chỉ còn bằng 1/10 năm 1975; thành thử lương một công nhân viên chỉ đủ để mua củi chụm, lương một bác sĩ mới ra trường chỉ đủ để mua rau muống ăn. Khắp thế giới không đâu có chế độ lương bổng kì cục như vậy (2). Người nào cũng phải bán đồ đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phải xoay xở mọi cách, làm sao sống được thì làm, chính phủ không biết tới. Một cán bộ ở Hà nội đã phàn nàn: “Người ta có rất nhiều quyền hành mà không có một chút tinh thần trách nhiệm nào cả. Thật lạ lùng!” Kravchenko (trang 185) nói chính phủ Nga bắt dân đói để dân biết phép chính phủ mà phải răm rắp tuân lệnh. Ở nước ta không đến nỗi như vậy, có áp dụng chính sách đó thì chỉ áp dụng cho những kẻ thù của chế độ thôi, tức bọn ngụy quân ngụy quyền còn ở trong một số trại cải tạo.

3) Thiếu kỉ luật

Không ai có trách nhiệm mà tinh thần bè phái quá nặng, nên không có kỉ luật, dưới không tuân trên, loạn.

Chương trên tôi đã nói tới cái tệ mỗi tỉnh là một tiểu quốc, địa phương tự do tới mức không tuân lệnh trung ương (ngay xã cũng không tuân lệnh tỉnh, huyện), lấy lẽ rằng chỉ địa phương mới hiểu tình trạng của địa phương, cấp trên không nên xen vào; cái tệ nhân viên được lệnh đi công tác mà không đi, nằm ỳ ở nhà, một tuần sau trở lại sở, trả sự vụ lệnh mà không bị khiển trách; cái tệ nhân viên muốn bỏ sở về giờ nào thì về, lấy cớ là phải kiếm gạo, chủ nhiệm đành làm thinh, chứ không biết đáp sao.

Tôi kể thêm một trường hợp nữa. Ông giám đốc một cơ quan nọ đến tuổi về hưu, bảo người giúp việc: “Tôi sẽ không về, về thì mất hết quyền lợi: xe hơi, “bìa” (sổ đặc biệt đề mua nhu yếu phầm), nhà ở v.v…, mà còn bị xã ấp nó ăn hiếp, hoạnh họe cái này, cái khác; không, tôi không về,” Một ông giám đốc mà sợ công an ấp vì công an có quyền bắt ai thì bắt, giam ai thì giam. Một viên công an bảo: “Tôi làm việc bốn năm năm rồi, mà bây giờ mới biết quyền hạn của tôi, từ trước tôi muốn làm gì thì làm”.

Vì mất kỉ luật, cho nên thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự: ở miền Nam trốn tới 90%, có nơi cả 100% mà vẫn sống yên ổn. Bắt được họ, đưa họ ra mặt trận, họ lại trốn nữa. Không thể giam hoài họ được, gạo đâu mà nuôi? Họ sống yên ổn ngay ở làng vì chỉ cần đút lót cho công an là êm. Còn nạn đào ngũ thì toàn quốc tới 25%. Trước kia người ta hi sinh để giành độc lập; bây giờ độc lập rồi lại đánh nhau với nước anh em, người ta không hăng hái nữa.

Nghe nói ở một tỉnh nọ, viên giám đốc sở tài chánh kiêm giám đốc ngân hàng (?) ôm 60 lượng vàng cùng với 30 viên công an xuống một chiếc tàu của chính phủ, mang theo đầy đủ khí giới (và không biết bao nhiêu lượng vàng nữa) dể vượt biên. Tin đó chưa lấy gì làm chắc nhưng chuyện công an – cây cột chống đỡ chế độ – ôm vàng vượt biên thì mấy năm nay nghe thường quá rồi.

Tinh thần vô kỉ luật đó, không biết một phần có phải do chính sách giáo dục trẻ em không. Người ta cấm đánh trẻ – điều đó có thể hiểu được – cấm nghiêm khắc với trẻ, chúng nghỉ học thì lại nhà mời chúng đi học; chúng làm biếng thì không bị phạt mà cô giáo bị trách là dạy dở. Kì tựu trường có nơi còn tổ chức múa lân, đốt pháo để dụ trẻ em đi học nữa. Cô giáo nào mời được ít trẻ thì bị rầy. Riết rồi cô giáo ngán dạy quá, cứ tự ý nghỉ bừa, hiệu trưởng phải tới nhà năn nỉ, nếu không thì lỗi ở hiệu trưởng chứ không phải ở cô giáo. Và người ta ngán luôn cả nghề sư phạm: dốt hoặc muốn tránh nghĩa vụ quân sự mới phải thi vô sư phạm.

Kỉ luật như vậy, trẻ em càng được thể làm biếng, sức học rất kém, mà tính ngỗ nghịch (bóp vú cô giáo như trên đã nói) thì quá sức tưởng tượng. Một số cán bộ già ớ Bắc vô nhận rằng trẻ em trong này ngoan ngoãn, lễ phép. Nhưng tôi sợ rằng ít năm nữa, chúng đuổi kịp bạn chúng ở Bắc mất.

4) Kinh tế suy sụp

Sự thất bại hiển nhiên nhất của chế độ là sự suy sụp của kinh tế mà tôi đã trình bày sơ lược ở trên. Hậu quả là Việt nam trước thế chiến tự hào là “tiền rừng bạc bể”, có những đồng lúa, đồn điền cao su mênh mông ớ miền Nam, những mỏ than, mỏ phốt phát phong phú ớ miền Bắc mà bây giờ thành một trong vài nước nghèo nhất thế giới.

Từ ngày 30-4-75, do những đồng bào ớ Bắc vào, chúng ta ở Nam mới lần lần biết cảnh điêu đứng của dân tình ngoài đó sau hai chục năm sống dưới chế độ mới. Từ trên xuống dưới ai cũng phải ăn độn có khi 60-70% (3); có hồi gạo quí tới nổi người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng như nhân sâm, chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày tết mà có đủ gạo nấu cơm cúng ông bà là mừng lắm; khi nào được ăn một bữa cơm không độn với nước mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm, có người ở Nghệ an hay Hà tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người trong Nam ra đem theo nước mắm, xin một vài muỗng rồi cầm nuốt ực ngay hết, không đợi đem về nhà.

Nhiều người vào Sài gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ thứ, từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa bò, ve chai… đem ra, vì ở ngoài đó thường cần dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường. Nhưng một người Ba lan trong ủy ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bảo chỉ trong 5 năm, miền Nam sẽ “đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phấm, quần áo… về giúp bà con ở đây thì chúng ta hiện nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi.

Dân miền Nam từ xưa chưa bao giờ biết đói, phải ăn độn thì năm 1979 đã phải ăn độn 70-80%, có những gia đình phải ăn bữa cơm bữa cháo, có cô giáo và học sinh đói quá, tới lớp té xỉu

Nhà nào cũng bán đồ cũ đi để ăn; nhiều giáo viên nhà đã trống rỗng, không còn bàn ghế nữa, ăn ngủ trên sàn. Ai cũng chỉ lo sao có cái gì nuốt cho đầy bao tử, chứ không dám nghĩ tới miếng ngon. Tết Canh Thân vừa rồi, ở Long xuyên, nhà một giáo viên hồi hưu, trên bàn thờ ông bà chỉ bày một đĩa có mấy chiếc bánh phồng và bánh gai, không có một đòn bánh tét, một quả dưa hấu.

Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép mủ… để bán cho “ve chai”. Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá.

Không có tiền mua rau thì làm gì có tiền mua thịt. Muốn lâu lâu có thịt thì phải nuôi heo, gà, cho nên nhiều cơ quan ngay khi mới thành lập đã nghĩ ngay đến việc hùn tiền (hay lấy trong quĩ?) mua heo con, phân công nhau nuôi tại khu ở tập thể, như vậy đến lễ, tết mới có thịt liên hoan. Người ta thèm thịt quá, cho nên liên hoan lu bù, bất kì một dịp gì cũng liên hoan được: một bạn đồng nghiệp được ban khen, ngày tựu trường, bãi trường, họp bạn để học tập, ban hành hiến pháp mới, làm xong một công tác, mỗi ngày lễ, tết… mỗi năm liên hoan cả chục lần là ít.

Cơ quan nào cũng có đủ nhà bếp, chén đĩa, xoong chảo, người làm bếp (lựa trong nhân viên) để nấu ăn làm tiệc Và khi ngồi vào bàn tiệc thì chẳng ai mời ai, đợi ai, mạnh ai nấy gắp, ăn cho thật mau (tới nỗi có người bảo cứ nuốt trước rồi sẽ nhai sau!), tệ gấp 10 thói ăn uống ở đình làng mà Ngô Tất Tố đã mạt sát trong cuốn Việc làng.

Nghèo thì sinh ra ở bẩn. Ngay trong khu tập thể một trường Đại học Hà nội, phòng một giáo sư ở Pháp về cũng dơ dáy, từ sàn gạch đến tường đều đầy vết bẩn. Hỏi như vậy làm sao chịu được, ông ta nhún vai đáp: “Lâu rồi quen đi” Không nên trách ông ta. Dù muốn sống sạch cũng không thể được: đâu có vôi để quét tường? đâu có xà bông để rửa sàn? đâu có giẻ để lau? Nước thì có nhưng phải xuống dưới sân để hứng rồi xách lên 5-6 chục bực thang, ai mà không ngại?

Phải, lâu rồi thì quen đi. Nếu tình trạng không thay đổi thì chỉ mươi năm nữa, toàn dân sẽ quen đi, không thấy gì là bẩn nữa. Hiện nay ở trong Nam đã nhiều nhà để bụi đóng đầy bàn ghế – mà trước kia họ sống rất sạch – mạng nhện giăng đầy trần, còn dân thị xã thì đã quen với cảnh bốn năm người cùi nằm trên đường đưa tới chợ, lăn ở giữa chợ để xin ăn.

Câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” của ông cha, chúng ta không giữ được vì chúng ta nghèo tới mức không thể ở sạch được.

Xã hội sa đoạ

Điều đáng ngại nhất là sa đọa về tinh thần, tới mất nhân phẩm.

1) Tham nhũng

Ở tỉnh nào cũng có một số cán bộ tham nhũng cấu kết với nhau thành một tổ chức ăn đút ăn lót một cách trắng trợn, không cần phải lén lút. Có giá biểu đàng hoàng: xin vô hộ khẩu một thành phố lớn thì bao nhiêu tiền, một thị xã nhỏ thì bao nhiêu, một ấp thì bao nhiêu. Muốn mua một vé máy bay, vé xe lửa thì bao nhiêu. Muốn được một chân công nhân viên, phải nộp bao nhiêu… Cái tệ đó còn lớn hơn tất cả các thời trước.

Nếu một cán bộ nào bị dân tố cáo nhiều quá thì người ta cũng điều tra, đưa cán bộ đó tới một cơ quan khác (có khi còn dể kiếm ăn hơn cơ quan cũ), đem người khác (cũng tham nhũng nữa) lại thay. Ít tháng sau dân chúng nguôi ngoai rồi, người ta lại đưa kẻ có tội về chỗ cũ. Người ta bênh vực nhau (cũng là đảng viên cả mà) vì ăn chịu với nhau rồi. Dân thấy vậy, chán, không phí sức tố cáo nữa. Có người còn bảo: “Chống chúng làm gì? Nên khuyến khích chúng sa đọa thêm chứ để chúng mau sụp đổ”.

Có những ông trưởng ti uống mỗi ngày một ve Whisky (tôi không biết giá mấy trăm đồng), hút hai ba gói thuốc thơm 555 (30 đồng một gói). Bọn đàn em của họ cũng hút thuốc thơm, điểm tâm một tô phở 6 đồng, một li cà phê sữa 4 đồng, sáng nào như sáng nấy mà lương chỉ có 60-70 đồng một tháng.

2) Ăn cắp

Như vậy thì tất phải có những vụ ăn cắp của công (Kho một trung tâm điện lực nọ cứ bốn năm tháng lại mất trộm một lần mà không tra ra thủ phạm; rất nhiều bồn xăng bị rút cả ngàn lít xăng rồi thay bằng nước…), thụt két, ôm vàng trong ngân hàng đề vượt biên, có khi lại tạo ra những vụ kho bị cướp, bị cháy v.v… Y tá ăn bớt thuốc của bệnh nhân rồi tố cáo lẫn nhau, giám đốc biết mà không làm gì được. Lớn ăn cắp lớn, nhỏ ăn cắp nhỏ. ăn cắp nhỏ thì chỉ bị đuổi chớ không bị tội, vì “họ nghèo nên phải ăn cắp”, mà nhốt khám họ thì chỉ tốn gạo nuôi. Vì vậy chúng càng hoành hành, ăn cắp, ăn cướp giữa chợ, cảnh sát làm lơ, còn dân chúng thì không dám la, sợ bọn chúng hành hung. Ăn cắp lớn, không thể ỉm được thì phải điều tra, bắt giam ít lâu rồi nhân một lễ lớn nào đó, ân xá; không xin ân xá cho họ được thì đồng đảng tổ chức cho vượt ngục rồi cùng với gia đình vượt biên yên ổn.

3) Con người mất nhân phẩm

Trong một xã hội như vậy, con người dễ mất hết nhân phẩm, hóa ra đê tiện, tham lam, bất lương, nói láo, không còn tình người gì cả.

Năm 1975 đa số các cán bộ, công nhân viên ở Bắc vào thăm gia đình, họ hàng ở trong Nam, còn giữ chút thể diện “cách mạng”, bà con trong này tặng họ gì thì họ nhận, chứ không đòi; về sau họ không giữ kẽ nữa, tặng họ một thì họ xin hai, không tặng họ cũng đòi, khiến một ông bạn tôi bực mình, nhất định đóng cửa không tiếp một người bà con, bạn bè nào ở Bắc vào nữa.

Gởi họ mang ra giùm một cuốn sách tặng một người ở Hà nội, họ giữ lại 5-6 tháng, vợ chồng con cái, bạn bè coi cho hết lượt, sách nhàu rồi, họ mới đem lại cho người nhận sách; có khi họ lấy luôn, nhắc họ, họ bảo thất lạc, để kiếm. Mà ba người nhận được sách thì chỉ có một người cảm ơn tôi.

Một nhà văn đất Bắc làm cho một tờ báo nọ nhờ một nhà văn trong Nam viết bài, hứa sẽ trả bao nhiêu đó. Viết rồi đưa họ, họ đăng, nhưng kí tên của họ rồi đưa cho nhà văn trong Nam nửa số tiền nhuận bút thôi, còn họ giữ lại một nửa. Vừa ăn cắp văn, vừa ăn chặn tiền. Chưa bao giờ miền Nam có bọn cầm bút bẩn thỉu như vậy. Một bạn học giả của tôi ở Bắc khuyên tôi đừng giao bản thảo của tôi cho ai hết, không tin ai được cả, họ sẽ đạo văn.

Thời Pháp thuộc, không bao giờ nhân viên bưu chính ăn cắp đồ trong các bưu kiện. Thời Nguyễn văn Thiệu thỉnh thoảng có một vụ ăn cắp nhưng nhỏ thôi. Từ bốn năm nay ở khắp miền Nam, cứ 10 bưu kiện ở ngoại quốc gởi về thì có 6-7 bưu kiện bị ăn cắp hoặc đánh tráo vài ba món, thường là dược liệu và vải. Kêu nài thì nhân viên bưu chính bảo: “Không nhận thì thôi; có muốn khiếu nại thì cứ làm đơn đi”. Không ai buồn khiếu nại cả vì cả năm chưa có kết quả, mà nếu có thì số bồi thường không bõ. Cho nên chúng tha hồ ăn cắp, ăn cướp một cách trắng trợn. Trắng trợn nhất là chúng lấy trộm tất cả bưu kiện trong một kho, như ở Long xuyên năm 1981; nếu là kho lớn thì chúng đốt kho như ở Tân sơn nhất hai năm trước.

Nhơ nhớp nhất là vụ một cán bộ nọ vào hàng phó giám đốc, mưu mô với vợ, làm bộ tổ chức vượt biên cho vợ chồng con cái một đứa cháu ruột, bác sĩ ở Sài gòn, nhận mấy chục lượng vàng của cháu (và sáu chục lượng vàng của gia đình bên vợ đứa cháu đó nữa vì họ cũng muốn vượt biên), rồi lừa gạt người ta, tố cáo với công an bắt hết cả nhóm trên mười người khi họ ra Vũng tàu chờ ghe đưa ra khơi. Đa số cán bộ ở Nam đã tư bản hóa rồi, một xã hội chủ nghĩa xã hội mà như vậy thì chủ nghĩa đó chỉ còn cái tên thôi.

Sống dưới chế độ cộng sản, con người hóa ra có hai mặt như Sakharov đã nói: chỉ giữa người thân mới để lộ mặt thật, còn thì phải đeo mặt nạ; luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng giềng, có khi cả người trong nhà nữa. Người ta tính cứ 5 người thì có 1 người kiểm soát từng ngôn ngữ, hành vi của 4 người kia. Ngay một phó viện trưởng cũng làm vỉệc điểm chỉ đó mà bạn trong viện không hay. Dĩ nhiên kẻ kiểm soát đó lại bị người khác kiểm soát lại. Ở Nga thời Staline như vậy, ở Bắc những năm 1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam đỡ hơn vì đa số người trong này không chịu làm thứ mật thám chìm đó.

Nạn làm tiền, tống tiền lan tràn khắp các ngành, cả trong ngành cứu nhân độ thế và ngành tống táng. Để cho bác sĩ ngụy đủ sống mà khỏi vượt biên, chính phủ năm 1980 cho phép họ ngoài giờ làm việc được khám thêm bệnh ở nhà và định cho họ số tiền thù lao là 1 đồng ở Sài gòn, 0,8 đồng ở tỉnh (5). Nhưng ở Long xuyên bác sĩ nào cũng thu của bệnh nhân 10 đồng. Có kẻ ra một cái toa cần 9 thứ thuốc toàn thứ đắt tiền, trị đủ các bệnh: tim, phổi, gan, thận, bao tử… cho một bà lão suy nhược, rồi bảo lại mua của một tên buôn lậu đồng lõa với họ. Tính ra toa đó mua cho đủ thì mất cả triệu đồng cũ (2.000 đồng mới). Một số bác sĩ không làm tiền cách đó, không ra toa mà bắt bệnh nhân mỗi ngày lại để các ông ấy cho thuốc và chích cho, và phải trả các ông ấy từ 60 đồng đến 100 đồng mỗi lần. Năm 1981, tiền thù lao từ 10 đồng đã hạ xuống còn 5 đồng, có lẽ vì bác sĩ làm riêng khá đông, cạnh tranh nhau. Và tháng 7-1981 có lệnh không cho bác sĩ công làm tư tại nhà nữa, mà muốn làm tư thì lại dưỡng đường làm ngoài giờ làm việc. Chưa thấy ai theo.

Bệnh nhân lỡ mà chết thì bị hàng xăng tống tiền: quốc doanh định 45 đồng kể cả một bịch thuốc lá và 4 thước vải thô, nhưng tang gia phải trả 400 đồng thì xăng mới được ghép lại kĩ, khỏi trống hổng trống hoảng với 8 cây đinh đóng hờ. Rồi tới nhà đòn cũng đầu cơ: hạ huyệt xong, phủ qua một lớp đất cho bằng mặt, muốn có cái mồ cho ra mồ thì phải đưa thêm vài trăm đồng nữa. Nếu đem thiêu mà cứ nộp đúng lệ thì xương ống, xương hông bị ném riêng vào một chỗ, chứ không thiêu hết. Ai nỡ để cha mẹ mình què!

Tất cả chỉ tại cái lệ chính phủ định giá, định lương rẻ quá không cho dân đủ sống, dân phải xoay xở lấy, bóc lột lẫn nhau. Cổ kim chưa một xã hội nào phi lí như vậy. Vì biết mình phi lí nên có nơi chính quyền làm ngơ cho bác sĩ làm ăn, cho phép cả giáo viên ngụy dạy thêm tại nhà.

Nói cho ngay, thời nào trong xã hội cũng có một số người lương thiện. Và ông Phạm văn Đồng đã nhận rằng thời này hạng đó thiệt thòi nhất. Tôi được biết một hai cán bộ trung cấp liêm khiết, chịu nghèo, nuôi heo thêm, chứ không tham nhũng. Gia đình họ phải ăn rau muống; quần áo thì vá đụp, có thể nói họ nghèo như các nông dân nghèo nhất thời xưa.

Tóm lại sau 5 năm chúng ta không thấy chút tiến bộ nào cả mà chỉ thấy sự chia rẽ trong xã hội, sự tan rã trong gia đình, sự sa đọa của con người, sự suy sụp của kinh tế. Ông Hồ Chí Minh có lần nói: “Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Con người vẫn là quan trọng hơn cả. Có chế độ tốt, chính sách tốt mà không có con người tốt thì cũng hỏng hết. Ai cũng phải nhận rằng tinh thần, tư cách đại đa số cán bộ càng ngày càng sa sút, hủ hóa mà xã hội chủ nghĩa mỗi ngày một lùi xa. Ông Hồ đã thấy trước cái mòi suy vi đó khi ông thốt ra lời trên chăng?

Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam. Trước ngày 30-4-75, miền Nam rất chia rẽ: nhiều giáo phái, đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kĩ thuật, nghệ thuật, văn hóa; nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc…; cả về đạo đức nữa: vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham (tôi nói số đông), ít chịu làm cái việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm chứ đừng nói là người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là ngụy hết, nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau: cùng là ngụy với nhau mà!

Như vậy mà đưa cán bộ Bắc vào cai trị họ, dạy chính trị họ thì làm sao không thất bại? Bọn đó quê mùa, ngu dốt, nghèo khổ, vụng về, tự cao tự đại, bị người Nam khinh ra mặt, mỉa mai. Sau 5 năm, cả triệu cán bộ và thường dân Bắc vào Nam mà Bắc Nam miễn cưỡng sống với nhau, lơ là với nhau, Nam coi Bắc là bọn thực dân, tự coi mình là bị trị. Làm gì có sự hợp tác?

Hết trích Hồi kí Nguyễn Hiến Lê.

Công dân hạng hai?

Tôi hân hạnh giới thiệu đến các bạn một bài tôi viết về nạn kì thị và ‘vi hiếp’ (microaggression) ở phương Tây. Biên tập VNexpress đã biên tập lại và đặt tựa đề lại mà theo tôi thấy là hay hơn bản gốc. 

Đây là vấn đề (kì thị) tương đối thời sự này nay, nhứt là trong thời kì dịch bệnh. Người ta hiểu lầm giữa người Hoa và người Việt, nhưng người Việt cũng lãnh đủ. Mà, dù không có dịch bệnh thì tình trạng kì thị người gốc Á châu vẫn diễn ra ngấm ngầm và dưới nhiều hình thức mà chỉ có người có trải nghiệm lâu năm mới nhận ra.

Tuy nhiên, vấn đề tôi muốn đề cập không phải là hình thức kì thị thô kệch mà chúng ta nghe đến hay thấy trên đường phố; tôi muốn nói đến những hình thức kì thị và thiên kiến tinh vi hơn. Đó là những hình thức xuất hiện dưới dạng nói năng lịch sự, hay những chữ mình tưởng là khen nhưng thật ra là mỉa mai, là những hành vi chúng ta tưởng như vô tình hay ngẫu nhiên, là những cách cư xử mang tánh ‘vi hiếp’ (ví dụ như cách phân chia office trong một building). Những loại hình kì thị đó không phải ai cũng nhận ra.  Tuy rằng những loại hình kì thị đó mang tánh ‘lịch sự’, nhưng lại ảnh hưởng đến sự nghiệp của chúng ta.

Tôi cũng muốn nói rằng thay vì chúng ta trách họ, thì chúng ta cũng nên nhìn lại mình trước. Tại sao chúng ta cảm thấy khó hoà nhập vào môi trường khoa bảng ở đây, tại sao chúng ta khó có cơ may thăng tiến trong sự nghiệp ở vai trò lãnh đạo, tại sao chúng ta bị thiệt thòi trong khi dường như đồng nghiệp địa phương (da trắng) có vẻ hanh thông? Rất nhiều câu hỏi chúng ta có thể đặt ra và mổ xẻ. Tựu trung lại, tôi thấy chúng ta có 10  vấn đề:

  1. chúng ta thiếu vốn văn hoá – xã hội;
  2. chúng ta không chịu hay thiếu kĩ năng giao lưu và hoà nhập;
  3. chúng ta kém tiếng Anh, hay giỏi tiếng Anh nhưng nói thiếu thuyết phục;
  4. chúng ta nghĩ ‘hữu xạ tự nhiên hương’ nhưng không còn thích hợp bên Tây;
  5. chúng ta ‘sell’ mình một cách quá lố lăng;
  6. chúng ta trầm lặng, không có ý kiến trong các diễn đàn quan trọng;
  7. chúng ta nghĩ rằng chỉ cần ‘giỏi’ là đủ;
  8. chúng ta tập trung vào những bắt bẻ chi tiết mà không có cái nhìn toàn diện;
  9. chúng ta thiếu cái mà người phương Tây gọi là ‘initiative’;
  10. chúng ta thiếu kĩ năng lãnh đạo (leadership skills) nên hành xử không đúng cách.

Nhưng vì bài viết không đủ ‘đất’ nên chỉ có thể nói vài ý chánh thôi. Mời các bạn đọc qua và cho ý kiến: https://vnexpress.net/nhung-cong-dan-hang-hai-4265418.html

Áp dụng khái niệm ‘vi tử’ trong đánh giá nguy cơ đông máu.

Bàn thêm về vấn đề tử vong vì đông máu sau khi được tiêm vaccine tôi nghĩ khái niệm ‘vi tử’ (micromort) có thể giúp chúng ta suy nghĩ rõ ràng hơn.

Bất cứ hành động nào trong đời sống hàng ngày đều có nguy cơ gây ra tử vong, và những nguy cơ này tích luỹ theo thời gian. Ở Việt Nam, mỗi khi chúng ta lên yên xe gắn máy là đã có nguy cơ tử vong, dù nguy cơ đó không cao. Đi xe đò dù có tài xế lái, nhưng vẫn có nguy cơ tử vong nếu chẳng may bị tai nạn. Xuống biển tắm cũng có nguy cơ bị sóng cuốn đi hay cá mập ăn thịt, và nguy cơ chết chóc vẫn hiện hữu. Ra quán ăn uống có thể phơi nhiễm thực phẩm dơ bẩn, và ‘góp phần’ đưa chúng ta về nghĩa trang nhanh hơn. Uống một lon bia ở Việt Nam cũng góp phần tăng nguy cơ tử vong về lâu dài. Đối với phụ nữ, sanh đẻ cũng gây ra nguy cơ tử vong khá cao.

May be an image of text that says 'Seniors face a dramatically higher risk of death if infected with Covid-19 than do pre-schoolers Risk of Death in Micromorts (deaths per million) 0-19 years 30 517 20-49 years 200 1,686 People Infected with Covid-19 All causes of death excluding Covid-19 50-69 years 5,000 9,623 70+ years 38,704 54,000 Note: annual risk of death from all causes is based on mortality data from 2014-2018 thus excludes Covid-19 deaths. Covid-1 mortality risk based on latest CDC estimates of infection fatality rates by age released September 10, 2020.'
Biểu đồ thể hiện micromort cho nhiễm Covid-19. Ở độ tuổi 0-19, micromort cho nhiễm covid-19 là 30, và micromort trong dân số là 517. Nói cách khác, nguy cơ chết vì nguyên nhân khác cao hơn chết vì covid-19. Nhưng ở độ tuổi 70 trở lên, micromort cho covid-19 là 54000, còn micromort cho dân số là 38704; tức là nhiễm virus Vũ Hán tăng nguy cơ tử vong 40% so với nguy cơ ‘bình thường’. Ref: https://www.forbes.com/sites/theapothecary/2020/10/06/what-is-your-risk-of-dying-from-covid-19/?sh=346471296159

Chúng ta không thoát khỏi nguy cơ tử vong. Chúng ta chỉ có thể đối phó với nó sáng suốt thôi. Một cách đối phó là đánh giá và so sánh nguy cơ tử vong bằng khái niệm micromort mà tôi dịch là ‘vi tử’. Tôi đã đề cập đến khái niệm này trước đây [1], nên ở đây chỉ nói ngắn gọn và đặt nó trong bối cảnh tử vong sau khi bị đông máu do (?) tiêm vaccine covid-19.

Vi tử là một đơn vị xác suất tử vong. Nếu một hành động gây ra xác suất tử vong 1 trên 1,000,000 thì vi tử = 1. Ở Mĩ, một người Mĩ ‘trung bình’ có vi tử = 1 mỗi ngày (tức xác suất chết từ các nguyên nhân phi tự nhiên là 1 trên 1 triệu). Nguyên nhân phi tự nhiên ở đây là hành động mạo hiểm, bị điện giật, tai nạn giao thông, bị thiên thạch rớt trúng người, v.v. Chúng ta có thể lấy vi tử = 1 làm điểm tham chiếu.

Chúng ta thử áp dụng vi tử để đánh giá nguy cơ tử vong sau khi bị nhiễm virus Vũ Hán. Số liệu của WHO (Tổ chức Y tế Thế giới) cho biết tỉ lệ này dao động rất lớn giữa các quốc gia, từ 0.001% đến 1.63% [2] và tăng theo độ tuổi. Nếu hoán chuyển sang đơn vị vi tử thì nguy cơ tử vong 1% tương đương với 10,000 vi tử. Do đó, nguy cơ tử vong 1.63% tương đương với 16,300 vi tử.

Câu hỏi mà nhiều người quan tâm hiện nay hỏi là vi tử liên quan đến tử vong từ đông máu sau khi tiêm vaccine là bao nhiêu? Theo European Medicines Agency (EMA) báo cáo thì tính đến ngày 22/3/2021 đã có 18 ca tử vong từ hội chứng đông máu, và 25 triệu người đã được tiêm chủng [3]. Như vậy, tỉ lệ tử vong là 0.72 trên 1 triệu. Nói cách khác vi tử liên quan đến hội chứng đông máu sau khi tiêm vaccine AstraZeneca là 0.72.

Bây giờ thì chúng ta đã có kết quả để so sánh. Nếu bị nhiễm virus Vũ Hán thì vi tử là 16,300. Nếu được tiêm chủng thì vi tử từ hội chứng đông máu là 0.72. Rõ ràng là nguy cơ đông máu và tử vong từ đông máu là rất thấp so với nguy cơ tử vong từ virus.

Bản tiếng Anh: https://tuanvnguyen.medium.com/vaccine-associated-blood-clot-death-a-micromort-thinking-5f611684b924

_____

[1] https://tuanvnguyen.medium.com/is-the-mortality-after-vaccination-in-norway-a-concern-e04f86755395

[2] https://www.who.int/news-room/commentaries/detail/estimating-mortality-from-covid-19

[3] https://www.ema.europa.eu/en/news/astrazenecas-covid-19-vaccine-ema-finds-possible-link-very-rare-cases-unusual-blood-clots-low-blood

Vaccine AstraZeneca (Vaxzevria) và tử vong

Hôm nay báo chí Úc đưa tin về một người phụ nữ được tiêm Vaxzevria và bị chứng đông máu (blood clot) sau đó. Ca này theo sau ca hôm qua cũng bị đông máu sau khi tiêm vaccine, nhưng đã qua đời. Thông tin về đông máu này gây hoang mang cho nhiều người sắp được tiêm vaccine phòng ngừa virus Vũ Hán. Cái note này sẽ phân tích nguy cơ đông máu, lợi và hại của tiêm vaccine để chúng ta có cái nhìn khách quan.

Hình trên báo chí Úc về một ca tử vong sau khi bị chứng đông máu có thể liên quan đến vaccine Vaxzevria

1.  Mối liên hệ nhân quả?

Khi một biến cố xảy ra sau một can thiệp, chúng ta thường hay nghĩ do can thiệp, nhưng một cách khách quan thì không thể nói can thiệp là nguyên nhân của biến cố. Chẳng hạn như khi tôi về VN và ăn cháo lòng, rồi sau đó bị nhức đầu (ví dụ), tôi không thể nói cháo lòng là thủ phạm làm tôi nhức đầu. Cháo lòng diễn ra trước biến cố nhức đầu là điều kiện cần, nhưng chưa đủ để kết luận nó là nguyên nhân.

Tương tự, khi người phụ nữ được tiêm Vaxzevria, rồi vài ngày sau đó bị hội chứng đông máu và qua đời, các giới chức y tế chưa thể nói Vaxzevria là nguyên nhân. Các bạn sẽ hỏi: nhưng hiện nay thì đã có 2 ca bị đông máu mà vẫn chưa kết luận được sao? Đúng, chưa kết luận được, vì có thể chỉ là tình cờ. Bởi vì chỉ có 2 ca trong số hơn 1.3 triệu liều vaccine đã tiêm, và chưa rõ bệnh lí của nạn nhân thì rất khó nói vaccine là nguyên nhân. Thành ra, các giới chức y tế chỉ dám nói là ‘có thể có liên quan’.

Để biết vaccine AZ là nguyên nhân hay không, các giới chức y tế phải phân tích nhiều dữ liệu về lâm sàng, bệnh lí, tiền sử gia đình, v.v. Người ta chết vì nhiều nguyên nhân, và mối tương tác giữa các nguyên nhân; nên nếu chỉ đơn giản xem xét hồ sơ thì vẫn chưa đủ chứng cớ khoa học để xác định một nguyên nhân. Hiện nay, chúng ta chỉ biết rằng người phụ nữ này là người trong ngành y, 48 tuổi, có bệnh tiểu đường. Và, bệnh tiểu đường tăng nguy cơ bị chứng đông máu.

2.  Nguy cơ đông máu cao hay thấp?  

Câu hỏi quan trọng cần đặt ra là nguy cơ (xác suất) mắc chứng đông máu sau khi tiêm vaccine là cao hay thấp? Số liệu của Úc (chỉ 2 ca) chưa đủ để trả lời câu hỏi này. Chúng ta phải xem xét dữ liệu của các nước ngoài Úc, những nơi mà số ca nhiều hơn, sẽ cung cấp một câu trả lời khả dĩ.

Ở Anh, tính đến cuối tháng 3/2021, có 79 bệnh nhân báo cáo chứng đông máu sau 20 triệu liều vaccine AstraZeneca. Các chuyên gia y tế Anh tính toàn rằng xác suất bị đông máu là 1 trên 250,000 người.

Ở Âu châu, tính đến ngày 4/4/2021, có 169 ca bị đông máu, sau khi hơn 30 triệu người ở Âu châu được tiêm vaccine. Cục Dược Phẩm (European Medicines Agency – EMA) ước tính rằng xác suất bị đông máu là 1 trên 100,000 người được tiêm Vaxzevria [1]. EMA cũng nói rằng có thể vaccine là nguyên nhân của chứng đông máu.

Xác suất đó (1 trên 100,000) cao hay thấp?

Chúng ta cần phải so sánh những xác suất đó với nguy cơ bị đông máu trong cộng đồng (không tiêm vaccine). Theo như một bài tổng quan trên Sem Hematol (2007) [2] thì tỉ lệ phát sinh của chứng đông máu là 1 trên 1000 người mỗi năm. Nhưng nghiên cứu khác thì cho thấy tỉ lệ đông máu trong cộng đồng hàng năm là khoảng 1 trên 2000 [3], hay 50 trên 100,000 người.

Như vậy, xác suất bị đông máu sau vaccine (1 / 100,000) chỉ bằng 2% xác suất trong cộng đồng. Nói cách khác cho dễ hiểu: xác suất bị đông máu sau vaccine thấp hơn xác suất đông máu trong cộng đồng 98%.

Cần nói thêm rằng bị nhiễm virus Vũ Hán cũng có thể làm tăng nguy cơ đông máu. Thật vậy, một bài trên Thromosis Research (https://doi.org/10.1016/j.thromres.2020.06.008) cho biết tỉ lệ bệnh nhân nhiễm Covid-19 bị đông máu dao động từ 5 đến 42%. Rất nhiều báo chí không hề đề cập đến thông tin này.

3.  Vaccine: lợi và hại

Bất cứ can thiệp nào (thuốc, vaccine, phẫu thuật, hành vi) đều có lợi và hại. Ở trên, chúng ta chỉ bàn về tác hại của vaccine liên quan đến chứng đông máu, nhưng chưa bàn đến những lợi ích của vaccine.

Hiệu quả và cũng là lợi ích lớn nhứt của vaccine là giảm nguy cơ nhập viện và giảm nguy cơ tử vong. Cần nói thêm rằng vaccine có thể không ngăn ngừa nhiễm virus Vũ Hán, cũng chẳng ngăn chận lây nhiễm cho người khác. Lợi ích của nó là giúp chúng ta sống sót nếu bị nhiễm virus Vũ Hán.

Nếu không tiêm vaccine và nếu bị nhiễm virus Vũ Hán thì xác suất nhập viện là bao nhiêu? Trước đây, đã có nghiên cứu chỉ ra rằng khoảng 20% ca nhiễm Covid-19 phải nhập viện (tức 80% hồi phục mà không cần điều trị) [4]. Khi đã nhập viện thì nguy cơ tử vong là bao nhiêu? Cũng đã có nghiên cứu chỉ ra rằng nguy cơ tử vong trong bệnh viện dao động từ 5 đến 25% (hay thậm chí cao hơn ở vài nơi) [5-6]. Chúng ta hãy lấy số trung bình là 10% bệnh nhân nhập viện sẽ tử vong nếu không tiêm vaccine.

Còn nếu tiêm vaccine thì nguy cơ nhập viện sau khi bị nhiễm virus là bao nhiêu? Không ai biết. Nhưng chúng ta có thể suy luận từ nghiên cứu về hiệu quả của vaccine [7]. Hiệu quả của đa số vaccine là từ 90% đến 95% (Vaxzevria), và chúng ta có thể suy đoán rằng nếu bị nhiễm và được tiêm vaccine thì nguy cơ nhập viện chừng 5%.

Do đó, chúng ta có thể so sánh như sau cho dễ hiểu:

  • Nhóm không tiêm vaccine: cứ 100,000 người bị nhiễm virus, có 20,000 người nhập viện, và trong số này sẽ có 2,000 người chết (với giả định tỉ lệ tử vong trung bình là 10%). Và, 50 người bị chứng đông máu.
  • Nhóm tiêm vaccine: cứ 100,000 người bị nhiễm virus, có 5,000 người nhập viện, và trong số này sẽ có 500 người chết. Và, 1 người bị chứng đông máu.

Như vậy tiêm vaccine sẽ cứu sống 1,500 người (lợi ích). Tiêm vaccine cũng có thể giảm, chớ không tăng, nguy cơ đông máu ở bệnh nhân Covid-19 [8]. Nhìn như thế chúng ta sẽ thấy tiêm vaccine có lợi nhiều hơn hại. Đó chính là lí do mà chánh phủ nên tiếp tục chương trình tiêm vaccine ở qui mô cộng đồng, vì mục tiêu sau cùng là giảm tử vong và cứu người.

______

[1] https://www.theguardian.com/theobserver/commentisfree/2021/apr/11/how-big-are-the-blood-clot-risks-of-the-az-jab

[2] https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S003719630700025X?via%3Dihub

[3] https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/12525804

[4] https://www.who.int/indonesia/news/detail/08-03-2020-knowing-the-risk-for-covid-19

[5] https://bmcinfectdis.biomedcentral.com/articles/10.1186/s12879-020-05605-3

[6] https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC7920817

[7] https://7news.com.au/lifestyle/health-wellbeing/covid-vaccine-astra-zeneca-could-reduce-risk-of-hospital-admission-by-94-per-cent-c-2217822

[8] Cụ thể hơn, một nghiên cứu trên hơn 500,000 người bị nhiễm virus Vũ Hán, các tác giả ước tính rằng xác suất bị đông máu là 3.9 trên 100,000 người. Ref: Taquet et al. Cerebral venous thrombosis: a retrospective cohort study of 513,284 confirmed COVID-19 cases and a comparison with 489,871 people receiving a COVID-19 mRNA vaccine. Preprint https://osf.io/a9jdq

Fellow là gì ?

Mấy hôm nay, có một sự ồn ào chung quanh chữ ‘fellow’, với nhiều ý kiến mà tôi nghĩ là hiểu chưa đủ và lẫn lộn. Điều này dễ hiểu vì ở VN không có chức danh fellow, nên ít ai hiểu bản chất của chức danh này. Có lẽ tôi là một trong những người trong cuộc (vì tôi có chức danh ‘fellow’), nên xin chia sẻ với các bạn ý nghĩa của chữ này.

Tôi hay nói đùa với bạn bè trong các chương trình workshop ở Việt Nam là chức danh fellow diễn giải sang tiếng Việt nó đơn giản và gần gũi lắm. Ở nghĩa đơn giản nhứt, fellow có nghĩa là ‘gã’, ‘thằng cha’ (như ‘He is a nice fellow’ = anh ấy là một gã dễ mến). Chữ fellow còn có nghĩa là ‘đồng chí’ (hiểu theo nghĩa chữ comrade), hay có khi là ‘đồng bào’ (như trong câu ‘My fellow citizens‘ = Hỡi đồng bào của tôi). Đó là vài ý nghĩa của chữ fellow trong tiếng Anh, mà xuất xứ của nó là từ tiếng Anh cổ feolaga’ vốn có nghĩa là đồng loại (one of the same kind’).

Cái nghĩa ‘đồng loại’ đó được lan sang (hay ứng dụng) trong hệ thống khoa bảng và khoa học thuộc thế giới phương Tây. Khi sang thế giới khoa học, chữ fellow được mang một ý nghĩa trịnh trọng hơn: học giả. Thật ra, trong tiếng Anh, chữ scholar cũng là học giả, nhưng hình như chữ này càng ngày càng được xem là … già nua. Dưới đây là ý nghĩa của chức danh fellow trong thế giới khoa học hiện đại:

Nhóm 1: Fellow là thành viên của viện hàn lâm

Ở các nước như Anh và Úc, thành viên của các viện hàn lâm khoa học được quyền dùng danh xưng là fellow. Những người này được bầu, nên có khi người ta dùng danh xưng elected fellow để phân biệt với những thành viên nước ngoài không qua bình bầu. Đây chỉ là chức danh danh dự, không có lương.

Những thành viên này có quyền dùng những danh xưng sau tên họ như Fellow of Royal Society (FRS), Fellow of Australian Academy of Science (FAA), Fellow of Academy of Health and Medical Sciences (FHAMS), v.v. Nhìn vào danh xưng người ta biết họ thuộc đẳng cấp nào trong bậc thang khoa học.

Hình như ở Nga người ta gọi thành viên viện hàn lâm là ‘academician’ (viện sĩ). Chức danh fellow ở Anh, Úc (và Mĩ?) chính là academician.

Nhóm 2: Fellow là thành viên xuất sắc (elite) của hiệp hội khoa học

Ở một số hiệp hội khoa học lớn, fellow là chức danh dành cho những nhà khoa học có đóng góp xuất sắc và quan trọng trong chuyên ngành. Những người này thuộc vào nhóm thiểu số ‘privileged’ (tức lãnh đạo) và có địa vị cao hơn những member (hội viên). Ví dụ như hiệp hội loãng xương Hoa Kì ASBMR hay hiệp hội IEEE mỗi năm bình bầu những hội viên xuất sắc để họ được dùng danh xưng fellow hay ‘elected fellow‘. Đây cũng chỉ là chức danh danh dự, không có lương.

Trong các hiệp hội y khoa ở Úc (gọi là ‘college’) cũng có những bác sĩ có danh xưng là fellow sau khi họ đã qua một chương trình huấn luyện chuyên ngành.

Nhóm 3: Fellow là nhà khoa học độc lập cấp cao

Trong các đại học và viện nghiên cứu (như Howard Hughes, WEHI, Garvan, v.v.) các nhà khoa học cấp cao, những người mà lương bổng và chi phí nghiên cứu của họ do một nhà tài trợ khác tài trợ (chớ không lệ thuộc vào viện hay đại học) được gọi là fellow. Tiền tài trợ cho họ được gọi là fellowship. Những người này có thể đem cái fellowship đó đi bất cứ nơi nào trong nước mà họ thích, nhưng vì đại học rất quí họ nên khi họ có fellowship thì đại học thường cho tiền thêm để giữ chân.

Các fellowship này rất ư là cạnh tranh và danh giá vì thường có giá trị hàng triệu USD và được xem là award (giải thưởng cho cá nhân). Chẳng hạn như ở Úc, chỉ trong ngành y sinh học, mỗi năm có chừng 2000 giáo sư đại học xin fellowship nhưng chỉ có chừng hơn 100 là được tài trợ. Còn trong các ngành khoa học tự nhiên (ở Úc), mỗi năm cũng có hàng ngàn giáo sư xin fellowship và số thành công chỉ có chừng 200. Đây là chức danh theo nhiệm kì, và mỗi nhiệm kì là 5 năm.

Không phải ai có chức danh fellow đều có vị trí như nhau. Trong thực tế, các viện nghiên cứu chia ra nhiều loại fellow: từ Fellow, Senior Fellow, Principal Fellow, và cao nhứt là Senior Principal Fellow hay Australia Fellow (hay tương đương Laureate Fellow). Chỉ cần nhìn vào chức danh là người ta biết vị trí của nhà khoa học ở đẳng cấp nào.

Chức danh fellow trong nhóm này còn có một ‘ứng dụng’ khác trong việc thu hút nhân tài. Chẳng hạn như Chánh phủ Úc muốn thu hút các nhà khoa học tài giỏi gốc Úc ở nước ngoài về nước, nhưng các đại học không có biên chế, thì cách họ làm là tạo ra một chương trình fellowship. Sau đó, họ tổ chức tuyển chọn (hay có khi mời trực tiếp) ứng viên và trao cho họ một fellowship hậu hĩkèm theo chức danh fellow để về Úc làm việc. Đây cũng chính là cách mà nhà cầm quyền Trung Cộng sử dụng để thu hút nhân tài từ phương Tây.

Nhóm 4: Fellow là nhà nghiên cứu trong đại học

Ở một số đại học Úc (không phải tất cả) những người chuyên làm nghiên cứu (tức không giảng dạy) thuộc một dự án cụ thể nào đó có danh xưng là fellow. Điều rất lẫn lộn là họ cũng có những cấp như Fellow, Senior Fellow, Principal Fellow(nhưng không có Australia Fellow). Đây là chức danh có lương.

Tuy nhiên, đây là những chức danh của và do đại học bổ nhiệm, không qua qui trình tuyển chọn và cạnh tranh cấp quốc gia hay quốc tế như Nhóm 3. Do đó, vị trí khoa học và prestige của nhóm này, tuy có cùng chức danh, nhưng không thể so sánh với Nhóm 3 ở trên.

Nhóm 5: Fellow là nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ

Trong hệ thống khoa học phương Tây, đặc biệt là lãnh vực khoa học tự nhiên và thực nghiệm, một người sau khi tốt nghiệp tiến sĩ thường phải qua một giai đoạn hậu tiến sĩ (postdoc). Hậu tiến sĩ là giai đoạn học nghề, chớ chưa phải là nhà nghiên cứu độc lập. Các tiến sĩ thường phải qua một quá trình cạnh tranh ‘ác liệt’ để có một cái ghế hậu tiến sĩ.

Lương của các nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ có thể là từ trường đại học, từ một tổ chức khoa học, hay hiệp hội khoa học. Do đó, học bổng cho nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ có tên là postdoctoral fellowship. Dĩ nhiên, đây cũng là chức danh có lương nghiêm chỉnh, và có thời hạn (thường là 3-5 năm).

Một số đại học còn tạo ra những chương trình fellowship cho các nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ để thu hút những ứng viên xuất sắc, những nhà lãnh đạo khoa học tương lai. Chẳng hạn như Đại học UNSW có chương trình Scientia Fellowship, ĐH UTS có chương trình Chancellor’s Postdoctoral Research Fellowship mà đối tượng là những ứng viên hậu tiến sĩ và ‘đang lên’. Những người này ai cũng có ít nhứt 20 bài báo khoa học trên các tập san lừng danh sau 5 năm tốt nghiệp tiến sĩ, nên mức độ cạnh tranh rất cao.

Nhóm 6: Fellow là học giả vãng lai

Chức danh fellow còn dành cho những học giả vãng lai, và do đó có chữ visiting fellow. Hai chữ ‘học giả’ ở đây bao gồm hậu tiến sĩ, giảng viên, giáo sư, nhưng cũng có thể gồm cả những người thành danh dù không có bằng tiến sĩ. Những người thành danh đó thường là giới chánh trị gia, doanh nhân, nhà báo, nhà hoạt động xã hội, v.v. Những loại visiting fellowship này thường hay thấy trong các viện nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Đây là chức danh vừa mang tính học thuật vừa ngoại giao.

Người Mĩ là bậc thầy của những chức danh ngoại giao này. Khi Chánh phủ Mĩ nhận dạng ra những ngôi sao đang lên ở bất cứ nơi nào trên thế giới, họ thường tìm cách thiết lập quan hệ với những người đó. Cách họ làm là cấp cho các đại học một số tiền (gọi là fellowship) và đại học dùng tiền đó để mời người đang lên đến thăm và làm việc, hay gọi cho oai là ‘nghiên cứu’. Nhưng trong thực tế thì có khi chẳng nghiên cứu gì cả, chỉ cần làm một seminar với vài người đến dự (chừng 5-10 người) và thế là xong. Ở Úc cũng có những chương trình này.

Các Visiting Fellow được trả tiền thù lao tượng trưng (chớ không phải lương bổng). Thù lao có thể là 10,000 đến 30,000 USD một năm (tuỳ vào thành phố). Thường thì họ chỉ làm việc trong một thời gian ngắn (6 tháng đến 12 tháng). Các fellow ngoại giao trong nhóm này không thể so sánh với các Nhóm 3, 4, 5, vì bản chất bổ nhiệm và cạnh tranh rất khác nhau.

***

Như các bạn thấy chữ fellow có rất nhiều ý nghĩa, từ ‘bình dân’ đến khoa bảng. Fellow có thể là một nhà khoa học cấp hậu tiến sĩ, cũng có thể là nhà khoa học độc lập cao hơn nhiều so với hậu tiến sĩ, cũng có thể là người của đại học liên quan đến một dự án cụ thể, hay cũng có thể là học giả vãng lai và ngoại giao. Do đó, nếu chỉ nói chức danh fellow màkhông có nội hàm thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Chức danh fellow cho hậu tiến sĩ thì rất cạnh tranh (không có thành tích công bố khoa học tốt thì chẳng ai chịu xét), nhưng nếu là loại visiting fellow thì chẳng có cạnh tranh đáng kể.

Còn nếu là loại fellow có trả lương nghiêm chỉnh, thì nguồn trả lương xác định danh giá (prestige). Một giáo sư có fellowship (kèm theo tên) được đánh giá cao hơn nhiều so với một giáo sư bình thường. Còn chức danh fellow mang tính danh dự (không lương) thì cái danh giá tuỳ thuộc vào tổ chức là viện hàn lâm hay hiệp hội khoa học.

___________

Tái bút: Có bạn hỏi tôi sự khác biệt giữa ‘fellow‘ và ‘scholar‘ ra sao. Tôi chỉ có thể nói theo hiểu biết cá nhân thôi, vì có thể sự khác biệt tuỳ địa phương. Scholar hiểu theo nghĩa thông thường là ‘học giả’, nhưng nó còn có một nghĩa khác là ‘học sinh’ hay ‘sinh viên’. Ví dụ như nghiên cứu sinh tiến sĩ có khi còn được gọi là scholar, và học bổng họ nhận được gọi là scholarship.

Fellow là người đã qua bậc tiến sĩ hay nếu không có tiến sĩ thì đã thành danh. Họ không phải là sinh viên nữa, mà đã là một nhà nghiên cứu độc lập và trong nhiều trường hợp có thể điều hành một nhóm nghiên cứu. Trong y khoa, fellow là người ở cấp ‘consultant‘, tức họ hành nghề mà không cần có sự giám thị (cấp bác sĩ hành nghề vẫn bị giám sát bởi cấp cao hơn).

Do đó, trong học thuật chức danh fellow cao hơn scholar.

Hàn lâm hoá Nội các Chánh phủ

Nội các Chánh phủ Phạm Minh Chính có một điểm nổi bật nhứt là trình độ học vấn rất cao, cao hơn các bộ trưởng trong chánh phủ Úc và Mĩ.

Tỉ lệ thành viên Nội các Chánh phủ có bằng tiến sĩ ở VN, Úc và Mĩ. Ở VN, 50% (14/28 người) có bằng tiến sĩ, ở Úc con số này là 0, còn Nội các Biden bên Mĩ thì chỉ có 4 người (17%) có bằng tiến sĩ.

Chúng ta biết rằng Nội các Chánh phủ mới có 28 thành viên [1], nhưng có đến 5 phó thủ tướng! Chánh phủ Úc [2] hồi nào đến giờ chỉ có 1 phó thủ tướng. Chánh phủ Mĩ cũng vậy, chỉ có 1 phó tổng thống [3]. Không hiểu sao Việt Nam có nhiều phó thủ tướng thế.

So sánh số thành viên, tỉ trọng nữ giới, độ tuổi và trình độ học vấn giữa 3 Nội các Chánh phủ Việt Nam, Úc và Mĩ.

Điểm thứ hai là nam giới ‘thống trị’ Nội các Phạm Minh Chính. Thật vậy, trong số 28 người chỉ có 1 người duy nhứt là nữ: Phạm Thị Thanh Trà. Trong khi đó thời đại mới là tạo điều kiện và xiển dương vai trò của phụ nữ. Do đó, Nội các Morrison (Úc) có đến 23% là nữ, còn Nội các Biden bên Mĩ thì có đến 46% là nữ giới.

Nhưng điểm nổi bật trong Nội các mới là trình độ học vấn của các thành viên rất cao. Điểm tuyệt vời ở đây là có 14 người có bằng tiến sĩ [4], tức chiếm 50% tổng số thành viên trong Nội các. Con số này rất cao nếu so sánh với Úc, nơi không có bộ trưởng nào có bằng tiến sĩ, hay so sánh với Mĩ, nơi chỉ có 4 người có bằng tiến sĩ.

Thật ra, trình độ học vấn cao của các bộ trưởng Việt Nam không phải là điều gì mới mẻ. Chừng 10 năm trước (2010), Nội các Chánh phủ lúc đó có 26 người, thì 13 người có bằng tiến sĩ, tức cũng chiếm tỉ trọng 50%. Rồi Nội các Nguyễn Xuân Phúc cũng thế: số người có bằng tiến sĩ xấp xỉ 52%.

Ngay cả trong Bộ chánh trị (BCT) cũng có nhiều tiến sĩ. Thật vậy, số liệu năm 2021 cho thấy trong số 18 thành viên BCT, có đến 10 người (56%) có bằng tiến sĩ [5]. Nói cách khác, tỉ trọng tiến sĩ trong BCT còn cao hơn trong Nội các Chánh phủ.

Ở nước ngoài, Đức là nơi có nhiều tiến sĩ trong Nội các, nhưng tỉ trọng tiến sĩ cũng chỉ 20% trong tổng số bộ trưởng, và tình trạng này đã được xem là một ‘hiện tượng’. Tuy nhiên, con số 20% đó chẳng thấm gì so với 50% của Việt Nam. Có thể nói rằng chánh phủ Việt Nam ngày nay đã trở nên hàn lâm hoá.

Những dữ liệu thực tế trên có thể hiểu nhiều cách. Hiểu tích cực là trình độ các bộ trưởng Việt Nam ngày nay đã cao hơn nhiều so với các vị tiền nhiệm trong thời chiến tranh hay mới sau chiến tranh. Một cách hiểu khác là nó phản ảnh tính hiếu học của người Việt, và điều này thể hiện qua trình độ của các bộ trưởng.

Hiểu theo nghĩa kém tích cực thì những dữ liệu này nói lên rằng người Việt chưa chắc là hiếu học mà chỉ hiếu danh thôi. Ông Lương Đức Thiệp, trong “Việt Nam tiến hóa sử” (1944), viết rằng người Việt học không phải để hiểu biết mà để có được chức quyền vì miếng cơm manh áo: “[…] cho nên người Việt Nam hiếu học không phải vì khát hiểu biết mà chỉ vì mong một địa vị ưu thắng trong xã hội: Học đối với người Việt không phải để thỏa mãn một khát khao trí tuệ, mà chính là để làm kế mưu sinh.” Nếu hiểu theo nghĩa này thì bằng cấp như tiến sĩ ngày nay ở Việt Nam đã mất cái uy danh của nó và đã bị lạm dụng.

Một cách hiểu khác nữa là tình trạng ‘hàn lâm hoá’ chỉ là hậu quả của chánh sách ‘người ngành nào phụ trách ngành đó’ (ví dụ như bộ trưởng quốc phòng thì phải là tướng lãnh, bộ trưởng y tế phải là người của ngành y, bộ trưởng giáo dục phải là người của ngành giáo dục và đào tạo, v.v.) Trong khi đó ở các thể chế dân chủ và dân sự thì người ta thường cho người ngoài ngành lãnh đạo ngành chuyên môn. Thành ra, chúng ta thấy ở Mĩ hay Úc có khi bộ trưởng quốc phòng là luật sư, bộ trưởng y tế là người từng học về văn chương.

Tiến sĩ (PhD) là văn bằng thuộc loại ‘prestigious‘ hay ‘elite‘ (tinh hoa), là văn bằng cao nhứt trong một số nước trên thế giới. Văn bằng PhD là viết tắt từ chữ ‘Doctor of Philosophy‘. Chữ ‘philosophy’ ở đây không có nghĩa hẹp là triết học, mà có nghĩa rộng hơn. Trong tiếng Hi Lạp, ‘Philo’ có nghĩa là ‘thương’ (sau này trại ra ‘philia’) và ‘sophia’ có nghĩa là ‘tư tưởng’ (hay sáng suốt, hay thông thái). Như vậy, chữ ‘philosophy’ ở đây có nghĩa nghĩa rộng là ‘yêu tư tưởng’. Bản chất của văn bằng PhD, theo nghĩa nguyên thuỷ của nó, mang tính lí thuyết hơn là thực hành. Sau này thì nhiều trường cho ra đời loại bằng tiến sĩ thực hành mà họ gọi là ‘professional doctorate‘.

Còn chữ ‘doctor’ ở đây xuất phát từ tiếng Latin ‘docere’ có nghĩa là ‘giảng dạy’. Nhưng ngày nay, giảng dạy phải đi liền với nghiên cứu khoa học. Do đó, văn bằng PhD bản chất là một chứng chỉ của người hành nghề giảng dạy và nghiên cứu. Cho đến nay, văn bằng PhD được xem là ‘giấy thông hành’ của nhà khoa học. Cũng giống như một người muốn hành nghề thầy thuốc thì phải có bằng MD, còn muốn hành nghề nghiên cứu và giảng dạy thì phải có PhD.

Thế nhưng, ở Việt Nam thì ý nghĩa của văn bằng PhD có vẻ trở nên lệch lạc. Nhiều cơ quan trong hệ thống công quyền ở Việt Nam có qui định rằng ứng viên phải có bằng PhD để đáp ứng tiêu chuẩn cho một chức vụ nào đó. Và, theo thời gian, những người đạt được những chức vụ đó được thăng tiến trong hệ thống chánh trị và có mặt trong Nội các hay Bộ Chánh Trị. Do đó, có thể nói rằng sự hàn lâm hoá chánh phủ ở Việt Nam ngày nay đã bắt đầu từ hơn 10 năm trước, và nó có thể xuất phát từ cách hiểu lệch lạc về văn bằng tiến sĩ.

Cách đây chừng 10 năm, Báo SGGP có đi một loạt bài về vấn đề đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam. Trong loạt bài đó, có một tác giả viết như sau: “Nhà khoa học, nhà quản lý các nước cũng sẽ rất ngạc nhiên khi biết được trong đội ngũ cán bộ của ta hiện nay, tỷ lệ TS rất cao! […] Trên các nước, TS nếu có trong bộ máy quản lý nhà nước thì cũng chỉ chiếm tỷ lệ rất ít.” Nhận định này cho đến nay vẫn còn thích hợp.

___

[1] http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/chinhphu/chinhphuduongnhiem

[2] https://www.aph.gov.au/Senators_and_Members/Parliamentarian?MPID=HWO

[3] https://www.whitehouse.gov/administration/cabinet

[4] Thành viên Nội các mới có bằng tiến sĩ: Phạm Minh Chính, Nguyễn Hồng Diên, Nguyễn Chí Dũng, Vũ Đức Đam, Huỳnh Thành Đạt, Phan Văn Giang, Trần Hồng Hà, Tô Lâm, Lê Thành Long, Nguyễn Thanh Long, Nguyễn Thanh Nghị, Hồ Đức Phớc, Nguyễn Kim Sơn, Nguyễn Văn Thể.

[5] Các ủy viên Bộ Chánh Trị có bằng tiến sĩ: Trần Tuấn Anh, Nguyễn Hòa Bình, Phạm Minh Chính, Phan Văn Giang, Vương Đình Huệ, Tô Lâm, Trần Thanh Mẫn, Nguyễn Xuân Thắng, Nguyễn Phú Trọng, và Trần Cẩm Tú.

Những lỗi phổ biến trong trình bày bằng Powerpoint

Đã dự rất nhiều hội nghị khoa học lớn và nhỏ ở nhiều nơi, kể cả ở Việt Nam, tôi thấy một số sai lầm phổ biến trong cách trình bày bằng powerpoint (PPT). Những sai lầm này thường liên quan đến cách soạn slide, nội dung, và cách trình bày. Cái note này chia sẻ vài kinh nghiệm cá nhân và chỉ ra 10 sai sót phổ biến đó để các bạn tránh trong tương lai.

Mục tiêu của bất cứ bài nói chuyện nào cũng là chuyển giao thông tin. Chuyển thông tin từ một cái đầu sang nhiều cái đầu. Không chỉ chuyển giao, mà còn phải chuyển giao một cách có hiệu quả. Để đạt được hiệu quả, diễn giả cần phải có nội dung tốt, một bộ slide hoàn chỉnh, và một phong cách trình bày chuyên nghiệp. Chỉ khi nào một bài thuyết trình hội đủ 3 nhu cầu trên thì mới có thể xem là thành công.

Nhưng trong thực tế, tôi đã thấy rất nhiều bài nói chuyện trong các hội nghị trở thành nhạt nhẻo, và khán giả chẳng học hỏi được gì từ bài nói chuyện. Chúng ta có câu Chiếc áo không làm nên thầy tu. Tương tự, nếu diễn giả có một nhúm slide, chưa chắc diễn giả đó đã có một bài thuyết trình. Một nhúm slide khác với một bài thuyết trình. Đã từng tham dự nhiều hội nghị và hội thảo ở Việt Nam, tôi rút ra một số kinh nghiệm, hay nói đúng hơn là một số sai lầm phổ biến dưới đây.

Những sai lầm khi soạn slide

1. Vấn đề chọn màu

Một trong những sai lầm phổ biến nhất là cách chọn màu cho slide. Có hai màu diễn giả cần phải chọn: màu nền (background color) và màu chữ (text color). Nhiều diễn giả không chú ý nên chọn màu không thích hợp. Chẳng hạn như nền màu xanh đậm mà chữ màu đỏ hay màu đen, hoặc nền màu trắng nhưng chữ màu vàng, v.v. là không thích hợp. Không thích hợp vì rất khó đọc. Nhiều người Việt có thói quen chọn màu đỏ chói làm màu nền, và đó là một cách chọn không thích hợp, vì màu đỏ là màu “high energy” làm cho người đọc rất khó chú ý.

Nếu hội trường rộng, nên chọn màu chữ sáng (màu vàng, trắng) trên nền tối (màu xanh đậm). Nếu hội trường nhỏ hay trung bình, nên chọn chữ màu đậm (xanh đậm hay đen) trên nền sáng (màu trắng).

Những lỗi phổ biến trong trình bày bằng Powerpoint
Một ví dụ về chọn màu sai. Chữ màu trằng trên nền xanh pha trắng làm cho người xem rất khó theo dõi.
Những lỗi phổ biến trong trình bày bằng Powerpoint
Tránh kết hợp mầu đỏ và xanh lá cây vì rất nhiều người bị mù mầu với sự kết hợp này.
Những lỗi phổ biến trong trình bày bằng Powerpoint
Một slide chọn sai màu. Chữ đỏ trên nền xanh rất khó đọc, làm cho người ta nhức mắt.
Những lỗi phổ biến trong trình bày bằng Powerpoint
Đây là cách chọn màu đúng.
Những lỗi phổ biến trong trình bày bằng Powerpoint
Vài cách chọn màu. Tránh màu vàng trên nền trắng, đen trên nền xanh, vàng trên nền màu cam, v.v.

2. Vấn đề chọn kiểu chữ (font)

Kiểu chữ có ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu và tốc độ đọc. Nhiều diễn giả không chú ý đến font chữ khi soạn slide, nên gây khó khăn cho khán giả. Có hai loại kiểu chữ chính: kiểu chữ có chân và kiểu chữ không có chân (sans serif). Kiểu chữ có chân tiêu biểu là Time, Times New Roman, Cambria. Kiểu chữ không có chân là Arial, Verdata, Calibri. Nhiều người Việt thích chọn kiểu chữ có chân vì họ nghĩ đó là kiểu chữ đẹp. Đẹp thì đúng, nhưng là một sai lầm trong PPT, vì có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng kiểu chữ có chân làm người ta tốn thì giờ đọc hơn là kiểu chữ không có chân. Đó cũng chính là lí do tại sao các “đại gia” internet như Yahoo! và Google dùng chữ không có chân trên các trang web của họ.

Có diễn giả thích “trang trí” chữ bằng cách làm bóng (shadow) cho chữ. Đây là một kĩ thuật chẳng những mất thì giờ, mà còn phản tác dụng, vì rất khó đọc và nhức mắt. Tuyệt đối không “trang trí” chữ bằng bóng!

3. Khổ chữ

Không gì khó chịu hơn khi diễn giả trình bày slide mà khán giả không đọc được vì khổ chữ quá nhỏ. Nhưng trong thực tế thì vấn đề này xảy ra rất nhiều lần, mà diễn giả thì có vẻ rất vô tư, không quan tâm đến khán giả. Kinh nghiệm của tôi cho thấy nên chọn cỡ chữ từ 18 đến 30. Nếu chọn kiểu chữ Arial thì khổ chữ 18 hay 20 là hợp lí; nếu chọn kiểu chữ Calibri thì kích thước phải cỡ 25 hay 30 mới dễ đọc. Mỗi slide nên có tựa đề, và tựa đề nên có kích thước 35 đến 45.   Nếu có ghi chú (footnote) thì có thể dùng kích thước 12.

4. Quá nhiều chữ trong slide

Một trong những sai lầm phổ biến nhất là diễn giả trình bày quá nhiều chữ trong một slide. Có nhiều slide, tôi không phân biệt được là một đoạn văn hay là một power point. Thật vậy, có nhiều người vì lí do nào đó (có thể là lười biếng) nên cắt từ Word và dán vào slide. Cũng có người có thể do sợ không thuộc bài, nên viết hết những câu văn trên slide như là một văn bản. Đây là một sai lầm tai hại, vì khán giả sẽ không theo dõi được. Nghiên cứu tâm lí chỉ ra rằng, một người bình thường chỉ có thể lĩnh hội nội dung slide trong vòng 20-30 giây; nếu qua thời gian đó mà không lĩnh hội được thì họ sẽ bỏ, và diễn giả đã thất bại trong việc truyền đạt thông tin.

Để khắc phục vấn đề này, cần phải biết “qui ước n x n”. Theo qui ước này, nếu slide có n dòng, thì mỗi dòng chỉ nên có n chữ. Chẳng hạn như nếu slide có 5 dòng thì mỗi dòng nên có 5 chữ. Một slide có 6 dòng trở nên là quá nhiều. Số dòng lí tưởng là 3-5.

Những lỗi phổ biến trong trình bày bằng Powerpoint

5. Viết slide như viết văn bản

Người thiếu kinh nghiệm thường soạn slide như họ viết văn bản, tức là câu cú có chủ từ, động từ, theo đúng văn phạm. Dĩ nhiên, không có gì sai trong cách làm như thế, nhưng đó là cách làm thiếu tính chuyên nghiệp. Người có kinh nghiệm soạn slide theo công thức telegraphic, tức viết giống như viết điện tín ngày xưa, hay như cách phóng viên viết tiêu đề bài báo. Cách viết telegraphic có hiệu quả giảm số chữ trong mỗi slide, và giúp diễn giả tập trung vào cách diễn giải vấn đề hơn là đọc. Một cách phân biệt cách viết theo kiểu văn bản và telegraphic như sau:

  • Văn bản: Loãng xương là một bệnh với đặc điểm mật độ xương suy giảm dẫn đến gia tăng nguy cơ gãy xương.
  • Telegraphic: Loãng xương – mật độ xương giảm à nguy cơ gãy xương tăng.

Tất cả slide, ngoại trừ những trích dẫn nguyên văn, nên được viết theo kiểu điện tín.

Những lỗi phổ biến trong trình bày bằng Powerpoint

Những vấn đề liên quan đến nội dung

6. Không có thông điệp 

Có nhiều hội nghị mà chúng ta khi nghe xong một bài thuyết trình nhưng chẳng biết diễn giả muốn nói gì, hay mình đã tiếp thu thông tin gì. Vấn đề ở đây là diễn giả đã thất bại cung cấp một thông điệp chính. Mỗi một bài thuyết trình phải có một thông điệp chính. Thông điệp chính cần phải trình bày trong một slide mà tiếng Anh gọi là money slide, hiểu nôm na là một “slide ăn tiền”. Nếu thông điệp chính không có trong bài thuyết trình thì khán giả cảm thấy mất thì giờ đến nghe vì chẳng có tiếp thu được thông tin gì xứng đáng. Do đó, trước khi soạn bài nói chuyện, diễn giả cần phải suy nghĩ cẩn thận cái money slide là gì, trước khi soạn những slide khác.

7. Chất lượng thông tin nghèo nàn

Nhiều bài thuyết trình mà trong đó diễn giả trình bày những thông tin nghèo nàn, thiếu tính liên đới đến chủ đề chính, và hệ quả là khán giả không nắm lấy vấn đề một cách logic. Làm một bài thuyết trình bằng powerpoint không phải là một thử nghiệm về kĩ năng viết, mà là kĩ năng chọn thông tin và thể hiện thông tin. Thông tin phải chính xác, đáng tin cậy, và được thể hiện một cách thích hợp. Chẳng hạn như trong khoa học, những cách thể hiện dữ liệu bằng biểu đồ bánh (pie chart) là vô dụng nhất, thiếu tính chuyên nghiệp nhất, và nhàm chán nhất.

8. Dùng hoạt hình quá nhiều

Nhiều người thích dùng hoạt hình (animation) trong bài thuyết trình. Đây là một sai lầm nghiêm trọng. Giới khoa học nói chung tương đối bảo thủ, hiểu theo nghĩa không thích đùa như trẻ con. Hoạt hình được xem là một hình thức khoe kĩ thuật của trẻ con. Hoạt hình còn làm cho khán giả phân tâm, thay vì tập trung vào thông tin thì họ lại chú ý đến những hình ảnh hay những con chữ nhảy nhót một cách … vô duyên. Cần tránh hoạt hình trong các báo cáo khoa học.

9. Dùng clipart quá nhiều

Ngoài hoạt hình, một số diễn giả có xu hướng dùng clipart một cách thái quá. Có thể dùng để minh hoạ cho một vài ý tưởng qua clipart, nhưng nếu dùng quá nhiều thì sẽ gây phản tác dụng, vì sẽ giảm sự tập trung của khán giả.

Những vấn đề liên quan đến phong cách trình bày

10. Đọc slide

Có quá nhiều diễn giả trong các hội nghị ở Việt Nam đọc slide, và đó là một “đại kị”. Khi diễn giả đọc slide, khán giả sẽ nghĩ diễn giả chỉ là một cái máy nói, không am hiểu vấn đề, và thụ động. Đọc slide làm cho diễn giả quay lưng lại với khán giả, trong khi “nhiệm vụ” của diễn giả là nói chuyện với khán giả chứ không phải nói với … slide. Đọc slide còn gây một ấn tượng phản cảm, vì khán giả nghĩ rằng diễn giả chỉ nói những gì ai đó đã soạn cho để nói (trong thực tế cũng có vấn đề này).

Những lỗi phổ biến trong trình bày bằng Powerpoint

11. Nói chuyện không dính dáng gì đến slide

Ngược lại với đọc slide là những diễn giả nói chuyện chẳng liên quan gì đến slide đang trình chiếu. Dĩ nhiên, đây là một tín hiệu cho thấy diễn giả đang lạc đề hoặc không có tập dượt trước, nhưng cũng có thể là dấu hiệu cho thấy diễn giả không nắm vững vấn đề. Vì không nắm vững vấn đề bắt đầu … lan man. Tình trạng này xảy ra rất nhiều khi diễn giả không phải là người soạn slide (mà ai đó soạn cho).

Những lỗi phổ biến trong trình bày bằng Powerpoint
Những yếu tố làm cho khán giả chán và không theo dõi.

Nên nhớ rằng khi thuyết trình khoa học, diễn giả cần phải có tạo niềm tin bằng cách trình bày những nghiên cứu hay tác phẩm của mình. Nếu trong một bài nói chuyện mà diễn giả chẳng có cái gì của mình, toàn là dữ liệu của người khác, hoặc do người khác soạn, thì khán giả sẽ nghĩ rằng diễn giả chỉ là một cái “máy nói”, một con rối.

12. Không dùng laser pointer

Một trong những “bệnh” khá phổ biến ở các diễn giả Việt Nam là không dùng laser pointer. Một bài thuyết trình khoa học có nội dung không phải dễ theo dõi, nhất là có những giản đồ phức tạp minh hoạ cho một qui trình khoa học, do đó diễn giả cần phải dẫn dắt khán giả bằng cách dùng laser pointer để chỉ đến những chỗ đang nói. Không có laser pointer, khán giả sẽ rất khó theo dõi, và họ sẽ bỏ cuộc nếu sau 30 giây mà không hiểu diễn giả muốn nói gì.

Nhưng cũng nên sử dụng pointer thích hợp. Một thói quen ngược lại không dùng pointer là dùng tuỳ tiện, quơ pointer ở những vị trí chẳng liên quan gì đến slide. Có người do vô ý hay hồi hộp cứ quơ laser pointer trên trần nhà làm khán giả cứ theo dõi và buổi trình bày trở nên hài hước.

13. Nói quá giờ

Một “bệnh” cực kì phổ biến ở các diễn giả Việt Nam là nói quá giờ. Nói quá giờ cho phép là một sự bất lịch sự đối với diễn gỉa kế tiếp (có người nói nặng nề hơn là “ăn cắp” thì giờ). Nói quá giờ còn gây rối loạn đến chương trình và gây khó khăn cho ban tổ chức. Cố gắng nói đúng giờ cho phép. Một ước tính quan trọng là mỗi slide trung bình tốn 1 phút. Do đó, nếu bài báo cáo 15 phút thì diễn giả chỉ nên có 15 slides, hay tối đa là 20 slides (kể cả tựa đề, phần cảm tạ, và conflict of interest).

14. Điệu bộ khi trình bày

Tuy không phổ biến lắm, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn thấy những diễn giả có những điệu bộ không thân thiện với khán giả. Những điệu bộ này có thể kể đến như bỏ tay vào túi quần, dùng ngón tay trỏ chỉ vào khán giả, khoanh tay ngang ngực, v.v. Những động thái như thế gây ấn tượng hống hách, xem thường khán giả, nên rất phản cảm. Cần phải tuyệt đối tránh!

15. Làm chủ toạ theo kiểu dạy đời

Ngoài những “bệnh” trên, còn có một bệnh khác tôi hay thấy trong các hội nghị ở Việt Nam là vai trò của chủ toạ. Rất thường xuyên tôi thấy chủ toạ đóng vai trò tóm lược và phê bình báo cáo của diễn giả. Có chủ toạ còn lên lớp cho diễn giả. Đó là một việc làm hết sức mất lịch sự, vô lễ, vô văn hoá khoa học, và phản cảm. Có nhiều trường hợp sự việc xảy ra một cách hài hước, vì người chủ toạ nói sai (do không có cùng chuyên môn, hay chuyên môn chưa vững). Trong thực tế, chủ toạ các phiên họp khoa học có nhiệm vụ giới thiệu bài nói chuyện, điều khiển buổi họp sao cho đúng giờ, và nếu không có ai đặt câu hỏi thì chủ toạ đóng vai trò “khơi mào” câu hỏi cho diễn giả. Nên nhớ rằng người chủ toạ không có chức năng tóm lược và phê bình bài báo của diễn giả.

***

Trên đây là một số vấn đề (nhưng cũng có thể xem là “sai lầm”) trong báo cáo khoa học bằng powerpoint. Những sai lầm này đặc biệt phổ biến trong các hội nghị ở Việt Nam mà người viết bài này từng trải nghiệm trong thời gian trên dưới 10 năm qua. Sai lầm không phải là vấn đề (vì ai cũng phạm phải); vấn đề là học hỏi từ sai lầm. Học hỏi từ người đi trước là có hiệu quả nhất và nhanh nhất. Trong bài này, tôi đã trình bày một số lời khuyên để khắc phục cho mỗi sai lầm. Tôi đã từng học hỏi từ những sai lầm như thế này. Nhiều đồng nghiệp và nghiên cứu sinh của tôi đã học từ những lời khuyên này và họ đã thành công. Do đó, tôi hi vọng rằng những lời khuyên trong bài này sẽ giúp ích cho các bạn thành công trong lần báo cáo sắp tới.