“Người từng mắc covid-19 có nguy cơ tái nhiễm gấp 5 lần nếu không tiêm vaccine“. Đó là một cái tit của vtv [1] mà một bạn đọc muốn tôi bình luận. Đọc bài báo trên CDC [2] mà vtv trích dẫn thì thấy vtv hiểu sai con số và ý nghĩa của con số. Câu chuyện nói lên rằng cần phải cân nhắc khi đọc những nghiên cứu liên quan đến covid. Theo tôi nghĩ bài báo trên CDC là một loại rác rưởi covid, một ca tiêu biểu về sai lầm trong nghiên cứu khoa học.
Cái tít của vtv dựa vào một nghiên cứu công bố trên CDC có nhiều vấn đề. Cái tít còn thể hiện vtv hiểu sai kết quả nghiên cứu.
1. Một sự hiểu sai
Bài báo đó công bố trên trang nhà của CDC (Mĩ) so sánh hai nhóm bệnh nhân bị nhập viện vì những triệu chứng giống covid-19:
Nhóm 1 (n = 6328) là những người không bị nhiễm trước đây và đã được tiêm vaccine đủ 2 liều. Trong số này, có 324 người (tức 5.1%) có kết quả xét nghiệm PCR dương tính với covid.
Nhóm 2 (n = 1020) là những người đã bị nhiễm trước đây và chưa tiêm vaccine. Trong số này, có 89 người (8.7%) dương tính với covid.
Sau khi phân tích thống kê, họ tính toán được tỉ số odds là 5.49, với khoảng tin cậy 95% dao động từ 2.75 đến 10.99.
Họ kết luận rằng ở những người bị nhập viện vì những triệu chứng giống covid-19 đã từng bị nhiễm hay chưa được tiêm vaccine, odds có kết quả dương tính với covid-19 ở người chưa vaccine cao gấp 5.5 lần so với người đã tiêm vaccine mRNA (sau khi đã hiệu chỉnh cho các yếu tố khác). Dựa vào nghiên cứu này, họ (tác giả) kêu gọi mọi người nên đi tiêm chủng vaccine covid càng sớm càng tốt.
Thế nhưng vtv lại chạy cái tít là “Người từng mắc covid-19 có nguy cơ tái nhiễm gấp 5 lần nếu không tiêm vaccine“. Cái tít đó của vtv có thể hiểu như sau:
Nhóm 1 là những người đã từng bị nhiễm và chưa tiêm vaccine: p1
Nhóm 2 là những người đã từng bị nhiễm và đã tiêm vaccine: p2
Tỉ số nguy cơ = p1 / p2 = 5 lần.
Như các bạn thấy vtv hiểu sai, vì nhóm 1 trong bài báo là những người không bị nhiễm trước đây, nên không thể nói họ là ‘tái nhiễm’ được.
2. Vấn đề của nghiên cứu
Nghiên cứu công bố trên CDC có rất nhiều vấn đề làm cho kết quả đó có thể sai hay không có ý nghĩa gì đáng chú ý.
Nghiên cứu công bố trên CDC so sánh 2 nhóm bệnh nhân: người đã bị nhiễm và chưa tiêm vaccine vs người chưa bị nhiễm và đã tiêm vaccine. Hai nhóm quá khác nhau, nên kết quả gần như vô nghĩa. Vô nghĩa là vì bệnh nhân là những người bị nhập viện do có triệu chứng covid chớ không phải người từ cộng đồng. Vô nghĩa là vì so sánh một nhóm có nguy cơ quá cao với nhóm có nguy cơ quá thấp. Điều mà chúng ta cần biết là ở những người đã bị nhiễm, tiêm vaccine có giảm nguy cơ tái nhiễm so với không tiêm vaccine? Chưa có bằng chứng RCT trả lời câu hỏi đó.
Vấn đề thứ nhứt là sự thiên lệch về cách tuyển chọn bệnh nhân. Nên nhớ rằng những người mà họ chọn là có triệu chứng giống như covid bị nhập viện. Điều này có nghĩa là những người này có nguy cơ nhiễm covid cao hơn so với trong cộng đồng. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi tỉ lệ dương tính báo cáo khá cao (gần 9% trong nhóm bị nhiễm mà chưa tiêm vaccine). Con số đó chắc chắn không phản ảnh nguy cơ ngoài cộng đồng, bởi vì trong số những người có triệu chứng ngoài cộng đồng chỉ có một số ít là nhập viện.
Vấn đề thứ hai là so sánh kiểu trái táo và trái cam. Nhóm 1 là những người không bị nhiễm và được tiêm vaccine, còn nhóm 2 là người đã bị nhiễm mà chưa tiêm vaccine. Hai nhóm quá khác nhau. Dĩ nhiên, cách họ chọn bệnh nhân nghiên cứu là để phản bác những người nói rằng đã bị nhiễm thì có kháng thể không thua gì nhóm chưa bị nhiễm mà được tiêm vaccine. Nhưng phản bác kiểu họ làm là … hơi rẻ tiền. Đáng lí ra nếu họ làm nghiêm chỉnh thì nên chọn nhóm đã bị nhiễm + tiêm vaccine so với nhóm đã bị nhiễm + chưa tiêm vaccine thì mới công bằng.
Vấn đề thứ ba là phân tích dữ liệu. Chúng ta thấy tỉ lệ dương tính trong nhóm 1 (không bị nhiễm + tiêm vaccine) là 5.1%, còn nhóm 2 (bị nhiễm + không vaccine) là 8.7%. Tỉ số nguy cơ là RR = 8.7 / 5.1 = 1.7. Ấy thế mà tác giả có kết quả RR = 5.5!
Con số 5.49 ở đâu ra? Xin thưa là tác giả đã làm phân tích và hiệu chỉnh cho nhiều yếu tố nhiễu. Do đó, từ 1.7 bị biến thành 5.5. Nói cách khác, con số 5.5 là ‘sản phẩm’ của mô hình thống kê, nó không phải là con số thật. Tác giả sai? Không hẳn. Một khi phân tích thống kê cho ra kết quả hiệu chỉnh và kết quả quan sát quá khác biệt (như trường hợp này) thì điều đó nói lên rằng nghiên cứu của họ bị sai từ nguồn gốc, nói theo tiếng Anh là ‘structural error’, hay sai hệ thống. Và, do đó, kết quả của nghiên cứu này có lẽ không đáng để chúng ta phải quan tâm.
Điều làm tôi thấy hơi ‘phiền’ là kết luận của tác giả, đọc lên giống như một kiểu tuyên truyền. Họ viết “All eligible persons should be vaccinated against COVID-19 as soon as possible, including unvaccinated persons previously infected with SARS-CoV-2” (tất cả những ai đủ tiêu chuẩn, kể cả người đã bị nhiễm, nên đi tiêm vaccine càng sớm càng tốt), đọc lên như là một lời kêu gọi hơn là kết luận từ bằng chứng khoa học. Chất lượng của chứng khoa học không đủ thuyết phục để họ ra lời kêu gọi như thế.
Chỉ khi nào họ có bằng chứng sau đây thì mới có thể ra lời kêu gọi đó: ở những người đã bị nhiễm, những ai chưa tiêm vaccine có nguy cơ tái nhiễm cao hơn những ai được tiêm vaccine. Theo tôi biết chưa có bằng chứng RCT nào như thế, nên việc kêu gọi như tác giả có vẻ là hô khẩu hiệu hơn là khoa học.
Câu chuyện này nói lên rằng để diễn giải đúng kết quả nghiên cứu về covid cần phải xem xét đến các chi tiết khoa học đằng sau của nghiên cứu đó. Nếu chỉ dựa vào những câu chữ của tác giả có khi dẫn đến hiểu sai như trường hợp vtv mà chúng ta thấy. Đa số (có lẽ hơn 95%) các nghiên cứu về covid chỉ là rác rưởi mà thôi; chỉ có một số rất ít là đáng đọc, và để biết cái nào đáng đọc thì cần phải hỏi các chuyên gia có kinh nghiệm — một điều mà báo chí Việt Nam bị thiếu.
Hôm qua, một nhóm bạn chuyền nhau thông tin vui về một số (n = 28) nhà khoa học Việt Nam hay gốc Việt Nam (như tôi chẳng hạn, n = 80) có tên trong “top 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới” [1]. Tôi thử tò mò phân tích dữ liệu từ danh sách này thì phát hiện 25 trong số 28 người ở Việt Nam có tỉ lệ tự trích dẫn quá cao, nhưng báo chí không rõ điều này.
Có bao nhiêu nhà khoa học trong danh sách?
Danh sách năm nay có 186,177 nhà khoa học trên thế giới. Danh sách này có điểm hay là điều chỉnh cho chuyên ngành, cho nên những ngành ít trích dẫn (như toán chẳng hạn) vẫn được hiệu chỉnh cho công bằng với các ngành khác.
Trong số hơn 186,000 người, Việt Nam có 53 người. Nhưng trong số 53 người, 25 người là người ngoại quốc đang công tác hay có hợp đồng làm việc ở các đại học Việt Nam. Do đó, tính đúng ra, Việt Nam có 28 nhà khoa học Việt trong danh sách.
Ngoài ra, còn có 120 nhà khoa học gốc Việt ở nước ngoài. Trong số này, gần phân nửa (n = 58) là từ Mĩ. Số còn lại là từ Úc (18 người), Canada (10), Pháp (8 ), Anh (5), v.v. Như vậy, tính chung thì có chừng 28 + 120 = 148 [3] nhà khoa học Việt Nam hay gốc Việt Nam có tên trong danh sách 100,000 nhà khoa học được xem là đỉnh. Các bạn có thể download danh sách từ đường link dưới đây:
Trong số 148 người, chủ yếu phân bố theo 6 chuyên ngành chánh như sau (Biểu đồ 1):
Công nghệ thông tin & viễn thông: 33 người
Kĩ thuật (engineering): 28
Y học lâm sàng: 22
Enabling & Strategic Technologies: 19
Vật lí và thiên văn học: 14
Hoá học: 8
Biểu đồ 1: Phân bố của 108 nhà khoa học Việt Nam hay gốc Việt Nam theo lãnh vực nghiên cứu. Đa số tập trung vào công nghệ thông tin & viễn thông, kĩ thuật, enabling & strategic Technologies, y học lâm sàng, vật lí và thiên văn học.
Đằng sau danh sách
Nguyên văn tác giả viết là “100,000 top scientists” [4], hay có khi là “most-cited scientists” (tức những nhà khoa học được trích dẫn nhiều). Theo tôi thì cách định danh ‘most cited‘ chính xác hơn là ‘top’, vì quả thật nhóm xếp hạng dựa vào những con số về trích dẫn (tức citation).
Chính vì dựa vào số trích dẫn nên danh sách này có cái khiếm khuyết của nó. Thông thường thì một công trình nghiên cứu sau khi công bố và được nhiều đồng nghiệp trích dẫn sau đó, thì đó là tín hiệu công trình nghiên cứu có phẩm chất cao. ‘Phẩm chất’ ở đây hiểu theo nghĩa công trình nghiên cứu có tính khoa học cao (như thiết kế, phân tích), ý tưởng hay, kết quả quan trọng, và do đó có tác động đến chuyên ngành. Nếu không có tác động hay tánh khoa học kém thì chẳng ai trích dẫn. Trong thực tế, rất nhiều (có thể lên đến 70%) những bài báo công bố chưa bao giờ được trích dẫn.
Nhưng số trích dẫn rất dễ bị lạm dụng, và trong thực tế đã bị lạm dụng rất nhiều. Điều này thì tôi đã nói và viết cả 10 năm nay rồi, nhưng lúc đó ít người chú ý (vì lúc đó Việt Nam chưa quan tâm đến công bố khoa học). Trong mấy năm gần đây, sự lạm dụng này trở thành một hiện tượng khi các nước đang phát triển ở Á châu, Trung Đông, và Nam Mĩ cố gắng đuổi kịp các đồng nghiệp phương Tây nên họ sáng tạo ra rất nhiều cách thức để nâng số trích dẫn. Những cách này có khi trở thành một nét văn hoá ở vài nhóm, và nó không nhứt quán với qui ước đạo đức nghiên cứu khoa học.
Tự trích dẫn – self-citation
Cách để lạm dụng citation thì rất nhiều, nhưng cách phổ biến nhứt là tự mình trích dẫn bài của mình! Thông thường, tác giả có thể tự trích dẫn bài của mình để làm tiền đề cho nghiên cứu hiện hành, hoặc vì lãnh vực mà tác giả làm là tiên phong (ít ai làm), thì tự trích dẫn không có vấn đề gì. Ví dụ như công trình nghiên cứu “Vietnam Osteoporosis Study” (VOS) của chúng tôi được trích dẫn vài lần là do những bài báo lấy dữ liệu từ đó phải trích dẫn VOS, và điều này hoàn toàn hợp lí. Tuy chẳng có qui định cụ thể, nhưng đa số người trong giới khoa học cho rằng tỉ lệ tự trích dẫn có thể chấp nhận được là dưới 12%.
Thế nhưng trong thực tế, có khá nhiều nhà khoa học tự trích dẫn hơn 15%. Theo danh sách ‘most-cited scientists‘ năm 2019 có đến 250 người với tỉ lệ tự trích dẫn cao hơn 50%. Nói cách khác, cứ 100 trích dẫn họ có được là từ … chính họ. Theo bài báo trên Nature [5], người vô địch về tự trích dẫn là Sundarapandian Vaidyanathan (nhà khoa học máy tính từ Ấn Độ) vì ông có tỉ lệ tự trích dẫn lên đến 94%!
Nhìn chung, các nước như Iran, Ấn Độ (và nay là Việt Nam) có tỉ lệ tự trích dẫn cao hơn thế giới (Biểu đồ 2).
Biểu đồ 2: So sánh tỉ lệ tự trích dẫn ở một số nước: Úc, Canada, Pháp, Ấn Độ, Iran, Mĩ và Việt Nam. Việt Nam và Iran có tỉ lệ tự trích dẫn cao hơn hẳn các nước khác trong bảng so sánh. Đường màu đỏ là trung bình trên thế giới (12%).
Còn tình hình Việt Nam thì sao? Trong số 28 người có tên trong danh sách năm 2021, thì 25 (gần 90%) người có tỉ lệ tự trích dẫn cao hơn 12%. Tỉ lệ tự trích dẫn trung bình của các nhà khoa học từ Việt Nam là 25.6%, cao gấp hơn 2 lần so với tỉ lệ ở người gốc Việt Nam ở Mĩ (13.9%) (xem Biểu đồ 3). Có vài người có tỉ lệ tự trích dẫn trên 40%.
Biểu đồ 3: So sánh tỉ lệ tự trích dẫn của các nhà khoa học Việt Nam hay gốc Việt Nam theo quốc gia công tác: Úc, Áo, Canada, Đức, Pháp, Anh, Nam Hàn, Na Uy, Ba Lan, Singapore, Thái Lan, Mĩ và Việt Nam. Biểu đồ cho thấy các nhà khoa học VN hay gốc VN ở Đài Loan (twn), Ba Lan (pol) có tỉ lệ tự trích dẫn khá cao so với trung bình thế giới 12%.
Ép trích dẫn
Chiêu trò này được gọi là coercive citation. Nó thường xảy ra ở những kẻ có quyền thế trong thế giới xuất bản khoa học. Chẳng hạn như các chuyên gia bình duyệt vì muốn nâng cao số trích dẫn, khi bình duyệt bài báo của tác giả khác, họ yêu cầu hay gợi ý tác giả phải trích dẫn bài báo của họ. Tác giả vì không muốn làm phật lòng chuyên gia bình duyệt nên đành phải trích dẫn. Có khi bài báo được trích dẫn chẳng liên quan gì đến chủ đề bài báo của tác giả. Đây là chiêu trò khá phổ biến, đặc biệt là các chuyên gia từ các nước đang phát triển.
Một chiêu trò khác là dùng vị trí biên tập để nâng cao số trích dẫn cho tập san. Chẳng hạn như các ban biên tập ra yêu cầu hay gợi ý tác giả phải trích dẫn những bài báo được công bố trên tập san của họ. Cách làm này nâng cao chỉ số trích dẫn cho tập san và tăng chỉ số gọi là ‘Impact Factor’ (IF). Đây là một cách thức gian lận, và rất phổ biến ở những tập san mới từ các nước đang phát triển. Có những tập san ở Á châu mới ra đời chưa đầy 5 năm nhưng trở thành tập san Q1 (top 25% trong ngành) trong khi các tập san Âu Mĩ ra đời cả 50 năm có khi chưa đạt được vị trí đó.
Citation cartel — tập đoàn trích dẫn
Một hình thức khác để nâng số lần trích dẫn là dùng tập đoàn, giống như tập đoàn buôn bán á phiện, nên mới có tên là ‘citation cartel‘. Theo chiêu này, các tác giả liên kết với nhau thành một mạng, và họ trích dẫn lẫn nhau. Anh trích dẫn bài của tôi; tôi trả nghĩa bằng cách trích dẫn bài của anh; đôi bên cùng có lợi.
Hiện tượng ‘Tập đoàn trích dẫn’ này đã diễn ra hơn 10 năm qua, nhưng chỉ phổ biến trong thời gian gần đây khi các nhà phân tích phát hiện. Cách làm này được xem như là một mafia trong khoa học.
Salami publication — tăng số bài công bố
Một hiện tượng khác có liên quan đến tăng trích dẫn là tăng số bài báo khoa học. Họ hi vọng rằng số bài báo càng nhiều thì số trích dẫn trước sau gì thì cũng gia tăng. Những người này không quan tâm đến chất lượng. Do đó, con số trích dẫn nhiều khi không phản ảnh chất lượng nghiên cứu khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học, có khái niệm ‘least publishable unit’ (LPU) để xác định cái gì có thể công bố và cái gì không nên công bố. Nói một cách nôm na, LPU là lượng thông tin tối thiểu cần thiết cho một bài báo khoa học.
Các nhà khoa học nghiêm chỉnh và được huấn luyện bài bản không công bố những nghiên cứu mà họ xem là chưa đủ thông tin. Họ chờ đến khi nghiên cứu xong hay thí nghiệm đã hoàn tất rồi mới công bố một bài đầy đủ. Do đó, những người này thuờng công bố ít bài báo, nhưng bài nào cũng có tầm vóc quan trọng của nó. Người trong ngành chỉ đọc là biết tính công phu và qui mô ra sao. Những công trình này thường chỉ công bố trên các tập san lớn trong chuyên ngành hay trong khoa học.
Nhưng ngày nay, có những người (không biết nên gọi là ‘nhà khoa học’) không hiểu gì về LPU, hay hiểu chút chút, và lạm dụng công bố khoa học. Họ có xu hướng công bố những bài báo mà thông tin rất ít, hay những bài báo mà nói theo cách nói dân dã là ‘không mợ thì chợ vẫn đông‘ (ý nói chẳng có tác động gì đáng kể). Tôi đã từng thấy những người như thế ở Úc này. Có người chưa xong luận án tiến sĩ nhưng trong vòng 3 năm họ đã công bố hơn 30 bài báo! Không cần nói ra, 30 bài đó không bằng 1 bài nghiêm chỉnh.
Có người thì áp dụng chiến thuật ‘salami publication‘. Salami là một loại nem chua cay xônh khói của Ý được gói thành một thỏi như chả lụa của chúng ta. Người ta hay cắt thành từng khoanh nhỏ để ăn với bánh mì. Một thỏi salami có thể cho ra 20-30 khoanh nhỏ. Chiến thuật công bố kiểu salami có nghĩa là nhà khoa học cắt một nghiên cứu thành nhiều mảng nhỏ nhỏ, và mỗi mảng là một bài báo.
Có những người quá tuyệt vọng để có nhiều bài báo, nên họ công bố hàng chục bài báo nhỏ (kiểu tiểu đường và hút thuốc lá, tiểu đường và bia rượu, tiểu đường và vận động thể lực, tiểu đường và gen A, tiểu đường và gen B, v.v.) thay vì theo thông lệ chỉ 1 bài báo là đủ.
Tuy nhiên, cần phân biệt với những trường hợp nghiên cứu lớn, và người ta có thể công bố hàng trăm bài báo khác nhau. Mỗi bài báo giải quyết một giả thuyết khác nhau và phương pháp khác nhau. Công bố trong trường hợp đó là hợp lí, không phải là salami publication.
“Research parasite”
Lại có người không trực tiếp làm nghiên cứu, nhưng công bố rất nhiều nhờ vào dữ liệu của người khác. Họ không có ý tưởng gì mới, họ chỉ thu thập những bài báo đã công bố về một chủ đề trong quá khứ, rồi làm dùng phương pháp thống kê tổng hợp thành một bài báo khoa học và công bố dưới dạng gọi là ‘meta-analysis‘. Có những người công bố hàng trăm bài báo loại này!
Cách làm này phổ biến đến độ người ta (như ở China) lập ra công ti để bán bài báo. Họ chuyên làm những meta-analysis, viết thành bản thảo, và bán bản thảo cho những người có nhu cầu. Một bài như thế có giá từ 2000 USD đến 5000 USD, và công ti bảo đảm chỉ lấy phí khi bài báo đã được công bố.
Thành ra, meta-analysis đã bị lạm dụng và lợi dụng quá nhiều. Thoạt đầu, meta-analysis được xem là một ‘bài báo khoa học‘, nhưng sau này nó bị lạm dụng quá nên các tập san không xem đó là một nghiên cứu. Trong khoa học, người ta gọi hiện tượng này là ‘research parasite‘.
Tuy nhiên, cần phân biệt những bài báo tuy dùng dữ liệu của người khác, nhưng tác giả có ý tưởng mới hay cách tiếp cận mới hay phương pháp mới, thì vẫn xem là một bài báo khoa học. Có thể xem đây là một dạng ‘research parasite’ nhưng là dạng đáng kính nể, không giống như loại chỉ chuyên ăn bám dữ liệu người khác mà không có ý tưởng mới.
Tóm lại
Những dữ liệu về trắc lượng khoa học năm nay (2021) cho thấy Việt Nam đã tăng số lượng nhà khoa học có tên trong danh sách những người được trích dẫn nhiều trên thế giới. Tuy nhiên, tỉ lệ tự trích dẫn của các nhà khoa học trong danh sách này cao hơn gấp 2 lần so với tỉ lệ có thể chấp nhận được (12%). Tự trích dẫn quá cao cũng giống như chứng ái kỉ (narcissism), tức tự thấy mình đẹp, và điều này cần phải tránh trong khoa học nghiêm chỉnh.
Câu hỏi quan trọng là nếu trong gia đình có người tiêm vaccine (hay bình phục sau khi bị nhiễm) thì ảnh hưởng ra sao đối với những người trong gia đình mà chưa được tiêm vaccine? Các thử nghiệm lâm sàng RCT không trả lời dược câu hỏi đó. Nhưng tuần qua có một nghiên cứu [1] cung cấp vài thông tin quan trọng có thể trả lời câu hỏi đó một cách thuyết phục.
Chúng ta biết rằng vaccine có hiệu quả giảm nguy cơ bị nhiễm virus cho cá nhân. Nói dúng ra là giảm nguy cơ nhiễm trong một nhóm người. Làm sao chúng ta biết được vaccine giảm nguy cơ nhiễm? Chúng ta biết là qua các thử nghiệm RCT, mà trong đó nhóm người được tiêm vaccine có xác suất bị nhiễm thấp hơn nhóm người không tiêm vaccine. Thấp hơn bao nhiêu? Câu trả lời là thấp hơn từ 70% đến 95%.
Xác suất bị nhiễm trong nhà nếu chưa có ai được tiêm vaccine hay miễn dịch. Gia đình càng đông người thì xác suất bị nhiễm càng cao.
Nhưng một câu hỏi quan trọng khác là: nếu trong nhà có n người, và nếu có k người đã được miễn nhiễm thì xác suất bị nhiễm trong gia đình đó là bao nhiêu? “Miển nhiễm” ở đây có nghĩa là đã được tiêm vaccine hay đã bị nhiễm covid và bình phục sau đó.
Câu hỏi đó quan trọng, bởi vì đa số (hơn 99.5%) những ca nhiễm xảy ra ở trong nhà (chớ không phải ngoài trời). Nó còn quan trọng vì trả lời được sẽ cho chúng ta biết hiệu quả của vaccine giảm lây nhiễm (transmission) ra sao. Cần nhấn mạnh là giảm lây nhiễm cho người khác, không phải giảm xác suất bị nhiễm (incidence).
Để trả lời câu hỏi trên một nhóm nghiên cứu Na Uy đã theo dõi 814,806 gia đình gồm 1,789,728 người. Mỗi gia đình có 2, 3, 4 hoặc 5 thành viên. Trong mỗi gia đình có 1, 2, v.v. người đã được ‘miễn nhiễm’ (tức đã tiêm vaccine hay đã bình phục sau khi bị nhiễm). Họ theo dõi những thành viên này trung bình chừng 1 tháng.
Trong thời gian đó, họ ghi nhận 5.7% (n = 88.797) thành viên gia đình bị nhiễm covid. Tỉ lệ này khá cao, nhưng đó là thời điểm dịch đang ở cao điểm. Nhưng khi phân tích chi tiết hơn về số người miễn nhiễm trong gia đình thì xu hướng mới thú vị.
Gia đình với 2 người: nếu trong gia đình có không có ai miễn nhiễm (tức chưa ai tiêm vaccine), thì xác suất bị nhiễm là 3.3%. Nhưng nếu gia đình có 1 người được miễn nhiễm (đã tiêm vaccine) thì xác suất người chưa miễn nhiễm sẽ bị nhiễm là 2.7%. Như vậy, có 1 người miễn nhiễm trong gia đình giảm nguy cơ lây nhiễm chừng 20%.
Gia đình với 3 người: nếu chưa ai được tiêm vaccine thì xác suất bị nhiễm là 13%. Nếu có 1 người đã tiêm vaccine, thì xác suất 2 người chưa được tiêm bị nhiễm giảm xuống còn 6.3%. Nếu có 2 người được tiêm vaccine thì người chưa tiêm có xác suất bị nhiễm là 4.2%.
Gia đình với 4 người: nếu chưa ai tiêm vaccine thì xác suất nhiễm là 42%. Nếu có 1 người được tiêm vaccine, thì 3 người còn lại có xác suất bị nhiễm là 18%. Nếu có 2 người đã tiêm vaccine, thì xác suất 2 người còn lại [chưa tiêm vaccine] bị nhiễm là 7%. Nếu có 3 người đã tiêm vaccine, thì xác suất người thứ 4 sẽ bị nhiễm là 5%.
Gia đình 5 người: nếu chưa ai tiêm vaccine, thì xác suất bị nhiễm lên đến 70%. Nhưng xác suất này giảm dần theo số người được tiêm vaccine. Nếu gia đình có 1 người miễn nhiễm thì xác suất 4 người còn lại bị nhiễm là 44%; nếu có 2 người nhiễm, thì xác suất bị nhiễm của 2 người còn lại bị nhiễm là 16%; nếu 3 người miễn nhiễm, thì xác suất 2 người còn lại bị nhiễm còn 7%. Nhưng nếu có 4 người đã được tiêm vaccine thì xác suất người còn lại bị nhiễm chỉ còn ~4%.
Những kết quả trên hết sức công phu và thú vị. Nó nói lên một qui luật mà chúng ta ai cũng cảm nhận được rằng:
gia đình càng có nhiều người thì xác suất lây nhiễm càng cao;
gia đình có người miễn nhiễm (qua vaccine hay tự nhiên) thì sẽ ‘bảo vệ’ cho những người còn lại rất đáng kể;
gia đình càng có nhiều người miễn nhiễm thì khả năng bảo vệ càng cao cho các thành viên còn lại.
Xác suất bị nhiễm trong nhà nếu đã có người được tiêm vaccine hay miễn dịch. Mỗi biểu đồ thể hiện kết quả gia đình với 2 thành viên, 3 thành viên, 4 thành viên, và 5 thành viên. Trục hoành là số thành viên trong gia đình đã được tiêm vaccine hay đạt miễn dịch.
Những kết quả trên cũng nói lên rằng tiêm chủng vaccine quả thật giảm nguy cơ bị nhiễm cho 1 cá nhân, nhưng còn giúp giảm lây nhiễm cho những người chung quanh. Đây chính là cái ý mà tôi từng nói rằng tiêm vaccine giống như mình làm một việc cộng đồng vậy [2,3]: lợi ích cho cá nhân thì không bao nhiêu, nhưng lợi ích cho cộng đồng thì rất cao.
Người cao tuổi ở các viện dưỡng lão thường hay bị té và gãy xương đùi (hip fracture). Gãy xương đùi dễ dẫn đến tử vong. Câu hỏi do đó là bổ sung calcium và protein cho họ có thể giảm nguy cơ té ngã và gãy xương? Tập san BMJ mới công bố một nghiên cứu quan trọng của chúng tôi nhằm trả lời câu hỏi đó [1]. Đây là một bài báo sẽ làm thay đổi cách quản lí các ông bà cụ trong nhà dưỡng lão trong tương lai.
Đây là một nghiên cứu do tôi thiết kế, và thực hiện rất công phu, mất cả 8 năm trời mới công bố. Nghiên cứu bắt đầu từ 2013, mà mãi đến 2020 mới viết xong, và 2021 thì được công bố sau khi qua biết bao khó khăn khác với các tập san y khoa.
Thoạt đầu tìm nguồn tài trợ rất khó, vì ai cũng nghi nghi ngờ ngờ về bổ sung calcium và protein, nhưng Sandra kiên trì gõ cửa các công ti thì cũng có người chiếu cố. Kế đến là thiết kế ra sao, và lúc này thì đến phiên tôi. Bàn qua tán lại tôi nói chỉ có thể làm cluster RCT thôi, còn làm kiểu prospective hay open RCT thì không có giá trị. Đến khi thực hiện thì lại xảy ra tình trạng tử vong khá cao (vì họ thường là người cao tuổi, 80 trở lên), nên phải tìm các nhà dưỡng lão thay thế sao cho có đủ con số. Tìm xong còn phải ngẫu nhiên hoá cho đúng cách. Nói chung, làm RCT rất nhiêu khê và đầy những cạm bẫy mà mình khó thấy trước.
Khi dữ liệu đã có thì còn phải qua công đoạn kiểm tra và phân tích. Phải huy động 2 chuyên gia thống kê làm phân tích, và tôi làm supervisor quá trình phân tích. Kết quả ‘ngọt ngào’ đến ngạc nhiên: Bổ sung calcium và protein giảm nguy cơ gãy xương hông đến ~50%! Tôi thoạt đầu thấy khó tin, nên bảo phải kiểm tra lại và phân tích theo đúng kế hoạch đề ra, nhưng kết quả vẫn như thế. Vậy là an tâm rồi. Nhưng bổ sung calcium và protein không làm giảm tử vong.
Đến khi viết (thật ra chỉ có 3 người viết thôi) lại xảy ra tranh cãi. Cái ông tác giả cuối là bạn tôi, người có cá tánh mạnh, và viết văn rất rất giỏi. Thành ra, cái gì mà tôi sửa là ổng … dẹp qua một bên. Nhưng vài ngày sau, ổng chắc thấy có lí hay sao ấy, nên lại dùng phần tôi chỉnh sửa. Cứ như thế, qua lại mấy tháng trời mới có bản thảo sau cùng.
Đến các tập san. Vì đây là nghiên cứu quan trọng, nên chúng tôi chỉ gởi cho các tập san ‘xịn’. Đầu tiên là New England Journal of Medicine (NEJM), nhưng sau 2 tháng bình duyệt, họ từ chối. Kế đến là gởi cho Lancet, và lần này thì gần 4 tháng bình duyệt (5 người bình duyệt), họ cho phép chúng tôi trả lời. Nhưng sau khi trả lời, Lancet từ chối. Ôi! đau điếng. Kế tới là JAMA, sau vài tháng bình duyệt, họ cũng từ chối. Họ hỏi chúng tôi có muốn chuyển sang JAMA Int Med, chúng tôi không chịu. Gởi cho Ann Int Med, thì tập san này thậm chí hách đến nổi không bình duyệt và từ chối trong vòng 3 ngày.
Lúc đó, trong hội nghị ASBMR có người thấy nghiên cứu của chúng tôi, và đề nghị gởi lại cho NEJM. Mừng quá, như gặp ân nhân, chúng tôi lại chỉnh sửa và gởi lại cho NEJM. Lần này thì NEJM sau khi bình duyệt không chắc là nên chấp nhận hay từ chối, họ yêu cầu cung cấp thêm dữ liệu. Sau khi chúng tôi cung cấp thêm dữ liệu, họ họp ban biên tập và kết quả là … từ chối.
Tôi đề nghị gởi cho BMJ, và lần này thì chúng tôi có may mắn. BMJ gởi cho 5 chuyên gia bình duyệt, kể cả một giáo sư về thống kê học. Số trang bình duyệt khá dài, đa số là khen, nhưng có một người từ Úc thì tỏ vẻ chê. Chúng tôi gãi đầu hỏi tại sao người ngoài khen, mà người đồng hương lại chê. Nhưng qua lại gần 4 tháng thì bài báo được chấp nhận. Mừng quá trời. Thế là hơn 12 tháng từ ngày xong bản thảo mới được chấp nhận cho công bố.
Kể chuyện trên để các bạn thấy làm một nghiên cứu có giá trị rất ư là khó khăn. Một nghiên cứu trên BMJ, NEJM, Lancet, JAMA, v.v. do đó có giá trị hơn 10 nghiên cứu trên các tập san làng nhàng.
Sau một thời gian bận bịu, tôi có dịp cập nhựt hoá kênh youtube của tôi. Tính đến nay, tôi đã upload lên đó 100 bài giảng. Trong thực tế thì nhiều hơn 100, nhưng vì cách tôi đánh số theo bài giảng (kiểu 2a, 2b), nên con số trên đó thấp hơn thực tế. Sở dĩ tôi nhắc con số 100 là vì nó giống như một cái mốc, một chặng đường. Lúc bắt đầu làm tôi không nghĩ mình có đến 100 video như vầy, nhưng làm từ từ thì cũng tới con số đó.
Để giúp các bạn dễ tìm, tôi đã hệ thống hoá lại các bài giảng theo chủ đề:
Loãng xương
Y học thực chứng và dịch tễ học
Phân tích dữ liệu
Hiển thị dữ liệu (data visualization)
Giới thiệu R
Từ đây đến cuối năm tôi sẽ upload chừng 10 bài giảng nữa, chủ yếu tập trung vào chủ đề dịch tễ học. Nếu có thì giờ tôi sẽ thu âm các bài về công bố khoa học để các bạn tham khảo.
Các bạn có thể xem qua cái ‘Playlists’ và thấy danh mục các bài giảng. Những bài giảng này tôi soạn rất công phu và phải bỏ ra nhiều thời gian để thu thập chất liệu làm ví dụ. Một bài giảng có khi chỉ 30 phút, nhưng thời gian bỏ ra để thu thập chất liệu, cấu trúc bài giảng, soạn slides, thu âm, v.v. tốn gấp 4 lần thời gian phát thanh. Thành ra, nhiều khi một số bạn hỏi tôi xin các slides thì tội cho tôi quá. Tôi nghĩ học thì phải có hành, tức là nên chủ động một chút, chớ nếu cái gì cũng 100% trước mặt và mình chẳng cần nỗ lực gì thì ‘học và hành’ đâu còn ý nghĩa nữa.
Hàng tuần tôi nhận được nhiều comment và góp ý, nhưng tôi không thể nào trả lời tất cả. Chỉ thấy vui khi kênh này đã giúp cho rất nhiều bạn khắp nơi trên thế giới trong nhu cầu học hành. Tôi xem đây là một ‘phục vụ cộng đồng’ nên tất cả các bài giảng đều không có quảng cáo. Cũng bắt chước các youtuber khác: nếu các bạn thấy kênh có ích, thì bấm vào nút subscribe hay giới thiệu cho bạn bè.
Tôi rất hân hạnh giới thiệu bài viết mới nhứt của Nhà văn Ngô Thế Vinh viết về Gs Nguyễn Văn Trung, một nhân vật khoa bảng nổi tiếng thời trước 1975. Có lẽ đây là bài viết đầy đủ nhứt về ông, kèm theo nhiều tư liệu quí báu trước và sau 1975. Vắn tắt về Gs Trung: sanh năm 1930 tại Hà Nam; tốt nghiệp tiến sĩ triết học từ ĐH Louvain (Bỉ) năm 1961; dạy triết và văn ở ĐH Văn Khoa Sài Gòn và ĐH Huế; sau 1975 thì không còn dạy học, chỉ làm nghiên cứu ở Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp TPHCM; 1993 sang định cư ở Canada. Ông cũng là người gây nhiều ảnh hưởng cho cá nhân tôi thời trước 1975, những suy nghĩ ‘cánh tả’ thời đó của tôi cũng xuất phát từ những bài viết và sách của ông. Ông là một trí thức đích thực hiểu theo nghĩa ‘public intellectual‘, nhưng hành trình trí thức của ông rất lận đận trong một Việt Nam với nhiều chao đảo. Bài viết của Bs Ngô Thế Vinh thuật lại những lận đận đó như là một bài học kinh nghiệm cho thế hệ trí thức tương lai. NVT
________
“… những cố gắng suy nghĩ của một người vẫn ước muốn tự đặt cho mình một kỷ luật đồng thời cũng là một lý tưởng là phải tìm kiếm không ngừng, bằng cách tự phủ nhận, bất mãn với quãng đường mình vừa qua và cứ như thế mãi mãi…” [Cùng bạn độc giả, Lược Khảo Văn Học I] [1]Nguyễn Văn Trung
NGÔ THẾ VINH
Hình 1: trái, Nguyễn Văn Trung, Đại học Văn Khoa Sài Gòn 1969; phải, Nguyễn Văn Trung 50 năm sau, Montréal tháng 8/2019. [nguồn: trái, album gia đình Nguyễn Quốc Linh, phải, photo by Phan Nguyên]
TIỂU SỬ
Nguyễn Văn Trung sinh ngày 26-9-1930, tại làng Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; còn có bút hiệu là Phan Mai và Hoàng Thái Linh. Xuất thân trường Dòng Puginier và chủng viện Hoàng Nguyên trước khi chuyển qua học Chu Văn An, Hà Nội. Từ 1950 đến 1955 ông được gửi đi du học Âu châu, ban đầu ở Pháp rồi qua Bỉ, đậu cử nhân triết học Đại học Louvain, Bỉ. Năm 1955 về Sài Gòn dạy trường trung học Chu Văn An, và sau đó là Đại học Huế.
Năm 1961 ông trở lại Bỉ, trình luận án tiến sĩ về Phật Học cũng tại Đại học Louvain với đề tài: “La Conception Bouddhique du devenir, Essai sur la notion du devenir selon la Stharivanâda.”
Về nước ông dạy Triết và Văn ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn và Đại học Huế. Tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ông là Trưởng ban Triết Tây phương, có thời gian được bầu làm Khoa trưởng Đại học Văn khoa Sài Gòn (1969).
Sau 1975, không được trở lại giảng dạy, ông chỉ có thể làm công việc nghiên cứu văn học và triết học tại Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp TP. HCM, với một chuyển hướng quan trọng, ông tập trung vào nghiên cứu văn hoá miền châu thổ Sông Cửu Long với thành quả là bộ sách Lục Châu Học, ông cũng có công phát hiện cuốn sách quốc ngữ đầu tiên:Thầy Lazaro Phiềncủa Nguyễn Trọng Quản, do cơ sở J. Linage Saigon xuất bản năm 1887, tiến tới phủ nhận tác phẩm Tố Tâm xuất bản năm 1925 ở ngoài Bắc bấy lâu vẫn được xem là áng văn quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam.
Mười tám năm sau 75, từ cuối 1993 Nguyễn Văn Trung đã cùng với gia đình rời Việt Nam, sang đoàn tụ với người con trai lớn Nguyễn Quốc Bảo là boat people đang định cư tại Montréal, Canada. Và sau đó, Nguyễn Văn Trung vẫn có những chuyến về thăm Việt Nam, sang Mỹ và Pháp.
Hình 2: trái, Nguyễn Văn Trung, và Trần Thị Minh Chi, Sài Gòn 1960s; phải, vợ chồng Nguyễn Văn Trung nửa thế kỷ sau, Montréal Hè 2019. Chị Minh Chi Nguyễn Văn Trung thì nay cũng đã mất. [Nguồn: trái, từ album gia đình Nguyễn Quốc Linh, phải, photo by Phan Nguyên, E.E.]
Trong loạt bài Nhìn những chặng đường đã đi qua, khi đã qua khá xa tuổi “cổ lai hy”, Nguyễn Văn Trung viết: “… tôi sống một đời sống ít nhiều khắc khổ, một cách tự nguyện, không nghiện rượu, thuốc lá, cà phê, chỉ nghiện hay say mê một thứ: cầm bút viết, không hẳn vì người đọc mà trước hết vì chủ yếu tôi sống thì phải viết, như phải ăn phải thở, thế thôi.” [3]Nhu cầu viết với Nguyễn Văn Trung như một phong cách sống, chỉ có điều những tập “Nhận Định” 8- 9-10 và những trang viết của ông về sau này, do tuổi tác đã không còn những nét sắc sảo cuốn hút như phong độ của tuổi thanh xuân.
Ở miền Nam giai đoạn 1955-1975, Nguyễn Văn Trung không chỉ là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu phê bình mà ông còn là một nhà báo, viết mấy trăm bài báo đủ mọi thể loại, là một cây viết phân tích bình luận nổi tiếng về chính trị, xã hội và văn hoá; rất có ảnh hưởng trên tầng lớp tuổi trẻ thanh niên sinh viên, cùng các bước nhập cuộc với các hoạt động xã hội và dấn thân.
Trong giới trí thức Công giáo, nổi trội có ba người là Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung và Nguyễn Ngọc Lan được xem là nhóm Công giáo khuynh tả, phản chiến, kêu gọi hòa bình, hòa hợp và hoà giải dân tộc – cụm từ thời thượng gọi họ là Thành phần thứ Ba. Nguyễn Văn Trung đã cùng một số đồng nghiệp tham gia tuyệt thực đòi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trả tự do cho các sinh viên tranh đấu – trong đó có cả đám sinh viên cộng sản nằm vùng và ông cũng từng là thành viên trong Chủ tịch Đoàn Ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam (1970).
TÁC PHẨM
Nguyễn Văn Trung có một sự nghiệp trước tác phong phú và đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực: từ sách giáo khoa, tới sách nghiên cứu triết học, văn học, văn hoá xã hội.
Tác phẩm đã xuất bản trước 1975
Sách giáo khoa: Triết học tổng quát (Vĩnh Bảo, 1957). Luận lý học (tủ sách Á Châu, 1957). Đạo đức học (tủ sách Á Châu, 1957). Luận triết học tập I (Nxb Nam Sơn). Phương pháp làm luận triết học (Nxb Nam Sơn).
Tiểu luận: Nhận định I (Nxb Nguyễn Du, 1958). Nhận định II (Nxb Đại Học, 1959). Nhận định III (Nxb Nam Sơn, 1963). Nhận định IV ( Nxb Nam Sơn, 1966). Nhận định V (Nxb Nam Sơn, 1969). Nhận định VI (Nxb Nam Sơn, 1972).
Lý luận văn học: Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết (Cơ sở xuất bản Tự Do, 1962). Lược khảo văn học tập I: những vấn đề tổng quát (Nxb Nam Sơn, 1963). Lược khảo văn học II: ngôn ngữ văn chương và kịch(Nxb Nam Sơn, 1965). Lược khảo văn học III: nghiên cứu và phê bình văn học (Nxb Nam, Sơn 1968).
Văn học và chính trị: Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam thực chất và huyềnthoại (Nxb Nam Sơn, 1963). Chữ và văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc (Nxb Nam Sơn, 1974). Trường hợp Phạm Quỳnh (Nxb Nam Sơn, 1974). Chủ đích Nam Phong (Nxb Trí Đăng, 1975). Vụ án truyện Kiều (tập hợp những bài viết trong vụ tranh luận về truyện Kiều giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh năm 1924, Sài Gòn 1965).
Triết học: Ca tụng thân xác (Nxb Nam Sơn, 1967). Hành trình trí thức của Karl Marx (Nxb Nam Sơn, 1969). Đưa vào triết học(Nxb Nam Sơn, 1970). Góp phần phê phán giáo dục và đại học (Nxb Trình Bầy, 1967). Ngôn ngữ và thân xác (Nxb Trình Bầy, 1968). La conception bouddhique du devenir, luận án tiến sĩ (Imprimerie Xã Hội, Việt Nam, 1962). Danh từ triết học (cùng với LM Cao Văn Luận, Đào Văn Tập, Trần Văn Tuyên, LM Xuân Corpet (Nxb Đại Học Huế, 1958).
Tôn giáo: Biện chứng giải thoát trong Phật giáo (Nxb Đại học Huế, 1958). Người công giáo trước thời đại (nhiều tác giả) (Đạo và Đời, 1961). Lương tâm công giáo và công bằng xã hội (Nxb Nam Sơn, 1963).
Hình 3: Một số sách Nguyễn Văn Trung trước 1975, do Nam Sơn xuất bản và sau này do Xuân Thu tái bản ở hải ngoại khi Nguyễn Văn Trung còn ở lại Việt Nam.
Tác phẩm đã xuất bản sau 1975
Câu đố Việt Nam (nxb TP. HCM, 1986). Những áng văn quốc ngữ đầu tiên: Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản(Đại học Sư phạm TP. HCM, 1987; Nxb Hội Nhà Văn). Về sách báo của tác giả công giáo thế kỷ XVII- XIX (nhiều tác giả, Nxb TP. HCM, 1993). Chủ đích Nam Phong (1975), Trương Vĩnh Ký – nhà văn hóa (1993),Hồ sơ Lục châu học: Tìm hiểu con người ở vùng đất mới(2015).
Hình 4: Một số sách Nguyễn Văn Trung xuất bản trước 1975, sau này tái bản ở trong nước từ sau năm 2000. [tư liệu Trần Huy Bích]
Các bản thảo soạn sau 75, chưa in: Ngôn ngữ và văn học dân gian, Ăn mặc theo truyền thống Việt Nam, Đạo Chúa vào Việt Nam, Hồ sơ về hàng giám mục Việt Nam, Nhận định VII, VIII. Viết thêm ở hải ngoại Nhận định IX và X, còn dở dang.
Nguyễn Trọng Văncũng là một giáo sư triết, trên sốBách Khoa 264 (1-1-1968) trong bài viết: Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung, khi nhận định về ảnh hưởng của các giáo sư đại học đối với nền văn học miền Nam, tuy là một bài viết đả kích Nguyễn Văn Trung nặng nề nhưng Nguyễn Trọng Văn – cũng đã phải công nhận: “Ông Trung là người có công trong việc giới thiệu những trào lưu tư tưởng mới của Tây Phươngvới độc giả Việt Nam… Ông trình bày một cách gọn gàng, mạch lạc. Những triết học hiện sinh, tiểu thuyết mới,những danh từ có tính cách văn nghệ, triết lý dần dần được du nhập và phổ biến. Những Hiện tượng luận, đối thoại, tha nhân, phản kháng, vong thân, ngụy tín, huyền thoại, thông cảm, những Alain Robbe Grillet, Nathalie Sarraute, Michel Butor, Sartre, Camus… đã được Nguyễn Văn Trung trình bày hàng chục năm trước trong Sáng Tạo, Bách Khoa, Thế Kỷ Hai Mươi…”
Hình 5: GS Nguyễn Văn Trung rất gần gũi với sinh hoạt sinh viên, ngoài những giờ học trong giảng đường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, mấy thầy trò còn tổ chức những buổi hội thảo “bỏ túi” qua các chuyến đi dã ngoại ngoài trời, khi thì rừng cao su gần Đường Sơn Quán, khi thì khuôn viên La San Mai Thôn quận Thủ Đức. Hình trên là một buổi sinh hoạt dã ngoại tại La San Mai Thôn mùa Hè năm 1974, GS Nguyễn Văn Trung đeo kính ngồi phía sau nơi góc trái. [nguồn: Văn Khoa ngày tháng cũ, 04/ 2017 Huỳnh Như Phương]
Võ Phiến trong cuốn Văn Học Miền Nam Tổng Quan (Nxb Văn Nghệ, 1986), thời kỳ 1954-1975, được viết ở hải ngoại sau này, ông đã phải công nhận Nguyễn Văn Trung là một cây viết có nhiều ảnh hưởng trong suốt thời kỳ 20 năm văn học của miền Nam, qua nhận định: “Một giáo sư trẻ tuổi mới từ Âu châu về, là Nguyễn Văn Trung bắt đầu viết những bài tiểu luận triết học rất được giới thanh niên sinh viên và văn nghệ sĩ chú ý theo dõi. Quốc gia, cộng sản, tư bản, Mác-xít, Khổng-Phật Đông phương… thanh niên đã ngột ngạt về những thứ ấy, họ mong đợi một cái gì mới, một lối thoát nào đó. Mong đợi mơ hồ mà khẩn cấp. Khao khát triết lý, một khao khát thời đại. Ông Nguyễn đáp ứng đúng vào chỗ trông chờ ấy. Ông được hoan nghênh. Các “nhận định” của ông, giới trẻ đọc, phổ biến, bàn tán, suy luận… Vả lại Nguyễn Văn Trung không chỉ viết về triết học, nhiều lần ông quan tâm đến các vấn đề văn học. Nhà xuất bản Nam Sơn in 3 tập Lược Khảo Văn Học, và nhà xuất bản Tự Do sau này có in của ông cuốn Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, cho nên càng dễ hiểu cái cảm tình của giới văn nghệ đối với ông lúc bấy giờ.” [5]
NGUYỄN VĂN TRUNG NHÀ BÁO
Nguyễn Văn Trung đã có công sáng lập và điều hành tạp chí Đại Họcở Huế, và sau này là các tạp chí Hành Trình, Đất Nước,Trình Bầy và cộng tác với nhiều tờ báo như Bách Khoa, Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn, Văn Học, Nghiên Cứu Văn Học, Thái Độ, Đối Diện, Tin Sáng, Sống Đạo, Dân Chủ Mới, cả viết cho tờ Tân Văn của Nguyễn Ngọc Lương với bút hiệu Nguyễn Nguyên, mà ông rất biết là một tay cộng sản nằm vùng … Chỉ riêng trên báo Bách Khoa, Nguyễn Văn Trung đã rất sớm giới thiệu Triết học Tây Phương với giới độc giả, ông có khoảng 50 bài viết đủ các thể loại trên tờ Bách Khoa với tên thật và cả bút hiệu Phan Mai và Hoàng Thái Linh.
Ông cũng là thành viên chủ trương nhà xuất bản Nam Sơn cùng với Trịnh Viết Đức và nhà xuất bản Trình Bầy sau này cùng với Thế Nguyên. Nam Sơn là nơi xuất bản hầu hết các tác phẩm đủ thể loại của Nguyễn Văn Trung trước 1975, cũng là nơi in tờ tạp chí Đại Học của Viện Đại Học Huế giai đoạn đầu – trước khi Đại Học Huế có nhà in riêng; Nam Sơn cũng là nơi in “chui” tờ tạp chí Hành Trình không giấy phép cho tới khi đình bản.
TẬP SAN ĐẠI HỌC
Đại Học Huế được thành lập và khai giảng vào tháng 9/1957, như một đáp ứng nguyện vọng của nhân sĩ Huế muốn có một đại học ở miền Trung, dự trù với đủ các khoa cơ bản như Đại học Sư phạm, Khoa học, Văn khoa, Luật khoa và cả Đại học Y khoa về sau này… Viện trưởng đầu tiên là GS Nguyễn Quang Trình từ tháng 3/1957- 7/1957, sau đó là LM Cao Văn Luận, Cha Luận có văn bằng cử nhân Triết Đại học Sorbonne 1942, tốt nghiệp trường Á Đông Sinh ngữ 1946, và đang là một giáo sư uy tín giảng dạy môn Triết bên trường Quốc Học Huế. Cha Luận được đánh giá là người có tầm nhìn xa. Ngay từ đầu ông đã có kế hoạch đào tạo một ban giảng huấn tại chỗ bằng cách cử các thành phần sinh viên ưu tú đi du học, Ngoài ra ông còn có uy tín và khả năng thu hút nhân tài từ nhiều nguồn, từ ngoại quốc đến trong nước, về giảng dạy nơi ngôi trường Đại học Huế còn rất non trẻ và sơ khai này.
Hình 6: Tập san Đại Học của Viện Đại Học Huế, ra được 40 số; trái: bìa số Đại Học 1 ra mắt tháng 2/1958; phải: bìa số Đại Học 40 cũng là số cuối cùng tháng 8/1964. [tư liệu Nguyễn Văn Trung]
Trong nước, thuở ban đầu, từ Sài Gòn ra Huế giảng dạy mới có hai người: Nguyễn Văn Trung lúc đó có học vị cử nhân Triết đại học Louvain từ Bỉ về, và Nguyễn Văn Trường có bằng Cao học Toán đại học Toulouse Pháp. Đây chính là cái nôi để các nhà giáo dục trẻ trau giồi kinh nghiệm và lớn lên cùng với những bước phát triển của Đại học Huế.
Không ai khác, chính Nguyễn Văn Trung đã đề nghị với cha Luận cho xuất bản một tờ tập san lấy tên Đại Học, ra mắt hai tháng một kỳ như một sứ mệnh văn hoá, một diễn đàn tư tưởng và học thuật, phổ biến bên trong và cả ngoài phạm vi Đại học Huế. Đề nghị trên được Cha Cao Văn Luận đồng ý ngay. Có thể nói Đại Học là một tập san định kỳ đầu tiên do một Viện Đại học miền Nam được xuất bản. Ban đầu tờ báo phải gửi vào in tại nhà xuất bản Nam Sơn ở Sài Gòn, sau này tạp chí Đại Học có nhà in riêng, và có số độc giả đủ đông để nuôi sống tờ báo. Tạp chí Đại Học đình bản ở số 40 nhưng thực tế chỉ có 38 số vì có hai số đôi là 4 & 5, 35 & 36.
Tập san Đại Học sống được 6 năm từ tháng 2/1958 tới tháng 11/1963. Nguyễn Văn Trung là chủ bút từ tháng 2/1958 tới 7/1961.
Là trí thức Công giáo, nhưng Nguyễn Văn Trung đã phê phán mạnh mẽ giáo hội Công giáo miền Nam, ông bị coi như một kẻ “rối đạo” – L’Enfant terrible de l’Église. Ông đã phải trả giá cho thái độ này. Điển hình là, do áp lực từ giới Công giáo bảo thủ, đứng đầu là TGM Ngô Đình Thục, ra lệnh cho Bộ trưởng Giáo dục Trần Hữu Thế quyết định không cho Nguyễn Văn Trung được tiếp tục dạy học ở Huế và cả ở Viện Đại học Đà Lạt. Nguyễn Văn Trung đã phải về lại Sài Gòn, và chủ bút thứ hai của tập san Đại Học là GS Trần Văn Toàn từ tháng 7/1961. Không có Nguyễn Văn Trung, tập san Đại Học giảm sức hấp dẫn của giai đoạn đầu. Nhưng rồi do chính trị sôi động ở miền Trung, tới tháng 8/1964 tập san Đại Học phải âm thầm đóng cửa sau sáu năm hoạt động.
Tạp chí Đại Học cũng là cơ quan ngôn luận cổ suý mạnh mẽ cho việc chuyển ngữ, dùng tiếng Việt trong giảng dạy các khoa ngành ở đại học. Tạp chí Đại Học không đơn thuần là tờ báo của Viện Đại học Huế, nhưng có ảnh hưởng lan rộng ra ngoài phạm vi đại học. Nó đáp ứng được thứ “văn hoá đọc” không chỉ của giới thanh niên sinh viên mà của cả dân miền Trung, lan toả vào tới trong Nam.
Toàn bộ tạp chí Đại Học, gồm khoảng hơn 6.000 trang báo với hơn 350 bài viết thuộc đủ các thể loại: triết học, sử địa, luật học, ngôn ngữ học, ngữ pháp học, văn học và cả y dược với rất nhiều tên tuổi lừng danh cộng tác, nay hầu hết đã là “người trăm năm cũ” như: GS Hoàng Xuân Hãn, GS Bửu Hội, GS Trần Kính Hoà / Chen Ching Ho, GS Nguyễn Phương, GS Nguyễn Khắc Hoạch, GS Nguyễn Nam Châu, LM Bửu Dưỡng, LM Nguyễn Văn Thích, LM Thanh Lãng, các học giả Nguyễn Bạt Tụy, Nguyễn Hiến Lê, GS Dược khoa Đặng Vũ Biền, GS Y khoa Lê Khắc Quyến…
Sau hơn nửa thế kỷ, trước nguy cơ bị mối mọt mục nát với thời gian, toàn bộ 40 số báo Đại Học đã được phục hoạt bằng kỹ thuật “số hoá” hay dưới dạng DVD. Ngày nay, khi nhắc tới tạp chí Đại Học trong khoảng thời gian 1958 – 1964, như nhắc tới “một niềm tự hào về một đứa con tinh thần sáng giá” của Viện Đại Học Huế, hơn thế nữa của 20 năm sinh hoạt văn hoá phong phú và đa dạng của miền Nam. Sáng lập và điều hành hơn nửa “chặng đường của 6 năm tạp chí Đại Học”, với sứ mệnh văn hoá ấy, công lao của Nguyễn Văn Trung không thể không được xứng đáng ghi nhận.
Hình 7: từ trái, bìa báo Hành Trình số 10, tháng 6-1966 cũng là số Hành Trình cuối cùng; bìa báo Đất Nước số 3, tháng 1-1968; bìa báo Trình Bầy số 2, tháng 8-1970. [4][tư liệu Nguyễn Văn Lục]
TẠP CHÍ HÀNH TRÌNH
Sau biến cố 1963, trong niềm vui và tin tưởng chấm dứt được một chế độ độc tài, mở đường cho một không khí có tự do hơn. Nhưng thực tế thì tình hình miền Nam rất xáo trộn, khiến không ai có thể thờ ơ với những vấn đề thời cuộc. Đó là lúc GS Trần Ngọc Ninh, GS Ngô Gia Hy và GS Nguyễn Văn Trung ra mắt tờ Tìm Hiểu in ronéo, nhưng rồi thấy ngay được sự hạn chế nếu chỉ sinh hoạt trong giới giáo sư đại học, thấy có nhu cầu cần mở rộng ra cho cả giới trẻ. [2] Đó là lý do tờ Hành Trình được ra đời, không phải chỉ có những phân tích thời cuộc, mà còn có cả phần thơ văn của mọi giới phản ánh những suy tư và tầm nhìn đa dạng trước cuộc sống. Hành Trình với chủ trương:làm cách mạng xã hội không cộng sản. Cùng với Nguyễn Văn Trung, là nhóm trí thức Công giáo thiên tả như Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần… Nguyễn Văn Trung đứng tên chính thức xin phép ra báo, kéo dài hơn một năm vẫn chưa được cấp giấy phép. Và Hành Trình vẫn cứ ra mắt từ tháng 10/1964 dưới dạng in ronéo không qua kiểm duyệt của Nha Thông tin Báo chí. Chính hình thức báo chui này lại có sức hấp dẫn của nó, báo được giới thanh niên sinh viên tìm đọc, báo bán rất chạy, khởi đầu in 100 số rồi lên tới 1000 số, vẫn thiếu phải in tiếp. Về công lao in ấn và tài trợ là của Trịnh Viết Đức, lúc đó đang là giám đốc nhà xuất bản Nam Sơn.
Những người viết cho Hành Trình gồm nhóm linh mục như Đỗ Phùng Khoan, tức linh mục Nguyễn Huy Lịch, Trương Cẩm Xuyên, tức linh mục Trương Đình Hòe, Hương Khê, tức linh mục Trương Bá Cần, linh mục Nguyễn Ngọc Lan, trí thức công giáo như giáo sư Nguyễn Văn Trung, giáo sư Trần Văn Toàn; cùng với các nhà văn nhà thơ như Võ Hồng Ngự, tức nhà thơ Diễm Châu, Trần Trọng Phủ, tức nhà văn Thế Nguyên, Thảo Trường, Thái Lãng, Nguyễn Vũ Văn, Lê Tất Hữu, Thế Uyên, Nguyễn Quốc Thái, Lê Uyên Nguyên, Vân Đỳnh, Bùi Khải Nguyên. Trong số những người kể trên, sau này có một số đi theo cộng sản.
Hành Trình bị tịch thu liên tiếp, và chỉ sống được hơn một năm, ra được 10 số với số cuối cùng là tháng 6/1966. Tuy ngắn ngủi, nhưng Hành Trình đã tạo được tiếng vang trong và ngoài nước, cả ra tới miền Bắc.[4]
Sau này, có dịp nhìn lại, những người chủ trương là tham dự vào Hành Trình họ có những cảm xúc lẫn lộn / mixed feelings: có phần hãnh diện về chặng đường đã trải qua, có phần chua xót về những ảo tưởng mà họ đã đặt quá nhiều kỳ vọng vào.
Những vấn đề Hành Trình đặt ra có tính cách phê phán triệt để và toàn diện, nhưng đã không đề ra được một đường hướng nào. Với quan điểm hình thành một chủ nghĩa xã hội không cộng sản mang tính cách ảo tưởng về một con đường thứ ba. Nhóm Hành Trình đã từng bị phê phán là không hiểu bản chất chủ nghĩa cộng sản và những âm mưu thâm độc của họ. Phải chăng Nguyễn Văn Trung thực sự không biết là chẳng thể có một con đường thứ ba nào giữa một cuộc “chiến tranh triệt tiêu mất còn – zero-sum game” giữa cộng sản và tư bản. Trong một chừng mực nào đó, Hành Trình đã làm lợi cho cộng sản.
TẠP CHÍ ĐẤT NƯỚC
Hành Trình tự đóng cửa tháng 6/1966, một phần do áp lực của chính quyền tịch thu báo, mà còn có lý do nội tại: Trịnh Viết Đức, ông bầu của Hành Trình phải lên đường nhập ngũ. Đó là lý do tờ Đất Nướcthay thế Hành Trình. Ban biên tập vẫn với chủ nhiệm là Nguyễn Văn Trung; chủ trương biên tập là Lý Chánh Trung, và Thế Nguyên nay là Thư ký tòa soạn. Thế Nguyên có nhà in, nên có khả năng thay thế Trịnh Viết Đức để lo in tờ Đất Nước. Khác với tờ Hành Trình, thành phần ban biên tập cho Đất Nước nay thực sự là một vùng xôi đậu: với khuynh hướng nghiêng về cộng sản như Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Thế Nguyên… [4]
Thêm một sự kiện rất đặc biệt, Nguyễn Văn Trung đã mời được một cây bút chủ lực cho tờ Đất Nước, đó là nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan, một Nguyên Sa hoàn toàn mới với thái độ nhập cuộc dấn thân với các bài thơ rất mới lạ như Tắm, Sân Bắn, hay tập truyện Vài Ngày làm việc ở Chung Sự Vụ tức là khu nhà xác của Nghĩa trang Quân Đội. Cùng với Nguyên Sa, còn có nhiều cây bút cộng tác khác với đủ các thành phần và khuynh hướng phức tạp có gốc quân đội VNCH như: Thảo Trường, Du Tử Lê, Đinh Phụng Tiến, Luân Hoán; lẫn lộn với cả thành phần thiên cộng hay cộng sản nằm vùng như Thái Lãng, Ngụy Ngữ, Tôn Thấp Lập, Phạm Thế Mỹ, Ngô Kha, Trần Hữu Lục, Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương… Với tờ Đất Nước, miền Nam gần như đã thất thủ trên một mảng truyền thông và báo chí.
TẠP CHÍ TRÌNH BẦY
Tờ Trình Bầy xuất hiện vào tháng 08-1970, do Thế Nguyên (còn có bút hiệu khác là Trần Trọng Phủ) làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Tổng thư ký là Diễm Châu (còn có bút hiệu khác là Võ Hồng Ngự). Hoàng Ngọc Biên, phụ trách mỹ thuật cho tờ Trình Bầy. Sang tới Trình Bầy thì Nguyễn Văn Trung không còn có vai trò quan trọng hay ảnh hưởng rõ rệt nào trên nội dung 42 số báo Trình Bầy. Vẫn có tên Nguyễn Văn Trung trong ban biên tập cùng với : Lý Chánh Trung, Thanh Lãng, Đỗ Long Vân, Phạm Cao Dương, Nguyên Sa, Nguyễn Khắc Ngữ, Trần Tuấn Nhậm, Diễm Châu, Nguyễn Quốc Thái, Tôn Thất Lập, Thế Nguyên, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đồng, Trần Đỗ Dũng, Hoàng Ngọc Nguyên (còn có bút hiệu khác là Thuận Giao), Du Tử Lê, Cao Thanh Tùng.
Hình 8: Những mẫu bìa rất mỹ thuật của 42 số báo Trình Bầy đều do Hoàng Ngọc Biên vẽ và thiết kế.Hoàng Ngọc Biên và Diễm Châu (1937-2006), là hai bạn đồng hành trí tuệ trong Nhóm Trình Bầy, Thế Nguyên đứng tên Chủ nhiệm. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Diễm Châu, sinh ở Hải Phòng, di cư vào Nam 1954. Quen Thế Nguyên từ trại học
sinh di cư Phú Thọ. Diễm Châu tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm ban Anh Văn, được tu nghiệp ở Mỹ sau đó trở về Sài Gòn, tìm gặp Hoàng Ngọc Biên thuyết phục cùng làm tờ báo Trình Bầy. Biên đã cùng Diễm Châu, ngồi nhiều tuần lễ bên một vách tường café vỉa hè đường Sương Nguyệt Anh, Sài Gòn,soạn bài Phi lộ với tiêu đề “Con Đường ĐiTới” cho số báo ra mắt. Trích dẫn:
… “Con đường đi tới là con đường mưu cầu một nền hòa bình, trong đó mỗi một người Việt Nam, không kỳ thị ý thức hệ, sẽ có một chỗ đứng xứng đángvới phẩm giá con người trên quê hương mình.” [6]
… “Không thể có hòa bình vô điều kiện. Một nền hòa bình Việt Nam nhấtđịnh sẽ không thể chấp nhận bất cứ một sự hiện diện nào của các lực lượngnước ngoài và đồng thời cũng không thể chấp nhận bất cứ một cơ cấu, một định chế hay một thế lực nào trong nước ngăn cản công cuộc giải phóng conngười Việt Nam.” [Hết trích dẫn]
Trình Bầy là một tờ báo thiên tả, phản chiến giữa giông bão của cuộc chiến tranh quốc cộng. Tờ báo đã quy tụ được nhiều cây viết thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau thời bấy giờ. Không phải chỉ có ở tờ báo Bách Khoa, Trình Bầy thực sự là một vùng xôi đậu với tên tuổi những nhà văn nhà thơ như Nguyên Sa, Diễm Châu, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đăng Thường, Trùng Dương, Thảo Trường, Nguyễn Mộng Giác, Du Tử Lê, Mai Trung Tĩnh, Nguyễn Quốc Thái, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Ngô Thế Vinh… nhiều người xuất thân từ quân đội, bên cạnh đó là những cây bút thiên cộng Ngô Kha, Ngụy Ngữ, Thái Lãng… hay cộng sản như Nguyễn Nguyên – bút hiệu của Nguyễn Ngọc Lương, chủ trương tờ Tin Văn, giống như trường hợp Vũ Hạnh nằm vùng bên tờ báo Bách Khoa.
Trình Bầy hoạt động liên tục trong hai năm 1970 – 1972, ra được 42 số báo cho tới khi bị đình bản. Để rồi, thực tế sau 30/4/1975 là sự vỡ mộng của những người trí thức thiên tả – theo ngôn ngữ thời thượng thì đó là thành phần thứ ba, trong số đó có Diễm Châu và Hoàng Ngọc Biên. Bởi vì sau thống nhất, không phải chỉ có miền Bắc mà nay là cả một đất nước phải sống trong một định chế bóp nghẹt mọi tự do của con người. Trí thức thiên tả nếu không bị tù đày thì cũng bị trù dập bạc đãi và chỉ là những kẻ đứng bên lề. Cuối cùng họ trở thành những kẻ lưu vong nếu không ở nước ngoài thì cũng ngay trên chính quê hương mình. Diễm Châu sang Pháp 1983, Hoàng Ngọc Biên đi định cư ở Mỹ 1991. Ra hải ngoại rồi, cả Hoàng Ngọc Biên, Diễm Châu và Nguyễn Đăng Thường đều cố giữ sức sống cho cơ sở Trình Bầy. Manchette Trình Bầy đối với họ như hình ảnh một giấc mộng lỡ. Và trong sự thức tỉnh muộn màng, Diễm Châu trở thành rất hữu khuynh cho tới khi anh mất năm 2006.Riêng Thế Nguyên sau 1975, thảm thiết hơn, hoàn toàn bị thất sủng, sau đó chết trong lặng lẽ.
NHỮNG GIÔNG BÃO TRONG TÁCH TRÀ
[1]: PHẠM CÔNG THIỆN VIẾT VỀ NVT 1966
Năm 1961, Nguyễn Văn Trung từ Sài Gòn sang Đại học Công giáo Louvain [Université catholique de Louvain], Bruxelles để bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài Phật học: La Conception Bouddhique du Devenir, (Essai sur la notion du devenir selon la Stharivanâda). Nguyễn Văn Trung được đào tạo và lớn lên trong nền tảng học thuật Tây phương thấm đẫm văn minh Thiên chúa giáo, không giỏi chữ Hán, không thông thạo tiếng Sanskrit nên bị hạn chế trong việc tìm tới nguồn tài liệu gốc, kiến thức Phật học của ông chủ yếu dựa vào sách báo tiếng Pháp – được viết theo quan điểm các học giả Tây phương. Đây cũng chính là điểm yếu của Nguyễn Văn Trung và luận án của ông đã là đối tượng cho nhiều nguồn chỉ trích nhất là từ giới Phật giáo.
Đó cũng là nguồn cơn, khởi đầu cho vụ va chạm giữa Phạm Công Thiện và Nguyễn Văn Trung. Câu chuyện không lớn, dù hiểu theo chiều hướng nào, tích cực hay tiêu cực, nhưng cũng nên có trong bài viết này như thêm mấy nét chấm phá về chân dung phức tạp và đa dạng của Nguyễn Văn Trung, người viết ghi lại đây như một “dật sự” văn học, và không thêm vào đó một nhận định riêng tư nào.
Trong loạt bài Những chặng đường đã qua,Nguyễn Văn Trung viết: “Sau đảo chánh 1963, ông Phạm Công Thiện xuất bản cuốn Hố thẳm tư tưởng, dành một chương phê phán luận án tiến sĩ của tôi với một thái độ khinh bỉ, trịch thượng, mạt sát thậm tệ. Cuốn sách bán chạy, dư luận bàn tán sôi nổi vụ “ông Phạm Công Thiện phê phán ông Nguyễn Văn Trung”, chờ đợi tôi lên tiếng đối đáp; nhưng cho đến nay tôi vẫn giữ im lặng, không có một lời nói công khai nào…
Trong sách, ông Thiện đã phủ nhận tất cả các triết gia: “Ngay đến Heraclite, Parmenide và Empédocle, bây giờ tao còn xem thường, tao coi ba tên ấy như là ba tên thủ phạm của nền văn minh hiện đại, chưa nói đến Socrate, đó là một tên ngu dại nhất mà ta đã gặp trong đời sống tâm linh của ta”. Ông coi những nghệ sĩ như Goethe Dante như những thằng hề ngu xuẩn. Ông muốn mửa màu đen trên những người làm văn nghệ ở Paris. Còn về J.P. Sartre và S. de Beauvoir, “nếu họ muốn xin gặp tao, tao sẽ không cho gặp mà còn chửi vào mặt họ”… Về Thiền tông “Tao đã gửi Thiền tông vào một phong bì tối khẩn đề địa chỉ của bất cứ ngôi chùa nào trên thế giới. Về dạy học, thời gian tao học ở Hoa kỳ, tao đã bỏ học vì tao thấy những trường Đại học mà tao học như Yale, Columbia chỉ toàn là những nơi sản xuất những thằng ngu xuẩn, ngay đến giáo sư của tao chỉ là những thằng ngu xuẩn nhất đời, tao có thể dạy họ hơn là họ dạy tao… Bây giờ nếu có Phật Thích Ca hay Chúa Giê su hiện ra đứng giảng trước mặt tao, tao cũng không nghe theo nữa. Tao chỉ dạy tao. Tao là học trò của tao và chỉ có tao làm thầy cho tao. Tao không muốn làm thầy ai hết và cũng không để ai làm thầy tao. Còn các Văn Sĩ ở Sài Gòn, đọc các bài thơ của các anh, tôi thấy ngay sự nghèo nàn của tâm hồn anh, sự quờ quạng lúng túng, sự lặp đi lặp lại vô ý thức hay có ý thức: trí thức “mười lăm xu”, ái quốc nhân đạo “ba mươi lăm xu”, triết lý tôn giáo “bốn mươi lăm xu””.
Nếu những đại triết gia, văn hào, thánh hiền còn bị ông coi là những tên ngu xuẩn, và tác phẩm của họ đáng vứt vào cầu tiêu thì tôi bị ông kết án là “tượng trưng cho sự nô lệ, nông cạn phá sản của giới trí thức Việt Nam hiện nay” có gì lạ. Trong thư ngỏ, tôi nói với ông Thiện tôi không hề cảm thấy bị xúc phạm về thái độ mạt sát khinh bỉ của ông, và hơn nữa chấp nhận thái độ phản kháng phủ nhận triệt để của ông với điều kiện: qua đời sống, ông cho thấy ông đã vươn tới một thái độ tâm linh siêu nhiên vượt khỏi mọi giới hạn ngôn từ, khen chê, xưng tụng hay chửi thề. Bày tỏ sự bất nhã, bất kính ngay cả với Phật Chúa chính vì để cho thấy khả năng phản bội của ngôn từ. Xưng tụng tôn thờ mà thực ra là xúc phạm, và nói lời phạm thượng, xúc phạm lại bày tỏ sự tôn kính thực sự…
Tôi gửi thư ngỏ kèm những bức thư ông Phạm Công Thiện gửi cho tôi về tòa soạn báo Đại Học (Huế), nhờ Lê Ngộ Châu chuyển, thay vì tôi có thể đăng công khai. Mấy bữa sau, tôi và ông Thiện gặp nhau ở tòa báo Bách Khoa với sự chứng kiến của anh Lê Ngộ Châu. Trong bữa gặp gỡ đó, ông Thiện thú nhận với tôi đại ý như sau: Tôi viết bài phê bình anh để thỏa mãn những uất ức bất mãn của giới Phật giáo coi anh là tiêu biểu cho trí thức Việt Nam nói chung và trí thức Công giáo nói riêng. Tôi xin hứa với anh sẽ bỏ bài đó trong lần tái bản sách sắp tới. Ông Phạm Công Thiện đã giữ lời hứa. Lần tái bản Hố thẳm tư tuởng sau này, Phạm Công Thiện tự ý bỏ bài phê bình đó… [3]
Phạm Công Thiện đã mất ở tuổi 70 (2011), Nguyễn Văn Trung thì nay cũng đã bước qua tuổi 90, ngồi xe lăn, đôi lần vào rồi ra khỏi viện dưỡng lão. Khi nhắc tới chuyện cũ, có còn nhớ hay không, anh vẫn chỉ đáp lại bằng một nụ cười – của trẻ thơ.
Hình 9: trái,từ phải Phạm Công Thiện, Thi Vũ Võ Văn Ái, Ỷ Lan Penelope Faulkner, Võ Phiến [tư liệu của Viễn Phố]; giữa, bìa cuốn Hố Thẳm của Tư Tưởng, Nxb An Tiêm Sài Gòn, 1966. Phạm Công Thiện đã dành nguyên một chương sách đả phá nặng nề luận án tiến sĩ về đề tài Phật học của Nguyễn Văn Trung; phải, bìa tập luận án của Nguyễn Văn Trung, có trong một số thư viện với tiêu đề: La Conception Bouddhique du Devenir, (Essai sur la notion du devenir selon la Sthaviravâda).
[2]: CHIẾN DỊCH BÃI NHIỆM NGUYỄN VĂN TRUNG 1969
Tinh hình miền Nam sau 1963, vô cùng rối ren với những vụ khủng bố, Việt Cộng thảm sát Bác sĩ Lê Minh Trí, Giáo sư Y khoa Trần Anh, Giáo sư Quốc Gia Hành Chánh Nguyễn Văn Bông, nhà báo Từ Chung và ám sát hụt nhà báo Chu Tử, sinh viên Bùi Hồng Sĩ… Cũng để hiểu tại sao trong giai đoạn này không ai muốn nhận chức Khoa Trưởng Đại học Văn Khoa. Khoảng 1969, sau khi GS Nguyễn Khắc Hoạch từ chức, Hội đồng Khoa bầu Nguyễn Văn Trung, ông đã can đảm nhận và muốn có một cải cách. Vì tình trạng Văn khoa cùng với Luật khoa là hai nơi có sĩ số sinh viên đông nhất. Đa số không vào được các trường chuyên môn thì vào hai đại học này. Riêng ở Văn Khoa, số sinh viên hàng năm lên đến cả 100.000, số nhập học năm dự bị lên đến 3000, nhưng chỉ có một nửa số dự thi và một phần tư thi đậu. Số không thi và thi rớt lên đến 75%. Đó là một khủng hoảng bế tắc, cần một sự cải tổ.
Nhưng bất cứ một dự án cải tổ về chương trình, về văn bằng, về ngạch trật giáo sư, mỗi bước cải cách đều có đụng chạm đến phía này phía kia, nhóm này nhóm nọ là không tránh được.
Hình 10: Hội đồng Khoa Đại học Văn Khoa Sài Gòn, thời gian khoảng 1969, từ trái GSVũ Khắc Khoan, GS Bùi Xuân Bào, GS Lê Văn, [người thứ 4 không nhận ra], GS Nguyễn Văn Trung. [GS Bùi Xuân Bào, GS Lê Văn là do GS Lê Xuân Khoa nhận diện]
Trong các khoa, lúc đó có một nhóm sử địa, sinh viên vẫn phải mua cours do mấy sinh viên đứng ra in, lấy 800 đồng một năm. Do muốn chấm dứt tình trạng lạm dụng bán cours đó, Khoa trưởng muốn tổ chức một ban ấn loát riêng của nhà trường, với một giá phải chăng. Vì đụng chạm tới quyền lợi của họ, ông đã bị nhóm sinh viên này phản ứng dữ dội, lại được thêm tờ báo Con Ong số 87 bên ngoài hỗ trợ, mạt sát các GS Nguyễn Văn Trung, Bùi Xuân Bào, Thanh Lãng thậm tệ. Nguyễn Văn Trung còn bị nhóm sinh viên Sử Địa đòi bãi nhiệm việc dạy học ở Sài gòn, khiến Linh Mục Cao Văn Luận phải trực tiếp can thiệp, Nguyên Sa Trần Bích Lan bênh vực Nguyễn Văn Trung phản đối bằng cách từ nhiệm dạy ở Văn Khoa.
Lúc đó, chỉ có hai người được báo Con Ong khen là GS Lý Chánh Trung và Lê Trung Nhiên. Lý Chánh Trung đã từ chối nhận lời khen này. Lý Chánh Trung viết: “Trong một số báo như vậy, giữa những lời chửi bới, tôi cảm thấy nhục nhã khi được các anh khen, cũng như tôi sẽ cảm thấy nhục nhã nếu được báo Con Ong ca ngợi.”Đồng thời, Lý Chánh Trung cho rằng các sinh viên có quyền phản biện nhưng không có quyền dùng giọng điệu như Con Ong viết về các thầy của anh rằng: “Họ rúc đầu vào mu rùa, tối mắt vì cái lá đa.” Không ai có thể chấp nhận được điều đó. Bài viết của Lý Chánh Trung có nhan đề: “Giông tố trong một tách trà hay là cuộc khủng hoảng Văn khoa”, bài được đăng trên báo Tiếng nói Dân tộc ngày 26-11-1969. Sau đó, mọi “tiếng động và giận dữ” cũng tạm lắng xuống, nhưng các đợt sóng ngầm thì không.[4]
Hội Đồng khoa cùng với khoa trưởng Nguyễn Văn Trung vẫn quyết tâm các bước cải tổ Đại học Văn khoa. Bản đề nghị cải tổ có được 28 thành viên Hội đồng khoa ký tên và chỉ hai tuần sau, Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục ký ban hành quy chế mới.
[3]: KẺ RỐI ĐẠO VỚI ĐỨC TIN
Nguyễn Văn Trung là người gốc Công giáo, nhưng ông bị người đồng đạo tố cáo, lên án là kẻ “rối đạo” hoặc mạnh mẽ hơn nữa kết tội ông là kẻ phản đạo, thân Cộng hoặc là Cộng sản.
Những người Phật giáo thì lại không tách ông ra khỏi khối Công giáo, xem những gì Nguyễn Văn Trung viết liên quan đến Phật giáo đều mang quan điểm Thiên Chúa giáo, có tính chất xuyên tạc, đả kích nhằm triệt hạ Phật giáo.
Trước 1963, giai đoạn chín năm Đệ Nhất VNCH, giới công giáo bảo thủ đứng đầu là TGM Ngô Đình Thục sẵn có đố kỵ với Nguyễn Văn Trung, nên khi TGM Ngô Đình Thục khi ra Huế, Đức cha đã yêu cầu Tổng trưởng Giáo dục lúc bấy giờ là Trần Hữu Thế, đuổi ông Trung ra khỏi Huế. Cả Viện trưởng Đại Học Đà Lạt cũng bị ảnh hưởng, LM Nguyễn Văn Lập đã không cho mời ông Trung. Như vậy sẽ không ngạc nhiên khi suốt bốn khoá Đại Học Sư phạm ban Triết chương trình 3 năm của Viện Đại Học Đà Lạt – theo nhà báo Phạm Phú Minh, tốt nghiệp Đại học Sư Phạm Triết Đà Lạt khoá IV, cho biết là đã không có một giờ giảng dạy nào của Nguyễn Văn Trung, trong khi đó người đồng nhiệm với ông Trung là Lý Chánh Trung thì vẫn được ưu đãi đặc biệt.
“Trong cuộc đời cầm bút của tôi gần 50 năm, đặc biệt thời kỳ 1955-1975, tôi đã viết khá nhiều, nhưng bị phê bình, đả kích, mạ lỵ, mạt sát cũng khá nhiều. Có lẽ tôi thuộc số ít nhà cầm bút ở miền Nam là kẻ bị cáo trạng nhiều hơn cả, từ tất cả các bên, các giới xã hội, chính trị, tôn giáo trong một tình cảnh VN bị phân chia thành hai miền thù địch chiến tranh và riêng miền Nam có phân hoá đố kỵ giữa các phe phái, giới nhóm với nhau. Tôi còn giữ được hầu hết sách báo phê bình đả kích tôi, góp lại thành một tập trên 500 trang mang tựa đề: «Người cầm bút, kẻ bị cáo».
… Chẳng hạn có người lên án tôi là người chống Cộng tinh vi hay ngược lại tôi là người Cộng Sản, thân Cộng, có những lời nói hành động có lợi cho Cộng Sản.
… Trong ý định nhìn lại những chặng đường đã đi qua, nghĩa là những gì tôi viết liên quan đến các giới Việt Nam, tôi không phiền trách tố cáo lại ai, để phân trần tự biện minh, mà chỉ cố gắng tìm hiểu phần trách nhiệm của tôi đã gây ra mọi sự do chính những lựa chọn căn bản có ý thức của tôi và nhất là do những lệch lạc hay thiếu sót đã không thực hiện đúng, đầy đủ của những lựa chọn đó…”[3]
[4]: CÔNG TÁC TRÍ VẬN HẢI NGOẠI
Ra hải ngoại rồi, Nguyễn Văn Trung cũng vẫn gặp những rắc rối. Sự kiện ra nước ngoài mà vẫn hay đi đây đi đó (nhiều lần sang Hoa Kỳ, Pháp, về Việt Nam) tạo ra nghi ngờ ông được “cử đi công tác trí vận”, vì một người không đi làm, không hưởng trợ cấp nào, tại sao có tiền mà đi?… Lúc đó, Đức Ông Hoài, phụ trách Phong Trào Giáo Dân ở hải ngoại, một chức do Roma đặt ra, viết tâm thư trong đó có nhắc đến Nguyễn Văn Trung, khẳng định ông Trung được cộng sản sai đi. Tâm thư chỉ phổ biến trong nội bộ Công giáo. Người Công giáo đi hồi 75 chỉ nghe tiếng Nguyễn Văn Trung là người hay phê phán, đả kích giáo hội, đặc biệt về hai điều: liên hệ với chế độ thực dân, mất gốc về văn hoá… ” [3]
Trước và sau 1975, kể cả ở hải ngoại, những ai quen biết với giáo sư Nguyễn Văn Trung cũng biết rằng chưa bao giờ ông là người giàu có, nếu không muốn nói là có một sống khá đạm bạc. Ông đã từng từ chối căn nhà cấp cho giới giáo sư đại học ở Thủ Đức. Nếu muốn, Nguyễn Văn Trung vẫn có thể có một cuộc sống khá giả hơn.
Chuyện đi đây đi đó của Nguyễn Văn Trung từ khi ra hải ngoại: ông vẫn về lại Việt Nam, ông còn một người con gái lớn có gia đình sinh sống ở Việt Nam. Thực ra, những chuyến đi Mỹ hay đi Pháp, vé máy bay di chuyển, nơi ăn chốn ở là do bạn bè hay đám học trò cũ giúp ông.
Hình 11: Thư tay Nguyễn Văn Trung gửi Ngô Thế Vinh viết ngày 7/ 8/ 2004. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Một trong những thư tay từ Montreal viết ngày 7-8-2004, Nguyễn Văn Trung tâm sự: Anh Vinh thân, Tôi đi hơn 2 tháng về Sài Gòn. Mới trở lại Montréal hôm 4/8/2004. Kỳ này sang Cali sẽ liên lạc gặp Vinh. Có nhiều thông tin và đề nghị sau chuyến về nước. Tôi đợi đầu tháng 9, chích một mũi thuốc chống ung thư prostate tái phát, đây là mũi thứ hai, Lupron Dépôt, 1500 đôla – may có chính phủ trả.
Tôi hay đi đây đi đó, đều do bạn bè, sinh viên cũ lo mua vé cho. Bạn bè ở Cali tôi đã nhờ nhiều trong những chuyến đi trước. Ngại xin họ lần này, anh Vinh có thể chia sẻ việc mua vé gửi cho tôi trong một chuyến. Từ sau 75, tôi viết nhiều biên khảo về văn hoá VN, chưa in được vì không có tài chánh, chỉ có những bản chụp photocopy có thể tặng anh Vinh 1, 2 tập.Thân mến, và mong gặp. Nguyễn Văn Trung.
Trong một thư khác, ông viết: “Tôi chưa dự định đi Cali lần nữa, vì bây giờ tôi bận quét nhà, làm bếp, giặt giũ… do cô nhà tôi – vợ ông Trung, phải về Sài Gòn giúp một cháu sắp sinh con, ở lại bên đó chắc phải một năm.”
Cảnh sống “hàn nho phong vị phú” như vậy, mà ông được gán cho sứ mạng Cộng sản gửi ông đi cho công tác trí vận hải ngoại. Một người bạn biết và hiểu ông Trung đã nhận định: “Cuộc đời của ông Trung nhiều lận đận lắm cho cả đến bây giờ, người ta – các nhóm chống cộng cực đoan, vẫn tẩy chay bằng cách cô lập ông ấy.” Và dĩ nhiên, người Cộng sản cũng chẳng tin gì Nguyễn Văn Trung.
Trong cuốn Nhận Định VII chưa xuất bản, với nội dung hai chương đầu, Nguyễn Văn Trung đưa ra một nhận định rốt ráo: “Tôi coi đảng Cộng sản như một tổ chức tôn giáo, lý thuyết Cộng sản như một lý thuyết tôn giáo. Theo lối nhìn của tôi về triết học và tôn giáo thì đảng Cộng sản là một tổ chức chính trị mang tính cách tôn giáo… cái lầm than của đảng Cộng sản nằm ở cái cao cả của nó, là vì thế.”
NGUYỄN VĂN TRUNG VÀ NHỮNG BƯỚC LỠ
Nhưng trong suốt hơn 40 năm cầm bút, trong các phát biểu, trong một số những bài phê bình và nhận định, Nguyễn Văn Trung cũng đã phạm phải những bước đi quá đà – nếu không muốn nói là thiên lệch và cả sai lầm và ông đã là đối tượng cho nhiều chỉ trích như:
_ Chữ quốc ngữ với Alexandre de Rhodes thời kỳ đầu Pháp thuộc, với những thành quả đóng góp to lớn cho dân tộc đã bị ông phủ nhận, cho đó là mưu đồ của thực dân Pháp muốn tách rời người Công giáo ra khỏi cộng đồng dân tộc.
_ Trường hợp Trương Vĩnh Ký rồi tới Phạm Quỳnh và chủ đích Nam Phong, với vụ án Truyện Kiều, ông tố cáo Phạm Quỳnh là tay sai của Pháp nhằm ru ngủ giới thanh niên trí thức thời đó với khẩu hiệu “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”
_ Những nhận định về Cộng sản, Nguyễn Văn Trung thú nhận là có nhiều nhận định của ông trước 1975 về Cộng sản là sai và ông sẵn sàng từ bỏ nó. Chỉ có điều trong các bước sai lạc lúc đó, ông luôn luôn cho rằng ông có sự trung thực.
_ Khi nghiên cứu về Lục Châu Học, rồi nhìn lại những chặng đường đã qua, ông biết nhận các sai lầm, như với định kiến cho rằng “người Công giáo Việt Nam có liên hệ với thực dân đế quốc và cả lai căng về văn hoá,”
Khi biết mình sai, Nguyễn Văn Trung đã có can đảm tự phủ nhận các luận điểm cũ và hết lòng chứng minh ngược lại qua các biên khảo, bài viết về sau này như: Vấn Đề Công Giáo Đặt cho Dân Tộc” (1988), Đạo Chúa ở Việt Nam (1999)…
Đúng như Nguyễn Văn Trung đã từng nói: “với một lý tưởng là phải tìm kiếm không ngừng, bằng cách tự phủ nhận, bất mãn với quãng đường mình vừa qua.”[1] Nguyễn Văn Trung biết phục thiện và sẵn sàng nhìn nhận những sai lầm trong quá khứ.
Nhưng Nguyễn Văn Trung cũng đã than phiền là cho dù đã sửa sai như vậy nhưng ông vẫn cứ tiếp tục bị chỉ trích từ nhiều phía về những luận điểm cũ mà ông phát biểu trước kia.
MỘT CHÚT RIÊNG TƯ
Hình ảnh đầu tiên của Nguyễn Văn Trung thời rất trẻ mà tôi gặp là nơi hành lang trường Quốc Học Huế khoảng 1957, khi ấy Nguyễn Văn Trung mới 27 tuổi có nét mặt của một thư sinh mặt trắng với cặp kính cận dày, ăn mặc giản dị với sơ mi trắng, quần màu sậm, mang dép săng-đan – lúc đó, trông Nguyễn Văn Trung không khác với đám học sinh đang ở năm cuối bậc trung học. Anh Trung hơn tôi ngót một giáp.
Tôi vẫn đọc và theo dõi những bước đi của anh Nguyễn Văn Trung và thỉnh thoảng trong những hoàn cảnh khác nhau của miền Nam, tôi vẫn gặp lại anh. Khi viết cuốn Vòng Đai Xanh vào thập niên 1960s, anh là nguồn cảm hứng cho tôi khi sáng tạo ra nhân vật Hoàng Thái Trung.
Sau này, ra đến hải ngoại, bao nhiêu năm sau gặp lại vẫn là hình ảnh của một Nguyễn Văn Trung của thập niên 1950s vẫn sơ mi trắng, quần màu sậm, không còn mang dép săng-đan mà mang giày do khí hậu lạnh ở Bắc Mỹ, và mái tóc anh đã nhuốm thêm màu thời gian. Vẫn nụ cười ấy của thời trai trẻ, anh hào hứng kể lại những ngày tháng cũ, anh Trung bật mí cho biết hiện anh còn giữ một danh sách in ronéo cảnh cáo và lên án tử hình một số sinh viên các phân khoa mà ông gác dan trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trao cho anh, trong danh sách đen ấy có Ngô Thế Vinh, và anh còn hỏi tôi có muốn không, anh có thể tặng tôi một bản. Anh Trung còn kể khi về Sài Gòn hồi 1995, khi gặp mấy sinh viên cũ cho biết Bùi Hồng Sĩ có về Việt Nam và gặp lại người ám sát hụt anh. Sang Hoa Kỳ, khi gặp lại Bùi Hồng Sĩ, anh ấy xác nhận có về gặp người đã giết hụt anh. Anh Trung cho biết đã không hỏi thêm vì tôn trọng sự gặp gỡ này và muốn để cho những người trong cuộc thuật lại sự hòa giải giữa họ.
Nhắc lại lần gặp anh ở California năm 1995, Nguyễn Văn Trung viết: “ Tôi cũng gặp lại BS Ngô Thế Vinh, sau 1975 đi học tập cải tạo rồi được đi Hoa Kỳ.”
Nguyễn Văn Trung đưa ra quan điểm hậu thuẫn “về giúp Việt Nam về y tế”, anh đã đụng ngay vào một vùng rất nhạy cảm, gợi lại nỗi đau của một tập thể chống Cộng tỵ nạn, đặc biệt là với Y giới ở hải ngoại.
Nguyễn Văn Trung khi viết về 20 năm văn học ở hải ngoại, cũng đã gây ra một cuộc tranh luận gây xôn xao về đề tài “Văn Học Hải Ngoại”, “Văn Học và Chính Trị” trên tạp chí Văn Học 112, 113, 124 (1995-1996) do nhà văn Nguyễn Mộng Giác làm chủ bút. [2]
Cũng dễ hiểu vì sao, Nguyễn Văn Trung bị gán cho nhãn hiệu là được Cộng sản gửi đi làm “công tác trí vận ở hải ngoại”. Ông gần như bị cô lập và rồi cả rơi vào quên lãng.
Hình 12: Nguyễn Văn Trung tới thăm GS Trần Ngọc Ninh (tháng 7/1994), từ phải: Ngô Thế Vinh, Nguyễn Văn Trung, Trần Ngọc Ninh, Võ Phiến. Sau chính biến 11.11.1963, Nguyễn Văn Trung đã cùng với GS Trần Ngọc Ninh, GS Ngô Gia Hy ra tờ Tìm Hiểu in ronéo, quan tâm tới những vấn đề chính trị xã hội và có thể nói Tìm Hiểu là tiền thân của tập san Hành Trình sau này với phương châm: Làm cách mạng xã hội không cộng sản. [ tư liệu Ngô Thế Vinh ]
Cũng sau bao nhiêu năm (1994) gặp lại, bất ngờ anh Nguyễn Văn Trung hỏi tôi: “nhân vật Hoàng Thái Trung trong Vòng Đai Xanh, có phải Vinh viết về “moa” không?” Tôi chỉ cười, không xác nhận hay phủ nhận trước câu hỏi của anh Trung. Và nay nhân bài viết về Chân Dung Văn Hoá Nguyễn Văn Trung, gửi tới bạn đọc đoạn trích dẫn trong Vòng Đai Xanh [Nxb Thái Độ, Sài Gòn 1970], Chương 17, khung cảnh là cố đô Huế sôi động gần như vô chính phủ, với nhóm sinh viên tranh đấu đang chiếm đài phát thanh ở những năm 1960s, với một nhân vật hư cấu có tên Hoàng Thái Trung.
VÒNG ĐAI XANH/ CHƯƠNG 17
Và nhân vật Hoàng Thái Trung / trích dẫn
…
Vy dẫn tôi vào phía trong Đài phát thanh [Huế]. Đủ các lãnh tụ sinh viên và thành phần Ủy ban tranh đấu đang làm việc rộn rịp ở đó. Trên một chiếc bàn vuông dài, bừa bãi những tài liệu và báo chí. Mọi tư tưởng được tự do phóng thả: tư bản luận, chủ nghĩa Mác-xít, tinh thần quốc gia dân tộc, triết lý Phật giáo. Những điều vừa tìm thấy ở sách vở, cả những suy tư và khám phá mới đều được nói ra. Đài phát thanh bấy lâu vẫn bị chủ lực sinh viên chi phối nắm giữ. Không khí làm việc thật hứng khởi và đầy vẻ cách mạng. Những bài viết ra đều rất ít sửa chữa và đem phát thanh ngay: những ý kiến trái ngược nhau trên cùng một quan điểm cũng bởi tại chỗ đó. Làm sao Sài Gòn có thể phán quyết về họ khi không cùng ở trong những điều kiện sinh hoạt như thế. Và đây cũng là một trường hợp trong rất nhiều trường hợp khó xử của tướng Thuyết. Tôi đặt vấn đề đó ra với Vy, có lẽ hắn cũng ý thức được những khó khăn, hắn đưa ra một quan điểm chiết trung:
– Vấn đề cho cả hai phía là đừng bao giờ đẩy nhau vào sát chân tường, chính tôi cũng đã nói với các anh em trong Ủy ban nhưng phần lớn họ thì quá trẻ và quá nhiều hăng hái, thật khó mà bảo họ đừng tiến tới.
Tôi ở lại nói chuyện với bọn họ đến xế chiều, sau đó Vy rủ tôi xuống tắm dưới sông Hương. Buổi tối về nhà Vy, cùng với tôi có một nhạc sĩ nổi danh về dân ca. Căn nhà cổ xưa ba gian nhoi giữa một vườn cỏ hoang mọc tới gối. Trong nhà đã tối thui ngay từ chạng vạng, không có điện không có những tiện nghi tối thiểu của một xã hội văn minh. Ngoài những sách vở, Vy như đã không sống trong cái thời đại của mình. Tôi không thể hiểu được cái mức độ ẩn nhẫn để hắn có thể sống trong cái tịch mịch của côn trùng và cỏ cây bên một dòng sông phẳng lặng như tờ. Mới chín giờ mà tưởng như đã rất khuya, hai chúng tôi nói chuyện tới gần bốn giờ rưỡi sáng. Ở phần của giấc ngủ còn lại tôi nghe xa gần như trong giấc mơ tiếng ếch nhái và những cơn sóng nhỏ do một chiếc thuyền nào đó vừa đi qua vỗ róc rách vào những tảng đá trong bờ.
Buổi sáng hôm sau tại đại hí viện, tướng Thuyết đã đọc một bài diễn văn tuyệt tác trước một đại hội đông đảo sinh viên. Bài diễn văn đã phải ngắt đi nhiều lần bằng những tràng pháo tay rung chuyển cả nhà hát lớn. Với đề tài triết lý hai cuộc cách mạng, ông Tướng đã thành công trong mục đích khích động máu nóng của tuổi trẻ và giải quyết được những mâu thuẫn nội tại giữa những khó khăn éo le của thực tế. Sự xuất hiện của ông Tướng sẽ thật hoàn hảo đúng như dự liệu của nhà văn nếu không có những bộ sắc phục của đám Cảnh sát Dã chiến bố trí quanh nhà hát lớn. Đang từ những phút cảm tình hoan hô chuyển ngay sang cái không khí công kích căng thẳng là điều không ai có thể ngờ. Ông Tướng giận dữ, đám sinh viên phẫn uất, cả hai bên đều bị tự ái tổn thương khó mà cứu vãn và ngay sau đó Đại hội bị giải tán trước con mắt buồn rầu của nhà văn và nhất là ông Giáo sư. Ông Tướng thì lên trực thăng bỏ ngay vào Đà Nẵng, không biết những ngày sắp tới sẽ thế nào. Tôi gặp lại ông Hoàng Thái Trung ở đó. Như một con thoi ông phải dạy cùng một lúc cả ba đại học, hiện tại thì ông đang ở tuần lễ thứ hai ngoài Huế. Khi nhắc tới bài diễn văn của ông Tướng, ông Trung bày tỏ sự khâm phục đối với ngòi bút đượm sinh khí và đầy lửa của nhà văn và cũng lại tỏ ý hoài nghi về vai trò chánh trị tương lai của tướng Thuyết:
– Làm sao anh biết bài diễn văn là của nhà văn?
– Có bài diễn văn nào ông Tướng đọc mà không phải của ông ta, vả lại văn là người, cái bút pháp đặc nhựa lôi cuốn ấy chẳng thể không phải của nhà văn.
Ông Trung hỏi tôi về những cuộc biểu tình ở Sài Gòn. Ông cũng hỏi thăm về tình trạng của nhà sư Pháp Viên với nhiều nỗi lo ngại. Tôi bảo đó cũng là mối quan tâm lớn của tướng Thuyết, đang có vận động cho nhà sư được thả ra và không biết là ngày nào. Ông Trung nhắc tới dự định làm báo ở Huế và hỏi tôi:
– Khi nào anh mới định ra nhận dạy ngoài này? Có lẽ anh em mình tính chuyện ra lại một tờ báo.
– Tôi cũng chưa hứa chắc với bên Mỹ Thuật nhưng có thể là sau Tết.
Tôi cũng thích được ra đây đổi một không khí yên tĩnh và hy vọng vẽ trở lại.
– Có lẽ tất cả phải đi lại từ bước đầu.
Tôi nói với ông Trung về dự định viết một cuốn sách khảo cứu cao nguyên mà quan điểm đưa ra là người Thượng người Kinh có cùng một nguồn gốc. Đó là điều rất trái ý với ông Mục sư. Ông Trung tỏ vẻ tán đồng và có những khuyến khích:
– Vấn đề này được tôi tham khảo với nhiều công phu tìm kiếm, khi phải giảng dạy cho sinh viên ở Văn khoa, tôi cố gắng đưa ra phổ biến những quan niệm mới như thế.
Tôi lại nhắc tới đề nghị của một tờ báo sinh viên về việc thiết lập một Viện Nghiên cứu các Sắc tộc và một phân khoa Nhân Chủng trực thuộc Viện Đại học. Tôi nói:
– Với sự hướng dẫn của giáo sư, sự góp công nghiên cứu của lớp người trẻ hăng hái ở đại học là điều quá cần thiết. Hy vọng năm mười năm sau khi cần tìm biết về vấn đề nhân chủng, khu đại học Nhân văn có thể cung cấp những cuốn sách giá trị do chính người Việt Nam viết.
Ông Trung có vẻ rất quan tâm tới đề nghị này và cũng cho biết bao nhiêu khó khăn đặt ra sau đó. Sáng kiến không thể khởi đầu từ ông khi mà chánh quyền và cả những đồng nghiệp đã cô lập ông, coi ông như thành phần trí thức thiên tả và đối lập. Điều mà ông có thể làm là những cố gắng cá nhân vùng vẫy.
Buổi tối về nhà ông Trung và ở lại trong cư xá giáo sư đại học trên Bến Ngự. Từ một lầu ba căn phòng có một cửa trông ra sông. Bên kia cầu dốc Nam Giao như chìm sâu vào bóng đêm âm u. Tiếng côn trùng rên rỉ đều đều, tiếng cạp muỗi của những con ễnh ương dưới sông chỉ gợi nỗi nhớ của những trang lịch sử ảm đạm buồn rầu. Làm sao người ta có thể nung chí trong sự nẫu nà như vậy để mà trở thành phi thường như bộ óc của nhà sư Pháp Viên. Tôi cũng liên tưởng tới cái vẻ hứng chịu của những người đàn ông Huế qua lối nhìn cay đắng của Nguyện. Lúc này thì tôi đang nghĩ và nhớ tới Nguyện với thiết tha và hy vọng. Một mai tôi ra đây, ở một căn phòng như vậy, liệu con sơn ca có nghỉ cánh bay để sống những ngày giờ hạnh phúc. Trong óc tôi lại hiện rõ khuôn mặt rạng rỡ của Nguyện nổi bật trên một nền thật tăm tối. Với không khí này tôi hy vọng vẽ trở lại. Ở một căn phòng đầy sách báo bừa bãi tôi hỏi ông Trung:
– Sao anh không đem chị theo, có bàn tay người đàn bà đời sống cũng trở nên dễ chịu.
– Thì dĩ nhiên rồi nhưng phải cái tôi dạy nhiều nơi, chỗ ở ngoài này cũng chưa nhất định, nhà tôi lại bận con nhỏ nên cũng muốn thu xếp ở luôn trong đó. Nếu đời sống có nhiều ân hận thì phải kể trong đó chuyện tôi lấy vợ sớm.
Câu chuyện của ông Trung khiến tôi có cảm tưởng anh sống trong một cảnh gia đình không có hạnh phúc. Tôn trọng đời sống riêng tư của ông, tôi không nói ra những thắc mắc. Vừa rót dòng cà phê nóng vào từng chiếc ly sứ trắng, ông Trung nói:
– Trí tuệ tôi lúc này bị ngưng trệ, ngòi bút đuổi chạy một cách khó khăn. Nhìn lại những gì đã viết tôi chỉ thấy co quắp buồn chán, lẽ ra tôi phải biết sớm hơn để ngừng lại ở đó. Tất cả vấn đề phải duyệt xét lại, xét lại từ đầu để tìm ra những đường hướng mới.
Dưới con mắt của đám sinh viên trẻ, ông Trung được coi như thần tượng, một trí thức dấn thân, chữ của ông Trung. Vậy mà ông cũng có những nỗi băn khoăn thất vọng. Ông Trung cô đơn trong sự yêu mến của nhiều người khác. Đôi mắt sáng và buồn của ông soi qua một làn kính trắng dày, trông ông Trung trơ trọi như một ảnh tượng đẫm nét bơ vơ trong một không gian bạc màu. Tôi muốn kéo ông ra khỏi cái vũng nhiều buồn thảm khi nói tới đám nhà báo sinh viên vẫn thường chỉ trích ông. Đi vào nhận định, ông Trung luôn luôn giữ nguyên phong độ sắc bén:
– Tôi đã nói là tất cả vấn đề phải duyệt xét lại, xét lại từ đầu. Tôi tự thấy có trách nhiệm là đã gây một sức đề kháng và chống đối tiêu cực trong quần chúng. Cái lối chống đối để khỏi phải xây dựng đó chính là một trở ngại cho những mục tiêu xây dựng quốc gia. Tôi đã tới thăm tòa soạn của họ, biết rõ cái không khí sinh hoạt dân chủ phóng túng của những cây bút tài tử này và hiểu rõ họ có thể đi tới đâu. Tôi thì vẫn thích những tay nhà báo này, tôi có ý nghĩ họ như một chất men cho những sinh hoạt quốc gia.
Ông Trung bảo:
– Nhận đối thoại với họ là không biết sẽ đưa mình tới đâu, nhiều khi tôi cũng thấy rát mặt vì họ chỉ trích nhưng tôi hiểu họ thêm hơn sau đó. Vả lại né tránh theo tôi cũng là một khuyết điểm lớn của giới đàn anh, như con đà điểu chúi đầu xuống cát nhưng rồi vẫn phải đối đầu với mọi sự thật.
Những giọt cà phê đã bắt đầu nguội lạnh và để lại một dư vị đắng trên đầu lưỡi. Giọng ông Trung lúc nào cũng giữ được vẻ tha thiết, ông nói với họ mà như độc thoại với nội tâm của chính mình và ông thì cũng đang tìm kiếm loay hoay như chính bọn nó. Lập trường của ông đã có những dấu hiệu thay đổi và nghiêng về một lựa chọn. Ông Trung có vẻ hết kiên nhẫn, sức mạnh ông là ở tư tưởng ngòi bút mà xem ra sau này ông lại tin vào hiệu quả của hành động. Cũng như Kux nhận định, sức mạnh Phật giáo không ở nơi khí giới bạo động mà xem ra đám môn đồ lại muốn đi tới cái đích đó.
Có vợ chồng ông giáo sư luật khoa sang chơi, tôi đã có lần gặp ông trong nhóm cố vấn ông Tướng. Chúng tôi nói đủ mọi chuyện đến thật khuya. Khi vào giường ngủ mỗi thớ thịt đều tê mỏi, tâm hồn cũng tê mỏi, tôi không còn muốn làm thêm một cử động nào nữa. Buổi sáng tôi trở dậy rất sớm khi bầu trời còn đầy sương. Lao xao những tiếng động trên mặt sông và dưới bến. Của những người đàn bà gồng gánh đi chợ, của những cô gái Huế xuống sông gánh nước. Từ cửa sổ nhìn xuống những lá cây ướt rũ sương, dưới bến những người con gái áo trắng đang ngồi giặt vui vẻ nói chuyện hay se sẽ cất lên tiếng hát. Phía Từ Đàm xa xa vẳng lại tiếng chuông chùa ru êm ả những đám mây và làm bặt cả những tiếng chim ca hót. Có lẽ Nguyện sẽ nghe tôi ra sống ở đây ít lâu, trong cái u tịch của thế giới lăng tẩm này để tìm lại không khí cho hội họa và hạnh phúc. VĐX _ NGÔ THẾ VINH
NGUYỄN VĂN TRUNG NGƯỜI ĐỨNG NGOÀI NẮNG
Người đứng ở ngoài nắng – là cụm từ Mai Thảo khi viết về Nhật Tiến, nhưng vẫn hoàn toàn đúng với Nguyễn Văn Trung. Với khung cảnh văn hoá miền Nam sau 1954 đã là một vận hội để Nguyễn Văn Trung bay bổng trong sự nghiệp, trải qua hơn bốn thập niên cầm bút của một trí thức dấn thân, Nguyễn Văn Trung đã nhìn nhận là “Không có Việt Nam Cộng Hoà không có Nguyễn Văn Trung hay sự nghiệp văn hoá của một người trí thức cầm bút.”
Hình 13: trái, những dòng chữ viết khó khăn của Nguyễn Văn Trung thời điểm 15/10/2021: “… để đón nhận trong một tinh thần đối thoại những cố gắng suy nghĩ của một người vẫn ước muốn tự đặt cho mình một kỷ luật đồng thời cũng là một lý tưởng là phải tìm kiếm không ngừng, bằng cách tự phủ nhận, bất mãn với quãng đường mình vừa qua và cứ thế mãi mãi…”[1] Cùng bạn độc giả, mở đầu cuốn Lược Khảo Văn Học I; giữa,chữ ký của Nguyễn Văn Trung 1969, khi là Khoa trưởng Đại học Văn Khoa Sài Gòn; phải, mẫu chữ ký 2021 khi đã là lưu dân sống ở Montréal, Canada. Từ 2011, Nguyễn Văn Trung hầu như không còn đọc hay viết được gì, do mắt yếu và tay run – đam mê một đời mà nay không còn theo đuổi được nữa. [tư liệu Nguyễn Quốc Linh]
Vẫn với quan niệm: “Người trí thức không phải là người có kiến thức đại học hoặc sau đại học, mà là một người có kiến thức chuyên sâu nhờ đọc sách và kinh nghiệm tiếp xúc. Thực ra, điều cốt yếu đáng nói không phải là vốn kiến thức, mà là thái độ trí thức đối với các vốn ấy và, nhất là, đối với những vấn đề cuộc sống trước mặt đặt ra.” [3]
Và trong cuộc hành trình trí thức ấy, những điều Nguyễn Văn Trung viết luôn luôn mở ra các cuộc tranh luận – mà anh gọi là đối thoại,từ đó cũng đã tạo ra không thiếu những chỉ trích và cả lên án gay gắt từ mọi phía. Phật giáo hay Công giáo, Cộng sản hay Quốc gia, giữa Chiến tranh và Hoà bình hay với thành phần thứ Ba, Nguyễn Văn Trung luôn luôn đã phải trả giá cho những điều anh phát biểu – giữa hỗn mang của thời cuộc, không có trắng và đen mà chỉ là trong một vùng xám giữa đúng và sai – nhưng có điều chắc chắn đó là tiếng nói lương tâm trong chọn lựa dấn thân của Nguyễn Văn Trung. Anh cất lên tiếng nói cho những điều mà lúc đó anh thực tâm tin tưởng, và anh đã phải chịu nhiều ngộ nhận và oan khiên đến cả vùi dập.
Hình 14: trái, Nguyễn Văn Trung nay ngồi xe lăn, sống với người con trai út. Trong hình, hàng đứng từ phải, Nguyễn Văn Lục em Nguyễn Văn Trung và con trai Anh Trung. [photo by Nguyễn Quốc Linh, ngày 10/10/2021], giữa, Nguyễn Văn Trung, ký hoạ của Phan Nguyên; phải: dấu tay và thủ bút của Nguyễn Văn Trung, Montréal Canada 24/ 08/ 2019: Lục Châu Học là công trình nghiên cứu đồ sộ cuối đời của Nguyễn Văn Trung, được ông còn nhớ tới và hãnh diện. [tư liệu Phan Nguyên, E.E.]
Được sống với niềm đam mê viết của mình, trải qua nhiều thập niên cầm bút, với bao nhiêu là hào hứng nhưng cũng là những chặng đường bầm dập và lận đận của Nguyễn Văn Trung cho tới cuối đời. Nay tới tuổi 91, trong sự quên lãng, anh đang rũ bỏ ký ức không còn nhớ, không còn ham muốn tích luỹ thêm bất cứ một điều gì. Anh luôn luôn cười và như một “lão ngoan đồng”, anh đang hồn nhiên trở lại sống như một đứa trẻ.
NGÔ THẾ VINH
California, 1995 – 2021
THAM KHẢO:
1/ Nguyễn Văn Trung, Lược Khảo Văn Học I Những vấn đề tổng quát (Nam Sơn 1963), II Ngôn ngữ văn chương và kịch (Nam Sơn 1965), III Nghiên cứu và phê bình văn học (Nam Sơn 1968). Nxb Tổng Hợp TP HCM tái bản, 2018
2/ Nguyễn Văn Trung, Văn Học Hải Ngoại. Văn Học, số 112, tháng 8, 1995. Mai Kim Ngọc, Văn Học và Chính trị, nhân đọc Văn Học Hải Ngoại của Nguyễn Văn Trung. Văn Học, số 113, tháng 9/1995. Nguyễn Văn Trung, Trao đổi với nhà văn Mai Kim Ngọc. Văn Học, số 124, tháng 8/1996
3/ Nguyễn Văn Trung, Nhìn lại những chặng đường đã đi qua. Kỳ 1: tha thứ và xin tha thứ. Kỳ 2: những lựa chọn căn bản. Kỳ 3: nhìn nhận lại diện mạo một nền văn học. Kỳ 4: Ông Phạm Công Thiện. Kỳ 5: Văn hoá văn nghệ trong vòng tay chính trị. Thông Luận, 04/ 09/ 2007
4/ Nguyễn Văn Lục, Tóm Lược về sự hình thành của Tạp chí Đại Học [10/2015]. Về các tờ báo Hành Trình, Đất Nước và Trình Bầy, Phần I [27/03/2015] & Phần II [28/03/2015], Đàn Chim Việt Online.
5/ Võ Phiến, Văn Học Miền Nam Tổng Quan. Giai đoạn 1954-1963, Đại Học với Nguyễn Văn Trung. Nxb Văn Nghệ Hoa Kỳ, 1987
6/ Ngô Thế Vinh, Tuyển tập I Chân dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hoá. Hoàng Ngọc Biên, với con đường tiểu thuyết mới và thời gian tìm thấy lại. Việt Ecology Press xuất bản 2017. Vòng Đai Xanh, Nxb Thái Độ, 1970
Trong mùa dịch này tôi đọc vài cuốn sách hay. Hôm nay, tôi muốn giới thiệu đến các bạn một cuốn sách có tựa đề là ‘Noise: A Flaw in Human Judgment’ (Nhiễu: sai sót trong phán quyết của con người) [1]. Tôi tin rằng cuốn sách này sẽ làm cho chúng ta nhìn lại những phán xét cá nhân trong quá khứ, và giúp cho chúng ta sống tốt hơn và làm việc tốt hơn.
Chuyện tương đối thời sự. Cuộc tháo chạy của công nhân nghèo từ các khu công nghiệp ở Sài Gòn, Bình Dương, Đồng Nai, Long An, v.v. về quê làm nổi bật sự khác biệt về chủ trương giữa các tỉnh đối với cư dân mình. Có nơi thì tuyên bố nhận dân mình về, có nơi thì không. Có nơi hôm trước thì hùng hồn nói rằng sẽ cho xe đón bà con về quê, nhưng hôm sau thì quay ngược 180 độ. Có nơi đề ra những qui định phức tạp mà hậu quả là làm khổ người dân. Lại có nơi tỏ ra tàn ác đến độ tiêu diệt đến 16 con chó và mèo. Người ta phải ngao ngán thốt lên rằng đại dịch này làm lộ rõ 62 sứ quân.
Ngay cả cấp cầm quyền cao nhứt cũng trước sau bất nhứt. Hôm thì tuyên bố rằng công nhân không được về quê, ai ở đâu thì ở yên đó. Hôm sau lại tuyên bố rằng bà con về quê là chính đáng, và các tỉnh không nên ngăn chận họ. Sự thay đổi như chong chóng đó làm cho người dân không biết đường đâu mà mò. Và, hậu quả là những thay đổi và bất nhứt đó làm xói mòn niềm tin của người dân.
Một cuốn sách mới xuất bản (Nhiễu – sai sót trong phán quyết của con người) có thể giúp chúng tahiểu hơn về những thay đổi và bất nhứt đó, ít ra là về mặt tâm lí con người. Cuốn sách dài hơn 400 trang chỉ để luận về … nhiễu. Nói theo tiếng Anh, nhiễu là noise. Đây là một đề tài rất quan trọng, nhưng ít khi nào được bàn đầy đủ bằng một văn phong và công chúng ngoài khoa học có thể hiểu được. Nhưng ba tác giả (cũng là ba giáo sư nổi tiếng) DanielKahneman (Giải Nobel kinh tế 2002), Olivier Sibony và Cass R. Sunstein đã làm được cái việc đó.
1. Nhiễu là gì?
Những ai làm nghiên cứu y khoa hay học về dịch tễ học và thống kê học, thì chắc chắn không lạ gì khái niệm nhiễu. Đối với thống kê học, nhiễu là những khác biệt ngẫu nhiên mà chúng ta quan sát hàng ngày. Hôm nay, chúng ta lái xe trên con đường quen thuộc với tốc độ 60 km/giờ, nhưng hôm sau thì 62 hay 55 km/giờ dù điều kiện đường xá không khác nhau. Nếu bạn đo huyết áp nhiều lần và mỗi lần cách nhau vài phút, kết quả sẽ là một dãy số huyết áp dao động chung quanh một con số nào đó. Ví dụ như 10 giá trị dao động chung quanh con số trung bình 120 mmHg:
Giá trị quan sát:
118, 121, 120, 119, 120, 117, 122, 118, 121, 121
Sai lệch từ trung bình 120 mmHg:
-2, 1, 0, -1, 0, -3, 2, -2, 1, 1
Những khác biệt hai sai lệch giữa mỗi giá trị quan sát từ con số trung bình được gọi là error hay sai sót (hay nói theo thuật ngữ khoa học là sai số). Nhiễu là một thành tố của sai sót, và chúng ta sẽ quay lại phát biểu này trong phần dưới đây.
Tính đặc thù của nhiễu là ngẫu nhiên. Vì là ngẫu nhiên, nên nhiễu không tuân theo qui luật nào cả, và do đó chúng ta không thể tiên đoán được. Nhưng trong cuốn sách này, ba tác giả khai thác chủ đề nhiễu qua lăng kính của tâm lí – xã hội học, và kết quả là một khai sáng cho tất cả chúng ta.
Nhiễu, đối với tâm lí học, là gì? Tác giả lấy một ví dụ về án phạt (trang 14-15) để minh hoạ cho định nghĩa về nhiễu. Hai người [không có tiền sử tội phạm] dùng tiền giả, một người dùng tiền giả trị giá 58.4 USD bị phạt 15 năm tù; còn người dùng tiền giả trị giá 35.2 USD bị phạt tù 30 ngày. Một trường hợp so sánh khác cũng thú vị không kém: hai người cùng phạm tội biển thủ với số tiền tương đương nhau, nhưng người thì bị phạt 17 ngày tù, còn người kia thì 20 năm tù.
Chúng ta kì vọng rằng nếu những phạm nhân phạm một tội và hoàn cảnh giống nhau, thì hình phạt cũng tương đương nhau. Nhưng trong thực tế, như thấy trên, các phạm nhân có tội gần giống nhau và hoàn cảnh cũng giống nhau, nhưng phán quyết của chánh án thì quá khác nhau. Sự khác biệt về mức độ án phạt đó được xem là nhiễu.
Nhiễu rất phổ biến trong nền công lí, và nó làm xói mòn uy tín và niềm tin vào công lí. Ở Việt Nam, chúng ta đã quá quen thuộc với những bản án ‘trời ơi’. Một thanh niên ở Kiên Giang với tội ăn trộm 1 con vịt về nhậu, và anh ta bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành (Tỉnh Kiên Giang) xử phạt 7 năm tù giam. Ở Trà Vinh, một thanh niên ăn trộm 1 con gà và 1 con vịt trị giá chưa tới 200,000 đồng, và anh ta bị phạt 2 tháng tù giam. Ở Khánh Hoà, 2 thanh niên cũng phạm tội ăn trộm 3 con vịt trị giá 360,000 đồng, và họ bị phạt tổng cộng 15 tháng tù. Những cái nhiễu trong án phạt như thế làm cho công chúng không tin vào nền công lí Việt Nam.
Nhiễu không chỉ ảnh hưởng đến công lí, mà còn gây tác động tiêu cực đến hầu như bất cứ khía cạnh nào trong xã hội. Những thay đổi về chủ trương chống dịch, những sự bất nhứt về cách đối xử với làn sóng công nhân nghèo về quê mà tôi đề cập trên cũng chính là nhiễu. Chúng ta ngao ngán trước sự nhiễu loạn về quyết định của các giới chức, nhưng chúng ta ít khi nào để tâm suy nghĩ về nguồn gốc và ý nghĩa của nhiễu. Giới thống kê học xem nhiễu là ngẫu nhiên, và xem thế là … xong. Do đó, nhiễu rất ít được nghiên cứu bài bản. Cuốn sách này lấp vào khoảng trống tri thức đó.
2. Bias là gì ?
Nhiễu có liên hệ với một khái niệm khác được định danh là bias. Nhưng nhiễu khác với bias. Chữ bias (có thể hiểu và dịch là sai lệch) có nhiều nghĩa trong thống kê học, dịch tễ học, và tâm lí học.
Theo nghĩa thống kê học và dịch tễ học, bias là giá trị quan sát bị lệch từ giá trị thật. Tôi không biết mật độ xương thật của bạn là bao nhiêu, nhưng tôi có thể dùng phương tiện vật lí để đo, và giá trị từ thước đo đó chỉ là giá trị quan sát, nó có thể khác với giá trị thật, và mức độ khác biệt đó được gọi là bias. Ngoài ra, bias còn có thể hiểu là mức độ sai lệch giữa một ước số từ mẫu và tham số từ quần thể. Chẳng hạn như chiều cao thật của nam thanh niên Việt Nam là 170 cm, nhưng ước số từ mẫu nghiên cứu là 168 cm, thì bias được định lượng là 2 cm. Đa số những ai học dịch tễ học đều biết rằng bias là xuất phát từ thiết kế nghiên cứu, thu thập dữ liệu, đo lường, phân tích dữ liệu, diễn giải dữ liệu dẫn đến kết luận sai lệch so với sự thật.
Trong tâm lí học, bias được định nghĩa là xu hướng hay thiên kiến đối với một cá nhân hay sự việc, và do đó có thể dịch là thiên lệch hay thiên kiến. Một loại thiên lệch quan trọng trong tâm lí học là cognitive bias (thiên lệch về nhận thức), là sự thiên lệch chống lại một cá nhân, một nhóm người, sự vật, và thường thường là không công bằng. Chẳng hạn như chúng ta có xu hướng sàng lọc thông tin sao cho phù hợp với niềm tin của chúng ta. Do đó, thiên lệch là một xu hướng tự nhiên, là sản phẩm của bản chất con người. Thiên lệch có thể ảnh hưởng đến các quyết định của chúng ta.
3. Sai sót = Thiên lệch + Nhiễu
Cả ba định nghĩa về bias trong thống kê học, dịch tễ học, và tâm lí học trên đều nói lên một mẫu số chung: bias là sai sót (error). Nói đúng ra là bias là một phần của sai sót (error). Trong Noise Daniel Kahneman, Cass Sunstein, và Olivier Sibony lí giải rằng sai sót bao gồm sai lệch và nhiễu:
Error = Bias + Noise
Trong quá khứ (và cho đến nay), công chúng thường nghe đến thiên lệch, rất ít ai nghe đến nhiễu vốn là một địa hạt của giới khoa học.
Nhưng làm sao chúng ta có thể đo lường sai sót? Tác giả chỉ ra rằng thiên lệch và nhiễu là hai nguồn sai sót, và hai nguồn này độc lập với nhau. Nói theo ngôn ngữ thống kê học, nhiễu và thiên lệch là orthogonal. (Trong bài này, tôi dùng hai chữ đó, sai lệch và thiên lệch, với nghĩa như nhau).
Chúng ta còn nhớ Định lí Pythagoras được học từ thời trung học về tam giác vuông: bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương của hai cạnh góc vuông. Tương tự, các tác giả lập luận rằng bình phương của sai sót bằng bình phương của thiên lệch cộng với bình phương của nhiễu:
Error2 = Bias2 + Noise2
Nói cách khác, chúng ta phạm phải sai sót là do thiên lệch và nhiễu. Phân tích và hiểu được 2 yếu tố này có thể giúp chúng ta điều chỉnh hành vi và quyết định sao cho bớt sai sót trong tương lai.
4. Nhiễu hệ thống và nhiễu ngẫu nhiên
Các tác giả phân tách thêm rằng nhiễu có thể chia thành 2 bậc: level noise và pattern noise. Trong trường hợp toà án và hình phạt, level noise phản ảnh sự khác biệt về giá trị trung bình giữa các chánh án, và do đó nó cũng phản ảnh sự thiên lệch hay bias. Còn pattern noise phản ảnh sự khác biệt giữa các bản án trong mỗi chánh án. Nói theo ngôn ngữ thống kê (phân tích phương sai), level noise là between-judge variation và pattern noise là within-judge variation. Theo tôi, có thể dịch level noise là ‘nhiễu có hệ thống‘ và pattern noise là ‘nhiễu ngẫu nhiên‘.
Thật ra, cách phân tách này không mới. Hơn 100 năm trước, nhà thống kê học thiên tài Ronald Fisher đã nghĩ đến cách phân tách này, và ông sáng chế ra phương pháp phân tích phương sai (Analysis of Variance). Fisher cũng là người dùng thuật ngữ ‘mean square error‘ (sau này là mean squared error) như là một thước đo về nhiễu. Trong một bài luận về di truyền học năm 1905, Fisher viết:
“[…] the amount of variability may be measured, as errors of observation are habitually measured, by the mean of the squares of the deviations of different individuals from the mean, this mean square deviation being strictly comparable to the mean square error used in astronomy and in all physical science.”
Trong thực tế, MSE là phương sai của sai sót. Theo cách phân tích của tác giả, MSE bao gồm 2 nguồn: bias (sai lệch) và noise (nhiễu).
MSE = bias + noise
Nhiễu được chia thành 2 nguồn: level noise (nhiễu hệ thống) và nhiễu pattern noise (nhiễu ngẫu nhiên). Nhiễu ngẫu nhiên được chia thành 2 nguồn nhỏ: stable pattern noise và occasional noise. Nguồn: tác giả.
Tác giả lí giải rằng nhiễu ngẫu nhiên bàng bạc trong những phán xét của con người, và loại nhiễu này thường cao hơn nhiễu hệ thống. Chẳng hạn như quyết định đề bạt nhân viên của các chủ doanh nghiệp, quyết định của bác sĩ có nên cho nhập viện, các công ti bảo hiểm xác định tiền niên liễm, quyết định chấp nhận hay từ chối bài báo khoa học, v.v. tất cả đều phản ảnh nhiễu ngẫu nhiên. Nó xuất phát từ sự lệch lạc của mỗi cá nhân từ xu hướng chung của cá nhân đó.
Nhiễu ngẫu nhiên có thể chia thành 2 nguồn độc lập: stable pattern noise và occasional noise. Tác giả giải thích rằng stable pattern noise là nhiễu xuất phát từ các yếu tố ‘nội tại’ như cá tánh của một cá nhân. Còn occasional noise là nhiễu do các yếu tố ngoại cảnh như thời tiết và các yếu tố lệ thuộc vào thời gian của quyết định.
Nhiễu trong y khoa
Ở Chương 22, tác giả dành ra khá nhiều trang để bàn về nhiễu trong y khoa. Có thể xem việc chẩn đoán bệnh là một hình thức judgment – phán đoán. Đối với nhiều bệnh lí, việc chẩn đoán là tương đối máy móc, theo đó những qui định và qui trình được đặt ra để giảm thiểu nhiễu. Chẳng hạn như bác sĩ có thể chẩn đoán gãy cổ xương đùi một cách dễ dàng và ít có nhiễu trong trường hợp này. Hay như chẩn đoán loãng xương, bác sĩ chỉ cần dựa vào mật độ xương và một tính toán để xác định bệnh nhân bị hay không bị loãng xương, vì qui định rất rõ ràng. Vào những ngày đầu tiên của dịch Covid-19, các bác sĩ phải dựa vào triệu chứng để chẩn đoán, và rất nhiều sai sót đã xảy ra. Nhưng sau này thì có các phương tiện xét nghiệm như PCR nên sai sót trong chẩn đoán ít hơn.
Nhưng một số không ít các trường hợp phải dựa vào phán đoán của bác sĩ, và trong các trường hợp này thì nhiễu xảy ra. Đã có rất nhiều nghiên cứu về sự khác biệt trong chẩn đoán bệnh viêm phổi giữa các bác sĩ quang tuyến. Đa số những khác biệt này là do kĩ năng lâm sàng của bác sĩ. Theo một nghiên cứu, khoảng 44% các khác biệt về chẩn đoán giữa các bác sĩ là do khác biệt về kĩ năng. Điều này có nghĩa là để giảm sai sót hay nhiễu, cần phải có chương trình nâng cao kĩ năng cho bác sĩ hơn là dựa vào những phác đồ chẩn đoán.
Trong y khoa, những khác biệt về chẩn đoán và đánh giá giữa các bác sĩ được gọi là inter-rater reliability, và được định lượng bằng chỉ số thống kê có tên là kappa statistic. Giá trị kappa càng gần 1 có nghĩa là mức độ nhiễu càng thấp. Chẩn đoán mức độ nghiêm trọng của bệnh thoái hoá khớp gối có chỉ số kappa chỉ cỡ 0.6, nói lên rằng sự khác biệt giữa các bác sĩ rất lớn. Và, mức độ nhiễu này có thể ảnh hưởng đến quyết định điều trị cho bệnh nhân. Với bác sĩ A, bệnh nhân có thể không cần dùng thuốc, nhưng với bác sĩ B thì bệnh nhân có thể phải dùng thuốc.
Trong Chương 22, tác giả đưa ra hàng loạt những nghiên cứu về nhiễu trong việc chẩn đoán các bệnh như tim mạch, ung thư, tâm thần, v.v. Họ cũng chỉ ra rằng giới y khoa đã có nhiều nỗ lực làm giảm nhiễu trong chẩn đoán bằng cách xây dựng các phác đồ chẩn đoán và điều trị, bằng các mô hình thống kê, và qua hội chẩn.
Làm gì để giảm nhiễu?
Nhiễu cũng có nguồn gốc từ tâm lí. Câu hỏi đặt ra là chúng ta có thể thay thế sự phán xét của con người bằng máy? Chúng ta có nên lấy nhiều phán xét và trung bình hoá để giảm nhiễu? Quan điểm từ nhiều người tốt hơn quan điểm của một cá nhân? Các tác giả không nghĩ vậy, và cảnh báo chúng ta nên cẩn thận. Chúng ta hay thấy trong các buổi họp, người đầu tiên phát biểu thường ảnh hưởng kết cục, vì những người khác có xu hướng theo người phát biểu đầu tiên. Do đó, chưa chắc tập thể tốt hơn cá nhân.
Cuốn sách này không chỉ dành cho giới chuyên môn (tâm lí học, xã hội học, dịch tễ học, thống kê học), mà người ngoài khoa học vẫn có thể tìm thấy nhiều thông tin và khá niệm liên quan. Hiểu và phân biệt được nguồn gốc của nhiễu và sai lệch giúp cho công chúng tự đánh giá quyết định và các mối tương tác hàng ngày. Tác giả làm cho chúng ta ghi nhận sự bất định và tự mâu thuẫn trong mỗi chúng ta. Cá nhân tôi phục vụ trong vai trò chair, biên tập và chuyên gia bình duyệt trong các hội đồng, hiệp hội khoa học, tập san y khoa, v.v. phải nhìn lại những quyết định của mình trong quá khứ. Cuốn sách này giúp cho tôi nhận ra sự yếu ớt và bất định của cá nhân mình.
Điều làm tôi thấy tâm đắc trong cuốn sách là tác giả chỉ ra rằng các mô hình thống kê tuy nhìn vào thì có vẻ máy móc nhưng lại đưa ra những ‘phán xét’ tốt hơn hẳn con người. Chẳng hạn như trước một bệnh nhân loãng xương, bác sĩ thường đánh giá sai nguy cơ gãy xương và tử vong, nhưng các mô hình thống kê thì lại cho ra những tiên lượng chẳng những nhứt quán và còn chính xác. Trong tương lai, các mô hình AI (trí năng nhân tạo) có thể giúp cho con người đánh giá chính xác hơn trong những tình huống phức tạp.
Tuy nhiên, các tác giả cũng nhấn mạnh rằng các mô hình thống kê hay thuật toán không thể nào thay thế phán xét của con người một cách vô điều kiện. Nhưng trong điều kiện nào thì mô hình và thuật toán có thể thay thế con người thì chưa biết, và đặt ra câu hỏi về vai trò của con người trong tương lai. Cuốn sách này sẽ làm thay đổi cách mà chúng ta suy nghĩ về quyết định của con người, và cách chúng ta sử dụng máy móc trong đời sống.
Học được gì từ cuốn sách?
Gấp lại cuốn sách, tôi tự hỏi mình học được gì từ cuốn sách này? Thành thật mà nói, tôi không học được nhiều, và ước gì tác giả có thể cho ra một tác phẩm đầy đủ hơn. Tác giả cho biết nhiễu rất phổ biến trong đời sống, nhưng có lẽ chúng ta phải sống chung với nhiễu như bao nhiêu vấn đề bất tiện khác. Những phân tích về nhiễu của tác giả không phải là phát kiến mới, bởi vì những bộ óc vĩ đại về thống kê học đã phân tích nhiều rồi và đã hơn 100 năm. Ấy vậy mà tác giả ví von những phân tích của họ như là một khám phá về một lục địa mới (“discovered a new continent”)! Có lẽ hơi quá đáng, vì trong quá khứ chủ đề này đã được ‘khám phá’ và phân tích nhiều rồi. Điều đáng tiếc là cuốn sách không đề cập đến Ronald Fisher, Fischer Black và William Deming, những người đã viết nhiều về nhiễu.
Ronald Fisher, người đầu tiên nghĩ ra khái niệm variation (mà tác giả gọi là noise), nhưng tác giả không đề cập đến Fisher trong cuốn sách.
Một bài luận nổi tiếng của Fischer Black về nhiễu cũng không được đề cập đến trong sách của Kahnenam, Sibony, and Sunstein.
Ngoài ra, tác giả cũng tỏ ra không am hiểu thống kê học. Họ xem ‘between-variation’ là ảnh hưởng tương tác (interaction effect) là một sự hiểu sai rất đáng tiếc. Khái niệm interaction rất khác với dao động giữa các nhóm. Họ còn tỏ ra hiểu sai về tương quan (correlation) và nhân quả (causation): họ viết “while correlation does not imply causation, causation does imply correlation. Where there is a causal link, we should find a correlation” (tương quan không ám chỉ mối liên hệ nhân quả, nhưng mối liên hệ nhân quả ám chỉ tương quan. Khi có một mối liên hệ nhân quả thì chúng ta sẽ tìm ra mối tương quan). Cái sai là ở câu thứ hai, bởi vì trong thực tế, có những liên hệ nhân quả nhưng không thể hiện qua tương quan, nhứt là trong điều kiện sai lệch và mối liên quan phi đơn điệu (non-monotonic relationship).
Tôi nghĩ cuốn sách này là một tái khám phá về một khái niệm rất cũ trong thống kê học, nhưng tác giả ‘đóng gói’ thành một phiên bản khác dưới lăng kính tâm lí – xã hội học. Kết quả là một lí giải dễ hiểu cho công chúng, và do đó tôi vẫn nghĩ cuốn sách này quan trọng vì nó giúp cho công chúng biết về nhiễu và sai lệch (và thiên kiến) trong cuộc sống. Những lí giải về nhiễu từ cái nhìn tâm lí xã hội đối với tôi rất thú vị. Tôi xem cuốn sách là một tài nguyên quí báu cho giảng dạy về phương pháp nghiên cứu và dịch tễ học.
Khoảng 10 năm trước (2012), tôi từng đọc được cuốn sách “Thinking, fast and slow” (Nghĩ nhanh, nghĩ chậm) của Giáo sư Daniel Kahneman, và có viết một bài điểm sách tương đối dài [2]. Một nhóm bạn ở Việt Nam đã dịch cuốn sách này sang tiếng Việt, và tôi hân hạnh viết lời giới thiệu. Nay, tôi muốn giới thiệu một cuốn sách có giá trị khác của Kahneman và 2 đồng nghiệp Sibony và Sunstein về một đề tài rất đáng được để tâm suy nghĩ: nhiễu và phán xét của chúng ta. Tôi hi vọng rằng sẽ có một nhóm dịch cuốn sách này sang tiếng Việt để nó hiện diện trong tủ sách của các bạn.
[1] https://readnoise.com. Kahneman, D., Sibony, O., & Sunstein, C. R. (2021). Noise: A Flaw in Human Judgement. New York, NY: Little, Brown and Company.
Daniel Kahneman là Giáo sư Tâm lí học của ĐH Princeton, Giáo sư Công vụ (Public Affairs), và khôi nguyên Nobel Kinh tế 2002. Ông còn là viện sĩ Viện hàn lâm Nghệ thuật và Khoa học Hoa Kì, viện sĩ Hiệp hội Tâm lí học Hìa Kì, viện sĩ Hiệp hội Kinh tế lượng.
Olivier Sibony là Giáo sư Chánh sách Thương mại thuộc HEC, Paris. Ông từng là ‘Senior Partner’ của Tập đoàn McKinsey & Company. Chuyên môn của ông là lí thuyết quyết định. Ông tốt nghiệp tiến sĩ từ Đại học Khoa học và Nhân văn Paris.
Cass R. Sunstein là Giáo sư Đại học thuộc Đại học Harvard, và Giám đốc Chương trình Hành vi Kinh tế và Chánh sách công. Ông từng phục vụ như là Quản trị gia về Thông tin và Sự vụ cho Toà Bạch Cung từ 2013 đến 2014 (dưới thời Tổng thống Obama). Ông được trai giải Holberg của Na Uy vào năm 2018.
Đại tướng Colin Powell mới qua đời dù đã được tiêm đầy đủ 2 liều vaccine chống covid. Sự kiện này làm nhiều người phân vân về hiệu quả của vaccine. Sự nghi ngờ cũng có lí do, nhưng nói chung, ‘hồ sơ sức khoẻ’ của ông khó có thể nói rằng ông qua đời vì vaccine. Vậy câu hỏi là nguy cơ bị nhiễm hay tử vong sau khi tiêm vaccine là bao nhiêu? Cái note này tìm dữ liệu trả lời câu hỏi đó và hi vọng rằng giúp các bạn … yên tâm.
Chúng ta biết rằng vaccine covid không có hiệu năng ngăn ngừa 100% nhiễm covid. Điều này cần phải nhắc lại, bởi vì chữ ‘hiệu quả vaccine‘ bị hiểu lầm rất nhiều. Người ta, kể cả nhiều bác sĩ, hiểu rằng ‘hiệu quả 90%’ có nghĩa là 100 người tiêm thì 90 người không bị nhiễm, nhưng cách hiểu này sai. Lí do sai là vì đơn vị để tính hiệu quả vaccine là xác suất nhiễm, chớ không phải số người / bệnh nhân.
Hiệu quả vaccine được tính bằng cách lấy xác suất nhiễm ở nhóm được tiêm vaccine chia cho xác suất nhiễm ở nhóm không được tiêm vaccine. Do đó, khái niệm ‘hiệu quả vaccine’ chỉ có ý nghĩa cho một quần thể, chớ không cho một cá nhân. Cá nhân vẫn có thể bị nhiễm sau khi tiêm vaccine, nhưng nguy cơ / xác suất thì khác nhau giữa các cá nhân tuỳ thuộc vào yếu tố nguy cơ.
Nguy cơ nhiễm đột phá là bao nhiêu?
Số liệu từ Úc. Ở Úc, tiểu bang New South Wales (NSW, hơn 5 triệu dân) là nơi có tỉ lệ dân chúng tiêm chủng vaccine cao nhứt (hơn 80%). Tính từ tháng 3/2021 đến giữa tháng 9/2021, có 317 người bị nhiễm nCov sau khi đã tiêm đủ 2 liều vaccine, gọi là ‘nhiễm đột phá‘ [1]. Nhưng số liệu này không cho biết nhiễm xảy ra bao lâu sau khi tiêm, và nguy cơ chính xác là bao nhiêu. Tuy nhiên, trong số hơn 4 triệu người được tiêm chủng, mà chỉ có 317 người bị nhiễm thì nguy cơ quả là thấp.
Số liệu từ Do Thái. Theo một nghiên cứu quan trọng công bố trên tập san y khoa NEJM, trong số 1497 nhân viên y tế được tiêm đầy đủ 2 liều vaccine, có 39 người bị nhiễm covid, và tỉ lệ là 2.6% [2].
Có thể nói nguy cơ nhiễm đột phá là khá cao, nhưng cần phải chú ý rằng đây là những người có nguy cơ cao. Tất cả những người bị nhiễm đều nhẹ và bình phục sau đó, không ai cần phải nhập viện.
Họ bị nhiễm từ đâu? Các tác giả phân tích chi tiết thêm và không rõ nguồn. Họ chỉ nghi ngờ rằng nguồn lây nhiễm đến từ 1 bệnh nhân và 1 nhân viên y tế chưa được tiêm vaccine. Tuy nhiên, cách họ mô tả rất mù mờ, làm tôi không hiểu hết câu chuyện.
Nguy cơ tử vong sau khi tiêm vaccine là bao nhiêu?
Đây cũng là câu hỏi quan trọng, và số liệu từ Anh có thể cung cấp cho chúng ta một ‘bức tranh’ chung. Cục thống kê Anh (ONS) phân tích dữ liệu covid từ 2/1/2021 đến 2/7/2021 ở những người đã được tiêm chủng vaccine, và so sánh với những người chưa/không tiêm chủng vaccine [3].
Trong thời gian 6 tháng đó, Anh ghi nhận 51,281 ca tử vong liên quan đến covid. Trong số này có 640 người (tức 1.2%) đã được tiêm chủng vaccine đầy đủ, kể cả người bị nhiễm và đã được tiêm vaccine.
Tỉ lệ tử vong liên quan đến covid ở người được tiêm 2 liều vaccine (trong vòng 21 ngày sau khi tiêm chủng) là 1.6%. Tỉ lệ này ở người không tiêm vaccine là 37.4%. Như vậy, vaccine rõ ràng là có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong.
Những ai có nguy cơ tử vong sau tiêm chủng vaccine? Phân tích thêm, họ phát hiện 3 yếu tố chánh: cao tuổi, nam giới, và bệnh nền. Tuổi trung bình ở những người qua đời là 82-84 tuổi và họ thường có những bệnh nền. Nam có nguy cơ tử vong cao hơn nữ. Những người có bệnh làm cho hệ miễn dịch bị suy yếu.
Đại tướng Powell qua đời ở tuổi 84. Ông mắc bệnh ung thư máu (multiple myeloma) vốn làm cho hệ miễn dịch của ông bị suy giảm. Như chúng ta thấy cái ‘risk profile’ của ông khá giống với cái profile của những ca tử vong sau tiêm chủng vaccine.
Tóm lại, những dữ liệu mới nhứt cho thấy tiêm chủng vaccine đầy đủ vẫn có thể bị nhiễm, nhưng nguy cơ nhiễm thì thấp (cao lắm là 2.6%), và nguy cơ tử vong cũng rất thấp. Tại sao nguy cơ nhiễm đột phá? Tôi nghĩ có 4 yếu tố có thể giải thích. Thứ nhứt hệ miễn dịch suy yếu, nhứt là những người mắc các bệnh nền liên quan đến hệ miễn dịch. Thứ hai là do con virus đột biến thành các biến thể mới mà vaccine không ngăn ngừa được. Thứ ba là loại vaccine được tiêm, vì hiệu quả vaccine rất khác nhau giữa [chẳng hạn như] Pfizer và J&J hay AZ. Và, sau cùng là thời gian sau khi tiêm, thời gian càng lâu thì nguy cơ càng tăng. Tất cả 4 lí do đó có thể giải thích tại sao sau khi tiêm vaccine mà vẫn bị nhiễm. Do đó, dù đã tiêm vaccine, chúng ta vẫn phải thực hành giãn cách xã hội và có những biện pháp giảm lây nhiễm ở những nơi đông người.
Mới đọc báo và biết được bà Nguyễn Thị Mai Anh, phu nhân của cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu qua đời ở Mĩ. Bà thọ đúng 90 tuổi. Những ai làm trong ngành y có lẽ biết được di sản của bà là Bệnh viện Vì Dân (nay là Bệnh viện Thống Nhất).
Bà Nguyễn Thị Mai Anh (1931 – 2021), phu nhân Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lúc còn trẻ.
Theo wiki, bà Mai Anh sanh năm 1931 ở Mỹ Tho, trong một gia đình trung lưu theo đạo Công giáo. Gia đình có đến 10 anh chị em, và bà Mai Anh thứ Bảy, nên mới có biệt danh là ‘Cô Bảy Mỹ Tho’.
Thuở nhỏ, bà lên Sài Gòn học hành và có thời làm trình dược viên cho công ti dược Roussell, mà giám đốc lúc đó là ông Huỳnh Văn Xuân. Ông Xuân làm mai, giới thiệu bà Mai Anh gặp ông Nguyễn Văn Thiệu, lúc đó mới là trung uý. Ông Thiệu có một người bạn học thời theo học ở trường Võ Bị Đà Lạt là Đặng Văn Quang, là cậu ruột của bà Mai Anh. Ông Thiệu và bà Mai Anh thành hôn vào năm 1951. Năm 1958 ông Thiệu mới rửa tội theo đạo Công giáo. Hai ông bà có 3 người con là Nguyễn Thị Tuấn Anh (trưởng nữ), Nguyễn Quang Lộc (trưởng nam) và Nguyễn Thiệu Long (thứ nam).
Gia đình ông Nguyễn Văn Thiệu
Ngày 21/4/1975 ông Thiệu từ chức Tổng thống. Ngày 25/4/1975, ông cùng gia đình rời Việt Nam, và nơi dừng chân đầu tiên là Đài Bắc để ông phúng điếu Tưởng Giới Thạch với tư cách là ‘Đặc sứ của Việt Nam Cộng hòa’. Anh ông Thiệu là Nguyễn Văn Kiểu làm Đại sứ VNCH tại Đài Loan. Nghe nói thoạt đầu gia đình định sống ở Đài Loan, nhưng khi người con thứ hai sang Anh du học, thì cả nhà dọn sang London định cư. Họ sống ở đó 15 năm trước khi theo con sang Mĩ (Boston) định cư vào năm 1985. Năm 2009, Bà Mai Anh dọn về Quận Cam sống với gia đình con trai, và bà qua đời tại đây.
Những ngày sống ở nước ngoài, bà Mai Anh rất kín tiếng. Sau khi ông Thiệu qua đời năm 2001, bà nói “Tôi mong có dịp về lại Việt Nam thăm mồ mả Ông Bà, và mang tro cốt của ổng (chồng, Nguyễn Văn Thiệu) về khi đất nước bình yên; Ông Già có trối rằng: ‘Nếu được thì đem chôn tại quê ông ở Phan Rang, nếu không thì rải một nửa xuống biển và một nửa trên núi‘.” Ước nguyện là như vậy, nhưng hình như cho đến cuối đời bà vẫn không thực hiện được.
Những người quen biết và hay tiếp kiến ai cũng nói rằng bà Mai Anh có tánh tình rất bình dị, giống như bất cứ phụ nữ nào ở miền Nam. Một người mô tả rằng “Bà Thiệu là người đáng kính, không có cái kênh kiệu của một người có quyền thế vì Bà là một người đứng cạnh chồng, chỉ biết lo cho gia đình mà thôi.”
Bệnh viện Vì Dân
Mà chắc đúng vậy. Có thể nói rằng trong các đệ nhứt phu nhân, có lẽ bà Mai Anh là người âm thầm nhứt. Trong thời gian ông Thiệu làm Tổng thống, bà không hoạt động chánh trị hay phát biểu những câu mang tính chánh trị. Bà chọn hoạt động xã hội. Chính vì công việc xã hội và từ thiện, nên bà cảm nhận được hoàn cảnh của người nghèo, và có ý tưởng xây dựng một bệnh viện phục vụ cho người dân. Bà vận động tài trợ từ các mạnh thường quân trong và ngoài nước để xây dựng bệnh viện ở khu Ngã tư Bảy Hiền.
Ngày 17/8/1971 diễn ra buổi lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng bệnh viện. Sau 3 năm xây dựng, ngày 20/3/1973, Bệnh Viện Vì Dân được khánh thành. Lúc đó, Bệnh viện Vì Dân có 400 giường bệnh và các phân khoa Ngoại và Nội trú, giải phẫu, xét nghiệm, tai mũi họng, quang tuyến, nhãn khoa, nhi đồng, nhà thuốc. Theo báo chí mô tả, Bệnh viện Vì Dân lúc đó là bệnh viện hiện đại nhứt ở miền Nam.
Sau năm 1975, Bệnh viện Vì Dân bị đổi tên thành Bệnh viện Thống Nhất. Điều trớ trêu là ngày xưa, bệnh viện này là ‘Vì Dân’, nhưng bệnh viện Thống Nhất thì lại ưu tiên cho các quan chức.
Một ‘di sản’ khác của bà Mai Anh là một … loài hoa. Năm 1972, một người Mĩ từng làm việc tại Việt Nam đã xin phép lấy tên bà đặt cho một hoa lan có là ‘Brassolaeliocattleya Mai Anh’. Theo wiki, bà Đinh Thúy Yến (Phu nhân Thủ tướng Trần Thiện Khiêm) cũng được đặt tên cho một loại hoa lan khác là ‘Brassolaeliocattleya Dinh Thuy Yen’.
Những người như bà Mai Anh, Tuyết Mai, Thuý Yến, v.v. có thể xem như đại diện cho một thời đã mất ở miền Nam. Không biết có quá nếu xem họ là biểu tượng nhân, tài và sắc của phụ nữ Việt Nam. Họ có lòng nhân đạo, trắc ẩn trước nỗi đau của người kém may mắn. Họ có học thức tốt và có tài, không cần phải lệ thuộc vào uy thế của chồng để tạo cho mình một chỗ đứng trong xã hội. Họ có thể không là hoa hậu nhưng cũng có nhan sắc thật. Họ đi nước ngoài công cán, dù là đi độc lập hay tháp tùng theo chồng, đều tỏ ra là những người lịch lãm, có khi ‘haute culture‘, tự tin, nói tiếng Anh lưu loát có khi dí dỏm, không hề tỏ ra thấp kém với đồng cấp nước ngoài. Bây giờ nhìn lại, tôi phải thú nhận là thấy tiếc cho một thời đã qua. Thời nay, khó tìm thấy những ‘phu nhân’ lãnh đạo có trình độ và tài năng như họ.
Nay thì cả hai bà cựu Đệ Nhứt và Đệ Nhị phu nhân VNCH đều đã qua đời. Sự qua đời của họ cũng giống như một dấu chấm cho một thời VNCH.
Mới đọc trên trang nhà của Bệnh viện Thống Nhất thấy người ta sửa lại lịch sử hình thành của Bệnh viện hết sức … méo mó. Trang này viết rằng tiền thân của Bệnh viện Thống Nhất là “Đơn vị K71“ và viết: “Bệnh viện Thống Nhất bằng quyết tâm, nghị lực, tinh thần ‘Thầy thuốc như mẹ hiền‘, với tình cảm thân thương của những người đồng chí, đồng đội… đã không ngừng phấn đấu toàn diện và lập được nhiều thành tích sất xắc. Sau 35 năm xây dựng và phát triển (1/11/1975 – 1/11/2010), Bệnh viện phấn đấu để trở thành Bệnh viện Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới.”
Và trưng bày 2 bức hình Bệnh viện trước 1975 nhưng không hề nhắc đến bà Mai Anh. Còn cách ghi chú hình cũng không đúng, vì trước 1975 đâu có cái bệnh viện “Thống Nhất”! Chả trách sao học sinh và sinh viên không thiết tha gì với việc học sử sau 1975. Thật là bậy bạ!
Một bạn đọc cho biết hiện nay “… nhiều tỉnh thành ở Việt Nam đang có các xe lưu động phát loa khuyến khích người dân kí giấy tiêm ngừa covid cho trẻ em từ 3-11 tuổi. Giọng điệu đe doạ kiểu ko kí giấy thì sẽ ko chịu trách nhiệm.”
Tôi rất ngạc nhiên với thông tin này. Nếu là thật, thì tôi nghĩ các giới chức y tế Việt Nam phải xem lại cách làm và qui định đó. Trong cái note này tôi chia sẻ vài thông tin về việc tiêm chủng vaccine ngừa virus Vũ Hán cho thiếu niên và trẻ em.
Câu hỏi đầu tiên là nên tiêm chủng cho trẻ em ở độ tuổi nào? Điểm qua qui định ở các nước khác thì người ta cũng có chương trình tiêm vaccine cho trẻ em trên 12 tuổi:
Úc: 12 tuổi trở lên [1].
Mĩ: CDC cho biết “trẻ em 12 tuổi trở lên nên được tiêm vaccine Covid-19” [2].
Châu Âu: Cục Dược phẩm châu Âu cũng đã phê chuẩn tiêm vaccine Moderna cho trẻ 12 – 17 tuổi.
Nhật: 12 tuổi trở lên.
Đan Mạch: 12 tuổi trở lên [3]
Thuỵ Điển: 12 tuổi trở lên [4]
Pháp: 12 tuổi trở lên [5]. Họ nói rõ chưa tiêm chủng cho trẻ em dưới 12 tuổi.
Còn Việt Nam? Trang thông tin của Bộ Y tế Việt Nam cho biết rằng:
“… phấn đấu trong quý IV/2021 sẽ tiêm đủ 2 mũi vaccine phòng COVID-19 cho 95% trên tổng số 8,1 triệu trẻ em từ 12-17 tuổi trên cả nước […] đồng thời tiếp cận các nguồn vaccine, tham khảo ý kiến chuyên môn của các chuyên gia, nhà khoa học để sẵn sàng có hướng dẫn tiêm cho trẻ từ 3-11 tuổi khi có vaccine” [6].
Có vài điều cần bàn thêm về bình luận trên.
Thứ nhứt là độ tuổi 3-11. Tôi nghĩ rằng ngay cả khi có vaccine, cũng chưa nên tiêm vaccine cho trẻ em tuổi 3-11. Lí do là chúng ta chưa có bằng chứng khoa học về hiệu quả của vaccine trong nhóm tuổi này. Nghiên cứu về hiệu quả vaccine chỉ giới hạn trong tuổi 12-15 (đối với vaccine Pfizer) và 12-17 (đối với vaccine Moderna) [7-8].
Thứ hai là Bộ Y tế không nói rõ là tiêm vaccine nào? Đây là vấn đề tế nhị nhưng quan trọng. Hiện nay, theo tôi biết chỉ có 2 vaccine được nghiên cứu cho trẻ em là Pfizer và Moderna. Cả hai vaccine này đều có hiệu quả 100%. Chưa có bằng chứng khoa học nào về hiệu quả của vaccine AstraZeneca cho trẻ em cả. Càng chưa có bằng chứng khoa học về hiệu quả của vaccine Tàu ở trẻ em.
Thứ ba là vấn đề giám sát. Tiêm vaccine cho trẻ em lúc nào cũng gây ra nhiều tranh cãi vì đây là độ tuổi quan trọng. Vấn đề không chỉ đơn giản là triển khai tiêm chủng vaccine cho trẻ em là xong; vấn đề là Nhà nước phải có chương trình giám sát (surveillance) và hệ thống báo cáo để theo dõi và thu thập các biến chứng xảy ra.
Tiêm chủng vaccine cho trẻ em cần phải được suy nghĩ cẩn thận, chớ không nên theo các nước giàu có. Có vài sự thật khoa học phải xem xét:
thứ nhứt, nguy cơ nhiễm covid ở trẻ em là thấp hơn nhiều so với người lớn;
thứ hai, triệu chứng ở trẻ em không kéo dài như người lớn;
thứ ba, số ca nhiễm ở thiếu niên dưới 19 tuổi chiếm khoảng 24% tổng số ca nhiễm trong cộng đồng (số liệu ở Úc) và rất rất hiếm ai tử vong; thật ra, không có ca tử vong nào dưới 10 tuổi;
Những sự thật này đặt câu hỏi có nên tiêm chủng cho TẤT CẢ trẻ em dưới 12 tuổi, hay 12 đến 17 tuổi? Chúng ta có nên tiêm chủng tất cả nhóm này để ngừa vài ca nhiễm? Còn vấn đề viêm cơ tim liên quan đến vaccine mRNA thì sao? Vaccine mRNA có thời gian bảo vệ là bao lâu ở trẻ em? Nếu có biến chứng nặng thì ai sẽ bồi thường? Những câu hỏi này cần phải trả lời trước khi triển khai chương trình tiêm chủng.
Việt Nam không phải là nước giàu như Mĩ, Úc hay Âu châu. Việt Nam cũng không có nhiều vaccine như các nước đó. Việt Nam không nên bắt chước các nước đó ‘chơi sang’ với vaccine làm như ta đây cũng giàu có như ai. Việt Nam phải ‘liệu cơm gắp mắm’ với nguồn vaccine hiện có. Trước đây [9], tôi có đề nghị là nên ưu tiên tiêm vaccine cho người lớn trước, rồi sau đó ưu tiên cho thiếu niên và trẻ em với các bệnh nền.