Nhìn tấm hình Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng (chắc ở tuổi 80), tác giả của ‘Vòng tay học trò‘ nổi tiếng một thời, kí tặng sách cho các độc giả trẻ tuổi tôi thấy vui trong lòng. Vui là vì sau gần 50 năm thì những tác phẩm văn học kinh điển trước 1975 cũng đến tay các bạn đọc thuộc thế hệ trẻ. Nhưng sự kiện đó cũng làm tôi nhớ lại thời đen tối — vô cùng đen tối — sau 1975.
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng kí tặng sách cho độc giả. Nguồn: nguoi-viet.com
Để biết đen tối ra sao thì bài viết của Phúc Tiến [1] và của Bs Ngô Thế Vinh [2] sẽ cung cấp thêm thông tin về một giai đoạn lịch sử đó. Thỉnh thoảng, có vài bạn trẻ hỏi tôi là hồi sau 1975 có chuyện nhà cầm quyền mới đốt sách hay không. Thoạt đầu, tôi rất ngạc nhiên về câu hỏi vì đó, và tự hỏi ‘sao họ là sinh viên, là bác sĩ, là kĩ sư … mà có vẻ quá ngây thơ, chẳng biết gì về cái thời đau thương đó?’ Phải vài năm sau tôi mới hiểu. Hiểu rồi thông cảm cho họ, vì sự thật đó chưa đến với họ.
Thật ra, ngay từ trong thời còn chiến tranh trong thập niên 1960s, chiến dịch huỷ diệt nền văn nghệ miền Nam đã được bàn đến. Thời đó, mấy văn nghệ sĩ ở miền Bắc cho rằng nền văn học miền Nam tiền 1975 là nền “văn học thực dân mới”. Những nhà phê bình văn học nổi tiếng như Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức đều có những bài viết phê phán nặng nề nền văn học miền Nam. Theo một thống kê của Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, trong thập niên 1954 – 1975 đã có ít nhứt 286 bài viết chửi bới các văn nghệ sĩ và nền văn nghệ miền Nam xuất hiện trên các tuần báo như Học Tập, Thống Nhất, Nghiên cứu nghệ thuật, Văn Nghệ, Tạp Chí Văn Học.
Các nhà cầm trịch văn nghệ mới gọi nền văn học miền Nam nói chung là “đồi trụy hóa con người”, một thứ “văn học phục vụ chính trị phản động”, và nó chỉ “phục vụ xã hội tiêu thụ miền Nam”. Phong Lê và Hoàng Trung Thông có cuốn “Văn học Việt Nam Chống Mỹ, Cứu Nước”, và trong sách, hai vị này gọi Mĩ là “tên sen đầm quốc tế”, là “tên đầu sỏ chủ nghĩa thực dân mới”. Phạm Văn Sỹ thì đánh giá rằng nền văn học miền Nam là thứ “văn chương chống Cộng là thứ văn-chương xảo trá đê hèn nhất của Mỹ – Ngụy ở miền Nam”. Lữ Phương trong “Cuộc xâm lăng về văn hoá và tư tưởng của đế quốc Mĩ tại miền Nam Việt Nam” gọi các nhà văn hóa và văn-nghệ sĩ miền Nam là “đội quân văn-hóa phản động”, là “tay sai của đế quốc Mỹ”.
Các tác phẩm của các nhà văn như Nguyễn Thuỵ Long, Văn Quang, Thế Uyên, Phan Nhật Nam, Duyên Anh, Doãn Quốc Sỹ được gọi là “độc dược”, “đồi trụy” và “chống cách-mạng một cách có ý thức”.
Sau năm 1975, có hàng loạt cách lên án các văn nghệ sĩ và nền văn nghệ miền Nam trước 1975. Có thể kể vài cuốn sách đáng chú ý như sau (tôi vẫn còn giữa vài cuốn để đọc cho biết):
• Văn hoá văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ Ngụy (hai tập) của Phong Hiền, Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Hoa Lục Bình (1977);
• Tiếp tục đấu tranh xoá bỏ tàn dư văn hoá mới của Hà Xuân Trường (1979);
• Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hoá, tư tưởng của Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Vũ Hạnh, Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Phong Hiền, Phan Đắc Lập, Bùi Công Hùng (1980);
• Cuộc xâm lăng về văn hoá và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam của Lữ Phương (1981);
• Nọc độc văn học thực dân mới của Trần Trọng Đăng Đàn (1983);
• Nọc độc văn hoá nô dịch của Chính Nghĩa (?);
• Những tên biệt kích cầm bút của nhà xuất bản Công an Hà Nội (1986);
• Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ Ngụy của Lê Đình Kỵ (1987);
• Lại bàn về nọc độc văn học thực dân mới Mỹ của Trần Trọng Đăng Đàn (1987);
• Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-1975 (tập 1) của Trần Trọng Đăng Đàn (1988);
• Văn hoá văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại Nam Việt Nam cũng của Trần Trọng Đăng Đàn (1990).
Cuốn sách nổi tiếng một thời “Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hoá, tư tưởng” của Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Vũ Hạnh, Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Phong Hiền, Phan Đắc Lập, Bùi Công Hùng (1980).
“Biệt kích văn hoá”
Các nhà phê bình lí luận chế độ mới có vẻ thích chữ ‘biệt kích’. Thật vậy, mệnh đề “biệt kích văn hoá” được dùng làm tựa đề cho 2 cuốn sách lên án các văn nghệ sĩ miền Nam thời trước 1975. Có lẽ các bạn đang nóng lòng hỏi ai là những tên ‘biệt kích văn hoá’ này? Theo danh sách được liệt kê trong cuốn ‘Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hoá, tư tưởng’ (tôi thích cuốn này vì cách viết rỗn rãng của nó) thì những người sau đây nằm trong danh sách:
• Võ Phiến
• Nguyễn Mạnh Côn
• Doãn Quốc Sĩ
• Mai Thảo
• Vũ Khắc Khoan
• Hồ Hữu Tường
• Thích Nhất Hạnh
• Dương Nghiễm Mậu
• Duyên Anh
• Nhã Ca.
Cuốn này dự tính có tập II (nhưng tôi không tìm thấy). Theo dự kiến, tập II sẽ viết về “những tên khác như” (thời đó người ta gọi văn nghệ sĩ miền Nam là ‘tên’):
• Phạm Duy
• Chu Tử
• Tạ Tỵ
• Đinh Hùng
• Thanh Tâm Tuyền
• Phan Nhật Nam
• Văn Quang
• Xuân Vũ
• Thảo Trường
• Hà Huyền Chi
• Tô Văn
• Lê Xuyên …
Còn cuốn ‘Những tên biệt kích cầm bút’ thì đề cập đến những văn sĩ nổi tiếng như:
• Hoàng Hải Thủy
• Dương Hùng Cường
• Lý Thụy Ý
• Nguyễn Thị Nhạn
• Nguyễn Hoạt
• Trần Ngọc Tự
• Khuất Duy Trác (ca sĩ tâm đắc của tôi).
Giới cầm bút cung đình thời đó (Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Vũ Hạnh, Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Phong Hiền, Phan Đắc Lập, Bùi Công Hùng) khi viết về các văn nghệ sĩ trên, họ chỉ có một ngôn ngữ: chửi bới và hạ nhục. Dưới đây là một mẫu ngẫu nhiên từ cuốn sách trên:
• Nhà văn Võ Phiến: “từng bị án tù của cách mạng, hoạt động cầm bút với động cơ hận thù giai cấp.”
• Nhà văn Nhất Linh: “một tay cầm bút phản động trộn lẫn với hoạt động chính-trị phản động mà tên tuổi đã gắn liền với những đảng phái phản động và võ biền, với những vụ tống tiền man rợ năm 1946″.
• Thiền sư Thích Nhất Hạnh: “sát ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, chạy theo chủ ra nước ngoài, vẫn không từ bỏ con đường cũ, cùng một số tên khác tổ chức những hoạt động, nhằm kích động, xúi giục người di tản bất hợp pháp, hòng gây thêm tình trạng khó khăn cho cách mạng.”
• Hồ Hữu Tường: “một tên trốt-kít, ngày trước từng hoạt động chống cách mạng, chống kháng chiến.”
• Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn: “đã từng là tay sai của phát xít Nhật, của bọn Tàu Tưởng và sau hết là ‘sĩ quan đồng hóa’ trong quân đội ngụy.”
• Nhạc sĩ Phạm Duy: “tay sai đắc lực, kẻ phản động đầu sỏ trong lĩnh vực âm nhạc ở miền Nam.”
• Kí giả và nhà văn Chu Tử: “xuất thân từ một gia đình địa chủ lớn.”
• Còn các nhà văn ‘chiêu hồi’ như Xuân Vũ, Phạm Thành Tài, Nguyễn Anh Tuấn, thì được mô tả là “bọn phản động đầu hàng trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Những người này vì không chịu được gian khổ, bị bắt, không chịu được sự tra tấn, tù đày đã ly khai tổ chức, rởi bỏ đồng đội quay lưng với kháng chiến, thậm chí có kẻ vì bả lợi danh đã cam tâm làm tay sai cho kẻ thù, chống lại cách mạng, chống nhân dân.”
Và sự trở lại của những “biệt kích văn hoá”
Dĩ nhiên, cái thời hung hăng và đen tối đó đã qua rồi. Một số trong những người hạ bút viết ra những câu chửi bới trên đã về bên kia thế giới. Nạn nhân bị họ lăng nhục cũng đã về bên kia thế giới. Thời này, người ta bắt đầu cảm nhận được ánh sáng văn minh, dần dần biết được cái chân – thiện – mĩ trong văn nghệ, nên những cách chửi thô bạo và vô giáo dục đó không còn nữa (hay giảm đi khá nhiều).
Một thế hệ mới đã hình thành và họ có học tốt hơn thế hệ cha anh. Họ cũng có cái nhìn tỉnh táo và văn minh hơn. Cho nên mới có sự ‘trở lại’ của văn học miền Nam. Tuy nhiên, có người vẫn quen thói láu cá gọi là ‘Văn học đô thị miền Nam’ [3]. Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng không đồng ý với chữ ‘trở lại’, vì theo bà ‘trở về’ mới đúng. Bà nói như một nhận định chung của nền văn học đó: “Tôi vẫn sống như không bao giờ phải chết.” Đúng! Nếu nói cho rộng ra, Văn Học Miền Nam vẫn sống như chưa bao giờ phải chết.”
Vậy những ai đã trở về (hiểu theo nghĩa tác phẩm của họ đã được in lại ở trong nước)? Thì đây là danh sách mà tôi biết được:
• Dương Nghiễm Mậu
• Du Tử Lê
• Võ Phiến
• Bình Nguyên Lộc
• Tô Thùy Yên
• Thanh Tâm Tuyền
• Trần Thị NgH
• Nguyễn Thị Thụy Vũ
• Nguyễn Thị Hoàng
• Nguyên Sa
• Mai Thảo
Còn nhiều nữa nhưng tôi không theo dõi và nhớ hết. Thỉnh thoảng lang thang trong các tiệm sách ở Sài Gòn tôi thấy những tác giả quen quen như Nguyễn Văn Trung, Bằng Giang, Vũ Văn Kính, Nguyễn Tôn Nhan, Trần Dzạ Lữ, Nguyễn Thụy Long, Văn Quang, Thế Uyên, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, v.v.
Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ ký tặng sách trong buổi ra mắt 10 tác phẩm được tái bản.
Theo tôi, một độc giả, thì văn học miền Nam chẳng đi đâu cả; nó vẫn tồn tại trong cộng đồng dân tộc và trong tâm tưởng của những người thuộc thế hệ tôi. Các ca khúc của Phạm Duy (và của nhiều nhạc sĩ khác) chẳng đi đâu cả, mà vẫn tồn tại trong chúng tôi và các thế hệ trẻ hơn. Vấn đề không phải ‘trở lại’ hay ‘trở về’, mà là ghi nhận. Ghi nhận những đóng góp của các văn ngệ sĩ miền Nam trước 1975 là một bước cần thiết trong quá trình hoà giải dân tộc vậy. Và, hãy bỏ đi cái thói láu cá trẻ con (kiểu Trạng Quỳnh) khi đề cập đến những người thuộc nền văn nghệ miền Nam.
[3] [3] Tôi tự hỏi cái mệnh đề “Văn học đô thị miền Nam” nó xuất phát từ đâu và có ý nghĩa gì. Chẳng thấy nguồn gốc và định nghĩa. Nhưng tôi tìm thấy trong một luận án tiến sĩ của Bùi Tiến Sỹ (Đại học Khoa học Huế) có tựa đề “ĐẶC ĐIỂM TÙY BÚT Ở ĐÔ THỊ MIỀN NAM (1954 – 1975)”. Luận án này viết năm 2016. Như vậy, cách gọi xách mé “Văn học đô thị miền Nam” đã có trước đó, nhưng chẳng ai chú ý?
Có khi nào các bạn cảm thấy ngạc nhiên khi thấy mấy người trong vai trò lãnh đạo thốt lên những mệnh đề như ‘Việt Nam anh hùng’, ‘Việt Nam không kém ai’, ‘Việt Nam vinh quang’, ‘Thủ đô ngàn năm văn hiến’, ‘Đồng chí XYZ vĩ đại’, v.v. Tôi tự tìm nguồn cội của cách nói này, và nghĩ rằng đó là triệu chứng của một hội chứng tâm lí có tên là ‘Inferiority Complex’ (hội chứng thấp kém) [1] và ‘Superiority Complex’ (hội chứng nổi trội) [2].
Nhà tâm lí học Alfred Adler
Từ sau 1975 tôi (và chắc nhiều bạn khác) rất ngạc nhiên với cách nói mới mang tính hô khẩu hiệu. Hô theo giới lãnh đạo. Hễ nói đến Việt Nam là phải có thêm ‘anh hùng’; hễ viết về lãnh đạo thì phải ‘vĩ đại’; hễ Hà Nội là ‘ngàn năm văn hiến’; hễ chiến thắng là phải ‘vinh quang’; hễ viết về đối phương là ‘bè lũ’, là ‘bán nước’, v.v.
Lúc đó tôi không biết những cách nói thậm xưng đó xuất phát từ đâu. Khi ra nước ngoài thì mới biết đó cũng là cách nói rất phổ biến ở bên Liên Xô, Tàu, Bắc Hàn, v.v. Ở Bắc Hàn, hễ Kim Jong-Il là phải kèm theo ‘lãnh tụ kính yêu’, ông già là Kim Nhật Thành là phải ‘lãnh tụ vĩ đại’, và ông cháu Kim Chính Ân thì phải là ‘Người thừa kế vĩ đại’.
Khi những chữ này được lặp đi lặp lại nhiều lần, người ta cứ nói theo như là quán tính. Mà, quán tính thì không cần suy nghĩ. Người nghe tưởng đâu đó là sự thật. Nhưng khi ra nước ngoài, tôi không thấy lãnh tụ hay báo chí họ dùng những chữ thậm xưng đó. Suy nghĩ kĩ thì cách nói đó có khi là một hình thức che giấu sự yếu kém mà thôi, tức là Hội chứng mặc cảm thấp kém.
1. Hội chứng thấp kém
Hội chứng mặc cảm thấp kém là một phát kiến của nhà tâm lí học trứ danh người Áo Alfred Adler. Năm 1907, Adler bàn về hội chứng này lần đầu tiên, mà trong đó ông nêu lên một số đặc điểm có tác động đến cuộc sống hàng ngày. Ông xem hội chứng mặc cảm thấp kém là một rối loạn thần kinh (neurosis).
Adler nghĩ rằng yếu tố căn bản của rối loạn thần kinh là cảm giác thấp kém, và những người mắc chứng này tiêu ra thì giờ để cố gắng đối phó và chiến thắng cảm giác đó mà không biết gì đến thực tế.
Adler cho rằng tất cả trẻ con đều có mặc cảm thấp kém ngay từ khi họ được sanh ra. Trẻ con làm tất cả để được ba má chú ý tới. Những nỗ lực đó của họ (trẻ con) dần dần theo thời gian giúp chúng hình thành những mục tiêu tưởng tượng trong tiềm thức. Những mục tiêu này giúp đứa trẻ phấn đấu chỉnh sửa mặc cảm thấp kém và phát triển khả năng. Khi đứa trẻ được chăm sóc tốt, nó sẽ chấp nhận những thách thức và học cách vượt qua. Ông gọi đó là Quá trình Compensation (Đền bù).
Tuy nhiên, Quá trình Đền bù đôi khi không diễn ra một cách bình thường, và cảm gíac thấp kém trở nên căng thẳng hơn. Đứa trẻ bắt đầu cảm thấy nó không có khả năng kiểm soát môi trường chung quanh. Họ phấn đấu để được đền bù, nhưng không đạt được hiệu quả. Tình trạng này dẫn đến hiện tượng mà Adler gọi là ‘Overcompensation’ (Đền bù thái quá). Đứa trẻ bắt đầu tập trung vào việc đạt được những mục tiêu ngoài khả năng của nó.
Chứng Overcompensation có thể dẫn đến hội chứng mặc cảm thấp kém. Đây là mặc cảm thiếu tự tôn (self-esteem). Theo Adler, đặc điểm chánh của người bị chứng mặc cảm thấp kém là người đó lúc nào cũng phấn đấu tìm một tình huống để chứng tỏ mình nổi trội. Động cơ làm người nổi trội là một triệu chứng của mặc cảm thấp kém.
Theo sách tâm lí học, người có hội chứng thấp kém thường có những biểu hiện sau đây:
Chẳng hạn như lần tiếp xúc Tập Cận Bình, một ông lãnh đạo VN làm mọi người ngạc nhiên khi ông so sánh trà Tàu ngon hơn trà Việt Nam! Ngạc nhiên là vì ông ấy ở vị trí lãnh đạo quốc gia mà lại thốt ra một câu không cần thiết.
Sau này ông ấy và đồng nghiệp còn có nhiều câu phát biểu mang tính so sánh Việt Nam như là một ‘cường quốc’ trên thế giới. Có thể đó là cảm nhận cá nhân, nhưng cảm nhận đó chắc chắn xuất phát từ tiềm thức hay mặc cảm nào thấp kém.
Thỉnh thoảng, người mắc chứng mặc cảm thấp kém còn tỏ ra tự tin thái quá hay ái kỉ (narcissist) mặc dù trong thực tế họ rất thiếu tự tin. Những biểu hiện này bao gồm:
• tự trình diễn mình như là một người tài năng;
• tỏ ra là người hoàn hảo, và do đó rất nhạy cảm với những phê bình;
• tìm lỗi của người khác;
• thích được chú ý và tìm sự chú ý của người khác;
• không có khả năng nhận ra sai sót của mình.
2. Hội chứng nổi trội
Nhưng Adler còn chỉ ra một hội chứng mặc cảm nổi trội (superiority complex). Người mắc chứng này cảm thấy lúc nào cũng có nhu cầu để chứng minh rằng mình hơn chính mình (để nổi trội hơn người khác). Adler chỉ ra rằng trẻ con cũng hay mắc chứng này, và chúng lúc nào cũng tỏ ra xấc láo, phách lối, và thích gây hấn. Đứa trẻ mắc chứng này chỉ vì nó cảm thấy nó thấp kém hơn người khác.
Thật vậy, mặc cảm nổi trội được phát sanh từ mặc cảm thấp kém. Nó (mặc cảm nổi trội) là một cách thức mà bệnh nhân hay dùng để thoát khỏi sự khó khăn và thấp kém của chính họ.
Những biểu hiện của Hội chứng nổi trội bao gồm:
• tự đề cao mình hay tự đánh giá mình quá cao;
• tuyên bố những điều khoác lác không đúng với thực tế;
• chú ý đến bề ngoài;
• tự xem ý kiến của mình là quan trọng;
• cố gắng trình diễn mình như là một người ưu việt và có thẩm quyền;
• không lắng nghe người khác;
• hay so sánh mình với người khác để ngầm cho thấy mình hơn họ;
• nhưng tự trong lòng thì thiếu tự tôn và cảm thấy mình thấp kém.
Nguyên nhân của Hội chứng nổi trội thì có nhiều. Nhiều tình huống dẫn đến Hội chứng nổi trội. Chẳng hạn như họ đã bị thất bại nhiều lần trong quá khứ, nên họ cố gắng ‘nổ’ để bù đắp cho những thất bại đó. Cũng có thể họ đang bị căng thẳng nên giả bộ rằng mình đã vượt qua sự căng thẳng. Nói tóm lại, nguyên nhân chánh của Hội chứng nổi trội là họ tìm cách thoát khỏi thực tế và giả bộ rằng họ hơn người khác.
Hôm trước, tác giả Nguyễn Hữu Liêm viết một bài rất hay nhưng rất đụng chạm, trong đó anh nhận định rằng người Việt Nam như là một quần thể đang ở tuổi thiếu niên. Đoạn bạn Liêm viết về mặc cảm thấp kém như sau [3]:
“Nguyễn Trãi là một trường hợp điển hình. Dù là tác giả của Bình Ngô Đại Cáo oai phong, tuyệt vời cả về văn ngữ lẫn tinh thần nội dung, nhưng khi đọc Trung Quân Từ Mệnh Tập mà Nguyễn Trãi đã viết thay mặt Lê Lợi gởi cho nhà Minh, chúng ta cũng không khỏi ngậm ngùi cảm nhận được cái nhục nhã, cái thái độ khom mình cúi đầu thần phục đối với phương Bắc. Thế nhưng dần dần chiến thuật nhún nhường cần thiết với nghi thức phong kiến và ngôn ngữ của kẻ yếu đã trở nên một bản chất cá tính của tầng lớp chính trị Việt.
Bản sắc cá tánh muốn được công nhận ảo này còn thành ‘yếu tố di truyền’ trong văn hóa bằng cấp, học hàm , học vị của người Việt. Với truyền thống thi đỗ thì được làm quan để cho cả họ được nhờ, học vị khoa bảng đã trở thành chìa khóa cho thực tại tiến thân trong xã hội – cũng như cho tâm ý được coi trọng và công nhận giá trị nhân bản bởi tha nhân và đại thể khách quan. Ta chỉ là một công dân khi được có bằng cấp, hay chức vị trong triều đình. Ta chỉ hiện hữu khi Ta được công nhận bởi tha nhân. Từ đó, cái Ta được định hình bằng cái không-Ta, mà bản chất là một biện chứng tiêu cực có gốc rễ từ một tâm ý nô lệ. Bệnh cầu cạnh khoa bảng danh vọng còn đang rất thịnh hành trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Bạn hãy suy nghẫm về kinh nghiệm bản thân khi tiếp xúc, giao tiếp, làm ăn, sinh hoạt với người Việt ta. Không ít người lớn tuổi, bằng cấp học vị, học hàm, chức vụ, nghề nghiệp, kể cả giới tu sĩ các tôn giáo hay lãnh đạo chính trị, nhà nước, trong hay ngoài nước, vẫn mang tính tình niên thiếu.
Nếu bạn có dịp giao tiếp hay làm việc với người Âu Mỹ thì sẽ thấy rằng họ – người phương Tây – chững chạc, trưởng thành hơn chúng ta nhiều, kể cả khi họ không có bằng cấp cao, hay khi còn rất trẻ tuổi. Dĩ nhiên là cũng có những thành phần quần chúng lao động Mỹ chẳng hạn, vẫn còn mang nặng tính tình trẻ con.
Thế nhưng tôi dám nói rằng nhìn tổng thể, đại đa số dân Việt khắp thế giới, vẫn là một tập thể chưa chín chắn, rất bồng bột, hơi ngây thơ và nhiều hoang tưởng. Nhìn vào các cộng đồng mạng xã hội mấy năm nay để thấy được cái tệ hại của sự thiếu trưởng thành và tính trẻ con thích cãi lộn. Có người đã nhận xét rằng hãy lên Facebook để thấy cái bản mặt xấu xí của dân Việt – the truly ugly side of Vietnameseness – với tính tình nặng chất trẻ con của họ là như thế nào.”
Tôi nghĩ anh ấy viết quá đúng.
Có thể lấy cách viết danh thiếp của giới có học Việt Nam ra làm một ví dụ. Chẳng biết từ khi nào mà người ta có cách viết như “PGS TS BS” trước tên một người. Tôi tự hỏi có cần thiết dài dòng như vậy không? Có lẽ đối với họ mấy chữ viết tắt đó là bùa cá nhân chăng? Nếu tôi mắc bệnh, tôi đi gặp BS, chớ chưa chắc tôi đi gặp mấy vị TS, còn PGS là chức vụ mấy bác ấy tôi không quan tâm.
Đôi khi chính tôi cũng vì mặc cảm dân tộc nên cũng có vài phát ngôn có thể xem là mặc cảm thấp kém. Hôm trong một hội nghị ở Singapore năm 2019, thấy mọi nước chung quanh phát biểu về những việc làm của nước họ làm tôi cũng tự ái dân tộc và nói rằng “Việt Nam tuy là nước nghèo, nhưng chúng tôi đã làm những nghiên cứu mà các nước trong vùng chưa làm.” Đêm về khách sạn, nằm suy nghĩ lại thấy phát biểu của mình có chỗ không cần thiết và trẻ con. Tại sao phải so đo với các nước khác? Nói vậy là mình đã thiếu tự tin. Đó cũng là thể hiện của hội chứng mặc cảm nổi trội vậy. Tôi tự điều chỉnh mình sau đó.
Câu chuyện nó cũng giống như trải nghiệm thời trẻ con ở dưới quê. Nếu chú ý cách đối thoại của bọn trẻ con, chúng ta dễ thấy chúng có cách nói ‘cương’, chúng hay tìm một điểm nào đó để làm điểm tựa. Chẳng hạn như nếu bị chê là học dở, thì y như rằng chúng sẽ nói ‘Nhưng nhà tao lớn hơn nhà mày.’ Khi bị chê là nghèo, chúng sẽ nói ‘Anh tao học giỏi hơn anh mày.’ Rất trẻ con.
Quay lại những mệnh đề như ‘Việt Nam anh hùng’, ‘Việt Nam không kém ai’, ‘Việt Nam vinh quang’, ‘Thủ đô ngàn năm văn hiến’, ‘Dân tộc ta vĩ đại’, v.v. tôi nghĩ không cần thiết có mặt trong các nghị luận công chúng. Những kiểu gân cổ hay phùng mang trợn mắt bằng ngôn ngữ như thế chỉ là biểu hiện của tâm lí thiếu tự tin, của hội chứng nổi trội và hội chứng thấp kém. Lãnh đạo đáng lí ra là người trưởng thành, nhưng cách nói của họ thì không phù hợp với giả định đó. Người phương Tây biết là trò trẻ con, nhưng họ không nói ra, còn ta thì chỉ tự ru ngủ mình.
Tôi rất hân hạnh giới thiệu đến các bạn một bài viết công phu về Nhà văn Trần Hoài Thư và phu nhân Nguyễn Ngọc Yến trong nỗ lực gìn giữ di sản nền văn học miền Nam trước 1975. Bài viết này xuất hiện đúng lúc, khi mà vài tuần trước ở trong nước người ta có một buổi toạ đàm về văn học miền Nam, nhưng họ gọi bằng một cái danh xách mé là sự trở lại của ‘Văn học đô thị miền Nam’. Thế là giới văn chương ở nước ngoài đặt ra nhiều câu hỏi thú vị, như văn học miền Nam có đi đâu mà phải trở lại, và cái ‘văn học đô thị miền Nam’ là một cách nói trịch thượng (còn dân gian gọi là ‘cà chớn’). Cách gọi đó không giúp gì cho nỗ lực hoà giải dân tộc. Sự thật là trước đây người ta đã đánh giá sai nền văn học miền Nam, nên mới dẫn đến đốt sách, tịch thu sách, cấm đoán, v.v. và nay sau 45 năm nhìn lại thì thấy người ta sai. Trong bài viết này của tác giả Ngô Thế Vinh, các bạn sẽ thấy hai vợ chồng Trần Hoài Thư và Ngọc Yến đã cất công gìn giữ di sản của nền văn học đó trong điều kiện vô cùng hạn chế. Ở trong nước thì công trình của đôi uyên ương này chắc là một ‘đề tài cấp Nhà nước’, nhưng với đôi uyên ương này thì họ làm vì một tấm lòng son và niềm tin vào chân thiện mĩ. NVT
_____________
Lời Dẫn Nhập: Trần Hoài Thư (THT) là một tên tuổi có trong danh sách các tác giả của Tuyển Tập Chân Dung VHNT & VH II, nhưng cũng để thấy rằng đây là một chân dung văn học rất khó viết, do đã có quá nhiều người viết về đủ mọi khía cạnh của THT. Hơn thế nữa cuộc đời và sự nghiệp của THT quá phong phú nên với một bài viết dù chỉ là phác thảo cũng vẫn là một thiếu sót. Gần đây, qua bao nhiêu biến cố dồn dập trong cuộc đời Trần Hoài Thư, đã đến lúc không thể không có một bài viết về người bạn văn, như một tấm thiệp mừng 50 năm ngày cưới – 50th Gold anniversary của đôi vợ chồng Nguyễn Ngọc Yến – Trần Hoài Thư, một “đám cưới nhà binh” của thế kỷ, với rất nhiều hạnh phúc cùng với nhiều khổ đau khi cả hai sắp bước vào tuổi 80. Cũng nhân đây, có một gợi ý với các bạn trẻ trong và ngoài nước đang chuẩn bị luận án tiến sĩ văn học, thì chân dung văn hoá của Trần Hoài Thư cùng với nỗ lực phục hồi Di Sản Văn Học Miền Nam 1954 – 1975 là một đề tài vô cùng phong phú và hấp dẫn, rất xứng đáng để các bạn khám phá và dấn thân vào. Các bạn cũng không còn nhiều thời gian – nói theo cách ví von của nhà văn trẻ Trần Vũ, chiếc kim đồng hồ trên tay anh Trần Hoài Thư đã chỉ 12 giờ kém 5 phút sắp qua nửa đêm và chỉ sau năm phút phù du đó, khi Trần Hoài Thư trở thành “người của trăm năm cũ”, tất cả sẽ bị lớp bụi thời gian mau chóng phủ mờ.
TIỂU SỬ TRẦN HOÀI THƯ
Trần Hoài Thư tên thật Trần Quí Sách, sinh ngày 16/12/1942 tại Đà Lạt. Tuổi thơ bị thất lạc cha, theo mẹ sống khổ cực ở thành phố Nha Trang, có một thời gian sống trong cô nhi viện Bethlehem Hòn Chồng. Sau khi được đoàn tụ với thân phụ – là một ông đồ còn mặc áo lương đen, THT mới được theo học trường Quốc Học Huế, rồi vào đại học Khoa học Sài Gòn. Từ năm 1964-1966 là giáo sư Toán đệ nhị cấp trường trung học Trần Cao Vân, Tam Kỳ tỉnh Quảng Tín (nay đã sát nhập vào tỉnh Quảng Nam).
Năm 1967, nhập ngũ khóa 24 SQTB Thủ Đức. Phục vụ tại đại đội 405 Thám kích sư đoàn 22 Bộ binh. THT bị thương 3 lần. Lần đầu tiên do một viên đạn AK VC bắn vào ngực trái khi đơn vị anh tới tăng viện cho mặt trận Quy Nhơn trong Tết Mậu Thân 1968, THT phải nằm Quân Y viện Quy Nhơn một thời gian. Hai lần sau đều là những vết thương miểng do lựu đạn trong hai cuộc giao tranh khốc liệt trên chiến trường Bình Định: một trên ngọn đồi Kỳ Sơn với 4 sĩ quan tử trận 2 sĩ quan còn lại bị thương trong đó có THT, một trên trận địa xứ dừa Bồng Sơn. THT rời đơn vị Thám kích sau 4 năm với 3 chiến thương bội tinh, rồi về làm phóng viên chiến trường ở vùng IV nơi anh mới có một người vợ đồng bằng – Ngọc Yến là một cô gái Cần Thơ mê văn anh, cho tới ngày 30/4/1975.
MỘT MỐI TÌNH VĂN CHƯƠNG
Trần Hoài Thư khởi sự viết văn từ năm 1964, có lẽ sớm hơn. Truyện ngắn đầu tay Nước Mắt Tuổi Thơ được đăng trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn. Ngoài Bách Khoa, những năm sau đó THT còn cộng tác với Văn, Văn Học, Đời, Bộ Binh, Thời Tập, Vấn Đề, Khởi Hành, Ý Thức…
Không biết cô gái Cần Thơ Nguyễn Ngọc Yến bắt đầu đọc và hâm mộ Trần Hoài Thư từ bao giờ. Trên Tạp chí Sóng Văn (1997), Ngọc Yến cho biết: “cũng vì yêu mến văn chương, nên duyên văn nghệ đã đưa chúng tôi gặp nhau,và nhà văn Nguyễn Lệ Uyên là ông mai”. Từ trước đến nay, tôi vẫn đinh ninh anh Lê Ngộ Châu chủ nhiệm Bách Khoa là ông mai. Qua Đỗ Nghê, tôi đã liên lạc được với Nguyễn Lệ Uyên, và anh đã mau mắn trả lời tôi ngay trong đêm qua một email [viết ngày 05.05.2021]:
“Chuyện là thế này: hồi học Sư Phạm Đại học Cần Thơ (1968), lúc làm hồ sơ nhập học bị trễ mấy ngày, bị làm khó. May sao gặp chị Yến làm ở phòng Hành Chánh của Viện nói giúp với ông Khoa trưởng. Sau đó thì thân nhau, bởi chị cũng biết tôi có võ vẽ mấy truyện ngắn trên Văn, Khởi Hành… mà chị thì mê văn chương, đọc nhiều, các tạp chí văn học chị hầu như ít bỏ sót, nên chúng tôi coi như chị em, chị lớn hơn tôi 7,8 tuổi. Những dịp nhận nhuận bút, tôi thường chở chị đi ăn món gì đó. Rồi trên số Văn chủ đề Những cây bút trẻ, lại có truyện của tôi và anhTrần Hoài Thư. Khi nhận nhuận bút, tôi mời chị đi ăn bún bò Huế ở quán ông Ba Mập ngoài Bình Thủy, trên đường đi Long Xuyên. Ăn, chị hít hà, chảy nước mắt và khen ngon. Trong lúc ăn, chị hỏi tôi có biết, quen anh THT không, có nhận xét gì về truyện anh Thư. Tất nhiên là quen nhiều, vì ảnh, từ Quy Nhơn hay vào chơi với anh em văn nghệ Tuy Hòa năm ba hôm, thường thì ăn uống rồi ở lại nhà tôi.
Thâm tâm, tôi chỉ nghĩ chị hỏi để hiểu rõ thêm về một tác giả, nhưng không ngờ, chị mê truyện anh Thư, mê các nhân vật khốn khổ của ảnh, như hiện thân của mộtTHT được bê nguyên xi vào truyện rồi yêu cả truyện và người viết!Tới cuối năm 69 đầu 70, nhóm sinh viên chúng tôi thực hiện chương trình ca nhạc, đọc, ngâm thơ hàng tuần ở giảng đường lớn, chị mới biểu lộ tình cảm thật của chị đối với anh Thư. Chị hỏi tôi gia cảnh, sinh hoạt cá nhân, tính tình… Vậy là đã rõ. Tôi ra sức vẽ vời anh THT còn hay hơn truyện tôi viết. Tôi sơn phết anh Thư cho tròn trịa hơn một chút, bặm trợn, lãng mạn như cụ Hemingway một mình giữa biển khơi.Tối đó, tôi viết cho anh Thư đến 4, 5 tờ pelures về chị Yến. Kể thật về điều tai nghe mắt thấy, về nhan sắc, tính tình của chị trong gia đình gia giáo (ông cụ thân sinh chị là GS Tổng Giám thị trường Trung học Phan Thanh Giản).Với anh THT, tôi viết thư nói đây là một mẫu người lý tưởng để làm vợ, anh đừng để mất cơ hội. Chị Yến thì gần, gặp nhau hai chị em nói chuyện thơ văn, tán dương ông anh Qúi Sách, khuyến khích chị viết thư làm quen với các nhân vật của ảnh. Sau vài ba lần như vậy, tôi nói thẳng với chị: Anh Thư là một người tuy không hoàn hảo, nhưng sẽ là người chồng tốt…” [hết trích dẫn]
Từ đó địa chỉ Tòa soạn Bách Khoa, trở thành hộp thư để cô gái miền Tây làm quen và liên lạc với người lính lang bạt Trần Hoài Thư. Sau đó Bách Khoa cũng là điểm hẹn cho lần gặp gỡ đầu tiên của hai người. Rồi trong một chuyến về phép ngắn ngủi, Thư có hẹn lần đầu gặp Yến ở Bách Khoa. THT vui bạn bè nên trễ buổi hẹn với Yến. Khi Đỗ Nghê chở Thư tới 160 Phan Đình Phùng thì Yến đã giận bỏ đi. Và cũng chính anh Lê Ngộ Châu đã tất bật đuổi chạy kịp theo Yến đưa trở lại toà soạn gặp THT. Những kỷ niệm trân quý với anh Lê Ngộ Châu là điều mà mãi sau này THT không bao giờ quên. Rồi không lâu sau đó hai người nên duyên vợ chồng. Thư đã làm lễ thành hôn với Yến ngày 18/6/1971.
Nguyễn Lệ Uyên viết tiếp: “Cuối cùng, như duyên tiền định với tô bún bò Huế cay xè tôi đãi chị, hai người hẹn hò nhau ở tòa soạn Bách Khoa, đến tháng 6,1971 hai người làm đám cưới; khi ấy tôi đang ở quân trường Thủ Đức, nhận được thư chị viết mấy dòng ngắn: Chị và anh Thư cưới nhau, ngày… tháng… năm… Em gắng lấy giấy phép về dự, không anh chị buồn”.
Đúng là một “đám cưới nhà binh” tại Sài Gòn không thể nào đơn giản hơn, chỉ với mươi người bạn nơi một căn nhà trong xóm Bàn Cờ, không có rước dâu cũng không có cả nhẫn cưới.
Một tuần lễ sau, ngày 23/6/1971 Cơ sở Xuất bản Ý Thức tổ chức một buổi ra mắt sách cho Trần Hoài Thư với tác phẩm đầu tay “Những Vì Sao Vĩnh Biệt” có Trần Phong Giao thư ký toà soạn Văn tới tham dự.
TIỂU ĐĂNG KHOA ĐẠI ĐĂNG KHOA
Trong tờ Văn 181 tháng 07/1971, nhà văn Trần Phong Giao viết: “Người xưa coi đại đăng khoa là thi đỗ, tiểu đăng khoa là cưới vợ. Đối với người cầm bút trẻ thời nay, phải “xếp bút nghiên theo việc đao cung” thì đại đăng khoa không còn là thi đỗ, mà (có lẽ vậy) là có tác phẩm được in. Cây bút trẻ Trần Hoài Thư viết rất nhiều hiện nay, qua cả tiểu lẫn đại đăng khoa, cùng lúc. Ngày 18 tháng 6, anh đã làm lễ thành hôn với cô Nguyễn Ngọc Yến tại Sài Gòn trong vòng thân mật. Ngày 23 tháng 6, vào hồi 19 giờ 30, Cơ sở Xuất bản Ý Thức vừa tổ chức một buổi tiếp tân trình diện tập truyện đầu tay của Trần Hoài Thư “Những Vì Sao Vĩnh Biệt”. Tiểu đại đăng khoa xong, Trần Hoài Thư vội vã lên đường trở về đơn vị ở Quân khu II. Lính chiến chỉ có một tuần nghỉ phép. Chạy ngược chạy xuôi, không có tuần trăng mật, cũng như không kịp đem sách mới đi tặng anh em bà con. Vui vậy đó! Nhân dịp vui mừng này, chúng tôi xin có lời cầu chúc đôi bạn Thư -Yến một hạnh phúc bình dị, lâu dài và bền chặt, Cũng xin cầu chúc tác giả “Những Vì Sao Vĩnh Biệt” sẽ sớm có thêm nhiều tác phẩm mới khác, những tác phẩm não tuỷ và tinh tuỷ.”
Một năm sau, đứa con trai đầu lòng Trần Qúi Thoại cũng là đứa con duy nhất chào đời. Đôi uyên ương Thư-Yến cho dù qua bao thăng trầm, họ đã có một cuộc sống lứa đôi hạnh phúc bình dị, lâu dài và bền chặt cho tới bây giờ, đúng một nửa thế kỷ (1971 – 2021).
Sự thực tác phẩm đầu tay của Trần Hoài Thư là cuốn Nỗi Bơ Vơ của Bầy Ngựa Hoang cũng do cơ sở Ý Thức xuất bản năm 1969, tại Phan Rang một tỉnh lỵ nhỏ của miền Nam, dưới hình thức “phổ biến hạn chế” theo cái nghĩa không qua kiểm duyệt. Mẫu bìa 2 màu do Lê Ký Thương vẽ, bản kẽm bìa làm từ Cliché Dầu Sài Gòn, được in typo bằng máy đạp / pedal thô sơ, và in 2 lần, mỗi lần cho một màu chồng lên nhau. Ruột sách thì in ronéo và khi thực hiện trên giấy stencil, được chị Kim Phương bạn của Nguyên Minh canh lề bằng chân sao cho giống bát chữ typo. Đợt đầu 100 ấn bản được ra mắt và phát hành từ nhà sách Huy Hoàng Nha Trang, cũng là quê hương tuổi thơ nghèo khó của Trần Hoài Thư. Và kết quả Nỗi Bơ Vơ của Bầy Ngựa Hoang đã được độc giả miền Nam đón nhận trong sự ngạc nhiên và thích thú.
Như vậy, Những Vì Sao Vĩnh Biệt phải được kể là tác phẩm thứ hai của Trần Hoài Thư nhưng là tác phẩm thứ nhất hoàn toàn được in theo kỹ thuật typo.
PHÓNG VIÊN CHIẾN TRƯỜNG VÙNG IV
Trần Hoài Thư sống sót sau 4 năm trong một trung đội Thám kích, với 3 lần bị thương, được coi như một phép lạ. Sau khi lập gia đình, Trần Hoài Thư đã nghĩ tới dừng chân lại. Phải được sống và tiếp tục được viết như một nhân chứng. Rồi bằng một cách thế không giống ai, không tuân theo hệ thống quân giai, một lỗi rất nặng về quân kỷ, Trần Hoài Thư tự viết một thư riêng cho vị tướng cao cấp nhất trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị, với nguyện vọng vẫn được ở trong quân ngũ nhưng chuyển ngành sang làm một phóng viên chiến trường. Trong phong thư riêng ấy, có những trang báo, những bài viết, những tác phẩm đã xuất bản và dĩ nhiên cả những tin tức liên quan tới ba lần bị thương cùng với các huy chương.
Không phải chờ đợi lâu, một sự việc lạ lùng nhất đã xảy ra. Trần Hoài Thư đã viết báo tin ngay cho Yến: “Không thể tưởng tượng cho một kẻ xuất thân từ đơn vị hai quản trị mà tờ sự vụ lệnh vẫn còn ghi: sĩ quan đương sự phải phục vụ ở đơn vị tác chiến, xa trục lộ giao thông. Nhưng cái công điện đánh lên từ Tổng cục Chiến tranh Chính trị, cho biết Tổng cục chấp thuận ý nguyện của anh và hỏi anh muốn về nơi nào: vùng I, II, III, IV hay thủ đô. Dĩ nhiên anh chọn vùng IV nơi có Yến, người nữ độc giả của anh, và nay trở thành người vợ mới cưới của anh. Có lẽ anh may mắn hơn cả những người may mắn, bởi vì khó có ai được quyền lựa chọn một đơn vị mình ưa thích trên toàn cõi miền Nam như anh.”
Như một tự sự, THT viết: “Xin cảm tạ văn chương. Nhờ văn chương mà tiếng chuông ngân vang, như những niềm vui lẫn tự hào kỳ diệu. Nhờ văn chương mà ta quên đi thân phận nhục nhằn, nhờ văn chương mà ta thấy ta cao lớn hơn bao giờ.”
Hành Phương Nam là những dòng chữ mới mẻ của một Trần Hoài Thư khác, của một người lính đang từ Cao nguyên nay xuống dưới Đồng bằng:
“Phương Nam. Tôi bắt đầu làm quen với những chiếc xe lôi hay những chiếc xuồng tắc ráng. Hay những cánh đồng mênh mông bạt ngàn. Hay những rừng tràm rừng đước. Tôi bắt đầu làm quen với những bãi đầm sình lún ngập đến cổ người. Những hàng ô môi, những chòm bông điên điển, những lời kinh giảng vang vọng trong đêm trăng, những tấm lòng hiền như đất, trọng tình trọng nghĩa mà tôi đã gặp. Tôi cám ơn, rằng cuối cùng Ơn Trên đã cho tôi một cõi nương tựa sau những tháng ngày lênh đênh trôi nổi… Cánh cửa đã mở ra như Phương Nam đã mở ra, đón tôi. Có mùi thơm khó có thể quên của bông lúa, hương cau, của mùi đất phù sa lan toả. Cánh cửa ấy đã được kết bằng những chùm mận trĩu nặng trên cành, rực đỏ giữa màu xanh của lá. Nơi nào, từ vườn sau nhà, hay bên dòng kênh, hay trước nhà, hay cạnh bờ ao, hai bên đường quốc lộ, những vườn mận sum suê trái quả. Có trái màu đỏ, có trái màu xanh, trái ửng hồng. Mời mọc ngọt lịm như đôi môi hồng muốn cắn, no đầy tròn trịa như bầu ngực con gái thanh tân, bầu bĩnh au au như đôi má ửng hồng của người gái quê quấn chiếc khăn sọc vằn chèo thuyền xuồng đưa người qua sông trong một ngày mùa hạ để bắt người khách không muốn về:
Qua sông mùa mận chín Tháng nắng ngại đường xa Em ra vườn sau nhà Hái mời anh chùm mận Bông mận rơi lấm tấm Da mận hồng như môi Ôi con mắt có đuôi Má hồng đào ửng đỏ Si em người em nhỏ Ta ở mãi quên về Trái mận nào dậy thì Ta giữ hoài không cắn…
‘NGƯỜI VƯỢN’ TRẦN HOÀI THƯ
Nhưng rồi cũng chẳng được bao lâu, tới ngày 30/4/1975 lại một đổi đời. Trần Hoài Thư bị bắt đi tù cải tạo khi thằng con trai mới 2 tuổi. Cây mận trước sân nhà bông đã nở trắng, trắng như tóc của bà ngoại nó.
Hơn 4 năm tù khổ sai, mấy tháng đầu bị giam tại Trung tâm Huấn luyện Chi Lăng cũ, thuộc huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang; sau đó THT bị chuyển qua trại tù Kiên Lương, trong một khu đầm lầy còn hoang vắng phía tây bắc tỉnh Kiên Giang gần biên giới với Cam Bốt.
Kiên Lương cũng như mọi trại tù cải tạo cộng sản khác, không bỏ tù nhân chết đói nhưng luôn luôn phải thiếu ăn. Thiếu ăn ngay giữa một vựa lúa ĐBSCL có thể nuôi sống cả nước.
Nhân danh nhân đạo, ban quản giáo trại cho phép đám tù nhân được lập thêm toán cải thiện: trồng rau trái và hái lượm để có thêm chất xanh. Vì Kiên Lương là vùng trũng [thuộc khu tứ giác Long Xuyên, vùng trũng thứ hai là Đồng Tháp Mười], giữa mênh mông rừng tràm với rất nhiều tôm cá, cua ốc. Với cơ duyên đó THT tình nguyện xung phong ngay vào nhóm đi câu, gọi là nhóm chứ đó là thứ lao động mà đám tù nhân muốn xa lánh: do sợ đỉa vắt và cả vô số trăn rắn trong khu rừng tràm; họ còn sợ nước phèn ăn da thịt và cả sợ sa chân vào vùng đất lún trong khu đầm lầy. Do nghĩ rằng chẳng có lối nào mà trốn thoát, nên lính canh trại cũng không cần phải đi theo canh gác. Với THT đó lại chính là cơ hội để có những khoảnh khắc sống tự do cho một tên tù thám kích đã quá quen với mưu sinh và thoát hiểm. Chàng Robinson Crusoe bất đắc dĩ thời hiện đại THT viết: “Tôi thì muốn tránh những con mắt. Tôi muốn trong rừng tôi có quyền la hét, hát hò, ỉa đái, cười ha hả. Tôi muốn ôm lấy đời tôi cùng thiên nhiên, mây trắng. Tôi muốn ngồi trên cây tràm như một con vượn người.”
Do nguồn cá thì ê hề: cá lóc, cá trê, cá rô… câu được với lưỡi câu tự chế với mồi trùn, những con trùn béo nhẫy rất dễ kiếm. Người tù khổ sai THT mỗi ngày dễ dàng “đạt chỉ tiêu” với số ký cá bỏ vào bao cát mang về nộp cho tổ anh nuôi. Dĩ nhiên phần cá ngon thì anh nuôi phải lựa ra nộp đem cho cán bộ quản giáo, phần còn lại mới là nguồn chất đạm / protein cải thiện cho anh em.
Hình ảnh mà THT không bao giờ quên là khuôn mặt đen đủi của Yến bám đầy bụi than mỗi lần đi thăm nuôi, do phải đi những chuyến xe đò cải tiến chạy bằng than củi.
Rồi cũng ra tù, THT trở về Cần Thơ quê vợ, với tấm thân xác nặng chưa tới 35 ký lô, để tiếp tục sống những ngày bị quản chế.
Ban ngày THT gò lưng trên chiếc xe đạp cũ nát với một thùng mốp cà-rem, đi vào các làng mạc, sáng chiều lắc chuông bán dạo, làm bầu bạn với đám con nít để kiếm sống. Cũng chính cái nghề rung chuông mua vui cho con nít ấy đã khiến một ông chủ ghe cảm kích, hơn nữa ông cũng đang cần một người dò đường mà đó cũng là nghề của chàng sĩ quan Thám kích THT. Ông cho Thư một vé xuống ghe “miễn phí” vì biết Thư quá nghèo. Chỉ có một chỗ, nhưng Thư thì còn vợ và một đứa con. Mãi sau này Thư mới được biết, chính Ngọc Yến vợ anh đã lén lút tìm đến ông chủ ghe năn nỉ. Ông chủ ghe nói: ‘Chị suy nghĩ lại, chúng tôi không muốn làm anh chị phải chia lìa’. Nhưng Yến vẫn cương quyết: ‘Tôi sẵn sàng để cho chồng tôi ra đi. Xin ông cứu giùm ảnh.’
Trần Hoài Thư viết: “Ở lại hay ra đi? Tôi đã sống trong sự giằng xé ghê gớm ấy. Ở lại thì ôm nhau mà chết, mà ra đi thì tôi sợ là một lần vĩnh viễn. Tôi đã thấy con thuyền ấy. Khoảng 20 thước bề dài, thuyền ván mong manh, chỉ dành đi trên sông sao lại đem nó ra thử với biển sóng hãi hùng?” Chính Yến giục giã chồng không thể bỏ qua cơ hội mà phải ra đi. THT viết tiếp: “Tôi chấp nhận. Tôi hèn nhát để chấp nhận. Ích kỷ để chấp nhận.
Rồi trước khi đi tôi phải đóng kịch, phải làm sao hàng xóm láng giềng biết việc tôi đào thoát không có sự đồng loã của gia đình. Nếu không Yến sẽ bị đuổi việc, vì sát bên vách là nhà của một mụ đảng viên. Không ai khác hơn chính bà mẹ Yến, một bà mẹ quá hiền quá tội, mẹ chưa một lần nói dối, lại là tác giả của vở tuồng cười ra nước mắt này. Bà khuyên hai con: “Con à, mình phải đóng tuồng. Hai vợ chồng con giả bộ gây lộn để hàng xóm biết, từ nay hai vợ chồng con mạnh ai nấy đi. Con hẳn biết, bên nhà hàng xóm là đảng viên.”
Tôi phải chứng tỏ rằng tôi bỏ bê, phụ bạc vợ con. Vở kịch chỉ có hai diễn viên. Người chồng và người vợ. Không gian là cái bếp. Thời gian là buổi chiều. Chỉ có chai đập nồi liệng, tiếng hét tiếng la, tiếng khóc, lớn chừng nào tốt chừng ấy. Với tiếng của Thư: Tao chán cái nhà này quá rồi. Tao sợ cái nơi này quá rồi. Tao đập hết, tao phá hết. Rồi với tiếng Yến: Tới nay thì liên hệ giữa tôi và anh kể như chấm dứt… Vai vợ chồng tôi đóng xuất sắc lắm. Đến nỗi thằng con trai 6 tuổi của tôi phải sợ hãi khóc oà. Và bà má vợ tôi phải sụt sùi nước mắt. Và chỉ có ba người biết rõ những gì trong lòng.
Tôi đi khi con tôi ngủ như một thiên thần. Tôi đi chỉ có một bộ đồ độc nhất. Vợ tôi đứng đầu ngõ dõi mắt nhìn theo. Sau đó nàng vào lại buồng chúng tôi ôm gối mà khóc ngất, khóc như chưa bao giờ khóc như vậy.” Và đó là một ngày cuối năm 1979, ngày anh đi cũng là ngày “xả chế”, chúng trả lại anh quyền công dân.
TỰ DO HAY LÀ CHẾT
Phải bỏ lại vợ con, Trần Hoài Thư vượt biển trên một chiếc ghe nhỏ đi sông dồn nén cũng chở được 93 người. Chuyến đi gian truân nhưng cuối cùng cũng tới được bến bờ tự do, đảo Pulau Bidong Mã Lai.
“Cuối cùng anh cũng quỳ xuống trên bãi cát để cảm tạ Ơn Trên. Tự do, mơ ước là đây. Biển bây giờ sao quá êm và quá xanh biếc. Sóng bây giờ sao quá đỗi hiền từ. Anh quỳ, dù hai tay anh đã che đỡ những cú đánh, cú thoi, cú đá từ người lính Mã Lai. Anh nhắm mắt lại, không kêu đau, không van xin. Để biết thêm về cái giá của một cuộc ra đi và thấm thía thêm thân phận của một người không có đất nước. ‘Này đất này là của vua ta, bãi biển này là bãi biển của vua ta… Còn ngươi, một thằng từ đâu lạc chợ trôi sông, mang bao khổ luỵ phiền toái tới đất nước này.’
… Cứ chửi, cứ rủa đi anh lính đội chiếc nón bê-rê đen, cầm thêm cây gậy, bên mình lủng lẳng khẩu súng ngắn. Tự do đâu phải quá dễ dàng như một lần du ngoạn. Bao nhiêu người đã không may. Bao nhiêu người đã nằm dưới lòng biển. Bao nhiêu người con gái đã bị hãm hiếp và bị bắt cóc. Và có người con gái tóc dài tung toé, nhảy ào xuống biển. Còn nữa, còn bao nhiêu người đã lênh đênh trong vô tận của ngày của đêm, không thức ăn, nước uống, trên những vùng đá ngầm san hô, cá mập… Tự do hay là chết. Chết hay là tự do. Anh cứ đập tôi đi, nhưng cơn đau bầm của tôi, bụm máu khạc ra từ cửa miệng tôi, đâu có thấm gì với cái bóng tối mà tôi bỏ lại. Tôi đã chờ đợi quá lâu, trong ngôi nhà mồ. Tôi đã muốn nhảy xuống biển tự tử khi nghĩ đến một lần họ bắt tôi trở lại. Bây giờ là ánh sáng rồi. Nó đã rực rỡ như muôn ngàn hào quang ân sủng. Nó vô hình vô dạng nhưng nó nồng nàn như mùi thuốc hồi sinh trong phòng cấp cứu. Tôi không buồn hay giận anh đâu. Bởi vì, tôi sẽ đứng lên, dù run rẩy đi nữa, dù đau tận cùng đi nữa.” (6)
Khi Tôi Đi Rồi, bài thơ đầy cảm xúc của Trần Hoài Thư khi phải cắn răng bỏ lại vợ con, lao mình ra biển khơi đi tìm tự do:
“… tôi ra đi thành thị sau lưng chào từ biệt, quê hương mình lần cuối tôi có thằng con chưa đầy bốn tuổi* tôi có mẹ già tóc bạc tợ sương tôi có vợ tôi cay đắng đoạn trường đêm nay, đêm nay, trời ơi bỏhết khi tôi đi rồi một là chết biển hai là bỏ xứ làm kẻ lưu vong khi tôi đi rồi hai bàn tay không giữa vùng mênh mông ngàn trùng bát ngát khi tôi đi rồi, chắc hồn khó thoát bởi quê hương cứ giữ chặt, không buông” … (* Năm 1979, con của Trần Hoài Thư – Ngọc Yến lúc đó 6 tuổi)
Trên đảo, tuy phải mòn mỏi chờ đợi nhưng là của hy vọng. Khi có phái đoàn Mỹ tới phỏng vấn, THT được hỏi có gì chứng minh ông là sĩ quan hay lính miền Nam, THT cởi áo vạch ngực chỉ vết thương đạn với sẹo lớn cắt đứt một núm vú nơi ngực trái; sang câu hỏi thứ hai ông dự tính làm gì nếu được vào Mỹ, THT nói anh là nhà văn anh sẽ tiếp tục viết về những nỗi khổ của miền Nam trong và sau chiến tranh. Không hỏi gì thêm, người Mỹ phỏng vấn tươi cười bắt tay anh và chúc may mắn. Rất sớm sau đó, THT được đi định cư tại Mỹ, thời gian đầu anh được đưa tới Maryland, sống tạm bợ tá túc khi thì trong một ngôi chùa nhỏ, khi trong nhà thờ rồi lang bạt qua nhiều nơi khác nhau sau đó.
NGỌC YẾN NỖI KHỔ NGƯỜI Ở LẠI
Trước 1975, Ngọc Yến là nhân viên hành chánh của Viện Đại học Cần Thơ, là thư ký của Giáo sư Viện trưởng Nguyễn Duy Xuân. Sau 1975, Gs Nguyễn Duy Xuân bị cộng sản bắt đi tù cải tạo 11 năm, cuối cùng chết tức tưởi ở trại tù Hà Nam Ninh, miền Bắc Việt Nam.
Chuyện chỉ được Yến kể lại về sau này, là sau 1975, chức thư ký cho Gs Viện trưởng của Yến ban đầu được “cách mạng” đánh giá là quan trọng: Ngọc Yến như là “bí thư” của Gs Nguyễn Duy Xuân, có thể là đối tượng bị thanh lọc để cho đi học cải tạo. Nhưng do ý kiến “nhân dân”, đám công nhân viên cũ bảo rằng Yến chỉ là một thư ký hiền lành lo giấy tờ, đánh máy trong văn phòng chứ chẳng có một quyền hành gì khác, và Yến đã không bị bắt đi cải tạo, không bị sa thải.
Nhưng vẫn chưa yên, sau khi chồng đi rồi, Yến là đối tượng được chăm sóc của đảng uỷ nhà trường. Yến luôn luôn được nhắc nhở rằng chồng chị là một tên sĩ quan Nguỵ phản quốc đã trốn đi, chị hãy quên nó đi để xây dựng cuộc đời mới. Khi ấy Ngọc Yến là gái một con, còn trẻ đẹp nên có nhiều cán bộ theo bám. Rồi Yến được đảng uỷ chuẩn bị tác thành cho lấy một tên Đại uý phục viên và cũng là cán bộ của trường. Đang là công nhân viên, tuy với đồng lương chết đói nhưng Yến cần phải giữ hộ khẩu với sổ lương thực cho hai mẹ con. Uất hận nhưng Yến không dám dứt khoát nói không và chỉ xin cho một thời gian nguôi ngoai.
Đầu năm 1980, khi biết được tin chồng đã đi thoát, Ngọc Yến quyết định bế đứa con trai chưa đầy 7 tuổi tìm ghe vượt biên, cũng lại là một “chuyến đi chùa” do một ông chủ ghe có tâm Phật cho đi. Thêm chuyến đi thừa sống thiếu chết với đói khát nhiều ngày trên biển cả, rồi gặp hải tặc và tiếp theo đó những ngày dài phải bồng con đi ăn xin nơi một ngôi làng hẻo lánh bên Thái Lan.
TỚI NGÀY MỘT GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ
Trần Hoài Thư kể lại, không hiểu bằng cách nào, Đại tá Nguyễn Bé nguyên chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Cán bộ Xây dựng Nông thôn Chí Linh Vũng Tàu, có được số phone của THT. Ông báo cho Thư biết là có nhận được một phong thư gửi từ Thái Lan. Không chờ thư chuyển, Thư yêu cầu Đại tá Bé mở thư đọc qua phone, chỉ có vẻn vẹn một câu: “Em và con đã tới Thái Lan.”
Nhờ phước đức ông bà nay anh sẽ lại có một gia đình đoàn tụ. Sắp bước vào cái tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”, THT thấy chỉ có một con đường tiến thân duy nhất là đi học trở lại. Từ Maryland, theo lời khuyên của một người bạn trẻ gặp được trong nhà thờ, THT quyết định đưa gia đình sang Philadelphia. Do không có tiền nên phải thuê một căn phòng giá rẻ trong một khu “slum” phía bắc thành phố, nghèo nàn mất an ninh, cư dân đa phần gồm nhóm người tỵ nạn Đông Dương như Lào, Cam Bốt và Việt Nam mới tới. Chỉ có một tay Đại Hàn hảo hớn là dám mở một tiệm Grocery store nơi đây. Đám tội phạm thường là từ bên ngoài đến, ra vào như chỗ không người. Có lần ban đêm, thấy cửa hàng Đại Hàn dưới lầu bị trộm phá cửa với các thùng hàng lớn nhỏ lũ lượt được khiêng ra. THT kêu 911, thì được sở cảnh sát cho biết: cửa hàng ấy đã có bảo hiểm, họ sẽ được bồi thường, và cảnh sát còn lưu ý là nên thận trọng, vì nếu tụi nó biết có người báo cảnh sát có thể bị trả thù. Hiểm nguy rình rập nhưng không có chọn lựa nào khác, gia đình THT vẫn phải tiếp tục sống trong khu ổ chuột ấy, trong một căn phòng chật hẹp với cửa sổ luôn luôn đóng kín, có đóng thêm cả đinh nhọn 10 phân làm chông.
Trần Hoài Thư đi học, vợ đi làm công nhân lắp ráp đồ điện tử với đồng lương tối thiểu. Thằng con trai thì được ba hoặc mẹ dẫn đến trường và hết giờ học thì nó phải tự về nhà một mình. Nó còn nhỏ và quá thấp để có thể với tới ổ khoá, vợ chồng Thư phải kê thêm hai cục gạch để nó có thể vói tới ổ khoá mở cửa vào nhà. THT lúc đó là sinh viên toàn thời gian ngành điện toán của Spring Garden College, ban ngày đi học, ban đêm thì làm janitor quét dọn phòng ốc để có thể trang trải cuộc sống.
Hai vợ chồng Thư đều biết luật pháp ở Mỹ, cho dù có lý do bận sinh kế đi nữa nhưng việc bỏ con nhỏ vị thành niên ở nhà một mình là phạm pháp. Vợ chồng vẫn phải luân phiên gọi điện thoại về thăm chừng con, khi không thấy ai lên tiếng, không biết chuyện gì xảy ra cho con, Thư phải tức tốc bỏ học về nhà nhưng đa phần là do nó ngủ quên không nghe chuông reng.
Rồi THT cũng xong học trình 4 năm, Thư tốt nghiệp điện toán với thứ hạng cao trong nhóm top five. Khi hãng AT&T tới trường tuyển chọn sinh viên vừa tốt nghiệp với thứ hạng cao, THT qua được cuộc Interview khó khăn, và ít lâu sau đó được nhận vào làm cho một chi nhánh của hãng này ở tiểu bang New Jersey. Đó là lý do gia đình THT dọn về đây, nơi có rất ít người Việt. New Jersey từ nay là nơi đất lành chim đậu. Ban đầu Thư ở nhà thuê, không còn phải lao động tay chân cực nhọc như một blue-collar worker, với đồng lương khá hơn hai vợ chồng dành dụm mua được căn nhà 4 buồng như hiện nay. Rồi thằng Thoại xong trung học, điểm cao nên được nhận vào trường Y khoa chương trình 7 năm, thuận buồm xuôi gió, nó tốt nghiệp bác sĩ y khoa.
Trong công việc của hãng, Thư chứng tỏ rất có khả năng và có sáng kiến, lại giỏi toán. Như một đầu tư lâu dài, hãng AT&T trả tiền cho Thư đi học thêm bán thời gian. Sau hai năm, Thư đậu thêm văn bằng Cao học Toán Ứng dụng / Master of Applied Mathematics. Nghiệp vụ tiếp tục thăng tiến. Khi chi nhánh của Thư được chuyển nhượng cho hãng điện toán IBM, Thư lên tới chức vụ Project Leader cho tới khi nghỉ hưu.
PHỤC HỒI DI SẢN VĂN HỌC MIỀN NAM
Từ năm 2001, tuy còn đi làm Trần Hoài Thư đã cùng với người bạn lính Phạm Văn Nhàn, người bạn văn thuở nào. Hai người sáng lập tạp chí Thư Quán BảnThảo và nhà xuất bản Thư Ấn Quán.
Khi chi nhánh của công ty IBM outsourcing chuyển qua Ấn Độ, THT quyết định nghỉ hưu. Không còn bận bịu về sinh kế, đây cũng là thời điểm Thư có thể thực hiện điều mơ ước. THT có toàn thời gian bắt tay vào việc thực hiện tủ sách DI SẢN VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM.
Trần Hoài Thư có hùng tâm và gần như đơn độc trong suốt nhiều năm nỗ lực khôi phục lại những văn bản của một thời kỳ văn học bị CS Việt Nam trong nước đã không ngừng truy lùng và huỷ diệt.
ĐƯỜNG XA CHI MẤY: TỚI THƯ VIỆN CORNELL
Qua các thư viện Đại học lớn ở Mỹ, Thư có thể tìm ra một số sách báo miền Nam. Tương đối gần nhà là thư viện Đại học Yale, chỉ cách nhà 2 tiếng lái xe, nơi có học giả Việt Nam nổi tiếng Huỳnh Sanh Thông, người đã dịch truyện Kiều của Nguyễn Du sang tiếng Anh, ông cũng là người giúp nhà văn Võ Phiến tài liệu để hoàn thành bộ Văn Học Miền Nam. Rồi đến thư viện Đại học Cornell tuy xa hơn, cách nhà 5 tiếng lái xe, nhưng thư viện Đại học Cornell, khu Đông Nam Á châu phải nói là nơi có đầy đủ sách báo miền Nam nhất.
Thường thường Trần Hoài Thư chỉ lái xe ban ngày lúc trời còn sáng, còn Yến giúp lái xe ban đêm vì biết chồng dễ ngủ gục khi lái. Đường rất nguy hiểm, có đoạn là đường núi, nhiều khi tuyết băng đông đặc. Cũng hai lần suýt chết vì tai nạn khi đi Cornell trên những đoạn đường mưa tuyết trơn trợt. Và không thể tưởng tượng được, tại Cornell sách báo Tiếng Việt của miền Nam rất là dồi dào thế nào; họ có cả tờ truyền đơn chiêu hồi cũng được lưu trữ.
Có lẽ do bản chất của dòng máu thám kích nên THT rất liều lĩnh với những bước chân khai phá. Rời nhà lúc 4 giờ sáng trời còn tối Yến lái xe, khi trời sáng là phiên THT. Thường là tới nơi thư viện Cornel lúc 10 giờ sáng. Đằm mình trong khu thư viện Á châu, lục lọi tìm tòi, ghi chép, làm photocopy cho tới sẩm chiều – ngoài một lunch break ngắn của hai vợ chồng, cho tới giờ ra về. Không phải chỉ một ngày, mà nhiều ngày, không phải một tuần mà nhiều tuần, trong nhiều năm như vậy. Nhiều chục ngàn trang sách thơ văn miền Nam của Thư Ấn Quán là thành quả tích luỹ của công sức bền bỉ của vợ chồng Trần Hoài Thư trong nhiều tháng, nhiều năm, cho tới năm 2012.
Về máy móc thì THT lên Craigslist tìm kiếm đồ phế thải. Có khi họ cho không, có khi họ bán rất rẻ. Sau khi thỏa thuận, họ cho biết địa chỉ, mình đến, với cái screwdriver trong túi. Họ hỏi máy nặng cả tấn sao ông lại khiêng nổi? Tôi cười, tao biết cách. Rồi tháo máy ra, đến mức không thể tháo. Fuser, ngăn giấy, mực, assembly parts, khung… Mấy anh chàng Mỹ trố mắt nhìn, ngạc nhiên. Chỉ có mực là mới có vấn đề. Lên eBay mua, nhưng làm sao biết ống mực tốt hay xấu?
Vậy mà đã 46 năm qua đi 1975-2021, với đời người như một cơn gió thoảng, với lịch sử chỉ là một chớp mắt, nhưng lại là một chặng đường rất dài trải nghiệm những tang thương. Thêm một chớp mắt nữa, thế hệ những người cầm bút 1954-1975 đều trở về với cát bụi, một số có thể còn được nhắc tới qua tác phẩm nhưng rồi cũng phải kể tới cuộc sống đầy đoạ và cả những cái chết tức tưởi của họ trong các trại tù cộng sản. Nói tới Văn Học Miền Nam, không thể không có một “cuốn sách trắng/ livre blanc” về thời kỳ đó, một Wikipedia mở, như một “bộ nhớ” cho các thế hệ Việt Nam tương lai.
Tác phẩm đã xuất bản:
Trước 1975
1. Nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang; 2. Những vì sao vĩnh biệt; 3. Ngọn cỏ ngậm ngùi; 4. Một nơi nào để nhớ.
Sau 1975
VĂN
1. Ra biển gọi thầm (Tập truyện); 2. Ban Mê Thuột ngày đầu ngày cuối (Tập truyện ); 3. Về hướng mặt trời lặn (Tập truyện); 4. Mặc niệm chiến tranh (Tập truyện); 5. Đại đội cũ, trang sách cũ (Tập truyện); 6. Thế hệ chiến tranh (Tập truyện); 7. Thủ Đức gọi ta về (Tạp bút); 8. Đánh giặc ở Bình Định (tự truyện); 9. Hành trình của một cổ trắng (truyện vừa); 10. Ở một nơi trênTrường Sơn (tập truyện); 11. Truyện từ Bách Khoa (Tập truyện); 12. Truyện từ Văn (Tập truyện); 13. Truyện từ Trình Bầy, Văn Học, Khởi Hành… (Tập truyện); 14. Truyện từ Vấn Đề (Tập truyện); 15. Tản mạn văn chương (tập I); 16. Giấc mơ Giáng Sinh (Tập truyện); 17. Cảm tạ Văn chương (Hồi ức).
THƠ
1. Thơ Trần Hoài Thư; 2. Ngày vàng; 3. Nhủ đời bao dung; 4. Ô cửa; 5. Xa xứ; 6. Quán; 7.Vịnvào lục bát HAI TÁC PHẨM THẤT LẠC SAU CHIẾN TRANH
1. Của Chiến Tranh; 2. Một Ngày Gạo Ba Ngày Hành Quân.
Trong quân ngũ và ngay cả giai đoạn bỏ ngũ, Trần Hoài Thư viết rất khoẻ. Chỉ trong hai tháng sống ở Tháp Chàm với Phạm Văn Nhàn, Thư đã viết xong một truyện vừa có nhan đề Của Chiến Tranh, giao cho Thầy Từ Mẫn Võ Thắng Tiết * giám đốc nhà xuất bản Lá Bối lúc đó nhưng không sao qua được kiểm duyệt, và sau tháng Tư 1975 thì bản thảo duy nhất bị thất lạc.
[ *Sau 1975, anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết cũng là một thuyền nhân, đi cùng chuyến tàu với nhà văn Nhật Tiến, ban đầu sinh sống ở Alaska, rồi xuống ở Nam California, anh thành lập nhà xuất bản Văn Nghệ rất có uy tín ở hải ngoại trong nhiều năm trước khi anh nghỉ hưu ].
Tác phẩm thứ hai, Một Ngày Gạo Ba Ngày Hành Quân cũng là một truyện dài, được giao cho nhà văn Thế Uyên lúc đó đang trông coi nhà xuất bản Thái Độ và Tủ sách Văn Nghệ Xám.
[Thái Độ cũng đã từng in cuốn tiểu thuyết Vòng Đai Xanh của Ngô Thế Vinh]. Cho dù Thế Uyên rất xông xáo nhưng cũng vẫn không vượt qua được hàng rào “phối hợp văn học nghệ thuật” của bộ Thông Tin, cho tới Tháng Tư 1975, bản thảo duy nhất cũng bị thất lạc.
Cả hai cuốn sách trên đã được quảng cáo trên báo chí nhưng không bao giờ được ra mắt. Đó là những tác phẩm bị thất lạc, thêm vào những tổn thất trong chiến tranh, vĩnh viễn đi vào sự quên lãng.
Những tổn thất nhân mạng trong chiến tranh đã được thống kê và nói tới. Thế còn những tổn thất trong văn học, liệu đây có phải là phần trách nhiệm của các sử gia?
Con Vịn Cha
Lan can ba, ba thẳng lưng Ba dạy con chân đạp bùn mà đi Con nhón chân, con đưa tay Con vịn ba với cái đầu ngẩng lên!
Cha Vịn Con
Bây giờ ba lại vịn con Tay trong tay con dẫn ba qua đường Ba đi từng bước ngập ngừng Bỗng nghe hơi ấm chảy rần trong ba
NGỌC YẾN ĐỘT QUỴ SAU TRẬN BÃO SANDY
Chỉ một tháng sau cơn bão tố Sandy tàn phá nhiều nơi trong đó có New Jersey, Ngọc Yến bị tai biến mạch máu não / stroke tháng 12/2012. Hurricane Sandy thì được đài khí tượng báo trước, nhưng trận bão stroke của Ngọc Yến thì không. Với Trần Hoài Thư, thì đó là một trận động đất / earthquake, mà động đất thì không có dấu hiệu gì báo trước và Yến rất bất ngờ bị một cơn stroke đánh gục, bị liệt nửa người bên trái. Tay trái, chân trái không thể cục cựa. Nhìn Yến không thể ngồi, đứng, một nửa thân người không còn cử động, Với Thư thì Yến vợ anh đã bị đóng đinh khổ nạn từ đây.
Quan sát những gì người ta làm cho Yến ở nhà thương, Trần Hoài Thư tự tay biến đổi căn nhà với thêm bậc thềm, tay vịn sao cho thích nghi với người vợ tàn phế. Thư cũng mau chóng học được cách đưa người bệnh từ xe lăn lên giường, chuyển từ giường xuống ghế ngồi, rồi cả những công việc vệ sinh cá nhân cho Yến như tắm rửa, thay quần, thay áo, thay tã và những thao tác tập vật lý trị liệu cơ bản cho người bệnh liệt bán thân. Tất cả nhanh và gọn mà ngay cả những therapists và home caregivers cũng phải trố mắt ngạc nhiên. Thư cố tạo một cảnh sống gia đình gần như bình thường cho Yến. Thấy Yến ăn ngon, ngủ ngon, luôn miệng nói mình vui quá là Thư vui. Chấp nhận như số phận đã an bài và anh nghiệm ra là: hạnh phúc càng lớn khi nó được nẩy sinh từ khổ nạn. Thư trải lòng mình trên trang giấy: “Mỗi ngày tôi cố mang cho Yến niềm vui. Cũng mỗi ngày tôi giấu Yến nỗi buồn của tôi.”
Nhưng rồi chưa yên, Yến còn bị giáng thêm một trận stroke thứ hai, rồi thứ ba, đến tháng 05/2015, Yến không còn có thể sống ở nhà mà cần được chăm sóc 7/24 trong một nursing home, bác sĩ bảo đó là cách duy nhất để cứu Yến và cứu cả Trần Hoài Thư.
Trong suốt 11 năm [từ 2001 tới 2012], Ngọc Yến – người bạn đời của THT, đã đồng hành giúp anh rất nhiều trong việc thực hiện các công trình phục hồi Di Sản Văn Học Miền Nam.
“Yến giúp tôi lái xe khi đi xa trong những lần tới Thư viện Đại học Cornell, rồi đóng bằng chỉ những cuốn sách dày cả ngàn trang, hay phụ với tôikhiêng những thùng giấy tôi mua với giá rẻ. Yến giúp tôi viết địa chỉ, bỏ sách báo vào phong bì, dán tem, hay nhắc tôi về những sơ xuất. Khi một người hỏi order một cuốn sách, Yến luôn luôn nói là tặng, đừng lấy tiền. Tâm Yến là tâm Phật. Mất Yến là mất cả cánh tay phải, tôi như hết chỗ vịn.”
Rồi đều đặn như vậy, trong nhiều năm, ngày hai lần, Trần Hoài Thư nội trợ nấu thức ăn Việt Nam nóng đem vào cho Yến. Yến không chịu ăn đồ ăn Mỹ. Mỗi ngày Thư tìm cách kéo dài thời gian ngồi túc trực bên giường Yến. Đứa con trai bác sĩ thì đi làm xa, nhưng mỗi cuối tuần đều về để đi với ba vào thăm mẹ. Nó biết cách làm cho mẹ nó vui, cả gây cho mẹ mối ghen tuông với ba nó.
CHUYỆN ÔNG TRẦN HOÀI THƯ “CƯỚI CON PHƯƠNG”
Mỗi lần hai cha con vào thăm, bình thường thì Yến gọi Thư là “ba Thoại”, Trần Qúi Thoại là tên đứa con trai. Bỗng một hôm, chẳng rõ tại sao, Yến xoay lưng không thèm nói chuyện với Thư. Không biết chuyện gì đã xảy ra, Yến đổi hẳn cách xưng hô. Thay vì là “ba Thoại” thì hôm nay gọi anh là “ông Trần Hoài Thư”. Yến nói “Ông đang chờ tôi chết để cưới con Phương, có phải không?” Nghe Yến nói vậy, Thư tá hoả tam tinh, hỏi Yến: “Con Phương nào?” Một cái tên không thể nào Thư có thể nhớ ra. Thế là Yến giận, quay mặt vào tường không thèm nói chuyện với ba thằng Thoại nữa.
Nằm bệnh bao năm sau ba lần bị tai biến, chuyện mới thì Yến không nhớ, nhưng các chuyện cũ thì vẫn nhớ như in. Nhưng Thư thì vẫn nghĩ không ra “con Phương” là ai, hay là Yến ghen với một nhân vật nào đó trong các truyện đã viết của mình. Thế là về nhà suốt đêm vào máy tìm kiếm. Eureka! Cuối cùng Thư đã có câu giải đáp, thì ra “con Phương” là tên một cô gái giang hồ, một nhân vật trong truyện “Cơn Giông” được viên thiếu uý thám kích gặp trong một động điếm và đem lòng yêu thương, truyện mà chính Thư không còn nhớ, đã đăng trên báo Bách Khoa số 288 (1969) (5). Tuy bị Yến giận và ghen tuông vô lý nhưng Thư lại cảm thấy vui vì biết được phần trí tuệ còn sắc sảo của Yến.
NHỚ QUÊ NHỚ CHIM CHẰNG NGHỊCH
Trước đại dịch Covid-19, hầu như mỗi ngày 2 lần Thư được phép tới Nursing Home thăm Yến với thức ăn Việt nấu từ nhà đem vào. Nhưng rồi một hôm, các cô y tá cho biết, Yến không chịu ăn từ mấy ngày nay.
Yến không ăn đồ Mỹ điều ấy Thư đã biết nên Thư đã học nấu các món ăn Việt Nam từ Internet và cả biết Yến thích ăn món gì. Bác sĩ tới khám tổng quát cho biết tình trạng Yến vẫn ổn định và không mắc thêm một căn bệnh gì. Thư hỏi, vậy Yến thích ăn món gì để anh nấu. Yến trả lời: muốn ăn món chim chằng nghịch. Từ ngày về Vùng IV làm phóng viên chiến trường suốt 2 năm mà THT cũng chưa biết chim chằng nghịch là gì. Như mọi lần, Dr. Google đã giúp anh, và bây giờ Thư mới được biết, chim chằng nghịch hay còn gọi là gà nước vằn, mỏ dài chân đen là loại chim thiên nhiên chỉ có ở miền Tây Nam Bộ. Nhưng có lẽ chim chằng nghịch sau này quá hiếm và gần như biến mất khỏi đồng ruộng miền Tây rồi. Ngay cả bây giờ, nếu còn sống ở Cần Thơ quê Yến, thì cũng chẳng biết kiếm chim chằng nghịch ở đâu ra, huống chi đang ở Mỹ. Giải thích cho vợ hiểu nhưng Thư cũng thấm thía hiểu rằng, chẳng qua là Yến nằm bệnh quá lâu, quá nhớ quê mà nhớ ra tên con chim chằng nghịch từ một tuổi ấu thơ xa xưa nào.
Cũng sáng hôm đó, từ California tôi phone thăm Trần Hoài Thư. Lúc ấy Thư đang ở trong Nursing Home với Yến. Tôi bảo Thư đưa phone cho tôi được nói ít câu thăm chị. Thư giới thiệu tên tôi Ngô Thế Vinh thì chị nhớ ngay và nói “chào bác sĩ”. Tôi nhắc chị Yến, tôi là bạn của Thư, chị đừng gọi tôi là bác sĩ, nhưng lúc đó trong lòng thực sự có niềm vui, vì biết với cách xưng hô đó chứng tỏ trí nhớ chị còn rất tốt cho dù đã hơn 6 năm nằm bệnh. Tôi cũng nói với chị Yến qua phone, là mới đây tôi có về thăm miền Tây, và cũng chẳng còn thấy một con chim chằng nghịch nào. Và rồi Yến cũng quên đi chuyện con chim chằng nghịch và trở lại ăn uống bình thường với những món Thư tự tay nấu, trong nỗi vui mừng của cả hai cha con.
CÙ HUY HÀ VŨ THĂM ANH CHỊ TRẦN HOÀI THƯ 2016
Cù Huy Hà Vũ, là con trai của nhà thơ Huy Cận, nhỏ hơn Trần Hoài Thư 15 tuổi. Năm 1968, khi Thư là sĩ quan Thám kích đang lặn lội trong chiến tranh ở miền Nam thì Vũ mới là một cậu bé 11 tuổi, còn thập thò nơi cửa hang nơi đi sơ tán, xem phi cơ Mỹ từ xa oanh kích miền Bắc đạn bắn như pháo bông.
Văn kỳ thanh, nghe tiếng nhà văn Trần Hoài Thư, lại yêu thích văn học, hai vợ chồng Vũ đang sống ở Chicago, bay sang Boston, cùng với người bạn lái xe đi New Jersey thăm anh chị Trần Hoài Thư. Vũ xin được cùng THT đi thăm chị Ngọc Yến. Khi nghe Thư giới thiệu là có Cù Huy Hà Vũ là con trai của nhà thơ Huy Cận tác giả Lửa Thiêng, tới thăm, Yến kết nối được được ngay. Cũng ngay tại Nursing Home, Cù Huy Hà Vũ đã lấy giấy bút chớp nhoáng vẽ xong bức ký hoạ cùng với dòng chữ đề “Tặng Chị Nguyễn Ngọc Yến nhân Ngày của Mẹ Mother’s Day May 8, 2016”.
Vũ có nét vẽ tài hoa, bắt được ngay cái “thần” của Chị Yến, với đôi mắt đẹp thông minh và một vầng trán cao bướng bỉnh. Thấy Yến vui và cảm động, Thư cũng vui lây, cảm giác ấm áp như có “một chút mặt trời trong nước lạnh – Un peu de soleil dans l’eau froide”, cuốn phim mà Thư đã xem từ những năm rất xa xôi mà nay chỉ còn nhớ tên.
Về tới nhà, suốt ngày hôm đó Vũ chỉ đắm mình trong núi sách báo nơi tầng hầm nhà của Trần Hoài Thư. Cù Huy Hà Vũ đã được Trần Hoài Thư tặng cho nhiều bộ sách báo miền Nam.
ĐÔI UYÊN ƯƠNG GIỮA MÙA ĐẠI DỊCH
Mấy tháng đầu năm 2020, bắt đầu trận đại dịch, các Nursing Homes trên toàn nước Mỹ là nơi tới viếng của lưỡi hái tử thần Covid hung hãn nhất. N.H. Ashbrook cũng không hơn gì. THT được báo tin Yến phải nhập viện vì bị nhiễm Covid-19 cùng với một số bệnh nhân khác. Yến với bao nhiêu là bệnh nền, với 3 lần bị tai biến mạch máu não, ai cũng nghĩ Yến khó qua khỏi. Vậy mà Yến vẫn là một ngoại lệ, một trường hợp hiếm hoi khỏi bệnh, Yến không phải vào ICU không qua máy trợ thở, chỉ ít ngày sau thì Yến được xuất viện trở về Nursing Home còn nhiều chiếc giường trống trải. Có thể nói đây là phép lạ, Yến vẫn sống, vẫn vác chiếc thánh giá khổ nạn để ở lại với hai cha con Thư Thoại. Trong thời kỳ tuyệt đối cách ly, trong nhiều tháng hai cha con hoàn toàn không được vào thăm Yến.
Nhưng rồi hoạ vô đơn chí, tháng 06/2020 đến lượt Trần Hoài Thư cũng bị cơn bão tai biến. Nhưng lần này thì Trần Hoài Thư như bị phục kích. Một ngày bình thường như mọi ngày khác, khi Thư cầm bút viết ít dòng chữ lời đề tặng trên trang đầu một cuốn sách. Thư bỗng thấy bàn tay cầm cây bút sao mà khó khăn, rồi lại thấy cả hàng chữ viết run rẩy xiêu đổ. Biết đây là một dấu hiệu chẳng lành. Ngay trong đêm, Thư phone cho con, lúc ấy nó đang là bác sĩ trực ở Philadelphia. Thoại khuyên cha gọi ngay 911 để được đưa vào bệnh viện vì đó là triệu chứng của stroke, và nói cho biết sẽ lái xe về ngay sáng hôm sau. Trong nhà thương gặp lại con, Thoại cho biết ba bị một cục máu đông trong óc. Vậy ra, sau Yến cơn bão stroke Sandy nó cũng không chừa anh. Một thoáng bi quan, Thư đã chạnh nghĩ: “Số phần chúng tôi coi như là mạt lộ rồi. Thôi hết rồi giấc mơ Thư Quán Bản Thảo, giấc mơ Thư Ấn Quán. Thôi hết rồi những bài văn những bài thơ theo nhịp gõ êm êm trên bàn phím. Niềm vui trong tuổi xế chiều tự nhiên bị cướp mất”.
Thư mau chóng gạt mọi ý nghĩ bi quan ra khỏi óc. Anh chuẩn bị ngay cho một cuộc chiến đấu từng ngày. Sau một tháng nằm nhiều hơn ngồi, người ta cho Thư xuất viện; không phải vì đã hồi phục mà vì Insurance chỉ cho nằm bấy nhiêu. Thoại chở ba về cũng vẫn căn nhà cũ, sau một tháng đóng cửa. Vườn sau, sân trước cỏ dại mọc cao. Thư nghĩ bây giờ là lúc “ba bắt đầu phải vịn con”. Thoại dọn dẹp lại căn phòng bừa bộn, sắp xếp cho ba nằm trên cái giường bệnh viện / hospital bed có thể điều khiển cao thấp mà mẹ Yến đã bỏ lại khi vào Nursing Home. Thoại cũng mua và đặt camera khắp mọi nơi trong nhà, để có thể theo dõi ba từ xa qua chiếc iPhone. Sau đó trở lại Philadelphia nơi bệnh viện nó làm việc.
Rồi một mình trong căn nhà vắng, THT vẫn phải đương đầu với một thực tế trước mắt. Những ngón tay đã không giữ được cái muỗng, đôi đũa để những hạt cơm hay thức ăn khỏi vương vãi ra trên áo trên quần. Tệ hơn nữa, chúng không còn sức mạnh để gõ hay để viết trên bàn phím, bộ não đã không sao điều khiển được các ngón tay để có thể gõ cho chính xác…
Tinh thần chiến đấu với Trần Hoài Thư đã trở thành một bản năng thứ hai. Vẫn như một programmer, THT đã “phác thảo” cho riêng mình một chương trình “Hoạt động Trị liệu / Occupational Therapy” tại nhà với một lối tập độc nhất vô nhị. Thay vì là bài tập thô sơ như trong bệnh viện: các cô therapist tập cho anh cách bốc lượm đồ, cách lắp ráp các hình nhà, hình xe bằng những miếng gỗ. Những bài tập của Thư là tập viết khó khăn trên giấy hay tập bấm vụng về trên màn hình chiếc iPhone từng dòng thơ lục bát mà anh thích. Dần dần qua ít tuần lễ THT cũng làm chủ được mười ngón tay của mình. Sau đó, Trần Hoài Thư lại say sưa viết, anh làm việc như một người đang cạn kiệt quỹ thời gian.
Tìm lại được tập hồi ức dở dang viết rồi để đó, không có dự định cho xuất bản nhưng sau lần bị stroke THT nghĩ khác, anh phải viết xong giữa khoảng cách sống và chết, chưa biết sẽ đến lúc nào. Anh đặt tên cho tập hồi ức là: Cảm Tạ Văn Chương – mà anh cảm thấy như đang viết một Di chúc. Cuốn sách đã được THT hoàn tất trong một thời gian kỷ lục. Có những trang sách khiến người đọc phải rơi lệ. Sách tuy không bán, nhưng Cảm Tạ Văn Chương đã trở thành một best-seller của Thư Quán Bản Thảo.
Nơi mấy trang cuối của cuốn hồi ức, vẫn Trần Hoài Thư viết: “Thêm một lần nữa tôi phải cảm tạ văn chương. Nó đến khi tôi ngã xuống. Nó giúp tôi vịn mà đứng dậy. Nó là chiếc gậy thần, tôi chống mà đi. Cho dù bây giờ không hồi phục hẳn, nhưng tôi vẫn có thể gõ một bài thơ, post một bài viết, hay xuống hầm nhà để tự tay đóng một cuốn sách. Dù mắt mờ, bước chân xiêu đổ. Để niềm vui mọc cánh nở hoa”.
Tưởng cảnh khổ của hai vợ chồng Ngọc Yến – Trần Hoài Thư như vậy là đã đụng đáy, nhưng không. Đến tháng 2/2021 một cơn bão stroke Sandy thứ 4 lại phủ ập lên tấm thân đã đầy những thương tật của Yến. Ít ai sống sót được ở lần tai biến thứ tư này. Lần này Yến phải nằm bệnh viện lâu hơn, mang thêm một số thương tật mới: Yến bị mất tiếng nói vì tổn thương vùng ngôn ngữ trên não, Yến còn bị mất thêm nửa vùng thị giác do bị tổn thương vùng vỏ não thị giác. Rồi Yến vẫn sống sót để trở về Ashbrook N.H. Yến vẫn còn phần thính giác để nghe và hiểu được những câu đùa giỡn của hai cha con Thư Thoại, nhưng phần tham dự của Yến từ nay chỉ còn là biểu tỏ qua cử chỉ – mà thuật ngữ chuyên môn gọi đó là ngôn ngữ cơ thể/ body language. Yến cũng không nuốt được, THT từ nay cũng mất luôn nguồn hạnh phúc được nội trợ mỗi ngày nấu ăn cho Yến; và phần dinh dưỡng của Yến chỉ còn là một ống G-Tube dẫn thức ăn thẳng vào bao tử. “Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã dành riêng để tặng nàng” hai câu thơ ấy của Nguyễn Bính hình như đã vận vào người Yến.
Can đảm chấp nhận số phận nghiệt ngã, với Thư và Yến kể từ nay, hạnh phúc rồi ra chỉ là tính riêng cho mỗi từng ngày.
MỘT NGÀY NGHIỆN NGẬP CỦA TRẦN HOÀI THƯ
Trong một eMail mới gửi cho tôi, Trần Hoài Thư viết: “Bạn bảo tôi là típ người “ghiền làm việc / workaholic”. Vâng, chính vậy. Nếu không có việc làm chắc tôi buồn mà chết sớm quá. Dù quá bận rộn mà vui. Vui như những trái hỏa châu được bắn lên trong cõi đêm của đời xế bóng. Chỉ trong vòng 2 tuần nào in: “Mai Thảo – Bài viết ở trang cuối.” Nào là chuẩn bị bài vở viết bài cho Thư Quán Bản Thảo số 93 sắp tới. Nào là scan, layout, thực hiện toàn bộ tập san Chính Văn… Nào là làm thơ, viết văn… không ngưng nghỉ. Thực phẩm nuôi dưỡng tinh thần khiến tôi bận rộn cả ngày. Còn thực phẩm nuôi dưỡng thân xác thì có gì mà cần bận tâm chứ. …
Dĩ nhiên “ghiền làm việc” không phải là làm khi cảm thấy tay chân thừa thãi, nấu nướng cũng là một nghệ thuật, làm ngon cái miệng, sao lại không ham. Lại đi ham đánh máy bằng hai ngón tay, 32 bài tùy bút của Mai Thảo, mang khổ nhọc vào thân. Nhất là bị ảnh hưởng nặng nề sau trận stroke.
Ngón tay điều khiển khó khăn, muốn đánh được một chữ đúng thì đôi khi phải sửa đi sửa lại 4, 5 lần. Hay mỗi khi thực hiện một flipbook, phải scan chụp cả cuốn, layout lại, đổi size lại cho đúng kích thước, tìm cách làm giảm sức nặng mỗi trang từ cấp MB, giảm xuống vài trăm kilobytes, kẻo memory không “kham nổi.”
Bạn làm sao hiểu ở trong những con chữ mà tôi đánh máy ấy có sức nam châm kỳ lạ, khi ta đánh máy một bài văn ta ưa thích, chữ không còn là một hình phạt mà là niềm vui nở búp nở hoa! Bởi vì nó tỏa ra cái đẹp, đó là nghệ thuật. Ví dụ khi tôi đánh máy câu sau đây của Mai Thảo trong bài tùy bút Quán Bệnh:
“Đêm tháng tám bên ngoài bát ngát sao. Trong những lùm cây xôn xao, gió múa những thuyền đầy.”
Tôi không khỏi ngây ngất cùng vớt những chữ trong câu “gió múa những thuyền đầy”, Gió mà biết múa sao? Thưa bạn, tại mình không biết đấy thôi. Giờ ông MT đã nói cho chúng ta biết. Cho tôi biết. Chính vì cái muốn biết ấy đã giúp một lão già sắp 8 bó này phải đánh máy miệt mài, không nghỉ, không mệt và bây giờ cũng in miệt mài, không nghỉ một cuốn sách dày 200 trang để tặng đời!
…
Khác với quan niệm về già, phải hưởng nhàn, phải coi đời là phù du, hãy nhâm nhi hớp cà phê buổi sáng, đừng bận tâm đến in ấn, in báo, hay sưu tập các tạp chí cũ để thực hiện flipbook cho thiên hạ đọc chùa… Họ không hiểu tôi cần làm việc. Cần sự thách đố. Cần cái đẹp… Tôi có thể vất hàng trăm bìa in không thương xót, dù giá tiền không phải là nhỏ, mà chỉ cần một bìa – một bìa đẹp – đủ vui rồi. Sức mạnh của nghệ thuật kỳ lạ lắm.
Tôi bỗng liên tưởng đến người bạn đời. Yến gần như một pho tượng khổ hình. Không còn biết chuyện đời. Không còn thắc mắc suy tư. Không biết cái nắm tay nóng hổi tình thương yêu của người chồng, không còn mắt sáng ngời lên khi thấy con… Không cần ngồi xếp bằng nhắm mắt tham thiền. Nàng có một chỗ ngồi trong xe lăn, mắt nhìn về một cõi vô minh nào đó suốt 8 năm dài…
Tôi nghe lòng ràn rụa. Tôi phải làm gì để cứu khổ, cứu nạn, cứu nàng khỏi cơn mê thiếp. La hoài cũng vậy. Xiết tay chặt hoài cũng vậy. Thôi thì, chỉ có cách lấy Iphone mở bài Tóc Mây do Sỹ Phú hát, kê sát vào tai nàng. Để âm thanh lọt vào màng nhĩ, đánh động bộ não, xẹt lửa những sợi dây thần kinh đã chết, Tóc Mây. Đây là bài hát mà mình thích tôi mở cho mình nghe… Tóc Mây. Ngày xưa tóc đen huyền vì gội bằng bồ kết. Bây giờ thay vì bồ kết, tóc Yến vẫn đen mun vì gội bằng trái khổ nạn. Tôi nhìn vào mắt nàng, Tôi thấy mắt nàng lim dim muốn ngủ, thì ra, những lời ca kia, bài hát quen thuộc kia đã có một phép lạ. Tôi nói là phép lạ, Yến đã rơi vào giấc ngủ ngon như một đứa trẻ. Chúng mang lại bình an mà ta đang khao khát.
BÀI THƠ NGƯU LANG
Bây giờ Ngưu Chức đã già Chàng vừa bị stroke đi bằng walker Nàng cũng thoát dịch Corona Hai người vẫn đợi đến ngày gặp nhau Tháng bảy Mỹ không mưa ngâu Bởi nước mắt họ thấm vào đá cương Nở lên một đoá vô thường
NGÔ THẾ VINH Sài Gòn 18.06.1971 – New Jersey 18.06.2021 [ 50 năm Vàng, ngày cưới Nguyễn Ngọc Yến – Trần Hoài Thư ]
Ở Việt Nam đã có một ca tử vong sau khi tiêm vaccine, và cũng như ở Úc, tử vong là yếu tố làm cho nhiều người quan tâm đến câu hỏi ‘nên hay không nên tiêm vaccine ngừa Covid-19?’ Trong cái note này tôi muốn trả lời câu hỏi đó là ‘nên’.
Theo thông tin từ Bộ Y tế Việt Nam thì ca tử vong là một nữ nhân viên y tế, 35 tuổi, ở An Giang. Chị ấy được tiêm vaccine AstraZeneca. Vẫn theo thông tin, nguyên nhân tử vong được chẩn đoán là ‘sốc phản vệ trên cơ địa quá mẫn với non steroid (NSAIDs)’ [1]. Tôi không hiểu thuật ngữ đó có nghĩa là gì, nên không có bình luận gì ở đây.
1. Mối liên hệ nhân quả?
Tôi chỉ muốn nói rằng rất khó nói đến nguyên nhân tử vong sau khi tiêm vaccine. Khi một biến cố xảy ra sau khi được can thiệp (vaccine là một hình thức ‘can thiệp’) thì chúng ta không thể phát biểu rằng can thiệp là nguyên nhân của biến cố, bởi vì biến cố đó có thể là do các nguyên nhân khác. Tương tự, nếu có tử vong sau khi tiêm vaccine thì chúng ta không thể nói vaccine là nguyên nhân tử vong, bởi vì bệnh nhân có thể mắc các bệnh lí khác cũng làm gia tăng nguy cơ tử vong.
Ở Úc đã có hơn 2.5 triệu liều vaccine AstraZeneca được tiêm cho công chúng (hoàn toàn miễn phí), và có 3 ca tử vong được báo cáo sau khi được tiêm vaccine AstraZeneca [2]. Một người 48 tuổi và mắc bệnh tiểu đường. Một người ở tuổi 50. Một người ở độ tuổi 70. Các giới chức y tế vẫn chưa biết nguyên nhân tử vong, chỉ biết rằng trong số 3 người này có 2 người bị đông máu rất nặng.
2. Nguy cơ đông máu
Chứng đông máu trở thành mối quan tâm. Câu hỏi đặt ra là nguy cơ bị đông máu liên quan (nếu có) với vaccine AstraZeneca cao hay thấp? Nói cách khác, nếu không tiêm vaccine thì nguy cơ đông máu là bao nhiêu? Theo một nghiên cứu dịch tễ học công bố trên tập san
Seminar in Hematololgy năm 2007 [3] thì tỉ lệ phát sinh của chứng đông máu là 1 trên 1000 người mỗi năm. Nhưng nghiên cứu trong cộng đồng khác cho thấy tỉ lệ đông máu trong cộng đồng hàng năm là khoảng 1 trên 2000 người [4].
Trong khi đó, nguy cơ đông máu sau khi tiêm vaccine thì rất thấp: chỉ khoảng 1 trên 100,000 người. Tỉ lệ này thấp hơn nhiều so với 1 trên 2000 người trong cộng đồng. Có thể nói như sau cho dễ hiểu: không tiêm vaccine chúng ta cũng có nguy cơ bị đông máu, và nguy cơ này cao gấp 50 lần so với nguy cơ đông máu sai khi tiêm vaccine.
3. Nguy cơ tử vong
Một mối quan tâm khác về tiêm vaccine là tử vong. Mối quan tâm này càng trở thành thời sự khi ở Việt Nam có 1 ca không may mắn qua đời sau khi được tiêm vaccine AstraZeneca. Nhưng chúng ta phải bình tỉnh mà suy xét, chớ không nên bị chi phối bởi những tựa đề báo chí kiểu ‘Lại thêm 1 ca …’ Những tựa đề như thế không gíup cho chúng ta có cái nhìn tổng thể và khách quan.
Cái nhìn tổng thể là nguy cơ tử vong trong dân số. Dĩ nhiên, không tiêm vaccine thì mỗi ngày vẫn có người chết vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Chẳng hạn như ở Việt Nam, mỗi năm có chừng 612,000 người chết [5], tức 1780 ca tử vong mỗi ngày.
Do đó, câu hỏi đặt ra là nguy cơ tử vong sau khi tiêm vaccine có cao hơn hay thấp hơn nguy cơ tử vong trong cộng đồng? Ở Việt Nam chỉ có 1 ca tử vong sau khi tiêm vaccine nên số liệu chưa thể đủ để trả lời câu hỏi này.
Do đó, chúng ta phải xem xét dữ liệu bên Ấn Độ. Tính từ 16/1/2021 đến 10/4/2021, đã có 95.43 triệu người Ấn Độ được chích vaccine (loại Covishield và Covaxin). Trong số này, có 617 ca bị phản ứng mạnh sau khi tiêm vaccine, kể cả 180 người chết [6]. Như vậy tỉ lệ tử vong là khoảng 0.00019 phần trăm, hay gần 2 trên 1 triệu. Nói cách khác, nguy cơ tử vong rất thấp. Phân tích dữ liệu chi tiết cho thấy 76% các ca tử vong xảy ra trong vòng 3 ngày đầu sau khi tiêm. Gần 60% các ca tử vong có bệnh đi kèm là nhồi máu cơ tim [6].
4. Lợi ích và tác hại
Bất cứ vaccine nào cũng có lợi và tác hại hay phản ứng phụ. Lợi ích của vaccine là giảm nguy cơ nhập viện và giảm nguy cơ tử vong nếu bị nhiễm virus Vũ Hán. Vaccine dĩ nhiên cũng có hiệu quả giảm nguy cơ bị nhiễm virus, nhưng thể không ngăn ngừa nhiễm virus từ người sang người.
Phản ứng phụ của vaccine thì đã được nghiên cứu và báo cáo. Nhức đầu, đau cơ, đau khớp xương, và sốt là phổ biến nhứt. Trong nghiên cứu lâm sàng giai đoạn III, 80% những tình nguyện viên báo cáo một trong những phản ứng phụ trên. Theo số liệu ở Úc, cứ 10,000 liều vaccine thì có chừng 66 ca báo cáo phản ứng phụ trên [7].
Những báo cáo mới nhứt cho thấy vaccine AstraZeneca có thể (chỉ dám nói ‘có thể’ thôi) có liên quan đến chứng đông máu. Do đó, câu hỏi đặt ra là nếu đưa lợi ích và nguy cơ đông máu lên bàn tính toán thì kết quả sẽ ra sao? Đã có các chuyên gia của EMA (European Medicines Agency) phân tích số liệu và báo cáo kết quả [8], và tôi mà tôi tóm tắt trong bảng số liệu kèm theo đây.
Câu hỏi mà các nhà phân tích muốn trả lời là: trong số 100,000 người được tiêm vaccine, bao nhiêu người bị chứng đông máu, bao nhiêu người được cứu sống và bao nhiêu ca nhập viện được ngăn chận? Câu trả lời hoá ra tuỳ thuộc vào độ tuổi và loại cộng đồng bị nhiễm cao, trung bình hay thấp [9].
Việt Nam là nơi được xem là có nguy cơ nhiễm thấp. Giả dụ rằng có 100,000 người trong độ tuổi 50 – 59 được tiêm vaccine, thì kết quả tính toán cho thấy sẽ có:
1 người bị chứng đông máu;
10 ca nhập viện được ngăn ngừa;
1 người được cứu sống.
Nếu 100,000 người ở độ tuổi 60 – 69 được tiêm vaccine, chúng ta kì vọng sẽ có:
1 người bị chứng đông máu;
19 ca nhập viện được ngăn ngừa;
3 người được cứu sống.
Nói tóm lại, ở bất cứ độ tuổi nào, lợi ích của tiêm vaccine chống covid-19 (cứu người và giảm nguy cơ nhập viện) cao hơn nhiều nhiều so với nguy cơ bị đông máu. Do đó, tiêm vaccine phòng chống virus Vũ Hán vẫn là một lựa chọn hợp lí nhứt.
Chữ này (incivility) có gốc Latin, incivilis, có nghĩa là ‘không phải công dân’. Nhưng ngày nay, nó được dùng để định danh cho những hành vi xã hội khá phổ biến, mà tôi nghĩ có lẽ nên dịch là ‘khiếm nhã’. Một hành vi khiếm nhã mang tính tâm lí khá phổ biến có tên là ‘gas lighting’.
Incivility
Incivility là thuật ngữ chỉ những hành vi kém văn minh, thô kệch, vô lễ, thiếu tôn trọng người cao tuổi hay cấp trên, đe doạ cấp dưới, dẫn đến sự phá hoại văn hoá. Incivility còn được hiểu (ở phương Tây) là côn đồ văn hoá.
Bạn bước vào building cùng một lúc với sếp của mình, bạn giữ cánh cửa mở cho sếp. Sếp bước qua ngon ơ nhưng không có một lời cảm ơn. Đến giờ giải lao buổi sáng (teabreak) bạn vào nhà bếp và phát hiện là bình trà trống trơn, tức là người sử dụng trước đó không buồn rót trà cho người kế tiếp. Đó là những hành vi khiếm nhã.
Tôi ít khi nào giảng dạy, nhưng thỉnh thoảng có nhận hướng dẫn sinh viên và giảng trong các seminar. Qua các việc làm đó tôi hay nhận email của sinh viên, nhưng cách họ viết email làm tôi sốc. Chẳng hạn như họ mở đầu bằng chữ ‘Hi’ rồi theo sau là những yêu cầu như ông chủ yêu cầu đầy tớ. Có người tỏ ra có nỗ lực viết tên tôi nhưng thay vì viết hoa ‘Nguyen’ họ viết ‘nguyen’. Tôi chú ý rằng hành vi khiếm nhã này chỉ thấy ở các sinh viên từ một vùng mà tôi không tiện nêu ra. Còn các sinh viên Á châu (kể cả Tàu) thì rất lịch sự và họ tỏ ra kính trọng cấp trên.
Có nhiều người trẻ ở trong nước nghĩ rằng ở phương Tây bình đẳng, nên muốn nói gì thì nói, muốn chỉ trích ai cũng được. Sai lầm to. Xã hội phương Tây cũng có tôn ti trật tự, và cũng có truyền thống kính trên nhường dưới, nhứt là trong y khoa và khoa bảng. Môi trường khoa bảng và đại học có một đẳng cấp riêng, và cách xưng hô cũng như hành vi phải học để đối xử cho thích hợp. Trong hệ thống đẳng cấp đó người ta phân chia nhân viên thành thứ bậc kèm theo những danh xưng trước tên họ như Chancellor, Vice-Chancellor, Provost, Dean, Professor, Associate Professor, Senior Lecturer, Lecturer, Fellow, Doctor, v.v. Một lecturer không bao giờ dám tỏ ra vô lễ với một giáo sư, và giáo sư lúc nào cũng tỏ ra kính trọng cấp trên mình như Dean và Vice-Chancellor.
Chúng ta không lạ gì chuyện các sếp ăn hiếp nhân viên dưới quyền. Nhưng một nghiên cứu mới nhứt ở Úc cho thấy có một tình trạng ngược lại: cấp dưới ăn hiếp cấp trên. Nghiên cứu này do ĐH La Trobe (Úc) và UBC (Canada) thực hiện trên 20 khoa trưởng các khoa như giáo dục, thương mại, và khoa học thuộc 8 đại học Úc. Trong số 20 khoa trưởng, có 18 người cho biết họ thường bị ăn hiếp. Cấp trên (tức hiệu trưởng và hội đồng trường) ăn hiếp đã đành, nhưng cấp dưới cũng ăn hiếp. Nói theo cách nói Việt Nam là ‘trên đe dưới búa’.
Gas lighting = thao túng tinh thần
Ăn hiếp như thế nào? Các khoa trưởng này cho biết vì là giới khoa bảng, họ có học cao, nên cách ăn hiếp cũng rất tinh vi và có khi khá thông minh. Nó thường xuất hiện qua các hành vi vi hiếp (microaggression). Chẳng hạn như họ dùng internet để phao tin đồn nhảm về đời tư cá nhân hay hành vi của các vị khoa trưởng, hay họ gieo nghi ngờ về khả năng làm việc. Mặc dù chỉ là đồn nhảm và không có cơ sở, nhưng tâm lí người ta là muốn nghe chuyện tiêu cực nên họ bị dèm pha trong công việc.
Những hành vi trên có tên là ‘gas lighting’. Có thể dịch ‘gas lighting’ là những thủ đoạn thao túng tinh thần, với mục tiêu làm cho tinh thần của nạn nhân suy sụp. Đây là thủ đoạn mà giới chánh trị và công an hay sử dụng nhằm làm xói mòn và phá hoại thanh danh và uy tín của người khác bằng cách làm cho nạn nhân tự chất vấn về sự minh mẫn của họ.
Thuật ngữ ‘gas lighting’ được bầu là phổ biến nhứt vào năm 2018, nhưng nó xuất phát từ một cuốn phim nhan đề ‘Gaslight’ vào năm 1944. Trong cuốn phim đó, người chồng làm cho vợ mình bị bệnh thâm thần bằng cách làm cho đèn ga lờ mờ, và nói với bà vợ rằng bà ấy đang bị ảo giác. Thủ phạm thao túng tinh thần thường dùng một số thủ đoạn như sau:
• Gieo nghi ngờ về trí nhớ. Mô tả một cá nhân như người mất hay kém trí nhớ, hay quên bằng những bình luận như ‘Chị không nhớ chính xác một điều gì cả’, hay ‘Chị có chắc không, chị kém trí nhớ quá.’
• Giấu diếm. Thủ phạm thường giả bộ rằng họ không hiểu những gì nạn nhân nói, hay không thèm trả lời. Họ thường dùng thủ thuật như ‘Tôi không hiểu bạn nói về cái gì’, hay ‘Chị làm cho tôi lẫn lộn.’
• Tầm thường hoá. Thủ phạm tỏ ra khinh miệt việc làm hay cảm giác của nạn nhân. Khi nạn nhân làm được một việc nào đó, thủ phạm có thể nói ‘Đó là việc ăn ké’, hay ‘Vai trò của cô ấy chỉ là phụ tá thôi’. Khi nạn nhân tỏ ra quan tâm, lo lắng trước một vấn đề, thủ phạm thường xem nhẹ qua cách nói ‘Chuyện nhỏ thế mà để tâm làm gì.’
• Giả bộ quên. Thủ phạm không chỉ gieo nghi ngờ về trí nhớ của nạn nhân, mà còn giả bộ quên những sự kiện xảy ra. Họ thường từ chối rằng họ đã phát biểu câu nào đó, và tố cáo người khác là bịa chuyện.
• Làm sao lãng. Một thủ đoạn khác là chuyển tiêu điểm của thảo luận và cố gắng làm cho nạn nhân không thể tín nhiệm được. Họ có thể dùng cách nói như ‘Đó là một ý tưởng điên rồ mà anh bắt chước từ người khác’, hay ‘anh đâu có chuyên môn về việc đó mà bình luận.’
Gas lighting không chỉ xảy ra ngoài xã hội mà còn trong cả giới y tế. Chẳng hạn như một số bác sĩ hay có thói quen lờ đi những mô tả triệu chứng của bệnh nhân với giả định rằng bệnh nhân chẳng biết gì hay có vấn đề về tâm thần. Họ hay nói rằng những triệu chứng đó là ‘ở trong đầu chị’, hàm ý rằng nó không có thật. Đó là một hành vi gas lighting. Có một nghiên cứu y khoa chỉ ra rằng bác sĩ có xu hướng nghĩ rằng những triệu chứng mà bệnh nhân mô tả liên quan đến bệnh tim mạch là do tâm thần của bệnh nhân không ổn định!
Trong quan hệ tình cảm, gas lighting được dùng để đề cập đến những nhận xét về người mình yêu là ‘điên’, ‘khùng’. Theo một nghiên cứu xã hội, có đến 33% những người bạn tình gọi người yêu mình là ‘khùng’. Mặc dù nó phổ biến như thế, nhưng ở Mĩ 75% công nhân viên không biết đến nó. Chỉ có 19% công nhân viên biết định nghĩa của gas lighting!
Trong cuộc sống hiện đại với đa quan hệ và đa truyền thông, khái niệm incivility và gas-lighting rất liên quan. Hiểu được hai khái niệm này giúp chúng ta thấy nó vô cùng phổ biến ở Việt Nam, và người ta dùng gas lighting để khống chế lẫn nhau, và cho thấy xã hội Việt Nam còn một khoảng cách đến chữ civility. Một xã hội văn minh cần cư xử tử tế với nhau và tránh gas-lighting vì đó có thể xem là một hành vi tội phạm.