Năm 2021, với đại dịch vẫn còn tiếp diễn, đã để lại nhiều dấu ấn làm cho chúng ta khó quên. Đối với tôi, có 5 dấu ấn đáng ghi nhận: tử vong vì dịch Vũ Hán, vụ Việt Á, vụ bạo hành trẻ em, sự kiện công nhân tháo chạy, và bữa ăn thị bò tẩm vàng.
Năm sự kiện 2021: 32000 người tử vong vì covid; sự vụ kit xét nghiệm Việt Á; bé Vân An bị ngược đãi đến chết; cuộc tháo chạy về quê của công nhân; 15 con chó bị tiêu diệt một cách dã man; và bữa ăn thịt bò nạm vàng.
1. Tử vong vì đại dịch
Dịch Vũ Hán đã cướp đi gần 32,000 sanh mạng người Việt. Đó là một tổn thất quá lớn cho một quốc gia [1]. Mỗi năm ở Việt Nam số người chết vì tai nạn giao thông là khoảng 6000, và đã là con số kinh hoàng. Nhưng con số tử vong vì con virus Vũ Hán cao hơn 5 lần con số đó thì phải nói đó là một tang tóc cấp quốc gia.
Thật ra, nhiều người trong cộng đồng vẫn không tin con số ~32000 tử vong là chính xác; họ nghĩ rằng con số còn cao hơn nữa. Và, người ta có lí do để tin như thế, bởi có nhiều người nhiễm và chết nhưng họ không báo cho các nhà chức trách. Ngoài ra, người ta cũng không tin những thống kê từ Nhà nước [2] thường bất nhứt và nhiều khi bị vặn vẹo theo định hướng của cấp trên.
Con số tử vong trong đại dịch nói lên năng lực và chất lượng của hệ thống y tế (cũng như số ca tử vong giữa các bệnh viện nói lên năng lực và chất lượng chăm sóc của bệnh viện). Việt Nam đã quá quen với những lời tâng bốc, tự khen, và khinh thường các nước láng giềng về chống dịch, nhưng khi dịch đến thì mới thấy cái hệ thống y tế đó có vấn đề nghiêm trọng. Không chỉ hệ thống y tế, con số tử vong còn nói lên sự thất bại về chánh sách chống và kiểm soát dịch, và điều này thì không ai còn tranh cãi (và chắc không cần nhắc lại).
2. Vụ Việt Á
Liên quan đến dịch là “Sự kiện Việt Á” cho thấy sự tha hoá mang tính hệ thống. Các cán bộ ăn chia, lại quả với nhau, nhưng nhân danh ‘chống dịch’. Có thể nói sự cấu kết với nhau như thế là một ‘băng đảng’. Cho đến nay, không ai biết số tiền chia chác và lại quả là bao nhiêu, và bao nhiêu người liên can. Cũng không ai biết vụ bê bối này dẫn đến bao nhiêu cái chết oan trong đại dịch. Sự việc phản ảnh chất lượng của bộ máy quản lí và phẩm chất lẫn tri thức khoa học của nhân sự. Có ai ngờ một tổ chức cấp quốc gia (Bộ) mà không hiểu tiếng Anh?!
Sự việc còn nói lên sự thất bại của thiết chế khoa học Việt Nam [3]. Rất nhiều câu hỏi căn bản được đặt ra, từ cách đánh giá đề tài nghiên cứu đến công bố khoa học. Chẳng hạn như dựa vào tiêu chí nào mà một đề tài nghiên cứu được thông qua trong khi đã có những kĩ thuật như thế trên thị trường [4]. Chẳng hạn như ngân sách cho nghiên cứu này lên đến gần 19 tỉ đồng (tức khoảng 900,000 USD), vậy thì câu hỏi là số tiền này đã được chi cho các khoản nào: bao nhiêu là chi cho chất liệu nghiên cứu, bao nhiêu là lương cho nhân viên? Về ‘sản phẩm tri thức’ một nghiên cứu với 19 tỉ đồng mà chỉ cho ra 2 bài báo quốc tế trên tập san dưới trung bình mà đánh giá là ‘xuất sắc’ thì phải nói là tiêu chuẩn quá thấp.
Một cách chính thức, nghiên cứu chưa được nghiệm thu, nhưng tại sao bộ kit xét nghiệm đã được bán cho các bệnh viện và trung tâm y tế trên cả nước. Vai trò của công ti Việt Á là gì trong nghiên cứu, và tại sao nghiên cứu được tài trợ bởi Nhà nước mà sản phẩm thì lại giao cho tư nhân để lấy lời?
Tuy nhiên, sự vụ Việt Á có lẽ chỉ là bề mặt của tảng băng chìm. Trong thực tế, nhiều bạn chỉ ra rằng còn nhiều Việt Á khác, mà chưa phát hiện thôi. Khoa học Việt Nam và các nhóm lợi ích trong khoa học là có thật. Chừng 2 năm trước, nhà báo Lê Thanh Phong (Báo Lao Động) có viết một bài mà anh kết luận rằng “Hãy bỏ cái kiểu chi tiền nghiên cứu khoa học tràn lan, vô ích, vô bổ, chỉ chia chác tiền bạc cho các cá nhân và các nhóm lợi ích” [5]. Câu này vẫn còn tính thời sự hiện nay. Khoa học Việt Nam rất cần một cuộc ‘đại phẩu’.
3. Vụ bạo hành trẻ em
Sự kiện bé Vân An bị bạo hành cả năm trời và chết là một nỗi buồn trong những ngày cuối năm. Thật khó tưởng tượng nổi một em bé chỉ 8 tuổi bị hành hạ thể xác trong một thời gian dài như thế, và dẫn đến cái kết cục tang thương như thế.
Nhìn hai hung khí (cây roi mây và cây gậy) dùng để hành hạ bé Vân An làm tôi liên tưởng đến lí thuyết Cây búa Maslow (Maslow’s Hammer theory). Sếp cũ tôi hay nhắc đến lí thuyết này mà tôi diễn dịch đơn giản như sau: Nếu bạn chỉ có cây búa là công cụ thì bạn chỉ thấy cây đinh ở mọi nơi (If the only tool you have is a hammer, you tend to see every problem as a nail). Lí thuyết này thuộc dạng tâm lí học, và ý nói rằng con người chúng ta có thiên kiến – bias trong hành xử, và thiên kiến cả chuyên môn. Ví dụ như bác sĩ đi đâu thì cũng nhìn mặt và bắt mạch, nhà thơ đến đâu cũng thấy có thể sáng tác một bài thơ, nhà kinh tế thì đụng việc gì cũng nghĩ đến lời lỗ, v.v. Tương tự, khi người ta có một hung khí trong tay thì người ta hay có xu hướng nghĩ đến đánh đập ai đó. Sự lệ thuộc vào công cụ đó làm cho người ta hành xử sai lệch. Hiểu được thiên kiến đó, nên ngày nay ở các trường học nước ngoài không bao giờ có cây roi.
“Sự kiện Vân An” không chỉ nói lên sự suy thoái về đạo đức ở vài (?) cá nhân, mà còn là sự thất bại mang tính hệ thống ở Việt Nam. Như các chuyên gia UNICEF nói, Việt Nam không có khung pháp lí thích hợp bảo vệ trẻ em. Các hội đoàn phụ nữ, bảo vệ trẻ em chỉ là những ‘hoa lá cành’ của đảng mà thôi, chớ họ đâu có tiếng nói gì. Hôm kia, khi tôi nói vai trò của họ mờ nhạt, thì thấy hôm nay họ lên tiếng (đòi bắt người cha đứa bé), nhưng đó cũng chỉ là một phản ứng chiếu lệ; họ cần phải làm nhiều hơn nữa và có chủ trương cụ thể hơn nữa.
Ở Việt Nam, số liệu nghiên cứu cho thấy có đến 68% trẻ em bị bạo hành [6]. Nhiều người bạo hành trẻ em mà họ không biết vì vẫn nghĩ theo kiểu ‘dạy con’. Hậu quả là có rất nhiều bé Vân An trong cộng đồng, và các hội đoàn phải có hành động. Hành động cụ thể nhứt theo tôi là họ nên nhân sự kiện này lập ra một “Van An Foundation” để nghiên cứu và đi đến những chánh sách cụ thể nhằm bảo vệ trẻ em. Việt Nam trong thế kỉ 21 phải thay đổi nhận thức về quyền của trẻ em, và nhận thức rằng suy nghĩ kiểu “Đèn nhà ai nấy rạng” không còn thích hợp trong thế giới văn minh.
4. Sự kiện tháo chạy và 15 con chó
Cuộc tháo chạy khỏi Sài Gòn và các khu công nghiệp của công nhân phải nói là một sự kiện lớn trong năm. Làn sóng tháo chạy không phải xảy ra 1 lần, mà nhiều lần. Họ đi bằng xe gắn máy, xe tự chế, thậm chí đi bộ hàng trăm cây số. Nhìn dòng người tháo chạy đó tôi liên tưởng đến hình ảnh thời ‘tản cư’ trong thời chiến.
Họ tháo chạy vì sự thất bại của chủ trương chống dịch và sự bất tài của bộ máy quản lí [7]. Họ bị cách li lâu ngày mà không nhận tài trợ gì từ Nhà nước. Tháng 4/2020, Nhà nước tuyên bố là tung ra gói cứu trợ 62,000 tỉ đồng, nhưng chẳng ai biết số tiền đó đi đâu. Như một người tháo chạy nói một cách chua chát:
“Chờ được đồng tiền của Nhà nước đến tay thì dân đã chết đói lâu rồi. Lịch sử đã chứng minh việc cứu đói bằng sắn gạc nai thời bao cấp và cứu đói trong lũ lụt miền Trung. Nhà nước ra cam kết ở lại nếu chết đói thì lãnh đạo đi tù thử xem dân ở lại không?”
Làn sóng chạy khỏi các khu công nghiệp còn tiết lộ một sự thật về cuộc sống nghèo khổ của công nhân bấy lâu nay mà Nhà nước chẳng chú ý hay quan tâm. Họ phải sống và sinh hoạt trong những khu ổ chuột để chắt chiu vài đồng gởi về quê. Nhà nước này có lẽ chỉ quan tâm đến xuất khẩu và đồng đôla thu về, mà không quan tâm đến đời sống của người làm ra giá trị xuất khẩu.
Hai người nổi tiếng nhứt trong dòng người di tản đó là vợ chồng anh Trần Văn Hùng và 15 con chó [8]. Trong cơn hoạn nạn, hai người dù nghèo lắm, nhưng vẫn chở 15 con chó từ Long An về Cà Mau, để rồi vì một hiểu sai về khoa học mà một nhân viên y tế ra lệnh giết sạch! Thật là dã man! Sự việc không chỉ nói lên trình độ chuyên môn của nhân viên y tế mà còn chủ trương chống dịch sai lầm.
Sở dĩ tôi xem vụ tiêu diệt 15 con chó là một ‘sự kiện’ là vì sau vụ việc là một làn sóng phản đối và phẫn nộ về sự đối xử dã man với thú vật. Sự kiện này nó đánh thức cả xã hội về quyền của thú vật và đạo đức xã hội mà ở Việt Nam trước đó chưa được quan tâm đúng mức.
5. Sự kiện bò tẩm vàng
Trong năm 2021 Việt Nam đột nhiên trở nên nổi tiếng khắp 5 châu về việc một quan chức cao cấp ăn thịt bò tẩm vàng. Báo chí khắp nơi đưa tin, kèm theo những bình luận có thể nói là chẳng hay ho gì. Họ viết về một đất nước còn nghèo, thu nhập bình quân chỉ chừng 2500 USD một năm, và thu nhập 1 năm đó chỉ bằng một bữa ăn của một quan chức trong Chánh phủ. Phải nói đó là một ‘sự kiện’.
Sự kiện đó có thể nhìn từ nhiều khía cạnh, nhưng tôi muốn nhìn đó như là một sự tiến hoá của cách mạng. Ngày xưa, khi thế hệ đầu dấn thân làm cách mạng, họ muốn đem lại bình đẳng và ấm no cho mọi lương dân — một lí tưởng rất tuyệt vời. Để biện minh cho sự dấn thân làm cách mạng, họ phải tạo ra những sự bất bình đẳng vô lí trong xã hội, và những kẻ trong giai cấp thượng lưu, quan lại ‘ăn trên ngồi chốc’ như là những kẻ tội phạm, có lối sống xa hoa trên xương máu của lương dân, những kẻ tha hoá về đạo đức, v.v. Thế nhưng, y như trong truyện ngụ ngôn Trại Súc Vật của George Orwell [9], sau khi cuộc cách mạng thành công thì chính họ chọn lối sống xa hoa và chính họ trở nên tha hoá. Sự thay đổi đó là một qui luật chung.
Qui luật đó đã ứng nghiệm ở miền Bắc từ sau 1945 và miền Nam từ sau 1975 [10]. Theo đó, giới lãnh đạo cao cấp có tiêu chuẩn ăn uống riêng và cao hơn so với người dân. Họ thậm chí còn có ruộng và vườn rau riêng chỉ phục vụ cho họ. Họ có hệ thống y tế đặc biệt chỉ chăm sóc họ. Thành ra, vị quan chức kia ăn thịt bò tẩm vàng chẳng có gì là ngạc nhiên cả, nhưng sự kiện cho chúng ta thấy những lí lẽ biện minh cho cuộc cách mạng không còn hợp lí nữa. Hoá ra, người ta làm cách mạng là chỉ để có một cuộc sống tốt hơn cho chính họ và gia đình họ. Người bị thiệt thòi là đa số lương dân.
Các sự kiện khác
Dĩ nhiên, 5 sự kiện trên là theo cách đánh giá của tôi. Ngoài 5 sự kiện trên, tôi nghĩ chúng ta cũng cần ghi nhận một số sự kiện quan trọng khác:
Những nhân vật nổi tiếng trong năm 2021: Nguyễn Thúc Thuỳ Tiên (Hoa hậu Hoà Bình); Phạm Đoan Trang (nhà báo, tù nhân lương tâm); mẹ con bà Cấn Thị Thêu (tù nhân lương tâm); ca sĩ Phi Nhung và danh ca Lệ Thu qua đời vì covid; nghệ sĩ cải lương Thanh Kim Huệ; và người gây sóng dư luận qua những ngôn từ ‘graphic’ Nguyễn Hương Hằng.
(a) Hoa hậu Hoà bình Nguyễn Thúc Thuỳ Tiên
Lần đầu tiên, Việt Nam có một cô gái thông minh, xinh đẹp và năng động xứng đáng đại diện cho nữ lưu Việt Nam chiếm giải Hoa hậu Hoà Bình [11]. Tôi thích nhứt đoạn cô ấy trả lời câu hỏi sanh ra ở đâu: “Sài Gòn”. Sự tương phản với cô Thuỳ Tiên là cô hoa hậu ngoài kia nghe ai đó đi vóc chông chống Mĩ và ăn rau má phá đường rầy ngay trên đất Mĩ.
(b)Nhiều văn nghệ sĩ qua đời
Năm nay số văn nghệ sĩ qua đời khá nhiều. Chỉ kể những người tôi biết và ngưỡng mộ bao gồm Lệ Thu, Phi Nhung, Phú Quang, Nguyễn Huy Thiệp, Thanh Kim Huệ, và mới nhứt là Trần Quang Hải. Tôi rất mến mộ tiếng hát của Lệ Thu từ những năm trước 1975. Nói như Trịnh Công Sơn là “Vắng một người thế giới trở nên hoang vu“, vắng tiếng hát Lệ Thu trên bầu trời nhạc Việt làm cho nhiều người, kể cả tôi, hụt hẫng.
(c) Nguyễn Phương Hằng
Khởi đầu từ những phát biểu đầy cá tánh, bà chuyển sang livestream tố cáo người mà gia đình bà từng hợp tác là ông Võ Hoàng Yên. Không dừng ở đó, bà chuyển sang tấn công các nghệ sĩ và vài người trong giới showbiz làm từ thiện, mà chẳng ai biết hư thực của những cáo buộc đó ra sao. Thế rồi ‘mặt trận’ được chuyển sang một nhóm tu tại gia, nhưng một lần nữa, các cáo buộc hoặc là sai về chứng cớ hoặc là chứng cớ không đáng tin cậy. Ngạc nhiên hơn, ‘mặt trận’ bèn xoay sang nhà báo, và nạn nhân là 2 nhà báo có tiếng. Tôi không quen biết hai nhà báo này nhưng thấy họ nói chuyện rất đàng hoàng và có tính chuyên nghiệp cao, nên những vu cáo về họ đều không thuyết phục, hay thậm chí vô lí.
Điều hết sức kinh ngạc là ngôn ngữ trong các buổi livestream rất ư là khiếm nhã, có khi tục tĩu một cách ‘graphic’ (mà người bình thuờng như chúng ta không thể nghe hết 5 phút). Vậy mà có hàng trăm ngàn người nghe! Chẳng những thế, còn có hàng trăm (?) youtuber khác phát tán và đưa ra những phán xét hết sức vô văn hoá. Có người gọi là ‘kền kền’. Thật không thể hiểu nổi trình độ văn hoá của cộng đồng mạng TTXH Việt Nam sao có thể suy dốc thê thảm như thế. Điều càng ngạc nhiên là sự thờ ơ (?) của nhà cầm quyền. Sự việc đã và đang diễn ra suốt 9 tháng trời, và rất nhiều nạn nhân đã đâm đơn kiện hay phàn nàn, nhưng chưa thấy nhà chức trách có hành động nào chấn chỉnh! Rất khó giải thích sự im lặng đáng sợ của nhà chức trách. Phải nói đó là một ‘hiện tượng’.
(d) Đàn áp gia tăng
Sự kiện Phạm Đoan Trang bị phạt tù 9 năm chỉ vì nói lên tiếng nói ôn hoà về xã hội dân sự cũng đáng ghi nhận. Không chỉ Đoan Trang, mà còn nhiều người khác cũng bị bắt bớ và giam cầm: Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư, v.v. Thật ra, theo một nguồn tin nước ngoài, Việt Nam đang giam tù đến 23 nhà báo, trong đó có những người nổi tiếng như Trương Duy Nhất, Nguyễn Tường Thụy, và nhóm ‘Báo Sạch’.
(e) Hàng loạt quan chức cao cấp bị kỉ luật
Năm 2021 có lẽ là năm ghi nhận nhiều quan chức cao cấp bị kỉ luật, giam tù, hay ra toà. Danh sách rất dài và gồm cả những người nổi tiếng như Nguyễn Đức Chung (cựu chủ tịch Hà Nội), Trần Văn Nam (cựu bí thư Bình Dương), Tất Thành Cang (cựu Phó bí thư TPHCM), Nguyễn Thành Tài (cựu Phó chủ tịch TPHCM), và Trần Vĩnh Tuyến (cựu Phó chủ tịch TPHCM). Hàng loạt sĩ quan cấp tướng và 2 cự thứ trưởng Y Tế Trương Quốc Cường và Cao Minh Quang. Sự kiện cho thấy bộ máy cai trị đã mục ruỗng từ trên cao.
Riêng cá nhân tôi cũng có vài đổi thay trong năm nay.
Sau 30 năm gắn bó, tôi chia tay với Viện Y khoa Garvan (Bệnh viện St Vincent’s) và chuyển nhóm nghiên cứu về Trung tâm Công nghệ Y tế của Đại học Công nghệ Sydney (UTS). Cuộc chia tay nào cũng để lại nhiều cảm xúc, nhứt là chia tay với một nơi mình đã quen từ đường đi lối về, quen từng hành lang của building, và quen từng đồng nghiệp cùng thời trong đó. Nhưng ở đời thì không có cái gì là vĩnh viễn, và tôi cũng phải thay đổi, phải tìm hướng đi mới cho mình. Thật ra, tôi đã là người của UTS 6 năm qua và đã ‘làm quen’ với môi trường mới, nhưng chỉ dưới dạng bán thời gian. Kể từ tháng 10/2021 thì tôi trở thành một ‘faculty’ toàn thời gian với UTS, dù vẫn giữ các chức vụ affiliation với Đại học New South Wales và Đại học Notre Dame.
Trong năm nay, tôi viết được 2 cuốn sách. Một cuốn bàn về suy nghĩ khoa học và một cuốn bàn về nhân tình thế thái. Hai cuốn này là tập hợp những bài tôi viết trong thời gian thành phố Sydney bị phong toả. Hai cuốn này sẽ xuất bản vào năm 2022.
Ngoài hai cuốn này, tôi cũng đóng góp cho nhiều báo và đài ở trong và ngoài nước. Chẳng nhớ từ cơ duyên nào mà tôi trở thành một cây viết cho vnexpress trong phần ‘Góc Nhìn’ và đã đóng góp vài ý kiến cho tờ báo. Ngoài ra, tôi còn có dịp trò chuyện hay đóng góp bài vở cho các báo như Tuổi Trẻ, PLO, Vietnamnet, Zing, Infonet, Soha, v.v. (nhiều quá, không nhớ hết), và cả đài ‘địch’ nữa (BBC, RFA, SBS).
Tôi có một kênh youtube làm phương tiện chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và kĩ năng khoa học. Trong thời gian 12 tháng qua, tôi đã 25 bài giảng trên kênh youtube. Tuần nào tôi cũng nhận vài email động viên và khuyến khích, có bạn cho biết những bài giảng đó đã giúp cho họ làm nghiên cứu khoa học tốt hơn hay học tập tốt hơn. Tôi rất cảm kích trước những lời khuyến khích và thành quả của các bạn.
Tôi được báo chí đề cập sau công trình nghiên cứu về loãng xương mà trong đó tôi đề xuất khái niệm ‘Skeletal Age’.
Trong năm qua, labo nghiên cứu của tôi chịu nhiều áp lực và khó khăn, chủ yếu là đại dịch. Thế nhưng, chúng tôi cũng đã công bố được hơn 10 bài báo; trong đó phải kể đến 2 công trình trên các tập san số 1 trên thế giới (BMJ và eLife). Đó cũng là năm đánh dấu một phát kiến của tôi về “Skeletal Age” mà chúng tôi và đồng nghiệp trên thế giới sẽ khai thác trong tương lai. Tất cả thành tích này là nhờ vào đóng góp của các thành viên trong labo, và tôi muốn nhân dịp này tỏ lời cảm ơn đến các bạn.
Qui luật vô thường (impermanence) phát biểu rằng tất cả các sự vật trên đời này tồn tại đều có điều kiện, đều nhứt thời, đều phai nhoà, và đều đổi thay. Những biến cố, sự kiện, và đổi thay trong năm 2021 đều đúng và chỉ là một phần của Qui luật Vô thường.
Mến chúc các bạn một năm mới dồi dào sức khoẻ, nhiều may mắn, và thành công!
Nguyễn Hưng Quốc (Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Tuấn) được biết đến là một nhà phê bình văn học tài ba, nhưng ít ai biết anh ấy còn là một cây bút chánh trị luận sắc bén và hàn lâm. Cuốn sách “Những bài viết về chính trị” mà tôi muốn giới thiệu đến các bạn là một minh chứng cho phát biểu đó. Chánh trị thường được xem là một đề tài chán phèo, nhưng cuốn sách này có thể thu hút bạn từ trang đầu đến trang cuối.
Cuốn sách thật ra là tập hợp những bài viết đã đăng rải rác trên trang blog tiếng Việt của Đài Tiếng Nói Hoa Kì (VOA) trong chừng 20 năm qua. Đó là những bài luận về văn hoá chánh trị, lòng tin và sự tín nhiệm, trí thức và chánh trị, độc tài và dân chủ, xã hội dân sự, tính chánh trị của ngôn ngữ, và cộng sản và độc tài. Đây không hẳn là những bài bình luận thời sự chánh trị, mà là luận về chánh trị và văn hoá.
Tất cả bài viết đều bàn về những vấn đề liên quan đến Việt Nam. Tại sao chỉ Việt Nam? Tại vì, như tác giả tâm sự, Việt Nam là nỗi ám ảnh duy nhứt trong thời gian anh sống ở xứ người. Nhưng sống ở nước ngoài và nhìn về Việt Nam như là một ‘người ngoài cuộc’ lại có cái hay, vì tác giả có thể đối chiếu, so sánh với những nơi khác mà người trong cuộc có lẽ không có được.
Nói là ‘tập hợp’ thì có lẽ bạn đọc nghĩ là nhiều bài, nhưng thật ra chỉ có 7 bài viết mà thôi. Bảy bài viết nhưng dài đến 410 trang. Mặc dù độ dài của bài viết có thể chẳng nói lên điều gì, nhưng với một tác giả như Nguyễn Hưng Quốc, người cẩn thận với chữ nghĩa, thì độ dài đó nói lên nội dung phong phú và phẩm chất của mỗi bài viết.
Thật vậy, bài nào cũng hàm chứa nhiều chất liệu hàn lâm, và được tác giả luận bàn tới nơi tới chốn. Tôi phải nhấn mạnh rằng ở điểm này, bởi tác giả rất khác biệt với những những cây bỉnh bút chuyên nghiệp về chánh trị, những người viết nhiều, nhưng họ có vẻ ‘đuối’ khi đến đoạn cuối. Họ có thể có nhiều chứng từ cá nhân hay có nhiều dữ liệu các mối liên hệ cá nhân, nhưng họ không có khả năng rút ra một qui luật của chứng từ và dữ liệu. Còn ở đây, bạn đọc sẽ thấy bài viết nào trong cuốn sách cũng được tác giả lí giải một cách thấu đáo, và khi đọc xong người viết cảm thấy mình như được khai sáng.
Văn hoá chánh trị
Cuốn sách được mở đầu bằng bài luận “Văn hoá và chánh trị“. Tác giả đặt 2 câu hỏi: (i) tại sao những nước giàu có càng ngày càng giàu, còn những nước nghèo khổ thì càng ngày càng nghèo; và (ii) tại sao có những nước theo thể chế dân chủ tôn trọng nhân quyền, nhưng lại có những nước chọn thể chế toàn trị, độc tài. Tác giả lí giải rằng văn hoá là yếu tố có thể trả lời cho 2 câu hỏi đó. Những công trình nghiên cứu về văn hoá của các học giả lừng danh như Lawrence Harrison và Samuel Huntington được trích dẫn để minh chứng cho vai trò quan trọng của văn hoá trong quá trình phát triển kinh tế và lựa chọn thể chế chánh trị của một quốc gia.
Từ văn hoá, tác giả bàn luận về văn hoá chánh trị, văn hoá tham nhũng, văn hoá dân chủ, ý thức về quyền lợi quốc gia, kèm theo những dữ liệu và nhận xét rất thú vị. Chẳng hạn như trong phần bàn luận về quyền lực và trách nhiệm, tác giả nhận định rằng:
“Ở Việt Nam, ngược lại với quyền lực, người ta muốn tuyệt đối (độc quyền lãnh đạo), nhưng với trách nhiệm thì người ta muốn chia sẻ (trách nhiệm tập thể). Hậu quả là không ai chịu trách nhiệm về điều gì cả, ngay cả với những sai lầm của chính mình và/hoặc thuộc quyền hạn của mình.”
Tác giả chỉ ra rằng trong lãnh vực chánh trị, một phát hiện quan trọng trong thế kỉ 20 là nhân quyền. Dĩ nhiên, nhân quyền ở đây không phải hiểu theo cách hiểu của ông đương kim Thủ tướng Việt Nam, mà quyền được sống, quyền được xét xử một cách công minh, quyền được tự do ngôn luận, và quyền tự do tư tưởng và tín ngưỡng.
Tác giả lí giải rằng một lãnh đạo chánh trị tốt cần phải xây dựng cho mình một “tự sự chánh trị” (hiểu theo nghĩ “political narrative”). Tự sự là một câu chuyện về nhận thức. Từ nhận thức dẫn đến viễn kiến và sứ mệnh mà chúng ta hay thấy các chánh trị gia phương Tây hay phát biểu. Còn ở Việt Nam thì sao? Theo tác giả, ở Việt Nam, thế hệ thứ nhứt của đảng cộng sản trong thời chống Pháp thì họ có khả năng xây dựng tự sự chánh trị với những mục tiêu rõ ràng. Để xây dựng tự sự theo cách cộng sản, người ta không ngần ngại dựng nên những câu chuyện như Lê Văn Tám để vận động quần chúng. Người ngoài nhìn vào thì thấy đó là một sự bịa đặt trắng trợn, nhưng với giới học giả thì đó là một tự sự chánh trị mà có thể người dựng nên nó không biết hành vi mình có nghĩa gì. Còn ngày nay thì theo tác giả các thế hệ lãnh đạo đảng cộng sản sau này không có khả năng xây dựng tự sự chánh trị. Thậm chí có người còn nói không biết 100 năm sau Việt Nam sẽ đạt được XNCH hay chưa! Họ không phác hoạ được một lộ trình cho đất nước trong tương lai.
Trong phần bàn về tánh cách con người, tác giả đề cập đến một số ‘căn bệnh’ văn hoá của người Việt được nhiều người nhắc đến như độc ác, thù hằn, tham lam, hoang tưởng, và khoe khoang. Tác giả thêm rằng hai căn bệnh nguy hiểm hiện nay là tính ích kỉ, giả dối và vô cảm. Nhưng tác giả không chỉ bàn đến những căn bệnh đó ở người Việt nói chung, mà còn minh hoạ bằng những trường hợp tiêu biểu ở giới lãnh đạo. Tác giả nhận định rằng ba căn bệnh mới đó (ích kỉ, giả dối và vô cảm) là những thử thách lớn nhứt của người Việt Nam hiện nay.
Độc tài và dân chủ
Ai trong chúng ta cũng có một chút hiểu biết thế nào là độc tài, và thế nào là dân chủ. Thế nhưng, ít ai trong chúng ta có thể lí giải sự khác biệt giữa hai thể chế này một cách rạch ròi như tác giả qua chương viết về “Độc tài và dân chủ“. Chương này giúp độc giả hiểu biết hơn về dân chủ và điều kiện để có một nền dân chủ.
Độc tài được định nghĩa là “hiện tượng thâu tóm quyền lực vào tay một người hoặc một nhóm người”. Giới chánh trị học còn chia độc tài thành 2 loại độc tài: cá nhân độc tài và hệ thống độc tài. Tiêu biểu cho cá nhân độc tài là Adolf Hitler và Mummar Gaddafi, một cá nhân thâu tóm tất cả quyền lực. Hệ thống độc tài bao gồm những chế độ quân chủ, và sau này là xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Dù là cá nhân hay hệ thống độc tài, họ đều sử dụng một loại quyền lực khác để biện minh cho sự tồn tại của họ. Các chế độ quân chủ thì dựa vào khái niệm “Thiên mệnh” (quyền lực đến từ thần linh), chế độ Phát xít thì dựa vào qui luật tiến hoá để biện minh cho một sắc tộc thượng đẳng, còn XHCN thì sử dụng ý tưởng thế giới đại đồng, bình đẳng, tự do và hạnh phúc. Nhưng tất cả chế độ độc tài đều tận dụng cách thần thánh hoá lãnh đạo để mị dân, mà theo đó các lãnh đạo đều hoặc là ‘vĩ đại’, hoặc là ‘thiên tài’, hoặc là ‘kính yêu’, hoặc là xuất sắc’, v.v.
Đối nghịch với độc tài là Dân chủ. Nhưng dân chủ là gì? Chữ ‘dân chủ’ như chúng ta biết xuất phát từ tiếng Hi Lạp với 2 thành phần: demos có nghĩa là dân và kratos có nghĩa là cai trị. Dân chủ, democracy (tiếng Anh), được Abraham Lincoln định nghĩa đơn giản và dễ hiểu là:
“Chánh quyền của dân, do dân, và vì dân”.
Triển khai từ định nghĩa đó, dân chủ trước hết là cách tổ chức chánh quyền, mà theo đó chế độ phải được dân bầu một cách tự do và bình đẳng. Trong chế độ dân chủ, Nhà nước chỉ là một bộ phận trong hệ thống bao gồm các thiết chế chánh trị, tôn giáo, văn hoá, nghiệp đoàn, thương mại, v.v. và các thiết chế này phải độc lập với Nhà nước. Tất cả các thiết chế này phải hoạt động dựa trên một nguyên tắc: pháp quyền. Pháp quyền gắn liền với các giá trị phổ quát của nhân loại.
Nhưng dân chủ không phải tự nhiên mà có, mà là cả một quá trình phát triển lâu dài. Có 3 quá trình: lịch sử, đấu tranh, và học tập. Khái niệm dân chủ xuất hiện ở Hi Lạp từ 2500 năm trước, thời mà quyền bính thuộc vào giới tu sĩ và quí tộc, và phải qua một quá trình dấu tranh để có được hình thức dân chủ như ngày nay. Nhưng trên hết, dân chủ là một quá trình học tập. Không phải cứ có những thiết chế như Quốc hội, luật pháp, truyền thông là có dân chủ. Nếu các thiết chế đó không có sự tham gia của dân chúng thì không thể xem là dân chủ được. Nhận định về tình hình ở Việt Nam, tác giả tỏ ra bi quan:
“Sinh hoạt xã hội Việt Nam hiện nay cũng không phải là mảnh đất tốt để nuôi dưỡng dân chủ. Luật pháp không rõ ràng, để sống còn người ta phải mánh mung. Xin trường học cho con cái: mánh mung. Xin việc làm: mánh mung. Để tăng lương hoặc thăng chức: mánh mung. Ở đâu cũng cần có mánh mung cả. Thói mánh mung ấy, một mặt giết chết luật pháp, một mặt giết chết cả niềm hi vọng vào dân chủ.”
Phần viết về sự khác biệt giữa dân chủ và độc tài, theo tôi, cũng là một sự ‘mở mắt’ cho độc giả. Tác giả đưa ra 6 sự khác biệt giữa hai thể chế như sau:
Quyền và bổn phận: dân chủ nhấn mạnh đến quyền (right), độc tài nhấn mạnh vào bổn phận của từng cá nhân;
Bình đẳng và phục tùng: dân chủ dựa và tin vào sự bình đẳng, độc tài xây dựng trên sự vâng phục;
Con người và Nhà nước: dân chủ vinh danh con người, độc tài vinh danh Nhà nước;
Tự do: dân chủ khuyến khích tự do tư tưởng, độc tài đàn áp tự do tư tưởng;
Đa nguyên: dân chủ đề cao tinh thần đa nguyên, độc tài thích sự đồng qui, đồng dạng và đồng nhứt;
Thoả thuận và áp đặt: dân chủ vận hành qua đàm phán và thương thảo, độc tài dùng quyền lực để giải quyết những xung đột.
Điều thú vị là tất cả các thể chế độc tài đều tự nhận (hay mạo nhận) là dân chủ!
Trí thức và chánh trị
Một chương trong sách tôi rất tâm đắc là chương “Trí thức và chánh trị“. Định nghĩa về trí thức là một chủ đề … không có hồi kết. Tác giả mô tả sự khác biệt về định nghĩa trí thức giữa Việt Nam và phương Tây. Ở Việt Nam, “người ta xem trí thức là những người có ăn học và lao động trí óc“, còn ở phương Tây, học giả Thomas Sowell định nghĩa trí thức là những người làm những việc liên quan đến ý tưởng: “Công việc của một nhà trí thức bắt đầu và kết thúc với ý tưởng.” Và, chiếu theo định nghĩa của Sowell, tác giả nhận thấy “hầu hết những người Việt Nam chúng ta quen gọi là trí thức đều không phải là trí thức, đặc biệt, trí thức công chúng.” Nhưng dĩ nhiên, ngay cả định nghĩa của Sowell cũng không phải là sự đồng thuận sau cùng.
Tôi thích cách tác giả ví von về người trí thức như là những kẻ … vượt biên. ‘Vượt biên’ ở đây hiểu theo nghĩa họ vượt ra ngoài và vượt lên lãnh vực chuyên môn của họ, ra khỏi biên giới của môi trường hoạt động cố hữu, và vượt biên về thái độ:
Những người như Noam Chomsky, Andrei Sakharov, Albert Einstein, v.v. là những nhà khoa học lỗi lạc trong chuyên ngành của họ, nhưng họ còn là những trí thức công chúng hiểu theo nghĩa họ bàn về những vấn đề ngoài chuyên ngành.
Đa số giới khoa học hoạt động trong môi trường cố hữu (như công bố bài báo khoa học, diễn thuyết trong các hội nghị), tức là họ nói với đồng nghiệp trong môi trường khoa học, còn trí thức thì vượt biên khỏi môi trường cố hữu này để nói chuyện với quần chúng. Thay vì xuất hiện trong các diễn đàn khoa học, họ xuất hiện trên màn ảnh tivi, trên báo chí, và blog.
Vượt biên về thái độ ở đây hiểu theo nghĩa họ là những kẻ hoài nghi lành mạnh. Người trí thức “nghi ngờ mọi quyền lực họ trở thành những kẻ phản biện, lúc nào cũng thắc mắc, cũng tra vấn, cũng phản đối.” Họ có khi trở thành cái gai trong con mắt của kẻ cầm quyền, họ là thiểu số trong cộn đồng. Nhưng đó là một lựa chọn của người trí thức, nói như Thi sĩ Vũ Hoàng Chương “Tôi: thù nhân của Số Nhiều.”
Ba sự vượt biên đó định hình một trí thức, và cũng có thể dùng để phân biệt giữa chuyên gia và trí thức. Chuyên gia không vượt biên; trí thức vượt biên. Trí thức là một lựa chọn: “Thông minh là do bẩm sinh. Kiến thức là do thụ đắc. Nhưng trí thức là tự nguyện. Người ta không sinh ra là trí thức, đã đành. Ngay cả khi được học hành chu đáo, người ta cũng không nhất thiết trở thành trí thức để chỉ quanh quẩn mãi với các ý niệm và ý tưởng. Người ta có thể trở thành những nhà thực hành hay thực dụng xuất sắc. Lựa chọn trở thành trí thức là lựa chọn sống chết với ý tưởng. Chỉ với ý tưởng.”
Tác giả đề cập đến mối liên hệ giữa trí thức và độc tài, và chỉ ra rằng mặcdù các nhà độc tài đều tham lam, độc ác, huyễn tưởng, giả dối, nhưng ngạc nhiên thay họ có nhiều trí thức [đúng nghĩa] ngưỡng mộ và hết lòng bệnh vực. Những nhà độc tài như Stalin, Hitler, Mao Trạch Đông được sự ủng hộ của những trí thức lừng danh như George Bernard Shaw, Andre Gide, Doris Lessing, Jean-Paul Sartre, v.v. Điều bất ngờ đối với tôi là ngay cả danh hoạ Picasso, Bertolt Brecht, và Graham Greene cũng từng ủng hộ Stalin và Mao Trạch Đông!
Tại sao giới trí thức lại ngây thơ và cả tin như thế? Tác giả nghĩ rằng lí do là họ bị nhồi sọ. Nhồi sọ bằng tuyên truyền. Tác giả cho biết đã từng gặp nhiều văn nghệ sĩ ở miền Bắc, và nhận xét rằng “họ gần như tuyệt đối tin tưởng vào giới lãnh đạo và chế độ. Trong các buổi học tập chính trị và văn hoá, họ lắng nghe cán bộ giảng bài như nghe những lời thánh phán. Họ cắm cúi ghi chép rồi về nhà, đọc lại một cách thành kính.” Mà, không phải chỉ ở miền Bắc, ngay cả một số người có học ở nước ngoài cũng tin tưởng vào chế độ. Tác giả viết:
“Lại nhớ, mấy năm đầu sau 1975, một số ‘trí thức‘ Việt kiều ở Pháp về thăm nước rồi viết bài đăng tải trên báo chí ở Paris. Họ khen Việt Nam không tiếc lời. Trong lúc người Việt Nam đói đến xanh xao mặt mũi, họ khen đời sống rất sung túc. Trong lúc cả hàng chục ngàn người bị bắt đi cải tạo và con cái họ không được vào đại học, họ khen “chính quyền cách mạng” thực tâm hoà giải, không có bất cứ một chính sách kỳ thị nào đối với những người thuộc chế độ cũ trước đó. Trong lúc cả hàng triệu người bất chấp nguy hiểm tìm cách vượt biên tìm tự do, họ cho Việt Nam là một quốc gia dân chủ và ao ước một ngày nào đó được về nước sống hẳn (dù trên thực tế, không bao giờ họ về cả!)“
Tác giả trích thơ của Nguyễn Quốc Chánh đúc kết 3 ‘qui luật’ về mối liên hệ giữa thông minh, lương thiện và cộng sản:
Một người thông minh và lương thiện thì không thể cộng sản;
Một người thông minh mà cộng sản thì không thể lương thiện;
Một người lương thiện mà cộng sản thì chắc chắn không thông minh.
Tác giả chỉ ra một nghịch lí trong mối liên quan giữa giới lãnh đạo Việt Nam và trí thức: họ rất chuộng bằng cấp, nhưng họ không che giấu được sự khinh bỉ cố hữu đối với trí thức. Vũ Thư Hiên trong cuốn ‘Đêm giữa ban ngày‘ có đoạn viết về tướng Đinh Đức Thiện (em ruột của Lê Đức Thọ) nói lên sự khinh bỉ của giới lãnh đạo dành cho trí thức:
“Trong cuộc đời không dài Ðinh Ðức Thiện đã giữ những chức vụ rất quan trọng – bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim, Trưởng ban xây dựng Khu gang thép Thái Nguyên, Phó chủ nhiệm Tổng cục hậu cần, Tổng cục trưởng Tổng cục dầu khí, hàm thượng tướng. Ông ít học. Trình độ học vấn không quá bậc sơ đẳng. Thế nhưng Ðinh Ðức Thiện khinh trí thức lắm. Ông hạ lệnh cho các kỹ sư điện tính toán thời hạn lắp đặt đường dây cao thế Thái Nguyên – Hà Nội. Họ tính kỹ rồi báo cáo lên Ðinh Ðức Thiện: không thể dưới hai năm. Ông ta nghe xong liền nổi khùng: ‘Rặt một lũ ăn hại đái nát! Làm chó gì mà mất những hai năm. Tôi mà ra lệnh cho công binh làm ấy à, chỉ hai tháng là cùng. Tính với chả toán, tính như con c… Các anh lúc nào cũng cúi đầu làm theo sách vở của bọn thực dân đế quốc. Vào rừng chặt cây về mà làm cột, mắc điện vào. Là xong. Trí thức với chả trí ngủ!’ Người kể lại chuyện này là một kỹ sư tốt nghiệp Cao đẳng kỹ thuật thời Pháp, hôm ấy được nghe Ðinh Ðức Thiện trực tiếp quát mắng.”
Nhưng ở Việt Nam, không phải chỉ giới lãnh đạo mới ghét trí thức, ngay cả giới trí thức cũng ghét trí thức.
Xã hội dân sự và ngôn ngữ chánh trị
Trong chương bàn về “Xã hội dân sự“, tác giả đưa ra định nghĩa thế nào là một xã hội dân sự (civil society) mà trước đây hay được gọi là ‘xã hội công dân’. Tại sao xã hội dân sự quan trọng? Tại vì nó là một nền tảng, một yếu tố cho nền dân chủ. Tác giả trích và phê bình 11 tiêu chí về một xã hội dân sự mà học giả Larry Diamond đề ra:
Người dân có quyền kiểm soát quyền lực của Nhà nước;
Người dân có quyền vạch trần tham nhũng của các giới chức Nhà nước;
Cổ vũ quần chúng tham gia vào sinh hoạt chánh trị;
Xiển dương lòng khoan dung, tinh thần thoả hiệp, và tôn trọng sự khác biệt;
Phát triển chương trình giáo dục ý thức công dân trong nhà trường;
Bày tỏ các quan điểm gắn liền với những lợi ích khác nhau trong xã hội;
Diễn đàn đối thoại giữa các bộ lạc, tôn giáo;
Huấn luyện nhà lãnh đạo tương lai;
Cung cấp thông tin cho quần chúng về các vấn đề liên quan đến đời sống công cộng;
Môi giới hoá giải các xung đột; và
Giám sát bầu cử một cách khách quan.
Xã hội dân sự hiểu theo 11 tiêu chí trên đã được hình thành và phát triển mạnh ở miền Nam Việt Nam trong thời VNCH 1954-1975. Thế nhưng sau 1975, khái niệm xã hội nhân sự chỉ mới được đề cập từ giữa thập niên 1980! Vậy mà cho đến nay, tình hình xã hội dân sự ở Việt Nam là một “bức tranh lệch lạc và dang dở”.
Một chương khác cũng thu hút sự chú ý của tôi là “Tính chánh trị của ngôn ngữ“. Đây là một chương thuộc vào ‘thế mạnh’ của tác giả vì anh là người rất quan tâm và nghiên cứu sâu về ngôn ngữ dưới góc độ văn hoá. Ngôn ngữ, theo tác giả, có 2 chức năng chánh: một là định danh sự vật, hiện tượng, ý tưởng; và hai là phương tiện giao tiếp xã hội. Do đó, ngôn ngữ có liên quan mật thiết với chánh trị.
Tác giả chỉ ra rằng ngôn ngữ nào cũng có tính chánh trị, và nó được thể hiện qua 2 góc độ: bản chất của ngôn ngữ và cách ứng xử của ngôn ngữ. Bản chất ngôn ngữ ở đây là khái niệm cấu trúc luận (structuralism) và kí hiệu học (semiotics) mà Ferdinand de Saussure đề cập. Ngôn ngữ cũng hàm chứa giá trị. Chẳng hạn như trong tiếng Việt, chúng ta hay nghĩ rằng chữ “phụ nữ” có âm hưởng lịch sự và trang trọng hơn chữ “đàn bà” (nhưng tác giả chỉ ra rằng chữ “phụ nữ” có nguồn gốc từ chữ Hán và nó không có nghĩa sang trọng như trong tâm thức người Việt. ‘Nữ’ tượng trưng hình người quì, còn ‘Phụ’ chỉ sự lệ thuộc và nhiệm vụ nội trợ.)
Trong các thể chế ở Tàu và Việt Nam, ngôn ngữ được sử dụng như là một phương tiện tuyên truyền. Do đó, đảng cộng sản Tàu sau khi nắm quyền một trong những ưu tiên là chánh trị hoá ngôn ngữ. Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Mao và cũng chánh trị hoá ngôn ngữ. Người ta tạo ra một loại ngôn ngữ mới với mục tiêu là quảng bá bản sắc của thể chế mới duy trì sự tồn tại của thể chế. Tôi thấy tác giả phân tích các đặc điểm của ngôn ngữ chánh trị mới rất thú vị: thứ nhứt là tách rời các danh xưng gắn liền với chế độ phong kiến hay chế độ trước đó, và thứ hai là làm sang trọng hoá ngôn ngữ bằng cách mượn chữ Hán.
Theo đó, người ta tạo ra những cái tên mới: thay thế chữ “kỳ” (vd Nam kỳ) thời Minh Mạng thành “bộ” (vd Nam Bộ); người đứng đầu nhà nước là “Chủ tịch“, thay vì “Tổng thống“; “lính” thành “chiến sĩ“; v.v. Họ cũng mượn các danh xưng bên Tàu như “bí thư”, “chi bộ”, “chi ủy”, “chính uỷ”, v.v.
Họ còn phân định giữa địch và ta. Chẳng hạn như địch là “giặc lái“, ta là “phi công“; địch là “bồi bút“, ta là “văn nghệ sĩ“; địch là “núp dưới tên“, ta là “nhân danh“; địch là “đầu sỏ“, ta là “lãnh đạo“; v.v.
Để nhồi sọ, người ta dùng nhiều định ngữ hoặc bổ ngữ. Chẳng hạn như khi nói đến lãnh đạo là phải có chữ “vĩ đại“, “thiên tài“, “sáng suốt“. Chẳng hạn như đề cập về đảng thì phải đi kèm với “quang vinh“, “muôn năm“; chiến thắng thì phải “vẻ vang” hay “vang dội“; với lịch sử thì “rực rỡ“; với tranh đấu thì “oanh liệt“; với dân tộc thì “bất khuất“; với chính sách thì “đúng đắn“; với chỉ đạo thì “sâu sát“; với kẻ thù thì “tàn bạo“; với tộc ác thì “dã man“; với âm mưu của kẻ thù thì phải có “tinh vi” hay “hiểm độc“; với chánh quyền địch thì phải có chữ “tay sai” hoặc “bù nhìn“; văn hóa, ở miền Bắc, phải đi liền với chữ “xã hội chủ nghĩa“, ở miền Nam, chữ “suy đồi“. Tác giả nhận xét rằng với các cách kết hợp từ như thế, người cộng sản đã tạo thành vô số các sáo ngữ.
Nhưng ở Việt Nam, đặc biệt là ở miền Bắc, còn có hiện tượng “phản ngôn ngữ” (anti-language. Cách phản ngôn ngữ thể hiện qua cách dùng nguyên cả một cụm từ hoặc một từ ghép hoặc một tên riêng của một người hay một địa phương (vd: “Đi gì mà Hà Văn Lâu thế?”), cách dùng chữ ‘vô tư’ rất phổ biến (vd: “Mình vô tư với ta đi / Vô tư nhau chả cần chi nhiều lời“), hiện tượng dùng phụ từ ‘hơi bị’ (vd: “Cô ấy hơi bị hấp dẫn“), và hiện tượng thành ngữ mới (vd “ăn chơi sợ gì mưa rơi“, “chảnh như con cá cảnh“, “chán như con gián“, v.v.) Hiện tượng phản ngôn ngữ thể hiện “một sự phản kháng lại thứ chính trị trên nhưng lại dựa trên một thứ chủ nghĩa hư vô đầy tuyệt vọng.”
Tác giả kết luận “Nói cách khác, nếu việc sử dụng ngôn ngữ trong bộ máy tuyên truyền của đảng và nhà nước Việt Nam mang đầy tính chính trị thì hiện tượng phản-ngôn ngữ đang phổ biến tại Việt Nam hiện nay cũng có tính chính trị.”
Như tôi đã từng nhận xét trước đây, Nguyễn Hưng Quốc là một tác giả có cách viết văn rất trong sáng và khoa học, đơn giản vì anh là người yêu tiếng Việt, yêu ngôn ngữ. Chọn chữ chính xác. Cấu trúc ý tưởng khúc chiết. Mỗi chương hay bài viết đều được cấu trúc một cách logic: đặt vấn đề, điểm qua các nghiên cứu trước, nhận định, và kết luận. Đó là cách viết rất chuẩn mực trong khoa học mà không phải ai cũng làm được. Nhiều ý tưởng phức tạp được diễn giải bằng một văn phong mà bất cứ ai cũng thấy dễ hiểu. Kết quả là một tác phẩm có sức cuốn hút từ trang đầu đến trang cuối.
Ở Việt Nam ngày nay, chánh trị là một đề tài tương đối nhạy cảm, thậm chí nguy hiểm. Chẳng biết từ bao giờ, người Việt bị gieo vào một suy nghĩ là phải tránh xa chánh trị vì nó nguy hiểm, mặc dù ai cũng thấy chánh trị bàng bạc trong cuộc sống chúng ta. Nhưng qua cuốn sách này, tác giả Nguyễn Hưng Quốc làm cho chúng ta gần gũi hơn với chánh trị, thậm chí thấy chánh trị học rất thú vị. Cái hay của “Những bài viết về chính trị” là tác giả cung cấp cho chúng ta một cái nhìn tươi tắn và một cách hiểu mới về chánh trị trong bối cảnh Việt Nam, và đó là một đóng góp quan trọng của cuốn sách.
___
Tác giả Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc tên thật là Nguyễn Ngọc Tuấn, người gốc Quảng Nam, nay là một đồng hương của tôi ở Úc. Tác giả là một ‘fellow‘ danh dự của Đại học Victoria (Melbourne), và phụ trách môn tiếng Việt và văn học Việt Nam.
Sách “Những bài viết về chính trị” của Nguyễn Hưng Quốc, do Nhà xuất bản Lotus Media phát hành. Sách gồm 421 trang, kể cả Bảng tra cứu (index), có bán trên amazon với giá 17 USD.
Nhân dịp Noel / Chúa Giáng Sinh 2021, tôi mến chúc các bạn một mùa Noel tràn trề hạnh phúc và an bình.
Hồi còn nhỏ ở miệt quê tôi rất mê cái không khí ngày lễ Giáng Sinh. Nhà nào cũng trang trí hang đá Giáng Sinh màu mè sặc sỡ. Đèn hoa rực rỡ hai bên đường làng dẫn tới nhà thờ. Nam thanh nữ tú dập dìu y như mô tả trong Kiều. Tiếng nhạc rộn ràng hoà cùng chuông nhà thờ. Tất cả tạo nên một không khí an bình trong thời thập niên 1960-1970 mà Lam Phương viết “Ước mong sao lúa hai mùa thơm ngát / Lúa về mang bao khúc ca tuyệt vời”. Tôi đặc biệt rất ấn tượng với cái băng rôn treo trước cửa rất nhiều nhà:
Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Trời! Ai mà sáng tác hai câu đối hoàn chỉnh từ ý tới lời như thế. Sau này lên thành học tôi mới biết câu này thực ra là dịch từ kinh thánh tiếng Latin [1].
Dịch hay quá! Vinh danh vs Bình an. Thiên chúa vs Người thiện tâm. Trên trời vs Dưới thế. Phải nói đó là một thông điệp rất hay của ngày Giáng Sinh mà có khi thời nay ít ai để ý.
Thích nhứt là chữ “Người thiện tâm”. Dù không đề cập tới, nhưng ai cũng hiểu rằng ‘thiện’ là cách nói tắt của ‘Chân Thiện Mĩ’. Người thiện tâm là người có đạo đức, có lí tưởng, sống để phụng sự đời và xã hội. Những ồn ào gần đây về “lễ” và “văn” càng làm cho cái thông điệp ‘thiện tâm’ rất thời sự tính.
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất định tại một thời điểm nguy hiểm. Đại dịch vẫn còn đang tiếp diễn và không ai đoán được bao giờ thì chấm dứt. Những biện pháp khắt khe có vẻ chẳng có hiệu quả gì đáng kể. Hiệu quả thì chưa thấy rõ, nhưng hậu quả thì trước mắt. Dịch đã cướp đi gần 6 triệu sanh mạng trên thế giới. Riêng ở Việt Nam, đã có hơn 30 ngàn người mất vì dịch, và con số vẫn còn gia tăng. Có thể nói VN đã qua một năm tang tóc.
Một trong những mất mát trong mùa dịch này là chúng ta mất tự do. Chưa bao giờ trong 40 năm qua tôi thấy mình mất tự do như 2 năm qua. Chưa bao giờ tôi thấy vài chánh phủ lộ diện cái độc đoán và có khi ác ôn của họ như trong mùa dịch. Có nhiều bạn tôi tự hỏi ‘chẳng lẽ mình đi tìm tự do để rồi đánh mất tự do’? Phải một lần mất tự do mới biết trân quí tự do.
Trận dịch này còn làm lộ những gì xấu xa nhứt của con người. Nỗi sợ con virus làm cho chúng ta có những hành động và hành vi phi lí, thậm chí phi nhân tính. Hậu quả là người ta đối xử với tha nhân như là kẻ thù, là kẻ xấu, kẻ gieo mầm bệnh mà không hiểu rằng tất cả chúng ta chung một chuyến tàu. Nỗi sợ còn biến nhiều người thành những cảnh sát đạo đức (moral police). Những viên cảnh sát tự bổ nhiệm này sẵn sàng hành hạ, thậm chí tra tấn tinh thần và thể xác của tha nhân. Họ tự biến họ thành những kẻ bất thiện tâm.
Nhưng dịch cũng cho chúng ta thấy cái thiện nhứt của con người. Chúng ta đã thấy ở Sài Gòn, các nhóm y bác sĩ tự tổ chức thành các nhóm thiện nguyện giúp bệnh nhân. Mặc dù Nhà nước chẳng ghi nhận công lao của họ, nhưng họ vẫn miệt mài âm thầm làm việc. Một trong những hành động đẹp nhứt là người sáng chế ra vaccine AstraZeneca mà cô hoa hậu Thuỳ Tiên đã nói đến trong lúc cô ấy đăng quang. Cái dấu hiệu cô ấy thể hiện cũng là một hành vi đẹp trong mùa dịch vậy.
Trang web này có hàng ngàn bạn theo dõi và đọc, và tôi tin rằng các bạn đều là người thiện tâm. Năm 2021 sắp kết thúc, và đây là dịp để chúng ta ôn chuyện đời trong năm. Chuyện đời thì lúc nào cũng có đủ cung điệu vui buồn. Trong năm qua tôi đã có dịp chia sẻ 365 chuyện buồn vui cùng các bạn. Tôi hay nhủ lòng mình là hãy quên đi chuyện buồn và lạc quan nhìn về tương lai.
Mến chúc mỗi và tất cả các bạn một mùa Giáng Sinh bình an và hạnh phúc như lời kinh thánh [1].
———
[1] Nguyên văn tiếng Latin: “Glória in excélsis Deo, et in terra pax homínibus bonæ voluntátis”
Hồi xưa tôi cũng thán phục Khái Hưng khi ông dịch bài Un Secret của Félix Arvers. Thơ dịch mà đọc cứ như là thơ sáng tác:
Lịch sử có những trùng hợp thời điểm thú vị. Hôm nay chúng ta ăn mừng ngày giáng sinh của Chúa Jesus, nhưng ít ai nhớ rằng 30 năm trước (25/12/1991) là ngày Liên bang Sô Viết tan rã.
Báo chí Việt Nam có vẻ yên ắng, không đề cập đến sự kiện lịch sử quan trọng này, nhưng báo chí nước ngoài thì hay nhắc đến [1], kèm theo những hình ảnh mang tính lịch sử [2]. Nhưng tưởng cũng cần “ôn cố tri tân”, ôn lại cái sự kiện mang tầm vóc thế giới để chúng ta hiểu chuyện hiện tại hơn.
Những ngày cuối cùng của đế chế Soviet được thuật lại trong cuốn sách “Moscow, December 25, 1991: The Last Day of the Soviet Union” của tác giả Conor O’Clery [3] rất đáng đọc. Bảy giờ tối ngày 25/12/1991, Mikhail Gorbachev xuất hiện trên hệ thống truyền hình Liên Xô tuyên bố sự cáo chung của Liên bang Sô Viết. Ông nói:
“Số phận đã định đoạt rằng khi tôi làm lãnh đạo, đất nước này đã trải qua những sai lầm trầm trọng. Chúng ta thoạt đầu đã có đầy đủ, từ đất đai, dầu khí, đến tài nguyên thiên nhiên, và Tạo Hóa đã ban cho chúng ta trí tuệ và tài năng. Tuy nhiên, mức sống của chúng ta tệ hại hơn nhiều so với các quốc gia kĩ nghệ khác, và khoảng cách mỗi ngày rộng thêm. Lí do hiển nhiên là do xã hội bị bóp nghẹt bởi một hệ thống quan quyền được tạo ra để phục vụ cho một ý thức hệ, và phải chịu gánh nặng chạy đua vũ trang, căng thẳng tột cùng. Tất cả nỗ lực cải cách nửa vời đều lần lượt thất bại. Đất nước đã hết hi vọng.”
Bài nói chuyện chỉ 12 phút. Đến 7:12 pm, ông “chúc quí vị mọi điều tốt đẹp” sau khi tuyên bố từ chức tổng bí thư đảng cộng sản Liên Sô. Gorbachev để lại nhiều câu nói mang tính wisdom:
Nếu bạn không tiến về phía trước, bạn sẽ lạc hậu (If you are not moving forward, you are moving backward).
Sự bất khoan dung về ý thức hệ và chánh trị, ngay cả với ý định tốt và thành tâm, sẽ dẫn đến những hậu quả đối nghịch với ý định (Ideological and political intolerance, even with the best and most sincere intentions, produces results that are the direct opposite of those intended.)
Cuối cùng thì cái ‘mô hình’ tồn tại ở Liên Xô không phải là xã hội chủ nghĩa mà là xã hội toàn trị. (In the end, the “model” that came into existence in the USSR was not socialist but totalitarian)
Mikhail Gorbachev
Liên bang Sô Viết được hình thành do những người theo chủ thuyết Bolshevik, và đây cũng là những người đã lật đổ chế độ Sa hoàng vào năm 1917. Đến năm 1922, các đồng chí Bolshevik đồng ý thành lập liên bang với thành viên bao gồm Nga, Belarus, Ukraine, Armenia, Georgia, Moldova, và Azerbaijan. Đến năm 1940, liên bang này bằng biện pháp vũ lực, ép buộc Estonia, Latvia, và Lithuania trở thành thành viên của Liên bang Sô Viết, với Nga là thành viên chủ chốt. Chủ trương của Liên bang Sô Viết cố làm theo lí tưởng cộng sản: tương trợ với nhau và tình đồng chí anh em. Nhưng lí tưởng đó không thành hiện thực. Những kẻ cầm quyền không tin tưởng vào và sợ công dân họ; ngược lại, công dân thì không bao giờ tin tưởng và sợ chính quyền. Ấy thế mà cái môi trường bất tín và sợ hãi đó được duy trì suốt 70 năm trời và 3 thế hệ.
Cái Liên bang đó cũng có thời vàng son của nó. Vào thập niên 1970, Liên bang Sô Viết từng hù doạ thế giới qua sở hữu bom nguyên tử và việc phóng phi thuyền đầu tiên vào vũ trụ. Người ta làm thống kê cho thấy ngày Liên bang Sô Viết cáo chung, nó có đến 210 sư đoàn lính, kho vũ khí hạt nhân có 27,000 đầu đạn, một số có thể bắn thẳng đến Mĩ. Sức mạnh của cái liên bang đó còn là niềm tự hào của các nước đàn em theo chủ nghĩa xã hội, trong đó có phân nửa Việt Nam. Nhưng đến thập niên 1980 trở đi, với sự phát triển về công nghệ thông tin, cái đế chế toàn trị đó không thể giấu giếm những khó khăn và sự suy thoái của nó, và cả thế giới đều biết đằng sau những động thái hù doạ kia là một liên bang nghèo nàn và lạc hậu. Cái gì đến cũng phải đến một cách tất yếu: Liên bang Sô Viết sụp đổ. Tự nó sụp đổ chứ chẳng có thế lực ngoại cuộc nào can thiệp trực tiếp.
Thật ra, trước đó thì cũng đã có biến động ở các nước đàn em Liên bang Sô Viết. Có lẽ sự kiện quan trọng nhất là một đồng chí mà Gorbachev chẳng ưa gì là vợ chồng Nicolae và Elena Ceausescu của Romania. Gorbachev xem Nicolae Ceausescu là Hitler của Romania. Hai vợ chồng Nicolae và Elena Ceausescu đã bị xử bắn vào ngày 23/12/1989. Trước khi bị xử bắn 3 tuần, Gorbachev tiếp kiến vợ chồng Nicolae Ceausescu và khuyên hai người này nên mạnh dạn dân chủ hoá Romania, và còn hẹn gặp nhau trong một hội nghị thượng đỉnh ở Ba Lan. Cựu tổng bí thư đảng cộng sản [Đông] Đức Erich Honecker đã bị truất phế trước đó không lâu, và ông phải xin tị nạn với Boris Yeltsin. Tuy nhiên, bản thân Honecker cũng thấy không tin tưởng Yeltsin, nên ông lại lần nữa xin tị nạn trong Toà đại sứ Chile ở Moscow.
Nói đến Gorbachev mà không nhắc đến ông Nguyễn Văn Linh là một thiếu sót. Trong “Bên thắng cuộc”, Huy Đức kể rằng tháng 10/1989, TBT Nguyễn Văn Linh dẫn một đoàn đại biểu VN sang Đức dự lễ kỉ niệm 40 ngày thành lập Nước Cộng hòa Dân chủ Đức, và nhân dịp đó ông định sẽ triệu tập một Hội nghị các Đảng Cộng Sản và Công nhân quốc tế để cứu phong trào cộng sản, chống chủ nghĩa cơ hội. Ông Linh không ưa Gorbachev và đưa ra nhận xét: “Gorbachev là kẻ cơ hội nhất hành tinh này”.
Ngày 4/10/1989, ông Linh và đoàn tuỳ tùng bay từ Hà Nội sang Đông Đức, với hãng hàng không Interflug. Hãng này chỉ dành cho ông Linh hạng ghế thương gia (business class), còn các thành viên khác trong đoàn tuỳ tùng thì ngồi ghế hạng phổ thông. Một thái độ xem thường đoàn VN rõ ràng. Khi đến Đức, sau nhiều lần bị cho “leo cây”, cuối cùng thì Gorbachev cũng cho phép ông Linh một lần diện kiến. Đọc đoạn Gorbachev gặp ông Linh, chúng ta sẽ thấy chua chát cho phía VN [4] vì như ông Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm nhận xét rằng “Nhận thức của một số đồng chí trong Bộ chính trị lúc bấy giờ không theo kịp những thay đổi của tình hình thế giới.”
Ngày 25/12/1991 đánh dấu một cái mốc lịch sử quan trọng: Liên Bang Sô Viết tan rã. Ngày mà một thể chế cựu Tổng thống Ronald Reagan gọi là “Evil Empire” (Đế chế ma quỉ) kết thúc. Lí do đế chế Sô Viết sụp đổ thì có nhiều, và các học giả vẫn còn tốn nhiều thì giờ để lí giải. Nhưng có lẽ đa số người quan sát thời cuộc đều đồng ý 3 nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của “Đế chế ma quỉ” đó: (i) bản chất mâu thuẫn của thể chế toàn trị; (ii) sự chuyển hoá của xã hội và sự bảo thủ của kẻ cầm quyền; và (iii) kinh tế suy thoái liên tục và tham nhũng. Có thể kể nguyên nhân thứ 4 là địa phương không phục tùng trung ương. Tất cả 3-4 nguyên nhân đó dẫn đến sự cáo chung tất yếu của Liên bang Sô Viết. Nhưng bốn nguyên nhân đó cũng đáng làm bài học cho các thể chế toàn trị.
“Cuộc gặp Gorbachev dự kiến diễn ra lúc 10:30 sáng 8-10-1989, nhưng chờ đến mười một giờ cũng không thấy văn phòng ông ta gọi lại. Ông Linh rất sốt ruột. Theo ông Lê Đăng Doanh: Trong khi đó, sáng ngủ dậy, bệnh ông Linh càng nặng thêm. Khi ăn cơm, ông kêu tôi ra ngoài vì không muốn tôi chứng kiến cảnh ông ăn rất chật vật. Hàm bên trái của ông Linh cứng lại. Ông phải nhai ở phía bên phải sau đó dùng hai ngón tay đẩy thức ăn vào họng, chiêu một ngụm nước mới nuốt được.
Cuộc gặp Gorbachev được lùi lại 2:30 rồi 5:30 chiều cùng ngày. Gorbachev, khi ấy vẫn là nhà lãnh đạo của cả phe xã hội chủ nghĩa, được bố trí ở trong một tòa lâu đài. Nhưng, cuộc tiếp tổng bí thư Việt Nam đã không diễn ra trong phòng khách riêng mà ở ngay một phòng rộng mênh mông vừa dùng cho một tiệc chiêu đãi lớn, thức ăn thừa còn bề bộn trên các bàn. Nhân viên dọn một góc, kê bàn để Gorbachev tiếp ông Nguyễn Văn Linh. Gorbachev ra đón ông Linh ở sảnh và khi cửa xe mở, ông cúi đầu nói: ‘Kẻ cơ hội nhất hành tinh kính chào đồng chí Nguyễn Văn Linh’.
Dù đang bệnh, ông Nguyễn Văn Linh vẫn trình bày rất nhiệt tình, nhưng theo ông Lê Đăng Doanh: Sáng kiến nào của ông Linh cũng được Gorbachev khen là “rất tốt” nhưng chỉ là những lời khen xã giao. Ông Linh nói: ‘Tôi đã gặp một số đảng cộng sản anh em. Trong tình hình này, Đảng Cộng sản Việt Nam muốn đồng chí đứng ra triệu tập hội nghị các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế’. Gorbachev liền giơ hai tay lên tươi cười: ‘Ý này hay nhỉ. Để xem! Để xem! Rất tiếc là giờ tôi đang nhiều việc quá!’. Ông Linh trân trọng mời Gorbachev đến thăm Việt Nam. Gorbachev lại kêu lên: ‘Hay quá nhỉ! Cám ơn! Cám ơn! Nhưng, tôi đang có nhiều lời mời quá mà chưa biết thu xếp cái nào trước’. Cuối cùng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đề cập đến truyền thống viện trợ của Liên xô và khi ông đề nghị Liên Xô tiếp tục giúp đỡ cho Kế Hoạch 5 năm 1990-1995 của Việt Nam thì Gorbachev xua tay. Không còn xã giao, lịch sự như phần trên nữa, Gorbachev nói: “Khó khăn lắm, khó khăn lắm, các đồng chí Việt Nam tự lo thôi”. Theo ông Lê Đăng Doanh: Thế nhưng, ngày hôm sau, báo Nhân Dân và Pravda đều đưa tin về cuộc gặp diễn ra trong ‘tình hữu nghị thắm thiết’.”
Một bạn phóng viên hỏi tôi để có một xét nghiệm có thể ứng dụng trên người thì cần qua những bước nào. Câu trả lời là cũng giống như vaccine và thuốc, tức cũng qua 4 giai đoạn nghiên cứu để xác định độ chính xác về khoa học (scientific validity), kĩ thuật (technical validity), lâm sàng (clinical validity) và hiệu quả cộng đồng. Nhưng nhiều xét nghiệm ở VN không qua những bước đó, có lẽ vì tâm lí muốn kiếm tiền nhanh?
Nhiều người đang tự hỏi xét nghiệm covid-19 do Việt Á bán cho các bệnh viện và trung tâm y tế đã được nghiên cứu ra sao và kết quả như thế nào. Có lẽ chỉ có Bộ Khoa học và Công nghệ biết vì họ xét duyệt và phê chuẩn bộ kit xét nghiệm. Một nhóm khác có thể biết là Học viện Quân Y. Nhưng cả hai nhóm đều không công bố cho công chúng biết. Đó là một sự thiếu minh bạch. Mà, khoa học không minh bạch thì không còn là khoa học nữa.
Nếu vấn đề chánh của một vaccine hay thuốc là hiệu quả (efficacy), thì đối với phương pháp xét nghiệm, yếu tố quan trọng số 1 là validity – có thể tạm hiểu là độ chính xác. Một xét nghiệm tốt phải có độ chính xác cao. Trong nghiên cứu lâm sàng, người ta phân biệt 3 loại chính xác chánh: khoa học, kĩ thuật, và lâm sàng.
Đây cũng chính là 4 bước nghiên cứu chánh về phương pháp xét nghiệm. Theo đó, nghiên cứu phải đi từ mẫu nghiên cứu lên người.
Ở giai đoạn này, nhà khoa học phải xác định mối liên quan giữa xét nghiệm và bệnh lí quan tâm. Xét nghiệm phát hiện cái gì, và cái đó có liên quan đến bệnh ra sao. Chẳng hạn như đa số xét nghiệm Covid hiện nay phát hiện các chất liệu di truyền của con virus nCov, thì nhà nghiên cứu phải báo cáo sự chính xác khoa học bằng cách chứng minh rằng các chất liệu di truyền đó thật sự từ nCov mà không từ một con virus khác.
Sau khi đã chứng minh tính khoa học của xét nghiệm, nhà nghiên cứu phải chứng minh rằng kĩ thuật xét nghiệm đó cho ra kết quả đáng tin cậy. Trong bước này, nhà nghiên cứu làm thí nghiệm invitro: lấy mẫu (máu, đàm, nước miếng) để xác định một chẩn đoán.
Trong giai đoạn này nhà nghiên cứu còn phải chứng minh kết quả xét nghiệm có mức độ tái lập cao. Có nghĩa là xét nghiệm ở nhiều labo phải cho ra kết quả nhứt quán với nhau, có khi còn gọi là analytical performance.
Giai đoạn 3: Xác định clinicalvalidity (chính xác lâm sàng) và an toàn
Đây là giai đoạn quan trọng nhứt, vì ở bước này, nghiên cứu phải xác định độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm. Xin nhắc lại rằng độ nhạy là xác suất có kết quả dương tính nếu người đó mắc bệnh, độ đặc hiệu là xác suất có kết quả âm tính nếu người đó không mắc bệnh.
Hai chỉ số khác là dương tính giả và âm tính giả. Dương tính giả là người ta không mắc bệnh nhưng xét nghiệm cho ra kết quả dương tính. Âm tính giả là người ta mắc bệnh nhưng xét nghiệm cho ra kết quả âm tính.
Ở bước này nghiên cứu cũng phải chuẩn hoá xét nghiệm giữa các labo để bảo đảm kết quả giữa các labo có thể diễn giải dễ dàng.
Giai đoạn 4: Xác định hiệu quả cấp cộng đồng và hiệu quả kinh tế.
Ở giai đoạn này, nhà nghiên cứu thường làm thử nghiệm RCT. Thử nghiệm RCT thường làm trên đa trung tâm để xác định hiệu quả lâm sàng và hiệu quả kinh tế. Hiệu quả lâm sàng là để trả lời câu hỏi ‘cần xét nghiệm bao nhiêu người để phát hiện 1 ca’, và hiệu quả kinh tế là ‘phải tốn bao nhiêu tiền để phát hiện 1 ca dương tính’ , và nếu ca đó được điều trị thì sẽ cứu bao nhiêu người.
Đó là 4 giai đoạn nghiên cứu chuẩn trước khi triển khai một phương pháp xét nghiệm trong cộng đồng. Đa số các nghiên cứu ở giai đoạn III được thiết kế sai (sai về chọn nhóm thử nghiệm, sai về chọn nhóm chứng, sai về phân tích). Do đó, nhà chức trách cần phải xét duyệt tất cả các chi tiết khoa học và kĩ thuật trước khi chấp thuận cho sử dụng phương pháp xét nghiệm. Tuy nhiên, trong thực tế, một số nhà chức trách đã không làm tốt chức năng của họ nên để xảy ra những ‘sự cố’ như chúng ta đang thấy.
Năng lực khoa học
Như các bạn thấy qua mô tả trên, sáng chế xét nghiệm hay vaccine đòi hỏi phải có nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu thường được thực hiện trong labo với nhiều chuyên viên có kinh nghiệm lâu năm và được sự lãnh đạo của một chuyên gia có tầm vóc quốc tế.
Những labo nghiên cứu vaccine và phương pháp xét nghiệm thường khá lớn. Lớn như thế nào? Mỗi labo có cả 5 hậu tiến sĩ và hàng chục nghiên cứu sinh tiến sĩ cùng phụ tá nghiên cứu (RA). Họ thường có một lịch sử nghiên cứu lâu năm và uy tín. Uy tín hiểu theo nghĩa họ có tên tuổi trong chuyên ngành. Họ bước vào hội nghị quốc tế là người ta biết họ là ai. Họ cũng có mạng hợp tác quốc tế rộng rãi, để thuyết phục người khác về sản phẩm họ làm ra.
Còn tình hình ở Việt Nam thì … khó nói. Nhiều sản phẩm sinh học được giới thiệu và quảng bá cứ như là ‘trên trời rơi xuống’. Người ta không biết người đứng đằng sau sản phẩm có quá trình làm khoa học ra sao, không rõ họ đã làm nghiên cứu như thế nào và kết quả nghiên cứu công bố ở đâu. Thay vào đó là những bài báo phổ thông thường mang tính PR hơn là thực chất. Đúng là một cách làm khoa học kì cục.
Điển hình là cái kit của Việt Á và các ‘vaccine made in Vietnam’. Giới khoa học không biết họ đã nghiên cứu gì và kết quả ra sao. Công chúng chỉ biết họ qua báo chí phổ thông, với những lời PR quá đẹp. Rồi đùng một cái người ta đòi áp dụng trên người! Không có xem xét đến khía cạnh khoa học, kinh tế hay y đức gì cả. Làm khoa học sao mà dễ dãi thế!
Vội vã và thiếu kiên nhẫn?
Trong một buổi họp cuối năm trong ban biên tập của một tập san y khoa, chúng tôi bàn về những nghiên cứu từ các nước nghèo. Đó là những nghiên cứu, mà nói theo tiếng Anh, là ‘too good to be true‘ (tốt đến khó tin). Những nghiên cứu này sau đó bị rút lại vì gian lận trong dữ liệu và cách làm. Nhận xét về sự phát triển khoa học ở các nước nghèo, một giáo sư Mĩ trong ban biên tập nói đại khái
“Họ nóng lòng và cố gắng làm những việc phi thường để phô diễn hơn là để xây dựng năng lực“.
Nghĩ lại câu này tôi thấy cũng đúng cho tình hình ở Việt Nam. Nhiều đồng nghiệp nước ngoài đến Việt Nam đều nhận xét là người Việt chúng ta quá tự tin, vì hỏi cái gì họ cũng nói là làm được hay đã làm. Có người sang Việt Nam với tâm thế giúp đỡ, nhưng khi nghe đồng nghiệp bên Việt Nam nói vậy họ không có lí do gì để giúp cả. Nhưng trong thực tế, thì những cái biết và làm đó không đạt chuẩn khoa học. Như chúng ta thấy một công ti sinh học làm kit xét nghiệm mà có cái labo nhỏ xíu và sai về thiết kế từ đầu đến cuối.
Năng lực khoa học không thể nào xây dựng trên nền tảng như thế. Để xây dựng năng lực khoa học đòi hỏi thời gian, tiền bạc, và nhân sự. Không thể một sớm chiều mà có một nhóm nghiên cứu tầm cỡ được. Không thể nói “có kinh nghiệm 10 năm” như là một chứng từ khoa học. Con số “n tiến sĩ” không nói lên điều gì về năng lực khoa học cả.
Ông Ito Junichi, một CEO người Nhật từng làm việc ở Việt Nam nhiều năm, nhận xét rằng người Việt chỉ thích kiếm tiền [nhanh] và xem thường lao động chân tay. Ông còn nhận xét rằng người trẻ Việt Nam chỉ học trên giấy tờ, sách vở, chẳng có trải nghiệm thực tế [1]. Nhận xét đó cũng đúng trong khoa học: nhiều người Việt làm khoa học nhắm tới kiếm tiền nhanh hơn là đem lại phúc lợi cho cộng đồng.
Một bác sĩ phạm sai sót có thể gây ảnh hưởng đến 1 bệnh nhân, nhưng một nhà khoa học phạm sai sót thì có thể làm ảnh hưởng đến hàng triệu người. Sự việc Việt Á là một bài học về cách làm khoa học thiếu qui chuẩn và y đức. Nhưng dĩ nhiên, đây không phải là trường hợp duy nhứt hay trường hợp đầu tiên, mà xảy ra rất phổ biến trong môi trường Việt Nam.
Một bác sĩ phạm sai sót có thể gây ảnh hưởng đến 1 bệnh nhân, nhưng một nhà khoa học phạm sai sót thì có thể làm ảnh hưởng đến hàng triệu người. Do đó, khoa học và nghiên cứu khoa học không phải là chiêu trò để giới kinh doanh mượn làm phương tiện kiếm tiền mà hại dân.
Báo chí của Nhà nước đang và sẽ còn bận rộn khai thác những tình tiết chung quanh “Câu chuyện Việt Á”, nhưng đó chỉ là một trong hàng ngàn hay hàng vạn trường hợp đã và đang xảy ra. Nếu chỉ xoáy vào Việt Á thì e rằng chỉ thấy cây mà không thấy cả khu rừng đã bị hư lâu rồi. Hư về tính minh bạch, về y đức, và thiết chế khoa học. Phải trồng lại rừng thôi.
Câu chuyện Việt Á làm chúng ta sốc là phải. Sốc vì con số quá lớn (hơn 4000 tỉ đồng). Sốc vì con số “lại quả” (mà phải mất một thời gian tôi mới hiểu nghĩa thật của chữ này) tại một tỉnh nghèo. Sốc vì sự yếu ớt về khoa học tính đằng sau một sản phẩm. Sốc vì sự dễ dãi của thiết chế khoa học cấp quốc gia. Sốc vì hậu quả của nó có thể gây tác hại cho hàng triệu người.
Một dạng ‘institutional corruption’
Khi sự việc xảy ra, báo chí và công chúng thường chỉ tay về cá nhân đương sự, và điều này cũng dễ hiểu. Nhưng đương sự chỉ là ‘sản phẩm’ của một hệ thống mà thôi. Vấn đề lớn hơn là lỗi của hệ thống, của thiết chế (institution). Chỉ trích cá nhân có thể đem lại sự hả hê cho vài người, nhưng không giải quyết được vấn đề lớn hơn là lỗi của thiết chế.
Công bằng mà nói tham nhũng ở Việt Nam là một hiện tượng mang tính thiết chế, hay ‘institutional corruption‘. Tham nhũng thiết chế được biểu hiện qua chiến lược gây ảnh hưởng nhằm làm suy giảm năng lực của một thiết chế, và làm xói mòn niềm tin của công chúng vào thiết chế đó. Câu chuyện Việt Á rất phù hợp với định nghĩa này, vì nó làm cho công chúng mất niềm tin vào thiết chế khoa học Việt Nam.
Làm sao một thiết chế khoa học nghiêm chỉnh có thể chấp thuận cho lưu hành một sản phẩm [1] có ảnh hưởng đến hàng trăm triệu người mà chẳng có mấy nghiên cứu khoa học? Làm sao một thiết chế khoa học cấp quốc gia mà không hiểu tiếng Anh của Tổ chức Y tế Thế giới? Thiết chế đó có vấn đề.
Kém minh bạch
Một trong những vấn đề của cái thiết chế đó là tính minh bạch. Tính minh bạch là tiêu chuẩn số 1 của khoa học. Chúng ta đã thấy quá trình nghiên cứu, xét duyệt và phê chuẩn vaccine chống Covid ra sao. Họ làm nghiên cứu từ lúc nào, công bố ở đâu, và hội đồng xét duyệt gồm những ai. Có cả biên bản thảo luận trong cuộc họp xét duyệt. Sự minh bạch như thế làm cho công chúng tin vào khoa học.
Nhưng ở Việt Nam, công chúng không biết hội đồng khoa học đã thông qua bộ kit của Việt Á gồm những ai và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học của họ ra sao. Người ta chỉ nói “Hội đồng Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia“. Người ta không cho biết qui trình xét duyệt của Hội đồng là gì, và cũng không có biên bản. Quan trọng hơn là không có một dữ liệu khoa học nào được công bố để công chúng và giới khoa học có thể thẩm định độ chính xác và độ tin cậy của phương pháp xét nghiệm! Sự thiếu minh bạch như thế làm cho công chúng mất niềm tin vào thiết chế khoa học Việt Nam.
Tôi tự hỏi tại sao Việt Nam không tận dụng các chuyên gia gốc Việt ở nước ngoài? Ở Úc này, mỗi khi xét duyệt một sản phẩm y tế nào người ta đều mời các chuyên gia nước ngoài tham gia bàn luận hay xin ý kiến của các chuyên gia nước ngoài. Ý tưởng là các chuyên gia nước ngoài thường cho ý kiến độc lập so với các đồng nghiệp trong nước Úc. Việt Nam hay nói đến việc thu hút giới khoa học nước ngoài, nhưng họ chỉ nói cho có nói, chớ trong thực tế thì không làm như họ nói.
“Lại quả”
Tình trạng kém minh bạch trong khoa học mở cánh cửa cho nhiều tiêu cực, và một trong những tiêu cực đó là ‘lợi quả’. Có thể nói rằng lợi quả ở Việt Nam gần như là một nét văn hoá trong khoa học và kinh doanh. Nó là một ‘luật chơi’ mà ai muốn làm cho được việc cũng phải tham gia. Theo thời gian nó trở thành hệ thống hoá. Chính sự hệ thống hoá này làm suy giảm năng lực của thiết chế và làm cho đất nước nghèo hơn.
Ai cũng biết ở Việt Nam lại quả là một ‘luật’ trong việc mua thiết bị khoa học đến thuốc men. Có người vui miệng nói là ‘luật giang hồ’. Mua cái gì cũng phải lại quả, chỉ khác biệt là ít hay nhiều, hoặc gián tiếp hay trực tiếp mà thôi. Đây chính là một trong những lí do tại sao thiết bị y tế và thuốc men ở Việt Nam có khi mắc hơn ở nước ngoài. Sự việc này đã diễn ra mấy mươi năm nay rồi, chớ chẳng phải mới. Ấy thế mà cho đến nay cái thiết chế đó vẫn chưa thấy có gì thay đổi tích cực.
Có người nói sẽ không thay đổi được vì vấn đề xuất phát từ thể chế. Có thể như thế, nhưng tôi thấy nó tuỳ thuộc vào lãnh đạo. Câu chuyện chung quanh ‘đấu thầu’ liên quan đến các công ti công nghệ sinh học làm tôi nhớ đến Đại học Tôn Đức Thắng (TDTU). Nhiều năm trước khi bắt đầu thiết lập labo nghiên cứu cơ và xương ở TDTU, chúng tôi phải mua máy móc, thiết bị từ các công ti. Hầu như liên lạc với công ti nào người ta đều nói đến hoa hồng với những con số cụ thể. Nhưng chúng tôi nói rằng ở đâu thì không biết, còn ở đây (TDTU này) thì không có chuyện đó. Đó là chánh sách của Đại học mà chúng tôi rất hài lòng. Nếu TDTU làm được thì tại sao những nơi khác không làm được? Có thể người ta không muốn làm?
Câu chuyện Việt Á là một minh chứng cho thấy quan điểm ‘bôi trơn’ của lí thuyết gia Samuel Huntington sai. Trong một bài luận trước đây, Giáo sư Huntington lí giải rằng ở các nước kém phát triển, việc bỏ ra một ít tiền để ‘bôi trơn’ và lách hệ thống hành chánh cồng kềnh để đạt mục tiêu có thể giúp cho guồng máy kinh tế vận hành và phát triển. Nhưng ở Việt Nam, chúng ta thấy quan điểm này của ông Huntington sai.
Y đức
Câu chuyện Việt Á còn nói lên vấn đề y đức ở Việt Nam. Nhiều năm trước, y đức là một vấn đề nhức nhối trong ngành y, qua hàng ngàn câu chuyện bệnh nhân đút lót cho nhân viên y tế để được ưu tiên. Thời đó, số tiền ‘bôi trơn’ chẳng là bao, nhưng đã làm tha hoá rất nhiều người.
Nhưng ngày nay, y đức ở Việt Nam có một chiều kích khác, lớn hơn và nghiêm trọng hơn. Nó không chỉ là vài triệu đồng bôi trơn, mà là hàng trăm, thậm chí hàng ngàn tỉ đồng. Nó không phải chỉ liên quan đến vài nhân viên y tế nghèo khó, mà dính dáng đến những người trong vị trí lãnh đạo và giàu có, những người trong giới tinh hoa của xã hội. Nó không chỉ liên quan đến một vài bệnh nhân như thời xưa, mà hàng trăm triệu người trong cộng đồng.
Một trong những qui ước của y đức Việt Nam đọc rất hay:
“Tôn trọng pháp luật và thực hiện nghiêm túc các quy chế chuyên môn. Không được sử dụng người bệnh làm thực nghiệm cho những phương pháp chẩn đoán, điều trị, nghiên cứu khoa học khi chưa được phép của Bộ Y tế và sự chấp nhận của người bệnh.”
nhưng trong thực tế thì đó chỉ là một uyển ngữ. Chúng ta thấy ngay cả được phép của các Bộ chuyên trách mà vẫn sai lầm. Sai lầm từ thiết chế. Thành ra, nếu chỉ xoáy vào một công ti hay một nhóm thì chẳng khác gì chỉ thấy cây mà không thấy rừng. Vấn đề là khu rừng bị cháy, thì chữa cháy một cái cây đâu có giải quyết được gì. Phải trồng lại khu rừng thôi.
_______
[1] Tháng 3/2020, Hội đồng Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia đã thông qua kết quả nghiên cứu chế tạo và kiến nghị Bộ Y tế cấp phép sử dụng bộ kít Real – time RT – PCR one step (test Covid).
LGT: Tôi hân hạnh giới thiệu đến các bạn một bài viết đặc sắc về một nhà chuyên khảo gốc Chăm (Chàm) Dohamide hay Đỗ Hải Minh. Thú thiệt là tôi từng nghe qua về nhà khảo cứu Dohamide, nhưng không biết những đóng góp quan trọng của anh ấy về văn hoá Champa. Đọc qua bài này, chúng ta biết rằng trước năm 1975 ở miền Nam đã có những công trình nghiên cứu có giá trị cao về dân tộc Chăm và văn hoá Chăm. Xin trân trọng giới thiệu đến các bạn xa gần.
_____
DOHAMIDE GIẤC MƠ CHÀM VÀ BANGSA CHAMPA
NGÔ THẾ VINH
Hình 1: từ trái, cây bút chuyên khảo văn minh Champa trên tạp chí Bách Khoa Dohamide, chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu, Ngô Thế Vinh, nhà văn Võ Phiến. [hình chụp 1994 tại Little Saigon, tư liệu Ngô Thế Vinh]
TIỂU SỬ
Dohamide, người gốc Chăm, sinh năm 1934 tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang), có thêm ba bút hiệu nhưng ít được biết đến: Linh Phương, Châu Giang Tử, Châu Lang. Khi Dohamide có bài viết đầu tiên “Người Chàm tại Việt Nam ngày nay” đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1962, Chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã giới thiệu anh với độc giả như sau:
“Bạn Dohamide, tác giả loạt bài sau đây, là người gốc Chàm, sanh tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang). Bạn đã có can đảm thoát ly những ràng buộc khắt khe của tập tục địa phương để lên thủ đô Sài Gòn vừa đi làm nuôi gia đình vừa đi học, và hiện nay bạn đã tốt nghiệp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Ngoài tiếng Chàm là tiếng mẹ đẻ, bạn Dohamide biết nói và viết các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Á Rập, Mã Lai, Cam Bốt, những thứ tiếng này đã giúp bạn Dohamide rất nhiều trong những thiên khảo cứu như trình bày với bạn đọc.”[Bách Khoa, số 135, 15/8/1962]
Hình 2: Lời Toà Soạn của chủ nhiệm Lê Ngộ Châu giới thiệu Dohamide, tác giả bài viết đầu tiên “Người Chàm tại Việt Nam ngày nay” trên tạp chí Bách Khoa, số 135, 15/8/1962.
Dohamide và người em Dorohiêm, cả hai “đã sanh ra và lớn lên tại một thôn ấp người Chăm theo tôn giáo Islam hệ Sunni Imam Shafi’y, vốn là hậu duệ của Vương quốc Champa lưu vong từ miền Trung Việt Nam ngày nay.Do vào thời vua Minh Mạng áp dụng một chánh sách đối xử khắc nghiệt tàn sát người Chàm, họ phải đào thoát sang định cư bên đất Kampuchea và mãi về sau này, do có chính sách chiêu dụ của nhà Nguyễn, một số đã trở về tái định cư tại vùng Tây Nam Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trên vùng đất mới này, có 7 làng Chăm đã được thành lập, (con số 7 có ý nghĩa thiêng liêng với người Chàm),trong đó, ngôi làng chúng tôi có từ thời thuộc Pháp, lấy tên là làng Katambong tức Koh Ta–boong thuộc tỉnh Châu Đốc.
Koh tiếng Chàm có nghĩa là cồn hay cù lao, Ta-boong là cây gậy, ngụ ý hình dáng cù lao này giống như một cây gậy.” Koh Ta-boong nguyên là một cồn cát, do phù sa từ sông Mekong tạo nên dọc theo một bên bờ sông Hậu, hàng năm đều có lụt với mùa “nước nổi, nước giựt” và hiện tượng bên lở bên bồi. Làng Katambong nằm phía bên bồi, nay là một ấp lấy tên Việt Nam là Khánh Mỹ thuộc xã Khánh Hoà, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.
“Ngoài ra còn có 6 làng người Chăm khác là Mat Chruk, Koh Kaboak, Plây Kênh, Plao Ba, Koh Ghoi, Koh Kaghia, Sabâu, với địa danh Việt tương ứng là Châu Giang, Đa Phước, Châu Phong, La Ma hoặc Vĩnh Trường, Bún Lớn hoặc Bún Bình Thiên, Đồng Cô Kỵ… với địa thế không liền nhau.” [1]
Làng Katambong là một xã hội Chăm thu nhỏ và khép kín. Người Việt bên kia sông thì quen gọi họ là Chà Châu Giang, trong khi người Chàm thì vẫn gọi người Việt là “Yuôn”, tuy sống kế cận nhưng họ thuộc hai nền văn minh khác nhau: một bên là nền văn minh cầm đũa (civilisation de la baguette), một bên là nền văn minh ăn bốc.
Thân phụ anh Dohamide là một trong hai vị giáo làng trong 7 làng Chăm địa phương, một mình ông phải phụ trách luôn cả ba lớp: đồng ấu / cours enfantin, dự bị / cours préparatoire và sơ đẳng / cours élémentaire, học đến đó là hết lớp; muốn tiếp tục học thêm thì phải ra trường tỉnh nhưng hầu hết các học sinh Chăm trong làng Katambong đều nghỉ học và sau đó chỉ đến trường để được dạy thêm kinh sách giáo lý Islam.
Qua sông thăm Cồn Tơ Lụa làng Đa Phước:
Hình 3: trái, Người viết đến thăm giáo đường Mubarak (có nghĩa là được ban ân phước) của người Chăm Islam ở làng Đa Phước Châu Đốc; công trình kiến trúc nguy nga này được hoàn tất từ 1992 do tiền từ các cộng đồng Chăm hải ngoại gửi về, cả được hậu thuẫn rất mạnh từ các nước Hồi giáo nhất là Mã Lai; phải, ngôi nhà sàn ngói đỏ của người Chàm, trên Cồn Tơ Lụa An Giang, Châu Đốc, mùa lũ nước có thể ngập tới sàn nhà.[photo by Nguyễn Kỳ Hùng]Hình 4: trái, Người viết đứng bên một khung dệt lụa cổ truyền, nghề này vẫn được duy trì, và đã gắn bó những người phụ nữ Chàm với gia đình trong một xã hội khép kín; phải, Tác giả bế em bé Chàm tên Karim từ tay mẹ của em. [photo by Nguyễn Kỳ Hùng]
Năm 1943, đã 9 tuổi, như một trường hợp hiếm hoi, Dohamide được thân phụ khuyến khích ra trường tỉnh học tiếp lớp nhì / cours moyen. Đi học hàng ngày, phải qua sông bằng xuồng. Ra tỉnh, được tiếp xúc với một xã hội xa lạ giữa những người Yuôn / Kinh, cũng là lúc Dohamide bắt đầu có những thắc mắc về cội nguồn của mình. Bangsa Champa, tìm về cội nguồn, có lẽ bắt đầu từ đây.
Năm 1948, sau bậc tiểu học, Dohamide lại được cha mẹ thu xếp cho đi tàu sông rời quê nhà lên Sài Gòn học tiếp bậc trung học. Tại Hòn Ngọc Viễn Đông, Dohamide được tiếp cận với một xã hội mở rộng gồm nhiều sắc tộc, không phải chỉ có người Việt, người Pháp, người Hoa mà còn có cả người Ấn Độ, người Mã Lai theo đạo Islam, họ làm ăn rất thành công và giàu có.
Nhưng cảnh sống đạm bạc của Dohamide vẫn thu hẹp trong một khu xóm lao động Nancy nghèo nàn, gồm những căn nhà cây vách ván lụp xụp thuộc quận 2. Dohamide sống chung với mấy gia đình Chăm cũng đến từ Châu Đốc, họ lên Sài Gòn kiếm sống bằng cách làm thuê, buôn bán nhỏ rải rác nhưng vẫn tìm đến với nhau để gần gũi nương tựa, lâu dần cũng hình thành được một mô thức jam’ah / cộng đồng. Để duy trì đức tin, họ tạo được riêng một giáo đường / masjid khởi đầu chỉ là căn nhà gỗ nhỏ thô sơ nhưng đó vẫn là nơi để duy trì những sinh hoạt xã hội tôn giáo y khuôn như tại quê nhà khiến chàng trai Dohamide tuy sống thiếu thốn nhưng vẫn cảm thấy được ấm lòng.
Năm 1953, xảy ra một trận hoả hoạn tại khu Nancy đã khiến cho cộng đồng người Chăm đang sinh sống ở đây bị trắng tay. Cố gắng xây dựng lại, chưa được bao lâu lại xảy ra vụ Bình Xuyên 1955, xóm Nancy một lần nữa lại bị thiêu rụi. Điều tiếc nuối nhất với Dohamide là bao nhiêu ghi chép về lịch sử Champa từ Thư viện Việt Nam cũng thành tro than. Dohamide viết: “Nhưng dầu sao, qua quá trình lần mò ghi chép, ít nhất tôi cũng có được trong đầu một ý niệm tổng quát sơ khởi về Bangsa Champa gốc nguồn và biết được những sự kiện căn bản bao quanh người Chăm Châu Đốc, trong đó có bản thân tôi.”[1]
Tuy nghèo xác xơ, nhưng những người Chăm này vẫn cố bám đất, từng bước xây dựng lại đời sống mới. Do thấy rõ được nhu cầu phải liên hệ với xã hội bên ngoài, Dohamide được mấy vị trưởng thượng đề nghị anh mở lớp dạy chữ Việt cho các đồng tộc Chăm. Qua lớp học này, qua ngôn ngữ Việt, ý niệm về cội nguồn Bangsa Champa được đánh thức dậy. Số người Chăm Châu Đốc lên sống ở Sài Gòn ngày càng nhiều, không phải chỉ ở khu xóm Nancy, nay lan ra các xóm lao động khác như Hoà Hưng, Phú Nhuận… dần dà họ kết nối lại được thành những jam’ah / cộng đồng nhỏ, nhưng xóm Nancy vẫn là khu sinh hoạt trung tâm. Và nơi đây cũng là cái nôi cho Hiệp hội Hồi giáo Việt Nam được hình thành vào năm 1959.
Xong chương trình Tú tài I, Dohamide chọn thi vào học Ban Tham sự Đặc biệt Cao Nguyên chương trình 2 năm (dành cho người sắc tộc thiểu số) thuộc Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và cũng là lần đầu tiên trong đời Dohamide được gặp một số bạn đồng khoá thuộc các sắc tộc Tây nguyên như Ê-đê, Churu, Jarai, Bahnar… và cả những người thiểu số Thái, Tày, Nùng di cư từ miền Bắc vào. Và đặc biệt hơn nữa, Dohamide còn có được hai người bạn Chăm tới từ Phan Rang, nhưng với cảm giác đau xót là họ đã không thể hiểu nhau bằng ngôn ngữ Chăm, vốn gốc là tiếng mẹ đẻ của mình, và cả ba không có cách nào khác hơn là phải dùng tiếng Việt pha với tiếng Pháp để trao đổi chuyện trò.
Dohamide tốt nghiệp Thủ khoa Ban Cao Nguyên (1958). Khi có thêm Tú tài II, Dohamide được học tiếp lên Ban Đốc sự Hành chánh Khoá 7 chương trình 3 năm, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (1959-1962). Sau khi tốt nghiệp, Dohamide được bổ nhiệm làm việc trong ngạch hành chánh công quyền. Từ năm 1956, do chánh sách có từ thời Đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà, quy định Việt Nam hoá tên họ các sắc dân thiểu số; theo anh Nguyễn Đắc Điều (Đốc sự Khoá 6), thì anh Dohamide không tự chuyển tên mình sang tiếng Việt, nhưng khi danh sách tốt nghiệp Đốc sự Khoá 7 (1962) trình lên Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì tên Dohamide đã trở thành “Đỗ Hải Minh”. [Nghị định bổ nhiệm đính kèm]
Hình 5: trái, Nghị định của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà hợp thức hoá việc bổ dụng 56 sinh viên tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Khoá VII năm 1962, tên Dohamide đã chính thức đổi thành Đỗ Hải Minh qua Nghị định này. [tư liệu Nguyễn Đắc Điều]; phải, Dohamide nay có tên Đỗ Hải Minh (người đứng ngoài cùng từ trái) tốt nghiệp Khoá VII Ban Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh 1962. [album gia đình anh chị Dohamide]
Năm 1964, Dohamide lập gia đình với cô giáo người gốc Việt Phan Thị Hoàng Hoa, lúc đó đang dạy học ở một trường trung học Gia Định. Cũng khi đó Dohamide được một vài bô lão Chăm có tinh thần Bangsa cực đoan nhắc nhở anh, việc vua Chăm Pô Rômê ngày xưa đã chết vì cưới vợ Việt.
Hình 6: Sau đại đăng khoa là tiểu đăng khoa: chú rể Chăm Dohamide với chiếc áo the đen, trao nhẫn cưới trong đám cưới với cô giáo Việt Phan Thị Hoàng Hoa, ngày 24.5.1964 trước khi đi Mỹ du học. [album gia đình anh chị Dohamide]
Là người Chăm, không thể không bị xúc động thấm thía khi được đọc về câu chuyện – dù biết rõ nội dung mang nặng tính huyền thoại dân gian – vị vua Champa đã say mê sắc đẹp mỹ nhân Yuôn (là tên người Chàm và người Khmer gọi người Việt), để rồi chính nàng Yuôn đã ra tay đốn cây Krêk vốn là tiêu biểu linh hồn Vương quốc Champa khiến phải bị địch bắt đi và chết thảm.
Nhưng rồi một đám cưới Chăm-Việt vẫn cứ diễn ra. Chú rể Chăm Dohamide và cô dâu Yuôn Phan Thị Hoàng Hoa sau này đã có một cuộc sống lứa đôi rất hạnh phúc, họ có được ba con: hai trai, một gái là con út đều thành đạt khi tới tuổi trưởng thành. [Hình 6]
Vào giai đoạn đó, trên Cao Nguyên Trung Phần đang dấy lên cuộc đấu tranh đòi ly khai của phong trào BAJARAKA (là chữ viết tắt của 4 sắc tộc Thượng lớn: BAhnar, JArai, RhAdé và KAho), họ phản đối chính sách phân biệt đối xử người Thượng của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà. BAJARAKA được coi là tiền thân của tổ chức FULRO về sau này.
Mặt Trận FULRO (tiếng Pháp: Front Unifié de Lutte des Races Opprimées) không chỉ bao gồm các sắc dân Thượng Tây Nguyên, mà được mở rộng kết hợp thêm với: (1) Mặt trận Giải phóng Champa (Front de Libération du Champa, FLC) tức FULRO Chăm, do Les Kosem (một tướng nhảy dù người Khmer gốc Chăm) lãnh đạo. (2) Mặt trận Giải phóng Kampuchea Krom của nhóm người Việt gốc Miên sống ở vùng Tây Nam Nam bộ (Front de Libération du Kampuchea Krom, FLKK) tức FULRO Khmer, do Chau Dera làm đại diện, để thành lập một tổ chức thống nhất gọi là FULRO: Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức
Do những biến động trên, Bộ Nội vụ VNCH lúc đó đã không bổ nhiệm những khoá sinh sắc tộc tốt nghiệp vào các nhiệm sở trên vùng Tây Nguyên. Dohamide ra trường được bổ nhiệm vào chức vụ không liên hệ gì tới Nha Thượng Vụ, riêng Dorohiêm, thì bị đưa ra vùng địa đầu Quảng Trị một thời gian 5 năm trước khi được về Sài Gòn làm chuyên viên văn hoá giáo dục các sắc tộc thiểu số.
Do Dohamide là thành phần người Chăm hiếm hoi có học, anh đã vận động và thành lập được một Hiệp Hội Chàm Hồi giáo Việt Nam từ 1959. Năm 1964, Dohamide được đề cử là Đại biểu Islam Việt Nam đầu tiên tham dự Hội nghị các nước Islam Đông Nam Á và Viễn Đông tại Kuala Lumpur, Malaysia. [Hình 11]
Năm 1972, anh đại diện Việt Nam tham dự Hội nghị Islam Thế giới tại Thánh địa Mecca, Ả Rập Saudi. Và cũng từ đây, Dohamide đã xây dựng được mối quan hệ chính thức giữa cộng đồng Chăm Islam nhỏ bé ở Việt Nam với Liên Minh Islam Thế Giới.
Hình 7: Ngày 13.4.1974, cộng đồng Chăm nồng nhiệt chào đón Dohamide trở về Sài Gòn sau một Hội nghị Quốc tế Hồi giáo tại thánh địa Mecca. [album gia đình anh chị Dohamide]
MỐI DUYÊN BÁCH KHOA
Và rồi không ai khác hơn, cũng chính là chủ nhiệm Lê Ngộ Châu, người có mắt xanh đã tìm ra và giới thiệu Dohamide trên báo Bách Khoa, và có thể nói Dohamide là người Chăm đầu tiên trở thành một tên tuổi quen thuộc với độc giả Bách Khoa từ thập niên 1960s, do loạt bài chuyên khảo về lịch sử và văn minh Champa.
Buổi đầu, Dohamide chập chững cầm bút tập viết các bài phóng sự tiếng Việt về người Chàm được chủ nhiệm Tam Mộc cho đăng trên nhật báo Buổi Sáng, tuần báo Thế Giới tại Sài Gòn. Dohamide khai thác đề tài “nghề chài rà của người Chàm Châu Đốc” do truyền thống của dân tộc Champa thời cổ rất giỏi nghề đi biển và chài lưới. Loạt bài được đón nhận hào hứng, Dohamide còn được đám độc giả Chăm bình dân yêu cầu khai thác thêm về đề tài “bùa ngải Chà Châu giang”. Đây cũng là dịp để cộng đồng nhỏ bé Chàm Châu Đốc trong khu xóm nghèo Nancy mới vừa học tiếng Việt đua nhau mua báo để được hiểu thêm về sinh hoạt nơi quê nhà.
Trong thời gian học chương trình Đốc sự tại Học Viện Quốc gia Hành Chánh, Dohamide có dịp được làm việc với GS Phó Viện trưởng Nghiêm Đằng và sau đó anh được giới thiệu với Giáo sư Nghiêm Thẩm là bào đệ của ông. GS Nghiêm Thẩm lúc đó là Giám đốc Viện Khảo cổ Sài Gòn, cũng là Giáo sư ngành nhân chủng học tại Đại học Văn Khoa. Nhờ cơ duyên ấy Dohamide được dịp tham khảo thêm các tài liệu của Viện Khảo cổ và Hội Nghiên cứu Đông Dương (Société des Études Indochinoises).
Vào cuối năm 1962, Dohamide đã hệ thống hoá được các ghi chép và viết loạt bài “Người Chàm tại Việt Nam ngày nay”. Loạt bài này tình cờ được ông Nguyễn Ngọc Nê, là một chuyên viên trong đoàn cố vấn Đại học Michigan đọc và lấy làm thích thú nên đề nghị chuyển tới tạp chí Bách Khoa, nơi anh Lê Ngộ Châu đang là chủ nhiệm kiêm chủ bút. Lê Ngộ Châu rất bén nhạy, thấy ngay đây là một “viên ngọc ẩn thạch”, nên đã mời ngay Dohamide tới gặp tại toà soạn Bách Khoa, 160 Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Chẳng mấy chốc, hai người trở thành đôi bạn tâm giao. Bách Khoa cũng là nơi tạo điều kiện cho Dohamide gặp gỡ trao đổi với các cây bút nổi tiếng khác như nhà văn Bình Nguyên Lộc tác giả một cuốn sách gây nhiều tranh cãi “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam”,học giả Nguyễn Văn Hầu nổi tiếng với các bài chuyên khảo về Nam kỳ lục tỉnh, vùng Thất Sơn Châu Đốc và cả học giả Nguyễn Hiến Lê về sau này.
Tiếp tục được sự khuyến khích và gợi ý các đề tài từ chủ nhiệm Lê Ngộ Châu, Dohamide đã viết được một loạt 36 bài trong bộ báo Bách Khoa 426 số, [cộng thêm hai bài trao đổi của hai học giả Nguyễn Văn Hầu và nhà văn Bình Nguyên Lộc]. Dohamide trở thành nổi tiếng như là một nhà văn hoá Chăm của tạp chí Bách Khoa.
Toàn bộ 426 số báo Bách Khoa nay đã được số hóa (digitized) và hoàn tất ngày 15/10/2017. Đây là công trình sưu tập của chị Phạm Lệ Hương một thủ thư lâu năm và anh Phạm Phú Minh chủ bút Diễn Đàn Thế Kỷ, nay được lưu trữ và phổ biến miễn phí trên Thư Viện Người Việt Online và độc giả có thể đọc tất cả các bài viết của anh Dohamide trên tạp chí Bách Khoa với link: https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/BachKhoa.php
Hình 8: Bìa số báo Bách Khoa 138 (1/10/1062) và bài viết “tang lễ và hôn nhân Chàm” tr.19-21 của Dohamide. [nguồn: thư viện Người Việt Online]
1/ Người Chàm tại Việt Nam ngày nay. Dohamide. Bách Khoa, số 135 (15/8/1962), tr.27-32
2/ Giới lãnh đạo thôn ấp Chàm ở Việt Nam. Dohamide. Bách Khoa, số 136 (1/9/1962), tr.9-13
3/ Cuộc sống gia đình của người Chàm. Dohamide. Bách Khoa 137 (15/9/1962), tr.11-16
4/ Tang lễ và hôn nhân Chàm. Dohamide. Bách Khoa 138 (1/10/1962), tr.19-21
6/ Sinh hoạt xã hội của người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 140 (1/11/1962), tr.17-22
7/ Sự trưởng thành của thanh thiếu nữ Chàm. Dohamide. Bách Khoa 141 (15/11/1962), tr.17-24
8/ Đời sống gia đình của người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 142 (1/12/1962), tr.31-34
9/ Tang lễ và tín ngưỡng của người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 143 (15/12/1962), tr. 21-26
10/ Tín ngưỡng của người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 144 (1/1/1963), tr. 25-28
11/ Một vài nhận xét về người Chàm tại Việt Nam ngày nay: Sự hiện tồn của ngôn ngữ Chàm. Dohamide. Bách Khoa 145 (15/1/1963), tr. 63-69
12/ Một vài nhận xét về người Chàm tại Việt Nam ngày nay: Viễn ảnh cuộc sống xã hội. Dohamide. Bách Khoa 146 (1/2/1963), tr. 19-23
13/ Vài vấn đề của cộng đồng người Chàm tại Việt Nam. Dohamide. Bách Khoa 147 (15/2/1963), tr.15-20
[13b — Nhân loạt bài người Chàm tại Việt Nam hiện nay của ông Dohamide, góp ý về: Bước phiêu lưu của người Chàm Châu Đốc. Nguyễn Văn Hầu. Bách Khoa 153 (15/3/1963), tr.33-39 ]
30/ Những khuôn mặt sầu chai đá của châu Mỹ la tinh. Dohamide. Bách Khoa 395 (8/8/1973), tr.35-41
31/ Thử bàn lại với nhà văn Bình Nguyên Lộc về “người Châu giang”. Dohamide. Bách Khoa 396 (30/8/1973), tr.23-30
[31b — Về người Châu Giang: trả lời ông Dohamide trên Bách Khoa 396. Bình Nguyên Lộc. Bách Khoa 398 (1/10/1973), tr.43-46]
32/ Những hiện tượng huyền bí trong tập tục Chàm. Dohamide. Bách Khoa 405 (15/2/1974), tr.13-16, tr.83-86
33/ Đi vào hội nghị Hồi giáo Mecca và kiểm điểm một chuyến đi. Dohamide. Bách Khoa 411 (1/7/1974), tr.43-54
34/ Thế lực dầu lửa1. Dohamide. Bách Khoa 418 (20/11/1974), tr.13-18
35/ Thế lực dầu lửa 2. Dohamide. Bách Khoa 419 (15/12/1974), tr. 15-22
36/ Sự thức tỉnh của các nước sản xuất dầu. Dohamide. Bách Khoa 420 (1/1/1975), tr.43-53
…
Loạt bài trên báo Bách Khoa là những tài liệu cơ bản cho tập sách “Dân tộc Chàm Lược Sử” xuất bản năm 1965 với lời tựa giới thiệu của giáo sư Nghiêm Thẩm, như “mở ra một cánh cửa sổ cho người Chăm có một tầm nhìn tổng hợp về lịch sử dân tộc gốc nguồn của mình”.
Do có được sự quan tâm của ông Sabarudine Cik, nguyên quyền Đại sứ Malaysia tại Việt Nam lúc đó, cuốn sách này cũng đã được dịch sang tiếng Anh “A Condensed History of Cham People” xuất bản ở Malaysia năm 1969. [1]
DU HỌC MỸ: DIỆN KIẾN CỰU TỔNG THỐNG TRUMAN
Với thành tích học vấn xuất sắc, Dohamide nhận được học bổng đi du học Mỹ, lấy bằng Cao học M.A. về Chánh trị tại học Đại học Kansas, Hoa Kỳ (1967).
Điều cực kỳ lý thú và không bao giờ quên đối với chàng sinh viên người Chăm Dohamide khi được gặp vị cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Harry S. Truman, sinh quán tại Kansas mà ai cũng biết là vị Tổng Thống đã chấm dứt cuộc Thế Chiến thứ Hai năm 1945 bằng quyết định ném hai trái bom nguyên tử xuống Nhật Bản.
Hình 9: Dohamide được diện kiến cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Harry S. Truman tại Kansas City 1966. [album gia đình anh chị Dohamide]
Sau đây là những dòng chữ của chính Dohamide ghi lại cuộc gặp gỡ đầy xúc cảm và nhớ đời với vị cựu Tổng Thống lừng lẫy của lịch sử Hoa Kỳ: [Hình 9]
“Có một sự việc khiến tôi – Dohamide, vô cùng phấn khởi đồng thời cũng rất hồi hộp. Đó là dịp duy nhứt trong đời tôi đột nhiên được mời, với tánh cách là một đại biểu sinh viên Việt Nam đến một khách sạn sang trọng ở thành phố Kansas tham dự buổi tiếp xúc của cựu Tổng Thống Harry S. Truman.
Để buổi gặp có ý nghĩa, mỗi sinh viên được dặn chào mừng vị cựu Tổng Thống bằng tiếng nói mẹ đẻ và tự giới thiệu tên họ, tên đất nước mình. Được mở cửa đưa vào phòng tiếp kiến, tôi đã mở lời chào mừng bằng tiếng Việt, và làm như lời nhắc của ban nghi lễ trong phần tự giới thiệu, nhưng không hiểu sao sau khi nói tên nước Việt Nam xong thì mường tượng như một bản năng chợt đến, tôi lại thêm “gốc Chàm”! Do đó đáp câu hỏi của Tổng Thống liền sau đó tôi đã phải cố gắng vận dụng tiếng Anh vốn hãy còn nặng giọng phát âm tiếng Pháp, lấy hết sức bình sinh làm rõ gốc nguồn Chàm này, và phương cách cho dễ hiểu nhứt không gì hơn là lấy trường hợp người da đỏ mà người Mỹ quen gọi là “Indian” có mặt tại các khu dành riêng (reservation) hiện có tại đất Kansas này, để so chiếu ra hình dung một người Chàm tại Việt Nam. Và quả nhiên, hiệu nghiệm, ông cựu Tổng Thống nói ngay là tại tiểu bang Kansas này có các nhóm người Indian cư ngụ và nhấn mạnh chánh phủ liên bang Hoa Kỳ tôn trọng nền văn hoá cổ truyền của họ…
Đi bách bộ trên con đường ngắn vào nhà trọ, tôi nôn nao ước phải chi có một đồng tộc Chăm bên cạnh ngay lúc đó, để cùng chia sẻ niềm xúc động đang dâng tràn trong người, sau buổi diện kiến có nói lên được từ “Champa” thân thương này…” [1]
Sau đó, Dohamide đã được một vị mạnh thường quân Mỹ giàu có bảo trợ cho về sống ở một nông trại mênh mông bát ngát của tiểu bang Kansas, và cả giúp cho Dohamide được đi thăm các khu dành riêng cho người da đỏ cùng các cơ sở dạy nghề dành cho các sắc dân thiểu số này tại một địa điểm lân cận.
TRỞ VỀ VIỆT NAM
Học xong chương trình Cao học / Master về Chánh trị học tại Đại học Kansas, Hoa Kỳ (1967), Dohamide trở về Việt Nam, trở lại với cuộc đời công chức nhưng công việc lại không liên quan gì tới ngành phát triển sắc tộc mới hình thành.
Sẵn có mối quan hệ chặt chẽ với giới chức Mỹ, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Dohamide được ông Châu Kim Nhân lúc đó đang là giám đốc Cơ quan Tiếp Vận Trung Ương, mời về hợp tác, sau này với chức vụ Phó Giám đốc. Tại đây, Dohamide đã cùng với các bạn đồng sự vượt qua được mọi nghi kỵ khó khăn, và đã tạo được mối giao hảo tốt đẹp giữa cơ quan Tiếp Vận Trung Ương VNCH và cơ quan Tiếp vận Viện trợ Mỹ USAID / Logistics (U.S. Agency for International Development) thời bấy giờ. [5]
GIAI ĐOẠN SAU 1975
Ngạch Đốc sự Quốc Gia Hành chánh được xem như thuộc thành phần quân cán chính cao cấp của chánh quyền cũ nên sau 1975, Dohamide và cả người em Dorohiêm đều phải đi trình diện tập trung cải tạo. Ban đầu là các trại giam ở miền Nam, sau đó từ trại giam Long Thành, Dohamide bị tống lên một đoàn xe bít bùng chở thẳng ra bến Tân Cảng, đổ xuống hầm con tàu Sông Hương, cùng với mấy ngàn tù nhân khác, trải qua hơn hai ngày đêm trên biển khơi ra tới Cảng Hải Phòng, để rồi từ đây Dohamide lần lượt chuyển qua các trại lao động khổ sai ngoài miền Bắc ngót 10 năm. Dohamide cũng không thể quên được vụ chạy giặc biên giới trong Cuộc Chiến Việt Trung 1979, xuống các tỉnh Trung du. Dù ở trại nào, thì tình cảnh cũng giống như mọi tù nhân khác, với ăn không đủ no đói không đủ chết, rét lạnh do quần áo không đủ mặc, và bệnh tật thì không thuốc men nhưng may mắn là Dohamide và cả người em Dorohiêm, ở tù lâu hơn, vẫn còn sống sót.
Năm 1984, từ trại tù miền Bắc, Dohamide được chuyển về Nam và sau đó được tha về ở tuổi đã ngoài 50, tóc đã nhuốm bạc với sức khoẻ suy yếu. Điều mà Dohamide coi như diễm phúc là được thấy lại đầy đủ ba đứa con bên cạnh mẹ chúng, tuy tất cả đều ốm o do thiếu ăn. Vợ anh, một cô giáo Việt dạy sử địa đã phải một mình hy sinh bươn chải nuôi nấng ba con, và trong suốt mười năm tù đày ấy, chị Dohamide Phan Thị Hoàng Hoa chỉ có thể ra Bắc “thăm nuôi” chồng có một lần. Rồi Dohamide chạnh nhớ tới lời khuyên năm xưa của một vài vị bô lão Chăm nhắc nhở anh sự việc vua Pô Rômê ngày xưa đã chết vì cưới vợ Việt. Nhưng nay anh vẫn còn sống, vẫn còn nguyên vẹn một mái ấm gia đình để trở về trong khi một số bạn tù Việt của anh thì có người lại không may mắn vì người bạn đời đã sang ngang.
Vẫn Tình Nghĩa Bách Khoa
Tuy chưa hết thời gian quản chế, Dohamide một hôm đi bộ trên đường Phan Đình Phùng, tìm tới toà soạn Bách Khoa thăm anh chị Lê Ngộ Châu. Sau ngót 10 năm gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, vẫn vui vẻ như thuở nào. Sau đó vài ngày, Dohamide được anh chị Lê Ngộ Châu “bồi dưỡng” (chữ của Việt Cộng từ trong tù cải tạo) cho một bữa ăn thịt bò nhúng dấm mà Dohamide bảo là vào đúng cơn thèm của một người vừa mới được trở lại với đời thường. Chị Lê Ngộ Châu, vẫn tinh tế như bao giờ, biết rõ Dohamide có đạo Islam không ăn được các món thịt heo.
Dohamide viết: “Tôi ghi lại đây bữa cơm này không phải chỉ vì cái ngon lâu ngày mới được thưởng thức lại, mà là vì cũng nhân bữa cơm này, tôi được gặp lại học giả khả kính Nguyễn Hiến Lê, người mà tôi đã học hỏi được rất nhiều, trước năm 1975, trên con đường tự học về những gì bản thân ưa thích, trong đó, có việc tìm hiểu về Bangsa Champa cội nguồn.
Trong buổi gặp này, bác Nguyễn Hiến Lê vẫn nhắc nhở, dù có thế nào, cũng đừng bỏ cuộc, cố gắng với sức mình và cùng khuyên anh chị em trẻ người Chăm quan tâm nghiên cứu thêm về Champa để đóng góp tiếng nói của chính người Chăm trong các vấn đề liên hệ tới cội nguồn cùng nền văn minh Champa.” Đây cũng là lần gặp cuối cùng trước khi bác Nguyễn Hiến Lê qua đời ngày 22/12/1984”. [1]
Hội Nhập hay Đi Kinh Tế Mới
Ra tù rồi, nhưng vẫn còn bị quản chế. Để khỏi phải đi vùng kinh tế mới, do là một chuyên viên, Dohamide xin vào làm trong Công ty xuất nhập khẩu Cholimex ở quận 5 Sài Gòn. Giám đốc Cholimex là mộtngười gốc Hoa, nguyên là nhà thầu chuyên chởcho Nha Tiếp Vận thời VNCH, đã biết anh Dohamide từ thời ấy. Cũng tại đây, Dohamide gặp lại một số anh em chuyên gia cũ như Trần Bá Tước, Huỳnh Bửu Sơn, Hồ Xích Tú…
Không lâu sau đó, cũng qua giới thiệu của các bạn cũ, Dohamide được mời tham gia sinh hoạt “Nhóm Thứ Sáu trong tổ tư vấn kinh tế” của Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Dohamide đã góp nhiều công sức để hình thành cơ quan Quản trị Đầu tư IMC / Investment Management Inc. và cùng các bạn đồng sự đã xây dựng được dự án liên doanh Khu chế xuất Tân Thuận.[4]
NHỮNG NĂM Ở HẢI NGOẠI
Chín năm sau khi ra tù, phải đến tháng 3/1993, qua bao nhiêu thủ tục giấy tờ phức tạp, qua chương trình H.O. / Humanitarian Operations, Dohamide cùng gia đình được xuất cảnh sang Mỹ. Nơi đến định cư đầu tiên là thị xã Frankfort thủ phủ của tiểu bang Kentucky, do Dohamide đã được một người Mỹ quen anh trước 1975 bảo trợ, chu đáo lo cho gia đình anh nơi ăn chốn ở buổi ban đầu.
Khi được tin Dohamide tới Mỹ, bà con đồng tộc Chăm từ các địa phương khác rất vui mừng. Dohamide đã được họ tới tấp gọi điện thoại hỏi thăm, có anh em còn mua vé máy bay tạo cơ hội cho Dohamide được đi thăm các tiểu bang có cộng đồng người Chăm sinh sống: từ miền đông Washington DC, New York, tới Chicago sang các tiểu bang miền Tây như Washington qua các thành phố Seattle, Olympia, tới California: Sacramento, San Jose, Santa Ana… Đi đến đâu Dohamide cũng thấy sự hình thành lớn mạnh của những cộng đồng Chăm hải ngoại, có nơi quy tụ được tới hơn 300 gia đình Chăm, sinh hoạt đủ các ngành nghề. Điều đáng nói là các bậc cha mẹ nay đã nhìn xa trông rộng, biết đầu tư vào sự học cho con cái, một số đã tốt nghiệp bậc Đại học, nhưng vẫn cố gắng giữ những tập tục cổ truyền từ bên nhà.
Đám thanh niên Chăm nhiều nhiệt huyết, vừa có cố gắng hội nhập vào dòng chính mainstream Hoa Kỳ, vừa có ý thức bảo tồn văn hoá Champa, và họ đã tổ chức được một “Liên minh người Chăm Tị nạn – Cham Refugee League”.
Các cộng đồng Chăm hải ngoại cũng đã thiết lập được những giáo đường / masjid riêng trên một số thành phố tại Hoa Kỳ, như: Seattle, Olympia, Sacramento, Pomona, Santa Ana… Nay do có thêm điều kiện tài chánh, nhiều người Chăm tại hải ngoại đã thực hiện được “giấc mơ làm haji”, đi hành hương sang tận thánh địa Mecca.
Cuối cùng gia đình Dohamide đã chọn về định cư tại Nam California nắng ấm như vùng đất lành chim đậu. Sau một thời gian ổn định được cuộc sống trên vùng đất mới, bắt đầu từ 2004 Dohamide đã có những chuyến về thăm Việt Nam, như một tiếp tục cuộc hành trình Bangsa Champa, tìm về cội nguồn.
CÁC SÁCH XUẤT BẢN
Văn Hoá:
1/ Dân tộc Chàm lược sử. Dohamide, Dorohiêm, Hiệp Hội Chăm Hồi Giáo Việt Nam in lần thứ nhất, Sài Gòn 1965. Tủ sách Chàm Châu Đốc tái bản lần 2 tại California, Hoa Kỳ 2016.
2/ Bangsa Champa: tìm về một cội nguồn cách xa. Dohamide, Dorohiêm, SEACAEF [Southeast Asian Culture and Education Foundation] & VIET FOUNDATION [Volunteers for the Integration of Ethnic Traditions], California, Hoa Kỳ 2004.
Bangsa Champa là một tác phẩm biên khảo nhưng khác với cuốn Dân tộc Chàm lược sử, các chương viết trong sách có tính cách ghi chép về văn hóa, tìm về cội nguồn và cuộc sống của dân tộc Chăm, đôi khi là các đoạn hồi ký mô tả đời sống của các nhóm người Chăm đang sống rải rác đây đó tại Việt Nam và cả ở hải ngoại.
Bangsa Champa: tìm về một cội nguồn cách xa, đã được tổ chức ra mắt tại hội trường báo Người Việt, trên con đường báo chí Moran, Little Saigon, ngày 8/1/2005 do Bác sĩ Phạm Gia Cổn thành viên sáng lập Viet Foundation [Volunteers for the Integration of Ethnic Traditions] điều phối, có thêm phần trình diễn văn nghệ Chăm, do Dorohiêm phụ trách, trên một sân khấu có hình ngọn Tháp Chàm uy nghi cổ kính. Một buổi ra mắt sách rất thành công trong một hội trường có sức chứa 300 người chật hết chỗ. [Hình 10]
Hình 10A: Buổi ra mắt sách Bangsa Champa tại hội trường báo Người Việt; trái, Tác gỉa Dohamide chào mừng quan khách, phải: Bác sĩ Phạm Gia Cổn, thành viên sáng lập Viet Foundation [Volunteers for the Integration of Ethnic Traditions], người điều phối chương trình ra mắt sách ngày 8/1/2005 tại hội trường nhật báo Người Việt, Little Saigon.[tư liệu Phạm Gia Cổn]Hình 10B: Chương trình văn nghệ Chăm do Dorohiêm tổ chức trong buổi ra mắt sách Bangsa Champa với các vũ điệu Chàm trước hình một Tháp Chàm cổ kính và uy nghi. [tư liệu Phạm Gia Cổn]
3/ Người Chăm Châu đốc, là một công trình biên khảo thứ ba của Dohamide và Dorohiêm có nội dung đi sâu vào tập tục truyền thống người Chăm Châu đốc, tác phẩm còn đang dở dang thì Dorohiêm bất ngờ bị đột quỵ mất ngày 5/1/2019; và nay, ngày 8/11/2021, Dohamide cũng đã trở thành “người trăm năm cũ”, và tất cả chỉ còn là những trang bản thảo.
Hình 11: trái, Bìa cuốn sách Dân tộc Chàm lược sử, đồng tác giả Dohamide, Dorohiêm, do Hiệp Hội Chàm Hồi Giáo Việt Nam in lần thứ nhất, Sài Gòn 1965; phải, Bìa trước và sau cuốn sách Dân tộc Chàm lược sử, do Tủ sách Chăm Châu Đốc tái bản tại Hoa Kỳ 2016. Hình ảnh nơi bìa sau, người đứng là Dohamide Đại biểu Chăm Hồi Giáo Việt Nam đang phát biểu ý kiến tại Hội nghị các nước Hồi giáo Đông Nam Á và Viễn Đông, họp tại Kuala Lampur, Malaysia tháng 2/ 1964. [tư liệu Phạm Lệ Hương]Hình 12: trái, Bìa cuốn sách Bangsa Champa: tìm về một cội nguồn cách xa; Dohamide, Dorohiêm là đồng tác giả; do SEACAEF & VIET FOUNDATION, California, Hoa Kỳ xuất bản 2004; cả hai cuốn sách trên vẫn bị cấm xuất bản tại Việt Nam cho tới nay; phải, hai anh em Dorohiêm (mất ngày 3/1/2019), Dohamide (mất ngày 8/11/2021). [tư liệu Phạm Phú Minh, photo by Ngô Thế Vinh]
Ngoài những buổi ra mắt sách chính thức, còn phải kể tới những buổi gặp gỡ “ra mắt sách bỏ túi” với các nhóm bạn quý mến anh Dohamide.
Hình 13: Dohamide đang cắt chiếc bánh Bangsa Champa trong một buổi ra mắt sách bỏ túi tại nhà hoạ sĩ Nguyễn Đình Thuần, Santa Ana 2018; từ trái, Nguyễn Đình Thuần, Dorohiêm, Nguyễn Quốc Thái, Dohamide, Phan Thị Lệ.[photo by Ngô Thế Vinh]Hình 14: từ trái, Dorohiêm, Phạm Phú Minh, Dohamide, Hoàng Xuân Trường, Phạm Gia Cổn, Tôn Nữ Thu Nga, Song Thao, Phùng Minh Tiến, Thành Tôn, Nguyễn Mạnh Trinh. Ba người trong hình, Dorohiêm (2019), Dohamide (2021), Nguyễn Mạnh Trinh (2021) nay đã là Người Trăm Năm Cũ. [hình chụp tại Cafe Factory, Little Saigon 3/2018, tư liệu Phạm Phú Minh]
Sách Tôn Giáo:
— Sự nghiệp Nabi Muhammad (1994)
—Đạo Islam: đức tin và các ứng dụng. Hammuđah Abđalali, Dohamide Abu Talib. Tủ sách tìm hiểu Islam, California 1995
—Xoá tan các ngờ vực về Islam. Dohamide Abu Talib, The Islamic Society of Indochina, Inc. California, Hoa Kỳ 2015.
DOHAMIDE VÀ INRASARA
Trong cuốn Bangsa Champa, nơi Chương 8, khi giới thiệu chân dung những đứa con ưu tú của Champa, Dohamide đã giới thiệuPhú Trạm, bút hiệu Inrasara đang sống trong nước, như một học giả Chăm đầy triển vọng đang vươn lên.
Dohamide viết:
“Đặc biệt nhứt và sáng chói nhứt, có thể nói là Inrasara, là một học giả say sưa dấn thân vào sự nghiệp nghiên cứu văn hóa Chăm được thể hiện qua văn học Chăm là công trình nghiên cứu xuất sắc, có giá trị lịch sử, nội dung soi rọi và khai thác một cách có hệ thống kho tàng văn học Champa từ lâu đã được một vài học giả Pháp quan tâm tìm hiểu nhưng chỉ mới tiếp cận được từng mảnh tản mác rời rạc. Công trình nghiên cứu văn học Chăm của Inrasara đã mang đến niềm tự hào chung cho Bangsa Champa.
Độc đáo nhứt là Inrasara đã đơn thân độc mã hình thành và ấn hành tập san chuyên đề xuất bản định kỳ, lấy tênTagalau. Đóng góp quý báu của Inrasara là đã làm cho tập san Tagalau thành một nơi gặp gỡ của các cây bút người Chăm từ những ngành nghề khác nhau, cùng chung một tâm huyết, thể hiện các suy tư đa dạng và nhận định độc đáo của mình xuất phát từ trong lòng xã hội Chăm.
… Inrasara, nhà thơ đồng thời là học giả trẻ người Chăm mà tiềm năng sáng tạo phong phú và cao sâu đang độ bừng lên trong dòng chánh lưu của xã hội Việt Nam đương thời.”[1]
Hình 15: Những đứa con ưu tú của sắc tộc Chăm; trái, Dohamide sinh năm 1934, Dorohiêm sinh năm 1937, cả hai sinh ra và lớn lên ở làng Katambong, Châu Đốc thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long; phải, Phú Trạm sinh năm 1957, (sau hơn một thế hệ, 23 năm), sinh ở tỉnh Ninh Thuận, Trung Phần Việt Nam, bút hiệu Inrasara, được Dohamide nhận định: “Inrasara là một nhà thơ Chăm nổi tiếng, một học giả dấn thân vào nghiên cứu văn hóa Chăm với các công trình nghiên cứu xuất sắc, có giá trị lịch sử, nội dung soi rọi và khai thác một cách có hệ thống kho tàng văn học Champa, đã là niềm tự hào chung cho Bangsa Champa”.[1]
Và đây là những dòng đầy hoài niệm, Phú Trạm Inrasara viết về hai anh em Dohamide, Dorohiêm:
“Vào Đệ Thất trường Pô-Klong, cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Dân tộc Chàm lược sử. Không biết từ đâu nó rơi vào tay tôi, để tôi dính luôn vào nó. Ở nhà quê có đâu sách mà đọc, vậy là cứ nhai đi nhai lại đến thuộc lòng.Năm 1992, vào Sài Gòn làm việc, tôi đạp xe qua gặp ngay anh. Lần nữa, trước khi qua Mỹ, anh mời tôi sang nhà. Anh kiệm lời, tôi thì ít nói, thế nên chúng tôi gần như không nói gì nhiều. Chỉ nhớ anh dặn tôi trau giồi sinh ngữ, văn hóa và lịch sử dân tộc, và gửi gắm tâm sự: Cần nhiều tấm lòng và thái độ hơn nữa để giúp hai bộ phận Chăm [Đông và Tây] xích lại gần nhau.Thời gian sau đó chúng tôi thường xuyên trao đổi sách vở, thư từ. Khoảng 2004 anh về Việt Nam ghé nhà tôi tại quận Tư, anh em hàn huyên chuyện tình cảm mà không gì khác. Tiếc, tôi đã không có lấy tấm ảnh chung trong khi máy ảnh ở nhà sẵn đó!Đó là lần cuối chúng tôi gặp mặt nhau.” [6]
Với tác phẩm thứ hai “Bangsa Champa, Tìm về một cội nguồn cách xa”, Inrasara viết tiếp:
“Tôi muốn mượn lời Henry Miller để nói về công trình này: đây không phải là tác phẩm, đụng đến nó là bạn đụng đến con người. Bangsa Champa nói lên đầy đủ con người Dohamide – Dorohiêm: Đứa con của Đất, yêu tha thiết quê hương, đau đáu nỗi niềm dân tộc, làm tất cả những gì có thể để mang quê hương đến với mỗi đứa con Chăm, và mang Chăm về hội lại một quê chung.”[6]
MỘT CHÚT RIÊNG TƯ
Văn kỳ thanh, tôi biết anh Dohamide từ hồi báo Bách Khoa, sau này thân thiết với anh là do có cùng mối quan tâm tới các sắc dân thiểu số: vấn đề người Thượng ở Tây Nguyên, người Chàm Phan Rang Phan Rí ở miền Trung, người Chăm Islam ở Châu Đốc, Tây Ninh và Cambodia. Từ thời làm báo sinh viên Y khoa Tình Thương và sau đó trong thời gian quân ngũ, tôi đã có dịp tìm hiểu thêm và cả tiếp cận với những sắc dân thiểu số.
Dohamide có đọc cuốn Vòng Đai Xanh, và sau này là hai cuốn sách Mekong của tôi. Tôi thì đọc các bài viết và hai tác phẩm về văn hoá Chăm của anh. Chính anh Dohamide đã viết một bài tựa có lẽ là hay nhất cho cuốn Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng trong dịp tái bản 2014.
Vào thập niên 1990, anh Dohamide có được đọc bản thảo một bài viết của tôi “Những Đứa Con của Núi Rừng”, và sau này khi Vòng Đai Xanh tái bản lần thứ ba (2018), có thêm bài viết này nhưng với các thông tin mới được cập nhật, với nhan đề “Người Thượng Đôi Bờ”.
Từ Vòng Đai Xanh 1970
tới Người Thượng Đôi Bờ 2017
Tin VOA, 15/ 03/ 2017. 6 người Thượng ở Tây Nguyên xin tị nạn với lý do bị đàn áp chính trị và tôn giáo vừa bị trả về Việt Nam hôm thứ Ba, sau khi Campuchia bác đơn xin tị nạn của họ. Cambodia Daily cho hay trong 6 người, có một bé gái dưới 10 tuổi. Nhóm người này đã được các giới chức Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) hộ tống qua biên giới để trở về Việt Nam, theo lời ông Sok Sam An, Phó chỉ huy trạm kiểm soát biên giới O’yadaw ở tỉnh Ratanakiri, Campuchia… Trong khi đó, Cambodia Daily dẫn lời người đứng đầu Dịch vụ Tị nạn Jesuit, tổ chức hỗ trợ người Thượng ở Phnom Penh, cho biết hiện vẫn còn 143 người đang chờ quyết định về số phận của họ. Làn sóng người Thượng mới nhất vượt biên sang tỉnh Ratanakiri bắt đầu vào cuối năm 2014. Nhưng làn sóng này đã chậm lại sau khi xảy ra hàng chục vụ trục xuất trở về Việt Nam. Cho tới nay, chỉ có 13 người Thượng được cấp quy chế tị nạn và tới Philippines vào tháng 5, trong khi hàng chục người khác bị trả về Việt Nam. [hết lược dẫn]
NGƯỜI THƯỢNG Ở VIỆT NAM
Người Thượng là tên gọi chung cho khoảng 29 sắc dân bộ lạc sinh sống trên vùng Cao nguyên Trung phần Việt Nam, nói nhiều thứ ngôn ngữ, mặc nhiều thứ y phục, chủ yếu sống bằng du canh và săn bắn. Họ quen sống trên những ngôi nhà sàn, nuôi thêm các loại gia súc: trâu bò heo gà. Ngày nay tại một số ít buôn bản, người Thượng vẫn còn giữ được những nghi thức sinh hoạt bộ lạc cổ truyền, rất hấp dẫn và thu hút du khách.
Trước các cuộc chiến tranh, có thể nói người Thượng có một cuộc sống xa xôi cách biệt hẳn với người Kinh ở đồng bằng. Nhưng cuộc sống thanh bình ấy hầu như đã bị kết thúc kể từ Thế Chiến Thứ Hai.
Với cuộc chiến tranh Việt Pháp chín năm, lần đầu tiên người Thượng đã phải thật sự va chạm với thế giới bên ngoài. Cuộc chiến ấy kết thúc với sự thất trận của người Pháp. Hiệp định Genève chia đôi Việt Nam và chánh quyền miền Nam được giao cho quyền kiểm soát cả một vùng Cao nguyên Trung phần rộng lớn với khoảng 1,5 triệu người Thượng thuộc nhiều bộ lạc khác nhau sống rải rác trong các vùng rừng núi phía đông dãy Trường Sơn. Ý thức được tầm quan trọng chiến lược của vùng địa bàn Cao nguyên, ngay từ những tháng đầu tiên, chánh phủ Sài Gòn đã tung ra hàng loạt các nỗ lực đồng hóa người Thượng vào đời sống xã hội người Việt mà không kể gì tới những sắc thái văn hóa đặc thù của riêng họ. Quy chế Hoàng Triều Cương Thổ riêng biệt dành cho người Thượng có từ thời vua Bảo Đại, đã bị ông Diệm hủy bỏ (từ tháng 3/1955). Có nghĩa là không còn chính sách đãi ngộ và tôn trọng quyền lợi đặc biệt của những người thiểu số. Với chính sách Dinh điền, hàng chục ngàn người dân công giáo di cư từ miền Bắc đã được đưa lên Cao nguyên định cư, xâm phạm cả những vùng đất đai màu mỡ đã từng là sở hữu của người Thượng qua nhiều thế hệ. Cộng thêm với vô số những lỗi lầm khác của chánh quyền thời bấy giờ, như ra lệnh đóng các tòa án phong tục Thượng, ngăn cấm các thổ ngữ và hạn chế số người Thượng có khả năng và có học tham gia vào các cơ cấu hành chánh. Thái độ bất mãn và không hợp tác của người Thượng và cả chống đối nữa là điều rất dễ hiểu.
Vào đầu thập niên 1960, cùng với sự tham dự trực tiếp của người Mỹ vào cuộc Chiến Tranh Việt Nam – tình cảnh của người Thượng hầu như đã hoàn toàn đổi khác. Người Thượng đã tiếp đón người Mỹ bằng vòng tay rộng mở, với những ràng buộc gắn bó nảy nở từ cả hai phía. Các cố vấn Mỹ cần người Thượng giúp đỡ họ thu thập các tin tức tình báo về sự xâm nhập và di chuyển của quân đội cộng sản. Trong khi đó người Thượng lại tin tưởng rằng, những người bạn Mỹ có thể bảo vệ họ chống lại sự đe dọa từ cả hai phía người Việt, [dù là cộng sản hay không], hơn thế nữa cả bảo đảm nền tự trị của họ một mai khi cuộc chiến tranh chấm dứt.
Và trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam, người Thượng luôn luôn là nạn nhân kẹt giữa các thế lực tranh chấp. Khoảng năm 1972, giới quân sự Mỹ ước lượng rằng đã có khoảng 200 ngàn người Thượng bị chết trong các cuộc giao tranh, với khoảng 80 phần trăm buôn ấp có tự lâu đời hoàn toàn bị phá hủy và những bản đồ sắc tộc đã chẳng còn mang một ý nghĩa nào.
Đến năm 1975, bối cảnh chánh trị và quân sự Việt Nam càng ngày càng suy thoái. Sau biến cố mất Ban Mê Thuột, bằng một quyết định sai lầm có tính cách chiến lược của ông Thiệu khi bỏ Cao nguyên, với hậu quả là một cuộc di tản đẫm máu, kéo theo sự tan rã hoàn toàn của chánh quyền Sài Gòn.
Dưới chế độ cộng sản mới, hàng ngàn người Thượng do bị nghi ngờ đã sát cánh chiến đấu với người Mỹ, bị hành hạ tù đày trong các trại cải tạo, một số lãnh tụ Thượng bị hành quyết và những người dân Thượng sống trong các buôn bản cũng bị kiểm soát rất chặt chẽ khiến cuộc sống của họ càng ngày khốn khổ và trở nên bi đát hơn.
Một số người Thượng khác đã chọn cầm vũ khí, tìm tự do trong rừng sâu, chống lại chế độ mới. Nhưng họ đã bị tổn thất nặng nề do nhà nước Hà Nội có hỏa lực nhiều lần mạnh hơn. Nhóm người Thượng này đã phải chạy sang Lào rồi Cam Bốt cuối cùng cho dù kiệt sức, họ cũng thoát được sang được Thái Lan. Qua bao nhiêu vận động và thủ tục, lần đầu tiên có một nhóm đông đảo 213 người Thượng được vào Mỹ và cuối cùng đi định cư ở tiểu bang North Carolina, nơi có những người bạn cựu chiến binh Mũ Xanh Mỹ chờ đón và giúp đỡ họ.
Vẫn tại Việt Nam, với không ngừng các đợt di dân lên Cao nguyên, cho tới năm 2000, dân số trên các tỉnh Tây nguyên đã tăng vọt lên tới con số 4 triệu, mà đa số lại là người Kinh đến từ đồng bằng. Chỉ còn khoảng 1 triệu người Thượng với ngót 30 sắc tộc bao gồm 6 bộ lạc lớn chính như: Jarai (320 ngàn), Rhadé (258 ngàn), Bahnar (181 ngàn), Koho (122 ngàn), Mnong (89 ngàn) và Stieng (66 ngàn). Và người Thượng nay trở thành thiểu số trên chính vùng đất đai vốn là quê hương của họ.
Với áp lực di dân khổng lồ và ồ ạt của người Kinh [do chính sách của Nhà nước cộng sản hoặc từ các cuộc di dân tự phát], người Thượng hầu như không còn không còn có được một khoảng không gian sinh tồn, họ không có cách nào duy trì được nếp sinh hoạt du canh truyền thống vì họ đã hoàn toàn bị tước đoạt quyền kiểm soát đất đai trước đây là của họ. Họ phải chấp nhận sinh sống trên từng mảnh vườn nhỏ, làm thuê trên những vùng trồng trà hay cà phê của người Kinh; họ cảm thấy bị kỳ thị và bị bóc lột ngay trên vùng đất đai vốn là của tổ tiên họ.
Hình 16: Nhóm người Thượng vượt biên bằng đường bộ từ Việt Nam sang tỉnh Ratanakiri, Cam Bốt 22/07/2004 [nguồn: Reuters]
Tôn giáo nguyên thủy của người Thượng là đa thần và thờ cúng những vật linh, với nhiều nghi thức thường thấy như cảnh giết trâu hay súc vật khác trong các buổi tế lễ. Nếp sinh hoạt ấy vẫn còn được duy trì nơi một số ít buôn bản Thượng ở Việt Nam.
Nhưng cũng do có các đoàn truyền giáo Tây phương [Pháp và Mỹ] hoạt động rất mạnh trên Cao nguyên từ những thập niên 1930, càng ngày càng có đông số người Thượng theo đạo Tin lành, một số khác ít hơn theo đạo Thiên chúa [có khoảng 150 ngàn theo đạo Thiên chúa].
Trong số một triệu người Thượng ở Cao nguyên hiện nay, ước định có khoảng hơn 300 ngàn người theo đạo Tin lành — hay còn được gọi là Tin Lanh Dega. Từ thập niên 1990, theo nhận định của Human Rights Watch, Tin Lanh Dega trở nên càng ngày càng hấp dẫn đối với người Thượng không phải chỉ có thuần đức tin tôn giáo mà nó còn được kết hợp với khát vọng độc lập và niềm kiêu hãnh về văn hóa. Đó như một kết hợp chánh trị và tôn giáo khá tinh vi. Trong những buổi lễ rao giảng đạo cùng một lúc cầu nguyện cho một quê hương độc lập không phải là hiếm có.
[Dega có nguồn gốc từ tiếng Rhadé: Anak Ede Gar có nghĩa là Những Đứa Con của Núi Rừng – một từ ngữ đã được người Thượng chính-trị-hóa / politicized để chỉ chung cho các nhóm sắc dân thiểu số sống trên Caonguyên. Nhiều người Thượng không muốn dùng từ Montagnard vì cho đó là sản phẩm của thời thực dân Pháp. Giới quân sự Mỹ trên Cao nguyên trong thời Chiến Tranh Việt Nam gọi họ là Yard, được người Thượng chấp nhận dễ dàng hơn nhưng đó cũng chỉ là một từ rút ngắn từ chữ Montagnard].
NGƯỜI THƯỢNG Ở MỸ
Vào thời điểm 1975, hầu như không có người Thượng nào có cơ hội di tản khỏi Việt Nam cho dù trước đó họ đã cộng tác rất chặt chẽ với người lính Mũ Xanh Mỹ trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
Trước 1986, chỉ có khoảng không quá 30 người Thượng sống rải rác trên đất nước Mỹ. Tới khoảng năm 1987, mới có một đợt những người Thượng tị nạn đầu tiên từ Thái Lan tới Mỹ. Họ khoảng 200 người đa số là đàn ông, được đưa tới định cư tại tiểu bang North Carolina.
Vào tháng 12/1992, thêm một nhóm khoảng 402 người Thượng từ Tây nguyên vượt biên sang các tỉnh Mondulkiri và Ratanakiri bên Cam Bốt. Giữa hai lựa chọn phải trở về Việt Nam hay được phỏng vấn cho đi định cư tại Mỹ, đa số đã chọn giải pháp thứ hai: họ gồm 269 đàn ông, 24 phụ nữ và 80 trẻ em.
Cho tới năm 2000, con số người Thượng ở Mỹ tiếp tục gia tăng. Họ bao gồm từng nhóm nhỏ người Thượng vào Mỹ, hoặc với tính cách tị nạn sau khi được ra khỏi các trại cải tạo của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, hoặc được đi theo các diện đoàn tụ ODP [Orderly Departure Program], hoặc theo diện con lai [thường cha là lính Mỹ, mẹ là những người đàn bà Thượng bị bỏ rơi lại từ cuộc Chiến Tranh Việt Nam trước đây], hầu hết cũng đều được đưa tới định cư tại North Carolina.
Theo thống kê dân số năm 2000, riêng tại bang North Carolina đã có khoảng hơn 3000 người Thượng, nơi định cư đông nhất của người Thượng bao gồm khoảng 2000 người ở Greensboro, 700 ở vùng Charlotte, 400 ở Raleigh.
Vào tháng 2/2001, tại Việt Nam lại xảy ra biến cố gây nhiều tiếng vang trong giới truyền thông quốc tế và cả tạo phản ứng từ các tổ chức bảo vệ nhân quyền: nhiều ngàn người Thượng đã đồng loạt biểu tình trên các tỉnh Cao nguyên đòi độc lập, đòi lại đất đai của tổ tiên và đòi quyền tự do tôn giáo. Và cũng là điều khiến mọi người khá ngạc nhiên là các phương tiện high-tech đã được người Thượng bên trong cũng như bên ngoài vận dụng rất hữu hiệu trong cuộc tranh đấu của họ, như liên lạc điều hợp bằng cellular phone, email và thông tin nhanh chóng qua các mạng lưới Internet. Nhà nước cộng sản Việt Nam đã thẳng tay trấn áp mạnh mẽ khiến ngót một ngàn người Thượng phải chạy sang Cam Bốt. Một số đã bị quân đội cộng sản Việt Nam truy lùng và cưỡng bách trở lại Việt Nam. Phủ Cao Ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc [UNHCR] đã phải can thiệp, và đa số đã bày tỏ nguyện vọng không muốn trở lại Việt Nam. Cuối cùng vào năm 2002, thêm số 900 người Thượng nữa được nhận vào Mỹ và cũng được tới định cư tại North Carolina. Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây về một tình cảm chia sẻ ấm áp của cộng đồng người Việt sống tại Nam California đối với đợt những người Thượng mới tới này bằng buổi đón tiếp họ ở phi trường và một số hiện kim tượng trưng đã được quyên góp.
Những người Thượng tới Mỹ sớm trước hoặc sau, tất cả đều có mẫu số chung là những khó khăn của bước đầu hội nhập với một môi trường và cảnh vực hoàn toàn xa lạ với họ. Cho dù từ những bộ lạc sắc tộc khác nhau nhưng họ đều xuất thân từ vùng rừng núi Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Ngôn ngữ của các nhóm sắc tộc Thượng này có gốc gác từ hai nhóm Mon-Khmer và Malayo-Polynesian. Đông nhất là người sắc tộc Rhadé.
Tưởng cần nên nhấn mạnh ở đây là những người Thượng Tây nguyên có nguồn gốc chủng tộc khác hẳn và không có liên hệ gì với người Hmong ở Lào sống phía tây dãy Trường Sơn và các sắc tộc thiểu số khác trên vùng thượng du miền Bắc Việt Nam.
Với những người Thượng đã vào Mỹ, đa số theo đạo Tin lành, một số khác khoảng một ngàn người theo đạo Thiên chúa. Các nhà thờ và trường đạo dần dà trở thành định chế sinh hoạt xã hội của người Thượng sinh sống ở Mỹ.
Hình 17: 14 em học sinh Thượng trên đất Mỹ, tại trường học Brookstones, vùng Westerly Hills, Charlotte, North Carolina [nguồn: http://brookstoneschools.blogspot.com 16.09.2014]
Cũng như với những người Chăm [sống ở Việt Nam hay bên Cam Bốt] khi chọn theo đạo Hồi, cho dù đó không phải là đạo gốc của họ, người Thượng khi chọn theo đạo Tin lành, đối với họ có ý nghĩa như tìm tới một sự cứu rỗi, xác định và tìm lại một thứ căn cước chủng tộc đang bị tiêu vong và giúp họ sống còn với đầy đủ nhân phẩm và cả bảo tồn văn hóa.
Đời sống gia đình và xã hội của người Thượng khi còn ở Việt Nam, giữ nét mẫu hệ, con cái mang họ mẹ. Người đàn bà đóng vai chủ động và quán xuyến mọi chuyện trong gia đình và thường chọn chồng trong cùng một sắc tộc với mình.
Nhưng với những người Thượng di cư vào Mỹ thì nếp sống ấy đã thật sự phải thay đổi: dù là đàn ông hay đàn bà thì cũng phải cùng nhau chia sẻ công việc trong gia đình và ngoài xã hội, và đã có những cuộc hôn nhân giữa các sắc tộc khác nhau, bắt nguồn từ một nét rất đặc thù của cộng đồng người Thượng trên đất Mỹ, đó là tình trạng “trai thừa gái thiếu”, nên đã có nhiều cuộc hôn nhân giữa người đàn ông Thượng với các phụ nữ thuộc ngoài chủng tộc như với người Lào, Cam Bốt, Việt Nam và ngay cả với người Mỹ.
Với thế hệ thứ nhất người Thượng tới Mỹ thường gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề hội nhập, do trình độ hiểu biết rất hạn chế lại thêm sự khác biệt quá lớn về phong tục và văn hóa nên đã có những va chạm với cộng đồng địa phương là điều không thể tránh, ví dụ như những vi phạm thường xuyên luật lệ ở Mỹ như say rượu lái xe, chạy xe không có bảo hiểm, các sinh hoạt nhà cửa vệ sinh thiếu tiêu chuẩn như cảnh phơi thịt cá khô trước nhà, đem bày hết đồ đạc cả ra ngoài sân…
Họ phải chấp nhận làm những công việc tay chân nặng nhọc trong các hãng xưởng, cả vợ và chồng đều phải đi làm, có người phải làm hai jobs với đồng lương tối thiểu để trả tiền nhà và nuôi đám con cái ăn học.
Với những người Thượng trẻ thuộc thế thệ thứ hai, họ có khả năng thích nghi mau chóng với nếp sống Mỹ quốc, từ trang phục cho tới cách ăn uống fast food, nói thông thạo tiếng Anh và được tới trường đi học.
Nếu lớp người trẻ này được hướng dẫn và không bị lạc lối, số có học sẽ có khả năng trở thành tầng lớp lãnh đạo Cộng Đồng Người Thượng Đôi Bờ trên đất Mỹ và trên đất Việt trong tương lai.
NGÔ THẾ VINH
California, 12/2003 cập nhật 03/2017
Đọc xong Vòng Đai Xanh và bản thảo bài viết “những đứa con của rừng núi”, anh Dohamide viết thư cho tôi:
Hình 18: Thư anh Dohamide Đỗ Hải Minh gửi Ngô Thế Vinh, viết ngày 29.12.1994. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Đỗ Hải Minh
2533 E. Park Lane # B
Anaheim, CA 92806, U.S.A
29 – XII – 1994
Kính Anh Vinh,
Vừa nhận được sách in từ Washington D.C. gởi qua, cũng vừa nhận được 2 cuốn sách anh gửi tặng. Cảm động nhất là khi đọc qua quyển tiểu thuyết “Vòng Đai Xanh” của anh, vì vừa qua như anh đã rõ, cộng đồng người Chăm đã tổ chức lễ Ka tê cổ truyền ở San Jose, nhân đó anh em Thượng có đến dự. Đối với tôi, đây là lần đầu, sau 19 năm mới được gặp lại các anh em trong giới người thiểu số. Tâm trạng chung, người Thượng đều tỏ ra chán chường và bất mãn, nếu không nói là căm thù người Kinh, mà anh em nghĩ dù là Cộng Sản hay Quốc Gia thì đều có chánh sách tiêu diệt họ. Còn lại hai anh em K’Brink và K’Broi trước có học tại Mỹ, có quan điểm hoà dịu hơn, còn lại thì đều tỏ ra quyết liệt.
Hình 19: trái, Vòng Đai Xanh, Nxb Thái Độ xuất bản lần đầu tiên tại Sài Gòn 1970, phải, Vòng Đai Xanh – The Green Belt Bilingual Edition Việt Ecology Press xuất bản 2021 tại Hoa Kỳ với bài viết “những đứa con của rừng núi” hay “Người Thượng đôi bờ”.
Góc độ tiếp cận của anh ở đoạn mở đầu “những đứa con của rừng núi” khá độc đáo. Tôi định sau khi xem xong, tuần tới tôi sẽ chuyển cho anh K’Brink, để cho anh em Thượng thấy không phải tất cả người Kinh là xấu với họ. Anh K’Brink là người đích thân về tổ chức rước anh em Thượng cuối cùng từ trong rừng ra, sau bao nhiêu gian khổ kêu gọi, thuyết phục.
Nhờ có anh Lê Ngộ Châu sang, tôi mới có dịp gặp anh; mong rằng từ đây anh em mình sẽ thỉnh thoảng liên lạc với nhau.
Tôi sang đây quá trễ, nên đang còn loay hoay lo ổn định cuộc sống gia đình, nhưng đồng thời do những quan hệ trước đây với tổ chức Hồi giáo Thế giới tại Ả Rập Saudi, tôi tận dụng thì giờ tìm hiểu sâu về Hồi giáo – loạt sách tôi sẽ in ra trong giai đoạn này thích hợp với chính người Hồi giáo hơn. Dù sao, xin tặng anh, mong có dịp tham khảo. Xin cám ơn anh nhiều.
Thân,
Dohamide
NHỮNG CỘI NGUỒN BẤT AN
Dohamide với suốt một cuộc đời đau đáu đi tìm về cội nguồn, chỉ mong sao phục hồi được nền văn hoá Champa như một căn cước của dân tộc Chăm nhưng rồi cuối đời Dohamide cũng phải đứng trước những “Cộng đồng Chăm Đôi bờ”.
Ý thức về nhu cầu hòa nhập vào xã hội Việt Nam, Dohamidecó cách nhìn ôn hoà, rộng mở và tin tưởng vào con đường văn hoá. Anh ao ước hai tập sách Dân tộc Chàm Lược sử cũng như tập Bangsa Champa được phổ biến rộng rãi trong các thế hệ thanh niên Chăm không chỉ ở hải ngoại mà cả ở trong nước, để họkhông bị lôi cuốn vào phong trào “hận thù mất nước”, đang được nhóm đồng tộc Chăm cực đoan Champaka khích động theo chủ thuyết “dân tộc bản địa” – như một khuynh hướng phục quốc và ly khai, với những vận động quốc tế, họ kéo nhau đi trình diễn cả ở diễn đàn Liên Hiệp Quốc ở Genève.
Họ phủ nhận hướng đi theo con đường hoà bình của Dohamide, và cho rằng Dohamide đã thoả hiệp nếu không muốn nói là đầu hàng. Điều ấy khiến Dohamide vô cùng nặng lòng vào những năm cuối đời.
Hình 20: trái, Hội nghị về Champa 2017 tại San Jose, California, để tưởng nhớ 185 năm Vương Quốc Champa bị xoá tên; phải, Po Dharma (1945-2019) nguyên chiến sĩ FULRO, du học Pháp 1972, tốt nghiệp tiến sĩ Đại học Sorbonne về Lịch sử và Văn Bản Học 1986, là thành viên khoa học Trường Viễn Đông Pháp (École française d’Extrême-Orient), Po Dharma là bộ óc trí tuệ của tổ chức IOC – Champa, nêu chủ thuyết “dân tộc bản địa” và đòi quyền tự trị cho sắc tộc Chăm.
Người viết vẫn có những trao đổi với anh Dohamide và cả hai cùng nhau đồng ý rằng: chừng nào Việt Nam chưa là một đất nước dân chủ, chưa có một chính sách đối xử hợp lý, công bằng và nhân đạo với các sắc dân thiểu số, thì mọi cội nguồn bất an – roots of unrest, vẫn còn đó. Sự ổn định bằng trấn áp như hiện nay không phải là giải pháp dứt khoát và lâu dài cho một quốc gia phát triển trong bối cảnh toàn cầu theo một chiều hướng bền vững.
SALAMAT: LỜI CHÚC ĐẦU NĂM
Dohamide là một khuôn mặt đa diện và cả rất bí ẩn, anh hoạt động không mỏi mệt trong rất nhiều lãnh vực từ tuổi thanh xuân cho tới những năm cuối đời: từ trong bộ máy chính quyền VNCH, với người Mỹ qua USAID, CORP, Air America, với nhà nước Cộng Sản sau 1975, với tư cách là thành viên Nhóm Nghiên Cứu Thứ Sáu, cùng những liên hệ với thế giới Hồi giáo nhưng đi xa hơn cả vấn đề tôn giáo.
Với người viết, trong sự tin cậy, Dohamide đã cởi mở với mọi điều, kể cả những điều mà anh gọi là tế nhị và rất nhạy cảm. Bài viết này chỉ với trọng tâm là một Chân Dung Văn Hoá của Dohamide; riêng với những phần khác vẫn trong một vùng xám, người viết xem như “ngoài phần ghi chép – off records” để được Anh giữ và mang đi, chôn sâu dưới mảnh đất không phải là ngôi làng Koh Taboong, ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nơi anh đã được sinh ra và lớn lên – mà là trên lục địa Mỹ châu, nơi Anh chọn để thực sự được an nghỉ.
Hình 21: Một cái Tết cuối cùng trước đại dịch Covid-19, tới với anh Dohamide; sau lần mổ óc ở UCLA, anh Dohamide vẫn rất minh mẫn nhưng hoàn toàn mất thính giác, và cuộc nói chuyện trao đổi phải qua “bút đàm”. [photo by Phan Nhật Nam]
Một năm cũ 2021 lại sắp qua đi, gửi tới anh Dohamide, anh Dorohiêm bài viết này với tấm lòng tưởng nhớ, vẫn như thông lệ hàng năm khi tới thăm anh, không quên gửi tới anh câu chúc Tết tiếng Chăm:
Salamat Thun BaHâu
Chúc mừng Năm Mới
NGÔ THẾ VINH
Từ Cồn Tơ Lụa 2000
tới Little Saigon 2021
THAM KHẢO:
1/ Dohamide, Dorohiêm. Dân tộc Chàm Lược sử. Saigon 1965. Bangsa Champa, SEACAEF & VIET Foundation 2004
2/ Dohamide (Đỗ Hải Minh): Điểm Sách Rie Nakamura 2020 Về Dân Tộc Chăm
Một bạn phóng viên hỏi tại sao số ca nhiễm ở TPHCM (hôm qua là 1267) vẫn nhiều nhứt nước dù gần 100% dân số đã chích 2 liều vaccine? Thật ra, bị nhiễm sau tiêm vaccine thì không quá ngạc nhiên, nhưng ngạc nhiên là số ca nhiễm đột phá khá cao (gấp 2-4 lần) so với y văn ở nước ngoài.
Nhiễm đột phá (breakthrough infection) là nhiễm xảy ra ở người đã tiêm đầy đủ 2 liều vaccine. Điều này xảy ra rất bình thường, bởi vì không có vaccine nào có hiệu quả 100%. Ngay cả vaccine như mRNA mà hiệu quả cũng chỉ 95%. Đó là chưa nói đến vaccine Tàu vốn có hiệu quả thấp hơn vaccine Tây. Do đó, ở qui mô cộng đồng nhiễm đột phá xảy ra, và chúng ta không nên ngạc nhiên.
Câu hỏi là nguy cơ (xác suất) nhiễm đột phá là bao nhiêu. Trước đây, ông Biden trích dẫn một bài báo từ New York Times trả lời rằng xác suất là 1 trên 5000 người. Nhưng sau này người ta mới biết con số ông ấy đưa ra là bậy bạ, vì tác giả tính mà không xem xét đến thời gian. Cần phải dựa vào nghiên cứu khoa học thì mới có con số chính xác hơn. Dưới đây tôi điểm qua vài nghiên cứu quan trọng để chúng ta có một ‘bức tranh’ rõ hơn.
Một nghiên cứu công bố trên tập san Lancet, trong số 971,504 người đã được tiêm 2 liều vaccine (chủ yếu là vaccine AZ), có 6030 người bị nhiễm đột phá, tức 6.2 trên 1000 người — trong 7 tháng [1].
Một nghiên cứu khác bên Mĩ trên những người đã tiêm đủ 2 liều vaccine mRNA, thì nguy cơ nhiễm đột phá là 6.7 trên 1000 người [2] — trong 4 tháng. Nghiên cứu này còn so sánh với nhóm chưa tiêm vaccine có nguy cơ nhiễm là 16.4 trên 1000 người.
Một nghiên cứu từ Do Thái cho thấy nguy cơ nhiễm đột phá (ở người tiêm vaccine mRNA) dao động từ 1.7 đến 3.65 trên 1000 người [3]. Điều thú vị và quan trọng là nguy cơ nhiễm đột phá suy giảm theo thời gian. Tháng đầu tiên sau tiêm vaccine có nguy cơ cao nhứt, và giảm dần dần trong những tháng sau đó (Biểu đồ).
Nguy cơ nhiễm đột phá giảm theo thời gian
Đến đây thì câu hỏi đặt ra là con số nhiễm đột phá ở Sài Gòn là cao hay thấp?
Nói một cách ngắn gọn: không biết. Tại sao không biết? Tại vì nhà chức trách không cung cấp con số ca dương tính ở những người đã tiêm vaccine trong thời gian qua. Họ cung cấp con số ca dương tính hàng ngày từ đầu tháng 10 đến nay là khoảng ~1200 (tính trung bình). Nhưng bao nhiêu trong số này là người đã tiêm 2 liều và thời gian từ tiêm vaccine đến lúc có kết qủa xét nghiệm dương tính là bao lâu. Không có những thông tin đó thì không thể nói tình hình nhiễm đột phá ở Sài Gòn là cao hay thấp.
Nhưng chúng ta thử dựa vào dữ liệu trong y văn để ước tính. Với xác suất nhiễm đột phá 1 đến 1.67 trên 1000 tháng-người (từ các nghiên cứu [1-3]), và với gần 8 triệu dân đã tiêm vaccine thì số ca nhiễm đột phá “kì vọng” mỗi tháng là khoảng 8000 – 13400 người.
Thế nhưng trong thực tế, số ca nhiễm mỗi tháng (trong 2 tháng qua) là khoảng 36000 người. Hãy cho là 90% trong số này là người đã tiêm vaccine, vậy thì số ca nhiễm đột phá lên đến 32,400 mỗi tháng.
Nói cách khác, con số ca nhiễm đột phá ở TPHCM cao hơn con số trong y văn đến 2.4 – 4 lần. So với số ca nhiễm ở tiểu bang NSW thì quả thật số ca nhiễm đột phá ở TPHCM là cao [4]. Tại sao cao thì đòi hỏi một phân tích chi tiết hơn, nhưng rất có thể loại vaccine (như vaccine Tàu) đóng một vai trò quan trọng.
[4] Để cho thấy con số ca nhiễm đột phá ở TPHCM là cao, chúng ta thử so sánh với tiểu bang NSW bên Úc (cũng có dân số khoảng 8.2 triệu). Tỉ lệ tiêm chủng ở NSW cũng gần 100% dân số. Trong tháng qua, số ca nhiễm hàng ngày trung bình là 225 (nhưng có xu hướng tăng lên 500 ca). Với 8 triệu người đã tiêm vaccine thì con số ca nhiễm kì vọng mỗi ngày là khoảng 267-435 người. Như vậy, chúng ta thấy con số ca nhiễm đột phá ở NSW không khác với con số trong y văn.
Molnupiravir là một thuốc đầu tiên được (hay sắp được) phê chuẩn cho đặc trị covid19. Thế nhưng kết quả thử nghiệm lâm sàng mới nhứt cho thấy thuốc Molnupiravir không có hiệu quả cao như báo cáo lúc ban đầu [1].
Theo kết quả của một nghiên cứu trước đây trên 762 bệnh nhân [2], Molnuparivir giảm nguy cơ nhập viện khoảng 50%: từ 14% trong nhóm chứng xuống còn 7.3% trong nhóm điều trị.
Thế nhưng kết quả của một nghiên cứu mới nhứt trên 646 bệnh nhân, thì Molnupiravir không có hiệu quả. Nói cách khác, nguy cơ nhập viện ở nhóm điều trị và nhóm chứng không khác nhau.
Nếu tổng hợp 2 nghiên cứu lại thì hiệu quả của Molnupiravir là 30% (không phải 50% như báo cáo của nghiên cứu đầu tiên). Tuy nhiên, tôi thấy cách gộp chung 2 nghiên cứu này để cho ra một kết quả chung là có vấn đề về phương pháp. Các bạn có biết tại sao?
Tôi thì có một cách diễn giải khác. Theo tôi, một loại thuốc mới có hiệu quả thì thuốc đó phải giảm nguy cơ nhập viện ít nhứt là 50%. Và nếu dùng tiêu chuẩn này thì xác suất mà Molnupiravir có hiệu quả chỉ 42% mà thôi. (Chi tiết trong cái note trước đây của tôi [2]). Tôi không ngạc nhiên khi nghiên cứu thứ hai không quan sát được hiệu quả của Molnupiravir.
Vài thông tin khoa học gần đây cũng nêu lên sự quan tâm về an toàn của thuốc. Đó là một loại thuốc kháng virus trong nhóm có tên là mutagenic ribonucleosides, có nghĩa rằng cơ chế chánh của thuốc là làm thay đổi chất liệu di truyền của con virus để nó không thể sao bản. Theo đó, khi molnupiravir vào nhân của tế bào con người, nó được chuyển hoá thành molnupiravir triphosphate, và protein này gắn kết vào RNA của con virus và gây đột biến để nó không tự ‘copy’ được. Chính vì cơ chế này mà người ta quan tâm là nó (thuốc Molnupiravir) có thể can thiệp vào tế bào của con người, và trong thực tế nghiên cứu trên dòng tế bào đã chỉ ra điều đó [3]. Người ta quan tâm là vì thuốc có thể gây ung thư hay dị tật bẩm sinh cho thai nhi. Nhưng đây chỉ là nghiên cứu trên dòng tế bào, chớ không phải trên người.
Các thuốc khác như Remdesivir cũng dùng cơ chế này để chống covid-19 và có hiệu quả tốt. Mặc dù FDA phê chuẩn Remdesivir, nhưng WHO thì không vì họ cho rằng chưa đủ dữ liệu để sử dụng nó trong điều trị đại trà. Cần nói thêm rằng giá thuốc Molnupiravir thì chỉ 700 USD (cho 5 ngày), rẻ hơn nhiều so với Remdesivir.
Tóm lại, Molnupiravir có vẻ có hiệu quả giảm nguy cơ nhập viện ở bệnh nhân covid, nhưng mức độ ảnh hưởng thì không cao như báo cáo ban đầu. Ngoài ra, còn có quan ngại về sự an toàn của thuốc mà có lẽ cần thời gian mới biết rõ hơn.
Vào thập niên 1970-1980, có hàng trăm ngàn người Việt vượt biển tìm tự do. Trong thời gian đó đã có hàng vạn người đã chìm sâu vào lòng Biển Đông, nhưng đa số còn sống sót nhờ vào lòng tốt của nhân loại. Một trong những tấm lòng đó là ông Jeon Je Young, người được xem là một đại ân nhân của người Việt tị nạn vào thập niên 1980s. Câu chuyện ông cứu gần 100 người tị nạn đã lâu rồi nhưng vẫn còn giá trị ngày nay.
Có lẽ các bạn chưa bao giờ nghe tới ông Jeon Je Young. Ông là người đã cứu 96 thuyền nhân Việt Nam vào giữa thập niên 1980, và được người Việt tị nạn xem như là một Bồ Tát. Ông mới qua đời tại thành phố Tong Yeong, Hàn Quốc, vào ngày 17/11/2019, thọ 78 tuổi. Việc làm của ông là một tấm gương sáng ngời của một người sẵn sàng hi sinh chức quyền để cứu người trong cơn hoạn nạn.
Thuyền trưởng Jeon Je Young
Câu chuyện ông cứu thuyền nhân rất ư độc đáo và cảm động (1). Gần 35 năm trước, ngày 10/11/1985, một chiếc tàu chở 96 người Việt đi tị nạn bị chết máy. Chiếc tàu lênh đênh trên biển suốt 3 ngày trời trên Biển Đông, mọi người chỉ biết cầu nguyện, và … chờ chết. Nhiều tàu buôn đi ngang qua, dừng lại ngó, rồi bỏ đi. Họ không muốn cứu thuyền nhân vì sợ gặp rắc rối với các nước trong vùng lúc đó đã quá mệt mỏi với làn sóng thuyền nhân. Chiếc tàu cá Kwang Myung 87 do ông Jeon Je Young điều khiển đi từ Singapore về Hàn Quốc, cũng đi ngang qua, nhìn một chút, rồi cũng … bỏ đi. Nhưng như là một phép lạ, một định mệnh, ông thuyền trưởng quyết định quay lại cứu thuyền nhân!
Tại sao ông Jeon Je Young đi đến quyết định táo bạo đó? Sau này ông cho biết khi ông liên lạc với tổng hành dinh của công ti bên Hàn Quốc để hỏi ý kiến, thì công ti nhứt định không cho cứu, và ra lệnh ông phải bỏ đi. Công ti nói nếu cứu thì sẽ gặp rắc rối với chánh quyền Hàn Quốc và cũng không biết sẽ đưa thuyền nhân đi đâu. Nhưng khi ông xem thông tin khí tượng và biết rằng một cơn bão sẽ tới trong vòng 24 giờ, và tất cả thuyền nhân trên chiếc tàu bé nhỏ kia chắc chắn sẽ chết. Ông nói nhìn thấy hình ảnh những người phụ nữ và trẻ con trên tàu nhỏ đó, ông không thể đành lòng bỏ đi được. Ông quyết định quay tàu lại cứu 96 thuyền nhân, và sẵn sàng nhận tất cả hình phạt dành cho ông sau này. Ông cho biết: “Tôi nghe tiếng nói của trái tim tôi.”
Ngày 29/11/1985, tàu Kwang Myung về bến Busan, Hàn Quốc. Ông bị công ti kỉ luật, bị cách chức captain, và đuổi khỏi công ti. Lúc đó ông đã 44 tuổi. Phải 2 năm sau, ông mới được một công ti khác mướn.
Còn những thuyền nhân thì sau này được đưa sang trại tị nạn Bataan, Phi Luật Tân. Sau đó, họ được đi định cư ở Mĩ. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân khác, họ phải chật vật trong giai đoạn đầu làm lại cuộc đời, nhưng cuối cùng thì cũng sống sót và thành đạt trong xã hội mới. Một người trong số 96 thuyền nhân đó là ông Nguyễn Hùng Cường đã cố gắng tìm lại vị ân nhân của mình. Phải 17 năm sau, ông Cường mới biết ông Jeon Je Young ở đâu và làm gì (lúc đó ông sống bằng nghề nuôi sò). Trong một lá thư cho ông Cường, ông Jeon Je Young chỉ hỏi những người ông cứu nay đang làm gì cho xã hội, chớ ông không quan tâm họ có chức vụ gì hay thành đạt ra sao.
Năm 2004, một nhóm người tị nạn ở Little Saigon mời ông sang thăm nước Mĩ để đền ơn. Năm 2006, khi Trung tâm Thuý Nga làm show nhạc ở Nam Hàn, họ đến mời ông xuất hiện trong show nhạc như là một lời tri ân của người Việt tị nạn. Năm 2007, ông lại được một nhóm thuyền nhân vinh danh, người thì cho ông ở khách sạn Ramada miễn phí suốt 3 tuần, người thì tặng ông $5000 (nhưng ông không nhận, mà thay vào đó là sung vào quĩ cho trẻ khuyết tật, mồ côi ở Việt Nam), người thì bảo trợ cho con gái ông theo học bên Mĩ. Các thuyền nhân đã có những nghĩa cử đẹp để đền ơn đáp nghĩa cho người được mệnh danh là có “tấm lòng như biển cả”.
Trong thập niên 1970 và 1980, có cả nửa triệu người Việt vượt biên và vượt biển; trong số này có chừng 200,000 người đã nằm sâu trong lòng Biển Đông. Đó là một con số rất lớn, vì bằng dân số của 20 làng xã cộng lại. Họ chết vì bão tố, đói khát, hải tặc. Cũng có khi họ chết vì tay súng … Việt Nam. Nhưng số còn sống là nhờ vào lòng tốt của các nước trong vùng và những cá nhân có từ tâm và tấm lòng biển cả như ông Jeon Je Young. Phải là người từng sống sót qua cơn biến động đó mới thấy những tấm lòng của ông Jeon Je Young, Ts Rupert Neudeck, Cha Peter Prayoon Namwong, v.v. là vô cùng quí báu.
Người mình có câu “Trong hoạn nạn mới hiểu lòng nhau”. Cứu 1 người trong cơn hoạn nạn đã là một ân nhân; cứu hàng trăm người sắp chết phải là một công đức xứng tầm Bồ Tát. Bồ Tát Jeon Je Young đã về cõi vĩnh hằng, nhưng tấm lòng của ông đối với tha nhân sẽ được ghi nhận vĩnh viễn trên những trang sử Việt trong tương lai.