Tôi rất hân hạnh mời các bạn tham dự buổi lễ trao giải thưởng “Alexandre Yersin for Outstanding Publications” vào ngày thứ Bảy này. Chi tiết như sau:
Ngày: 30/7/2022
Giờ: 14:00 (2 PM) giờ Việt Nam
Địa điểm: Online (xem hướng dẫn)


Chương trình

Tôi rất hân hạnh mời các bạn tham dự buổi lễ trao giải thưởng “Alexandre Yersin for Outstanding Publications” vào ngày thứ Bảy này. Chi tiết như sau:
Ngày: 30/7/2022
Giờ: 14:00 (2 PM) giờ Việt Nam
Địa điểm: Online (xem hướng dẫn)
Chương trình
Những ai từng theo dõi nền tư pháp Việt Nam không thấy ngạc nhiên với bản án dành cho Thiền Am hôm 21/7/2022. Nhưng diễn biến của vụ án và phiên toà cho thấy nhiều khuyết tật trong xã hội ngày nay. Ở đây, tôi chỉ nêu 8 khuyết tật liên quan đến thiết chế và văn hoá xã hội.
Người ta không ngạc nhiên với bản án là vì hầu như tất cả các bản án ở Việt Nam được xử theo điều luật 331 đều đã được định trước. Tất cả 6 người trong Thiền Am bị kết tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Đó là một tội danh mà các cơ quan nhân quyền quốc tế nhận xét là ‘rất mơ hồ’, hiểu theo nghĩa muốn kết tội ai cũng được.
Trong quá khứ nhiều người bất đồng chánh kiến đã bị giam cầm vì tội danh này. Ngay từ đầu, người ta dồn tổng lực từ an ninh, kiểm sát, toà án, dư luận viên đến báo chí hạ nhục Thiền Am. Những lần ‘ra quân’ bức hại những người trong Thiền Am còn hơn cả ra quân chống khủng bố chưa làm người ta hết ngạc nhiên thì những vi phạm luật pháp của những con người kền kền đẩy tình hình lên một điểm cao mới. Những động thái đó cho thấy nhà cầm quyền quyết chí triệt tiêu một nhóm người tu tại gia và nuôi trẻ mồ côi. Phiên toà chỉ là một qui trình có tổ chức để thực hiện mục tiêu tiêu diệt đó mà thôi.
Nhìn lại toàn cảnh vụ án và phiên toà, tôi thấy nhiều ‘khuyết tật’ của nền tư pháp Việt Nam. Đó là những khuyết tật vừa mang tính thiết chế, vừa mang tính văn hoá xã hội. Chỉ xin nêu 8 khuyết tật nổi cộm như sau:
1. Khuyết tật lớn nhứt là thiếu sự độc lập giữa lập pháp, hành pháp, và tư pháp.
Ngay từ giữa tháng 1/2022, trước khi đưa ra bất cứ cáo buộc nào, thì công an đã bắt giam 3 người trong Thiền Am. Điều đáng nói là một viên công an của tỉnh Long An tuyên bố rằng “Chúng tôi đang làm việc với Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân tỉnh để thống nhất các sai phạm của ông Lê Tùng Vân và người liên quan.“
Có lẽ nhiều người ở Việt Nam, nhứt là giới dư luận viên, thấy sự thông đồng đó là bình thường vì họ đã sống trong một môi trường như vậy qúa lâu. Họ không thấy rằng đó là một khuyết tật chí mạng, bởi vì nếu ba thiết chế đó (lập pháp, hành pháp, và tư pháp) không độc lập thì làm sao có công lí, nhứt là công lí cho người ‘thấp cổ bé họng’. Sự thật xảy ra trước mắt ở ThiềnAm không phải là lần đầu, và chắc chắn sẽ còn xảy ra trong tương lai.
2. Khuyết tật về hình sự hoá một câu thành ngữ
Ai cũng biết câu ‘Ngu như bò’ chỉ là một cách nói về một hành vi kém cỏi hay ngu xuẩn. Đó là một câu thành ngữ rất phổ biến trong dân gian, phổ biến đến độ nói được dùng như là một câu nói đùa cho vui. Ấy vậy mà trong vụ án này, câu nói đó được một ông tu sĩ Phật giáo nâng tầm lên “xúc phạm” và vác đơn kiện mấy người trong Thiền Am ra toà. Và, ông ấy đã thành công đưa 6 người trong Thiền Am vào tù với tổng số năm tù tội là 23 năm 6 tháng. Không có nơi nào trên thế giới mà người ta đi tù vì câu thành ngữ đó. Chỉ có Việt Nam mới có khả năng tạo ra một tiền lệ như vậy.
Phải nói đây là một tiền lệ mang tính lịch sử.
3. Khuyết tật về chứng cớ
Các luật sư đại diện Thiền Am phát hiện một video được dùng để cáo buộc họ lại xuất phát từ một kênh youtube giả mạo những người trong Thiền Am. Kênh youtube này, theo cộng đồng mạng phát hiện, chỉ được lập ra để nói xấu Thiền Am và chỉ đăng được 3 cái video! Ấy vậy mà một video như thế được dùng làm bằng chứng để cáo buộc mấy người trong Thiền Am!
Thật ra, còn nhiều khuất tất khác về chứng cớ mà các luật sư đã nêu, nhưng toà án lờ đi những sai phạm đó!
4. Khuyết tật về trình độ của nhân viên tư pháp
Bất cứ ai chỉ cần nghe qua những câu hỏi và phát biểu trong phiên toà sẽ thấy ngay một khuyết tật liên quan đến trình độ văn hoá và kiến văn của các thẩm phán, và cả người “chủ toạ” phiên toà. Kiến văn của họ thấp đến độ kinh ngạc!
Phiên toà chỉ xét xử điều luật 331 đối với 6 người trong Thiền Am, chẳng có liên quan gì đến tôn giáo cả. Ấy vậy mà viên chủ toạ bỏ ra khá nhiều thời gian để hỏi những câu liên quan đến tôn giáo như:
“Ai đặt pháp danh cho bị cáo là Thích Tâm Đức”
“Lí do vì sao những người trong hộ Cao Thị Cúc mặc áo màu nâu mà bị cáo lại không đăng kí sinh hoạt tôn giáo.”
Viên chủ toạ phiên toà trích từ một câu nói của ông Lê Tùng Vân rằng:
“...đạo Phật chỉ khuyên người ta đừng làm ác và nếu người ta làm ác thì không có cái luật nào để trị tội người làm ác đó… trong tâm hai ngài đừng suy nghĩ đây là tôn giáo, đây là pháp luật; bỏ cái tôn giáo, bỏ cái luật pháp đó qua một bên đi…”
nhưng vấn đề ở đây là anh ta trích một cách không đầy đủ và có ác ý. Ông Lê Tùng Vân đã nhân dịp này giảng một bài cho ông chủ toạ biết thế nào là trích dẫn và học thuật [1].
Thử tưởng tượng một người kém về văn hoá, kém về kiến văn, kém cả về học thuật như thế mà lại làm chủ toạ phiên toà!
Cái khuyết tật về trình độ còn thể hiện qua phía luật sư đại diện cho phe ‘bị hại’. Các bạn thử tưởng tượngluật sư gì mà nói và viết không rành; luật sư gì mà thốt ra câu nào là người ta ngỡ ngàng câu đó. Chẳng hạn như có luật sư đặt câu hỏi:
“Nếu như bây giờ tôi nói Chúa ngu như bò thì các ông thấy sao?”
làm cho các luật sư của Thiền Am ngỡ ngàng và … cười ha hả. Nếu Chúa Jesus sống lại và nghe câu này chắc ngài cũng ngỡ ngàng. Một câu hỏi không chỉ quá ư là kém cỏi trí tuệ mà còn thể hiện một fallacy (nguỵ biện) hết sức căn bản. Ấy vậy mà người này là luật sư! Không thể tưởng tượng nổi trình độ của luật sư mà thê thảm như thế.
5. Khuyết tật của truyền thông Nhà nước
Trong hơn 3 năm trời, hệ thống truyền thông Nhà nước bịa đặt hay vặn vẹo thông tin để bôi nhọ và hạ nhục những người trong Thiền Am, đặc biệt là ông Lê Tùng Vân. Tất cả những thủ thuật misinformation (tin giả vô ý), disinformation (tin giả ác ý), và malinformation (tin độc) đều được tung ra với cường độ chỉ có thể nói là kinh hoàng.
Có thể nói rằng việc nguỵ tạo và phát tán thông tin về loạn luân là một hành vi thâm hiểm nhứt, độc ác nhứt, và trắng trợn nhứt. Thâm hiểm là vì nó được bịa đặt ra để làm cho công chúng kinh tởm Thiền Am, và qua đó cô lập hoá họ. Độc ác nhứt là vì thông tin đó giống như một sự ám sát những trẻ em trong Thiền Am. Trắng trợn nhứt là vì nó không có bất cứ một cơ sở khả tín nào (ngoại sự ngụy tạo thông tin).
Ngay cả trước và sau phiên toà, họ vẫn không có khả năng viết những bản tin khách quan và công tâm, mà vẫn là những câu chữ gieo nghi ngờ, thậm chí sai lệch về những câu phát biểu trong toà. Thật khó tưởng tượng được báo chí gì mà ác độc như thế.
6. Khuyết tật về đạo đức xã hội
Vụ án Thiền Am là một ‘phiên toà mạng xã hội’ mà trong đó đóng vai quan toà là hàng ngàn người sử dụng Youtube và Facebook. Những người này ngày đêm phát tán những thông tin do họ tưởng tượng hay bịa đặt ra, rồi từ đó tha hồ đưa ra những kết tội mà họ muốn những người trong Thiền Am phải phạm tội. Họ tưởng tượng ra những vụ án rùng rợn để kích động trí tò mò của người xem, và từ đó có thu nhập.
Có vài người khoe rằng họ làm giàu nhờ nói xấu Thiền Am! Có thể nói không ngoa rằng những kẻ dã tâm này đã làm tiền trên máu và nước mắt của Thiền Am. Và, điều quái đản nhứt là họ tự hào bằng cách kiếm tiền như thế! Xã hội gì đã tạo nên những con người với những khyết tật đạo đức như thế.
Vụ án còn cho thấy một số người trong công quyền đánh mất tánh người. Họ thoá mạ người của Thiền Am là “lũ bay sống bầy đàn”, là “đồ hỗn tạp”. Những câu nói đó chẳng khác gì những sĩ quan Nazi nói với người Do Thái trước đây. Cái khuyết tật lớn nhứt là họ không có khả năng nhìn sự vật bằng cái nhìn của người khác, họ không có khả năng cảm nhận nỗi đau của người khác, và chính vì yếu tố này đã biến họ thành những người rất khác biệt: thiếu tánh người.
Vụ án còn biểu hiện một xã hội có phản ứng theo kiểu bầy đàn và bạo lực. Những kẻ dễ dãi trong suy nghĩ đã bị truyền thông Nhà nước dẫn dắt và tự biến họ thành những con người ác độc đối với Thiền Am.
Quái gở một điểu là có những người xem mặt mũi không đến nổi tệ mà đòi xét nghiệm DNA để loại trừ tội loạn luân. Cái khuyết tật của mấy người này là nguỵ biện có tên là “Burden of Proof”. Kẻ phạm lỗi nguỵ biện này vu cáo người ta, rồi bảo người ta chứng minh rằng họ vô tội! Đó là một nguỵ biện thô thiển mà kẻ có học không thể nào phạm phải, nhưng trong vụ án Thiền Am thì rất nhiều người, kể cả người khoác áo ngành y, phạm phải. Vấn đế giáo dục.
Một số người sống và hành xử như những con kền kền đột nhiên nhảy tót lên bàn nghị luận xã hội và xâm nhập vào những nơi tôn nghiêm như pháp đình. Xã hội gì mà loạn chuẩn đến độ những cặn bã xã hội có khả năng đặt ra phán xét người đàng hoàng, hay loại ‘cóc nhái nhảy lên làm người’ như thế?
7. Khuyết tật về văn hoá đàn áp
Theo dõi diễn biến trong phiên toà làm cho người ta nhớ phiên toà liên quan đến Linh mục Nguyễn Văn Lý năm xưa. Dạo đó, khi LM Lý ra toà, ông phát biểu một câu mà có lẽ nhà cầm quyền (hay toà án?) không muốn nghe, và thế là một viên an ninh bịt miệng ông một cách thô bạo. Tôi còn nhớ bức hình LM Lý bị bịt miệng được truyền khi khắp thế giới, và ở bên Mĩ người ta còn cho dán bít chương trên xa lộ!
Tưởng rằng cái văn hoá đàn áp đó là quá khứ, nhưng ai ngờ đâu nó lại được áp dụng cho phiên toà Thiền Am vừa qua nhưng với một phương tiện khác. Theo luật sư Nguyễn Văn Miếng, “Các phóng viên phản ánh: ‘khi luật sư Thiền Am phát biểu, âm thanh kịp thời rọt rẹt. Còn những người khác nói, nghe rất rõ. Một phiên toà qua loa.” Ngoài ra, khi ông Lê Tùng Vân nói đến phần “xuyên tạc công an huyện Đức Hòa” thì video chỉ còn hình ảnh! Tương tự, nhiều câu nói của bị cáo cũng bị ‘tắt tiếng’ một cách trắng trợn như thế.
Không thể nào tưởng tượng một phiên toà vào thế kỉ 21 ở một nước có truyền thống văn hiến lâu đời mà hành xử thô thiển và thô bạo như thế.
8. Khuyết tật trong Giáo hội Phật giáo
Qua vụ án này, công chúng trong và ngoài nước chú ý đến một nhân vật trong Giáo hội PGVN rất đình đám: TT Thích Nhật Từ. Ông này được những người ủng hộ xem là một bậc “chân tu”, nhưng những hành vi của ông thì không nhứt quán với phẩm hạnh của một bậc chân tu. Ông có vẻ không ưa Công giáo và đã nhiều lần xúc xiểm đạo Công giáo, thậm chí xúc xiểm cả Đức Giáo Hoàng! Luật sư Sỹ cho rằng thái độ đó của ông Thích Nhật Từ là “gần như là phá sản” và “không thể chấp nhận được”.
Ông là người đã tung tin rằng có hiện tượng loạn luân trong Thiền Am. Với vị thế lãnh đạo của ông trong Giáo hội, ông đã tạo nên một cơn bão truyền thông hạ nhục Thiền Am và ông cụ Lê Tùng Vân. Báo chí Nhà nước và hàng ngàn người dùng mạng xã hội trích dẫn lời nói của ông, và họ tiếp tục vu khống loạn luân trong Thiền Am.
Nhưng các luật sư khẳng định những phát biểu đó của ông Thích Nhật Từ là hoàn toàn là bịa đặt, vì Thiền Am không hề phạm tội loạn luân. Theo cách lí giải của các luật sư, những gì ông ấy xúc phạm những người trong Thiền Am thì còn gấp 100 hay 1000 lần câu nói ‘Ngu như bò’ của ông Lê Tùng Vân.
Các luật sư của Thiền Am nhận xét rằng “hành vi bịa đặt về tội loạn luân đó là một tội ác cần phải trừng trị.“ Ấy vậy mà Giáo hội PGVN im lặng trước tội ác đó. Phải xem sự im lặng của Giáo hội là một khuyết tật vậy.
***
Có thể thêm một khuyết tật khác nữa: giáo dục. Bởi một nền giáo dục đàng hoàng không thể nào cho ra những luật sư, thẩm phán hay quan toà kém kiến thức và thiếu học thức như thế. Ở nước ngoài, luật sư là nghề được xã hội quí trọng, bởi họ có khả năng học thuật tốt ngay từ bậc trung học, và họ phải qua một thời gian dài được tôi luyện trong môi trường đại học và sau đại học. Họ là nhóm có khả năng lãnh đạo quốc gia, và họ là tấm gương cho xã hội. Nhưng ở Việt Nam thì theo LS Trần Đình Triển [2]:
“Cách đào tạo luật sư ở VN hiện chưa thể tương xứng với điều kiện và không thể hành nghề tốt được nếu theo như cách đào tạo của VN hiện giờ.”
LS Triển nói thêm tình trạng án bỏ túi ở Việt Nam như sau:
“Trong luật pháp VN cũng nói là hội đồng xét xử và thẩm phán độc lập xét xử chỉ tuân theo pháp luật, và mọi chứng cứ chỉ đánh giá tại phiên tòa. Tôi cho là tất cả những điều đó tại VN chỉ đang là lí luận, chứ trong thực tiễn chưa bảo đảm được tính độc lập của thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Khi luật sư đưa ra những lập luận, những tài liệu luật pháp thích hợp thì thẩm phán họ “mặc”, bởi vì hình như họ đã quyết định bản án ở đâu đó rồi. Thực tiễn nó như vậy. Thành ra việc tổ chức phiên tòa mang tính chất hình thức. Chứ thực ra bản án người ta đã có trong túi rồi.”
Những khuyết tật trong vụ án, những sai phạm về tố tụng, cùng những lời kêu oan của bị cáo đã được gởi cho các vị có vai trò lãnh đạo Nhà nước và Quốc hội, thậm chỉ cả cấp trung ương đảng. Chắc chắn là các vị ấy đã biết đến vụ án, nhưng họ đã làm gì thì chẳng ai biết. Họ có hồi đáp luật sư hay là những lời tường trình của luật sư và của nạn nhân đều rơi vào không khí. Dù sao thì các vị ấy không thể nói “Chúng tôi không biết” hay “Chẳng liên quan gì đến chúng tôi.” Công chúng đang chờ một tiếng nói của các vị ấy.
_____
[1] Nguyên văn của ông Lê Tùng Vân nói là:
“Vậy chứ ngày ngày xưa Đức Phật hành đạo như thế nào? Có phải rằng Đức Phật không có làm cái gì sai trái. Ngài nhớ xưa Đức Phật không hề ăn trộm, không hề ăn cướp, không hề giết người. Tức là gì? Tức là Đức Phật tuân theo luật pháp. Ngài về lại trần gian ngài phổ biến: Tất cả tuân theo luật pháp. Các ngài phải ý thức được tầm quan trọng của luật pháp. Luật pháp thì bắt buộc con người ta không được làm ác; làm ác là phải bị tội, bị trừng phạt. Còn các ngài thấy đấy, đạo pháp chỉ khuyên người ta đừng làm ác, và nếu người ta có làm ác cũng hổng có luật nào để trị tội người làm ác đó.
[…]
Vậy thì hai bên, bên nào mạnh, bên nào yếu, cái nào bắt buộc hơn, cái nào quyết chí hơn Có phải là sự bắt buộc và quyết chí không? Còn cái lời khuyên? Khuyên thì người ta có thể nghe theo, hoặc là người ta có thể không nghe theo. Cho nên hai ngài hãy nên nhớ kĩ điều đó. Trong tâm hai ngài đừng suy nghĩ đây là tôn giáo, đây là luật pháp. Bỏ cái tôn giáo, bỏ luật pháp qua một bên đi; cái nào mà buộc người ta phải quyết tâm, quyết chí làm một đường, làm cho có hiệu quả. Cái mà hiệu quả đó mới có ích cho nhân loại. Phải hông ngài?”
Ông Tô Văn Lai, một trong những người có ảnh hưởng lớn đến đời sống âm nhạc và văn hoá ở hải ngoại, mới qua đời ở tuổi 85. Ông để lại cho đời một sân khấu mang tên ‘Thuý Nga Paris by Night’ như là một tài sản tinh thần của hàng trăm triệu khán giả trong và ngoài nước.
Kỉ niệm những ngày đầu xa quê
Dạo đó (đầu thập niên 1980s), tôi mới định cư ở Úc và quần quật làm lại cuộc đời ở quê hương mới, nên ít khi nào chú ý đến nhu cầu văn nghệ. Bạn bè gặp nhau ngày cuối tuần thì chủ yếu là ăn uống và ca hát theo kiểu ‘cây nhà lá vườn’. Người cầm đờn, kẻ nghêu ngao ca hát những ca khúc nổi tiếng thời trước 1975 hay những ca khúc thương nhớ về quê nhà mà chúng tôi nghe được từ bên trại tị nạn. Đời sống âm nhạc và văn hoá của người Việt xa xứ thời đó chỉ có vậy.
Nhưng năm 1983 thì xuất hiện cái video VHS ca nhạc có tựa đề là “Paris by Night” (chữ màu vàng), và không ngờ rằng đó là thởi điểm làm thay đổi sinh hoạt ca nhạc ở hải ngoại một cách vĩnh viễn. Video ca nhạc Paris by Night lúc đó được quay ngoại cảnh và lồng ghép giọng hát của các ca sĩ mà dân miền Nam đều biết như Julie Quang (vợ cũ của Duy Quang), Hương Lan, Thanh Mai, Quốc Anh, v.v. Cuốn băng đó hình như chỉ có 10 bài thôi. Không có MC dẫn chương trình; tất cả chỉ là ngoại cảnh.
Trời ơi! Lần đầu sau bao nhiêu năm được nghe lại những ca khúc quen thuộc và nhìn hình những ca sĩ mình mến mộ tạo nên một cảm giác rất đặc biệt: vừa xúc động, vừa vui. Đó là cuốn băng ca nhạc đã đi vào lịch sử ca nhạc ở hải ngoại.
Sau này tìm hiểu tôi mới biết người chủ xướng chương trình Paris by Night là ông Tô Văn Lai. Cuộc đời và sự nghiệp của ông Tô Văn Lai rất ư là tiêu biểu của một người Việt tị nạn. Ông xuất thân là một thầy giáo dạy triết học ở trường Trung học Lê Ngọc Hân ở Mỹ Tho. Năm 1972, ông cùng với phu nhân là bà Thuý, đã sáng lập ra trung tâm Thuý Nga ở Thương xá Tam Đa (Sài Gòn). Lúc đó Thuý Nga phát hành những tape nhạc do những ca sĩ lừng danh như Thanh Tuyền, Khánh Ly và Thái Thanh trình bày.
Biến cố ngày 30/4/1975 làm thay đổi tất cả. Năm 1976, ông và gia đình đi định cư ở Pháp với vốn tài sản chỉ $2000 và tất cả những tài liệu về âm nhạc và văn hoá thời VNCH. Ở Pháp, ông làm nghề bán xăng gần Rouen (cách Paris 200 km), và sau 5 năm tích cóp tiền, ông lại mở trung tâm Thuý Nga ở Paris vào năm 1981. Và, chính ở đây, video thu hình ca nhạc đầu tiên của Thuý Nga đã được sản xuất và phát hành trong cộng đồng người Việt tị nạn trên thế giới.
Gìn giữ văn hoá
Câu chuyện đằng sau sự ra đời của video ca nhạc đầu tiên đó cũng rất thú vị. Ông bà Tô Văn Lai gõ cửa gặp giám đốc đài truyền hình Euromedia để nhờ giúp đỡ làm một show ca nhạc. Trong một chương trình ca nhạc kỉ niệm 35 năm ngày lập trung tâm Thuý Nga, chính vị giám đốc Euromedia kể lại rằng một hôm ông được tiếp xúc với hai ông bà Á Đông và họ đem theo một bọc tiền (tiền giấy có, tiền cắc có) và nói đại khái:
“Tôi muốn làm một cuốn băng video ca nhạc để gìn giữ văn hoá nghệ thuật của Việt Nam, và tôi chỉ có bao nhiêu tiền đó thôi, ông có thể giúp tôi không?”
Không ngờ ông giám đốc động lòng và nói là sẽ giúp! Thế là cộng đồng người Việt ở hải ngoại lúc đó có được cuốn video ca nhạc đầu tiên.
Nhưng phải 3 năm sau trung tâm mới có đủ tiền và nguồn lực để sản xuất một video thứ hai. Và lúc đó, các ca nghệ sĩ miền Nam bắt đầu ra nước ngoài định cư, nên việc qui tụ họ không còn khó khăn như trước đây, nên trung tâm Thuý Nga bắt đầu sản xuất chương trình “Paris by Night” thường xuyên hơn. Cho đến nay (7/2022), Thuý Nga đã sản xuất được 132 chương trình ca nhạc Paris by Night!
Con số 132 đối với nhiều người chỉ là một con số, nhưng đằng sau đó là một sự thành công đáng kể của một trung tâm văn nghệ tư nhân. Mỗi chương trình ca nhạc như thế tốn cả triệu USD và đòi hỏi khả năng tổ chức cũng như kĩ thuật ở qui mô to lớn. Có một nghệ sĩ ở trong nước nhận xét rằng Việt Nam sẽ khó có khả năng thực hiện được một chương trình ca nhạc qui mô và chất lượng cao như Thuý Nga.
‘Chúng ta đi mang theo quê hương’
Mỗi chương trình ca nhạc của Thuý Nga là một show diễn nghệ thuật và thể hiện sự tìm tòi và sáng tạo liên tục của người đạo diễn chương trình (tức ông Tô Văn Lai và con ông sau này). Bà Tô Ngọc Thuỷ, đương kim giám đốc điều hành Thuý Nga, cho biết ông Tô Văn Lai như là một linh hồn đằng sau các chương trình Paris by Night. Ông dù là một thầy giáo dạy triết nhưng rất đam mê văn nghệ, và rất trân quí văn hoá Việt Nam. Ông chú ý đến từng chi tiết nhỏ trong show nhạc, và bắt buộc mọi người phải nghiêm chỉnh trong việc diễn xuất chứ không làm qua loa hay làm cho có được.
Đa số các chương trình ca nhạc Paris by Night đều có một chủ đề. Trong những năm đầu tị nạn, những chủ đề thường mang tính gợi nhớ quê nhà và mong một ngày về, nên mới có những tựa đề như:
Giã Biệt Sài Gòn (video số 10)
Giọt Nước Mắt Cho Việt Nam (13)
Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi (16)
Mùa Xuân Nào Ta Về (32)
Chúng Ta Đi Mang Theo Quê Hương (49)
Cây Đa Bến Cũ (59)
Huế – Sài Gòn – Hà Nội (91).
Đó là những chương trình nhạc tôi rất tâm đắc. Tâm đắc không phải chỉ từ lời ca tiếng hát, mà bài thuyết minh của người MC. Trong chương trình “Mùa xuân nào ta về”, người nữ MC đọc một đoản văn hết sức cảm động của Nhà văn Duyên Anh (Vũ Mộng Long). Một chương trình nhạc khác, “Cây Đa Bến Cũ”, thì có giọng đọc và thuyết minh của Nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn cũng rất có giá trị. Những tác phẩm như thế sẽ còn lại rất lâu trong cộng đồng người Việt xa xứ vì giàu giá trị văn hoá và nghệ thuật.
Ông Tô Văn Lai còn làm những chương trình ca nhạc để vinh danh những nhạc sĩ lừng danh thời trước 1975. Những người ông vinh danh bao gồm: Phạm Duy (2 chương trình), Lam Phương (3 chương trình), Ngô Thụy Miên, Văn Phụng, Đức Huy, Hoàng Thi Thơ, Tuấn Khanh, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Trần Trịnh, Nhật Ngân, Phạm Mạnh Cương, Lê Dinh, Trường Sa, Huỳnh Anh, Nguyễn Hiền, Song Ngọc, Quốc Dũng, Châu Kỳ, Tùng Giang, Xuân Tiên, Thanh Sơn, Nguyễn Ánh 9, và Nguyễn Văn Đông. Theo tôi, đây là những chương trình có giá trị nhứt.
Những chương trình với chủ đề Tết, người Việt, và mẹ Việt Nam cũng là những chương trình đầy ấp giá trị văn hoá. Theo tiết lộ của Trung tâm Thuý Nga, những chương trình ca nhạc về Tết là bán chạy nhứt, và đã là một nguồn tài nguyên giáo dục văn hoá cho các thế hệ trẻ lớn lên ở hải ngoại. Nhưng bên cạnh đó cũng có một vài chương trình (chẳng hạn như chương trình “Mẹ”) đã gây ra vài tranh cãi như cơn bão trong tách trà.
MC ‘huyền thoại’
Nói đến Trung tâm Thuý Nga mà không đề cập đến Nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn thì quả là một thiếu sót. Trước đây, các chương trình nhạc của Thuý Nga hoặc là không có MC, hoặc là có MC nhưng thay đổi khá thường xuyên. Có những chương trình với sự tham gia của nhà báo trong vai trò MC nhưng hình không để lại những dấu ấn nào đáng kể. Mãi đến năm 1992 khi ông Tô Văn Lai “kéo” được Nguyễn Ngọc Ngạn về làm MC cho các chương trình Paris by Night thì mọi thứ đều thay đổi theo chiều hướng tốt hơn nữa.
Thoạt đầu, sự xuất hiện của một nhà văn trong vai trò MC một chương trình ca nhạc cũng làm cho nhiều người quan tâm đặt câu hỏi. Trước đây, khán giả rất khổ tâm với phong cách của những MC thích thuyết phục rằng họ ‘hay chữ’. Đó là những MC rất thích dùng những câu sáo ngữ, những câu khoe kiến thức một cách hợm hĩnh, những vần thơ được trích dẫn một cách gượng ép, hay những kiểu nói đậm chất phường tuồng. Thế nhưng, Nguyễn Ngọc Ngạn cùng ‘người đồng hành’ Nguyễn Cao Kỳ Duyên đã đem lại một luồng gió mới cho vai trò MC và khán giả cảm thấy yêu quí hai người này ngay. Họ nói giọng Bắc, nhưng là loại giọng Bắc người miền Nam ưa thích.
Nguyễn Ngọc Ngạn và Kỳ Duyên không gượng gạo để có những câu chữ ‘sang chảnh’; ngược lại họ nói chyuyện một cách tự nhiên và ứng đáp một cách thông minh. Hai người MC này không nói đùa theo kiểu ‘nói dai, nói dài, nói mãi’; ngược lại, họ biết dừng đúng lúc. Họ không nói đùa một cách tục tĩu, mà là những câu chuyện đầy ý nhị. Họ biết chọn câu chuyện để dẫn nhập cho một bài hát và câu chuyện mang tính văn hoá, nhưng họ không tỏ ra là người lên lớp (đại kị trong vai trò MC). Dĩ nhiên, không phải những gì họ làm là hoàn hảo, nhưng ít ra họ đã trở thành một ‘huyền thoại’ trong làng ca nhạc Việt Nam ở hải ngoại. Và, không có ông Tô Văn Lai thì chắc gì chúng ta có hai người ‘huyền thoại’ này.
***
Có thể nói không ngoa rằng Trung tâm Thuý Nga và ông Tô Văn Lai đã song hành cùng người Việt ở hải ngoại cả nửa thế kỉ. Có người nói đùa (mà tôi nghĩ rất thật) là trong bất cứ gia đình người Việt ở nước ngoài nào cũng có gạo, nước mắm, và … Thuý Nga.
Thật vậy, những sản phẩm của Thuý Nga là ‘món ăn tinh thần’ của người Việt ở hải ngoại. Nhà tôi có rất nhiều băng đĩa của Thuý Nga và có thể nói là sưu tầm thành một ‘thư mục’ văn nghệ. Không có Thuý Nga, tôi đâu biết được những hoàn cảnh sáng tác của những nhạc sĩ thời xưa ra sao (dù tôi sống vào thời đó). Những câu chuyện đó giúp cho tôi hiểu hơn về nền văn hoá và môi trường văn hoá mà mình đã lớn lên trong đó. Thành ra, cá nhân tôi biết ơn những sản phẩm của Thuý Nga lắm.
Người Việt tị nạn ra đi mang theo quê hương (đúng như tựa đề của một chương trình nhạc Paris by Night). Quê hương là những kí ức ngọt ngào, những kí ức kinh hoàng của chiến tranh, những chấn thương hậu chiến tranh, và nhứt là những ca khúc mình từng lớn lên theo cùng năm tháng. Trong nửa thế kỉ qua, Trung tâm Thuý Nga và ông Tô Văn Lai đã giúp mỗi gia đình người Việt ở hải ngoại đem theo quê hương.
Bây giờ thì ông Tô Văn Lai đã về thế giới bên kia. Nhưng những đóng góp của ông trong việc duy trì nền văn hoá – nghệ thuật thời VNCH ở hải ngoại sẽ còn mãi mãi. Rồi đây, sẽ còn nhiều sinh viên, nghiên cứu sinh, học giả, nhà nghiên cứu văn hoá khai thác những chương trình Paris by Night để hiểu hơn về tâm tình của người Việt ở hải ngoại, và người ta sẽ ngạc nhiên về tầm ảnh hưởng của ông. Ông Tô Văn Lai không phải là một nhà văn hoá, nhưng ông có công đem văn nghệ và các văn nghệ sĩ đến mỗi gia đình người Việt ở hải ngoại, và đó là một đóng góp quan trọng của ông cho nền văn hoá Việt Nam vậy.
Cựu Thủ tướng Nhật Shinzo Abe (1954 – 2022) đột ngột qua đời để lại nhiều thương tiếc trong cộng đồng quốc tế, kể cả Việt Nam. Đọc những lời chia buồn của người đứng đầu chánh phủ Việt Nam và trên thế giới chúng ta sẽ thấy vài xu hướng hay hay.
Không nói ra thì ai cũng biết ông Shinzo Abe là một chánh khách đúng nghĩa. Ông xuất thân từ một gia đình chánh trị và bảo thủ: thân phụ ông là cựu bộ trưởng ngoại giao, và ông nội là cựu thủ tướng Nhật. Ông là người đề ra chánh sách kinh tế mà sau này người ta gọi là “Abenomics”. Ông còn là một trong những người sáng lập nhóm Bộ Tứ Kim Cương (Quad). Nhưng ông cũng bị phê phán vì thái độ không tạ lỗi liên quan đến những hành động của Nhật trong Thế chiến thứ II. Ông từng nói rằng thế hệ tương lai không nên quá bận tâm cho những sai lầm của cha ông trong quá khứ.
Cái chết đột ngột của ông đã để lại rất nhiều thương tiếc không chỉ trong giới chánh trị mà còn trong người dân trên thế giới. Đọc những lời chia buồn về sự ra đi của ông cũng giúp chúng ta biết một chút về những thành tựu của ông trong thời gian tại chức. Nhưng tôi còn phát hiện qua những so sánh lời chia buồn của Việt Nam và thế giới còn cho chúng ta một “cửa sổ” nhìn vào suy nghĩ của mấy người lãnh đạo.
“A life of consequence”
Trong các lời chia buồn, tôi thấy lời văn của Thủ tướng Úc Anthony Albanese là hay nhứt. Ông Albanese viết rằng:
“Mr Abe’s was a life of consequence. He made a difference. He changed things for the better not just in Japan, but in our region and around the world.
Australia has lost a true friend. The friendship that Mr Abe offered Australia was warm in sentiment and profound in consequence.
To Mr Abe’s wife Akie, his family and the government and people of Japan, I extend the sincerest condolences of the Australian people. We stand with you in this time of sadness.“
(Tạm dịch: Ông Abe là biểu tượng của một cuộc đời cống hiến. Ông đem lại sự khác biệt. Ông thay đổi sự việc theo chiều hướng tích cực không chỉ ở Nhật Bản và còn trong vùng và trên thế giới.
Úc đã mất một người bạn chân thực. Tình hữu nghị mà ông Abe đem đến cho Úc là một tình cảm ấm nồng và tác động sâu rộng.
Tôi trân trọng gởi đến phu nhân Akie, gia quyến ông, và Chánh phủ và Nhân dân Nhật Bản lời chia buồn chân thành nhứt của Nhân dân Úc. Chúng tôi đứng bên các bạn trong thời điểm đau buồn này.”)
Như các bạn thấy lời chia buồn ngắn gọn có 3 ý. Ý thứ nhứt là những đóng góp mang tầm vóc quốc tế của ông Shinzo Abe. Ý thứ hai là đóng góp của ông cho mối quan hệ hữu nghị thân thiết giữa Nhật Bản và Úc. Và, ý thứ ba là lời chia buồn gởi đến phu nhân và gia quyến ông cựu Thủ tướng.
Về văn chương, nếu các bạn để ý, trong lời chia buồn trên, ông Albanese dùng cách viết rất hay và rất đáng học: đó là mệnh đề “life of consequence“. Rất khó dịch mệnh đề này sang tiếng Anh, nhưng khi người ta nói “You live a life of consequence” thì cũng đồng nghĩa với cách nói “Bạn đã tạo ra một thay đổi cho thế giới” (You made a difference to the world). Đó là một cách đề cao rất tao nhã.
Úc và Nhật có mối quan hệ mật thiết. Thủ tướng Úc không chỉ gởi lời chia buồn mà còn ra một tuyên bố (Statement). Tuyên bố kí ngày 8/7/2022 chỉ có 6 đoạn ngắn đề cập đến những đóng góp cụ thể của ông Shinzo Abe. Tôi lược dịch bản tuyên bố theo cách hiểu của tôi như sau:
“Cái chết thảm thương của cựu Thủ tướng Nhật Abe Shinzo là một bản tin choáng váng. Thay mặt Chánh phủ và người dân Úc, chúng tôi gởi lời cảm thông và lời chia buồn sâu xa nhứt đến bà Abe và gia quyến và bạn bè, và người dân Nhật Bản.
Ông Abe là một trong những người bạn thân thiết nhứt của Úc trên chánh trường thế giới. Viễn kiến của ông đã giúp nâng cao mối quan hệ giữa Nhật và Úc đến tầm Chiến Lược vào năm 2004. Dưới sự lãnh đạo của ông, Nhật Bản đã nổi lên như là một đồng minh gần gũi nhứt và chùng chí hướng ở Châu Á — đó là một di sản vẫn còn cho đến ngày hôm nay.
Ông Abe là một nhà lãnh đạo trong vùng Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, người xiển dương tầm nhìn về một vùng tự dao mậu dịch. Sự ra đời của Bộ Tứ Kim Cương (Quad) và Hiệp ước Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương là kết quả của sự lãnh đạo ngoại giao của ông Abe.
Ông Abe còn là một chánh khách lớn trên thế giới. Ông là một nhà lãnh đạo của Khối G7, Khối G20, và Liên hợp quớc. Di sản của ông có ảnh hưởng tích cực đến toàn cầu và Úc châu.
Chỉ vài ngày sau khi tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng Úc, tôi đã có đặc quyền viếng thăm Nhật trong buổi họp của Bộ Tứ Kim Cương, một di sản trong nỗ lực ngoại giao của ông Abe.
Ông Abe là vị Thủ tướng lâu năm nhứt trong lịch sử Nhật Bản. Thế giới sẽ còn thương tiếc ông rất nhiều.”
Lời chia buồn từ Mĩ
Ở Mĩ, hai ông cựu tổng thống và đương kim tổng thống đều gởi điện chia buồn với những nội dung giống như ông Albanese bên Úc nhưng văn chương thì hơi khác. Ông Obama viết rằng
“Tôi luôn nhớ những việc làm của chúng ta nhằm củng bố mối liên minh giữa Nhật và Mĩ, lần chúng ta viếng thăm đầy cảm xúc đến Hiroshima và Pearl Harbor, sự sủng ái mà bà Akie đã dành cho Michelle và tôi”.
Ông Donald Trump là một bạn thân của ông Abe, nên không ngạc nhiên khi ông ấy viết “Ông ấy [Abe] là người bạn chân thành của tôi và nước Mĩ. [Sự kiện ông bị ám sát] là một cú sốc lớn đến người dân Nhật tuyệt vời, những người yêu mến và ngưỡng mộ ông. Chúng ta cùng nhau cầu nguyện cho ông Shinzo và gia quyết đẹp của ông.”
Ông Joe Biden thì cảm thấy “sững sờ, phẫn uất, và buồn bã khi nghe tin người bạn tôi Shinzo Abe, cựu Thủ tướng Nhật Bản, bị ám sát trong khi vận động [bầu cử]. Đây là một thảm nạn đối với Nhật Bản và tất cả những ai biết ông. Tôi có đặc quyền làm việc gần gũi với Thủ tướng Abe. Trong vai trò Phó tổng thống tôi từng ghé thăm ông ở Tokyo và chào đón ông đến Hoa Thạnh Đốn. Ông là người đi đầu xiển dương liên minh giữa Mĩ và Nhật Bản và tình hữu nghị giữa hai dân tộc.”
Việt Nam và China: lời chia buồn sâu sắc
Người đứng đầu Chánh phủ Việt Nam dĩ nhiên là có gởi điện chia buồn đến gia đình ông Shinzo Abe. Theo VietnamPlus:
“Trong điện, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính gửi lời chia buồn sâu sắc nhất tới Chính phủ, Nhân dân Nhật Bản và gia quyến Ngài Abe Shinzo; bày tỏ trân trọng tình cảm đặc biệt và sự ủng hộ, hỗ trợ quý báu mà Ngài Abe Shinzo dành cho đất nước và con người Việt Nam cũng như quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam-Nhật Bản.“
Đó là một lời chia buồn chung chung, có thể sử dụng cho bất cứ ai từng có quan hệ với Việt Nam.
Chủ tịch Tập Cận Bình bên China thì thay mặt Chánh phủ và nhân dân và cá nhân gởi một thông điệp chia buồn sâu sắc đến sự ra đi đột ngột và không may mắn của cựu Thủ tướng Shinzo Abe. Ngoài ra, phu nhân ông Tập còn gởi lời chia buồn đến phu nhân của cựu Thủ tướng Shinzo Abe. Trong điện thư chia buồn ông Tập chỉ ra rằng cựu Thủ tướng Shinzo Abe đã có những nỗ lực nhằm cải thiện quan hệ giữa hai nước, đã có đóng góp quan trọng tromg việc xây dựng mối quan hệ Trung – Nhật trong thời đại mới. Ông Tập nói sẽ làm việc với đương kim Thủ tướng Kishida để tiếp tục phát triển mối quan hệ Trung – Nhật láng giềng tốt và hợp tác.
Điện thư của người đứng đầu đảng bên China có phần chi tiết hơn điện thư của người đứng đầu Chánh phủ Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai đều dùng chữ “chia buồn sâu sắc”. Hình như các vị ấy rất thích dùng mệnh đề này trong quá khứ [1].
Thoạt đầu tôi nghĩ Nhật Bản là nước thân với Việt Nam và ông Abe cũng từng giúp Việt Nam rất nhiều, thì phía Việt Nam sẽ có lời chia buồn “cá nhân hoá” (personalized) hơn. Nhưng hoá ra không phải như vậy, mà chỉ là một câu văn rất chung chung, giống như một “câu văn tủ” hay một loại bổn cũ soạn lại vậy. Việt Nam cũng không ra tuyên bố về cái chết của ông Abe.
Lời chia buồn không nhắc đến những di sản của ông ấy trên chánh trường quốc tế và trong vùng. Không có một kỉ niệm hay một sự kiện nào để cho thấy Việt Nam hay những người đứng đầu chánh phủ Việt Nam gần gũi với ông ấy. Không có một lời đề cập đến G20, G7 hay Hiệp ước Xuyên Thái Bình Dương.
Tôi tự hỏi “tại sao”. Tại sao cách chia buồn của Việt Nam có vẻ (nhấn mạnh là “có vẻ” thôi) hơi nhạt. Việt Nam không nằm trong các nhóm trên G20, G7 trên, hay Việt Nam không nằm trong câu lạc bộ quyền lực, nên chẳng có gì để viết. Rất có thể giới lãnh đạo Việt Nam không có một mối quan hệ ‘bạn thân’ như mấy ông Obama, Trump, Biden, Johnson, hay Albanese, nên chẳng có kỉ niệm gì để nhắc đến. Nhưng dù là không thân cấp độ cá nhân, thì Nhật Bản vẫn thân với Việt Nam ở cấp độ quốc gia, và chỉ mối thâm tình đó cũng đủ để có một lời chia buồn sâu đậm hơn và hay hơn.
____
[1] Những lời “chia buồn sâu sắc” của giới lãnh đạo Chánh phủ:
Tôi mới nghe một buổi phỏng vấn cô xướng ngôn viên / phóng viên Leyna Nguyễn [1]. Có vài chi tiết rất vui và hay, gợi nhớ thời tị nạn cũng như cách phấn đấu để tồn tại và được ghi nhận trên quê hương thứ hai.
Leyna là một phóng viên và xướng ngôn viên có tiếng của Mĩ, từng đoạt giải thưởng Emmy Award 3 lần. Cô từng là phóng viên cho đài truyền hình CBS2 và KCal9 ở Los Angeles suốt 20 năm trời. Trước đó, Leyna là phóng viên cho đài KCREA-TV ở Sacramento (thuộc tập đoàn truyền thông NBC) và xướng ngôn viên cho một đài thuộc tập đoàn CBS. Có thể nói rằng Leyna là một trong những người Việt hiếm hoi có tên tuổi trong hệ thống truyền thông Mĩ đầy cạnh tranh. Trước đây, Leyna cho biết mấy người xướng ngôn viên truyền hình tuyệt đại đa số là nam và da trắng, chứ một người Á châu và nữ giới như cô thì hầu như không có. Sự thành công của Leyna đáng để người Việt chúng ta học hỏi.
Những ngày đầu trên đất Mĩ
Leyna cho biết cô sanh ra ở Đông Hà (Quảng Trị) và đến Mĩ vào năm 1975, và lúc đó cô mới 5 tuổi. Lúc tới Mĩ, gia đình cô được một gia đình nông dân ở Minnesota bảo trợ và sống ở đó một thời gian. Hỏi về kỉ niệm trong thời gian đó, Leyna cho biết cô thấy cuộc sống êm đềm nhưng khá buồn tẻ vì ít tiếp xúc với ai (lúc đó chỉ có 6 gia đình người Việt ở MN) và vì rất ít nhà ở vùng quê; từ nhà này sang nhà kia cách nhau cả cây số. Ăn uống thì hoàn toàn theo cách của người Mĩ, tức rất nhiều … khoai tây và thịt. Leyna nói lúc đó thì “NOnước mắm”. 🙂
Leyna kể rằng một hôm mẹ cô phát hiện ở phía sau nhà có một loại rau hay thấy ở Việt Nam và có thể nấu canh, thế là bà hái về và nấu một nồi canh ngon ơi là ngon. Ngon đến nổi cả nhà đều lăn ra … ngủ. Đến khi bà bảo trợ về thấy cả gia đình đều ngủ và thấy ở nhà bếp có loại rau mà họ cho là cỏ dại, nên nghĩ là họ bị đầu độc và gọi ngay cho xe cấp cứu chở vào bệnh viện! (Chuyện này làm tôi nhớ chuyên bên Úc, con gái của anh bạn tôi bị giữ lại trường vì thấy dấu cạo gió trên cổ và lầm tưởng là do bạo hành gia đình.)
Phấn đấu và may mắn
Hành trình từ một cô bé 5 tuổi đến một xướng ngôn viên có tiếng không hề dễ dàng chút nào. Leyna nói rằng thời đó (thập niên 1990s), Leyna nói rằng ngay từ hồi còn nhỏ cô ấy không thích chơi game hay xem phim hoạt hình, mà rất thích hình ảnh của người phóng viên. Do đó, ngay từ thời tiểu học cô chỉ xem tin tức và chú ý đến người đọc tin và phóng viên. Lớn lên, theo học ngành truyền thông từ Đại học Webster (St Louis), Leyna quyết tâm theo đuổi sự nghiệp truyền thông. Leyna biết rằng vào ngành này rất khó bởi vì lúc đó tuyệt đại đa số xướng ngôn viên trên đài truyền hình là nam giới gốc da trắng. Nhưng Leyna nói càng biết đó là một khó khăn thì cô càng quyết tâm khắc phục khó khăn.
Khắc phục như thế nào? Hai yếu tố: làm việc hơn người và may mắn. Chưa ra trường nhưng Leyna đã làm việc cho một số đài truyền hình địa phương dù sự nghiệp chưa ‘lên bệ phóng’. Rồi một hôm, người xướng ngôn viên của đài truyền hình bị bệnh, nên Leyna được chỉ định tạm thời thay thế người đó. Không ngờ lần xuất hiện đó, với sắc diện đẹp và thông minh cùng tài nói năng lưu loát không vấp một chữ nào, Leyna đã thuyết phục được khán giả. Kể từ đó, Leyna bắt đầu nổi tiếng là “như diều gặp gió”. Đó là yếu tố may mắn.
Nhưng may mắn chưa đủ, mà phải phấn đấu hơn người nữa. Leyna cho biết cô muốn chứng minh cho mọi người khác là cô ấy làm việc tốt hơn và nhiều hơn mọi người. Chẳng hạn như Leyna không phải chỉ là xướng ngôn viên, mà còn là một phóng viên xông xáo ngoài ‘trận địa’. Cô chứng minh rằng mình không phải chỉ ngồi ở văn phòng, mà còn lăn lộn ngoài xã hội chuyên đi tường trình những nơi tội phạm, kể cả những chuyện không hay trong cộng đồng người Việt Nam. Không chỉ làm 2 việc cùng một lúc, Leyna còn làm cho 2 đài truyền hình cùng một thời gian, vừa thu hình đài này xong là chạy đi thu hình cho đài khác. Phải phấn đấu và chứng tỏ rằng mình hơn người địa phương để người ta “take me seriously”. Người ta làm 1, mình phải làm gấp 2, thậm chí gấp 3 lần họ. Cái ‘triết lí’ đó rất quan trọng, và tôi cũng hay đề cập với các bạn trẻ tuổi hơn và qua nước ngoài sau này.
Cho đi
Một ‘triết lí’ sống khác của Leyna mà tôi cũng rất tâm đắc là cống hiến hay cho đi. Hãy cho đi và đừng nghĩ đến việc được đền đáp. Thế nhưng qui luật đời lúc nào cũng là cho đi và thụ hưởng vì sự cống hiến. Cô ấy kể rằng có lần về quê nhà ở Quảng Trị và thấy một lớp học miền quê không có cầu tiêu, cô mới chợt nhận ra nếu gia đình cô ấy không đi Mĩ thì cô đã là một học sinh ở trường này với điều kiện sống như thế. Về Mĩ, Leyna tiết kiệm tiền và sau này thành lập quĩ từ thiện để giúp quê nhà.
Hiện nay, Leyna có một kênh dạy tiếng Anh rất hay và được nhiều người theo dõi [2]. Tôi mới phát hiện ra kênh này và rất thích. Thích cách hướng dẫn ‘down to earth’, vui tươi, nhưng chuyên nghiệp. Thích nhứt là cách phát âm rất chuẩn mực nhưng vẫn mang âm hưởng Việt Nam. Ui, tôi thích giọng này ghê. Tôi tạm gọi tiếng Anh theo phong cách của Leyna Nguyễn là “Vietnamenglish”. Tôi chắc là thiên vị nhưng vẫn nói ra: Vietnamenglish hay hơn ‘Singlish’ :).
Có lẽ các bạn ngạc nhiên sao tôi bỏ ra cả 30 phút để viết cái note này. Dễ hiểu thôi: tôi thấy những ‘triết lí’ sống và làm việc của Leyna Nguyễn y chang với những trải nghiệm của mình, và nghe Leyna kể chuyện tôi liên tưởng đến những ngày đầu mình mới tới Úc. Thôi thì tôi mời các bạn nghe qua câu chuyện của Leyna Nguyễn và tiếng Anh Vietnamenglish.
_____
Nhóm luật sư đại diện Thiền Am mới công bố một loạt video [1-4] bàn về những ‘nạn nhân’ trong vụ án Thiền Am. Thấy những sự việc mô tả trong video rất thú vị, nên tôi tóm tắt những thông tin chánh trong cái note này, trước là cho tôi, và sau là chia sẻ cùng các bạn nào quan tâm đến vụ án.
Như các bạn đã biết, 6 người trong Thiền Am bị cáo buộc phạm tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” được ghi trong Điều 331 Bộ luật hình sự. Nói ngắn gọn, họ bị tội hình sự (chứ không phải dân sự).
Họ không bị cáo buộc bất cứ tội nào khác. Thế nhưng trên báo chí và truyền thông của Nhà nước thì họ bị cáo buộc vài tội danh khác. Mà, báo chí nói thì trích từ lãnh đạo cơ quan công an. Các luật sư làm đơn yêu cầu công an giải thích, nhưng lời giải thích của công thì không thoả đáng, thậm chí hiềm nghi và khó chịu.
Và, chính vì cái tội danh hình sự này là một chủ đề của rất nhiều bàn luận, thắc mắc, ngỡ ngàng của công chúng trong và ngoài nước. Để hiểu tại sao thắc mắc và ngỡ ngàng, chúng ta cần phải theo dõi 4 video clip mà nhóm luật sư đại diện Thiền Am lí giải. Vậy ai là nạn nhân? Xin thưa, 3 người/đối tượng tự xem mình là “nạn nhân” và muốn đưa 6 người Thiền Am vào tù là:
Nhưng ngoài 3 ‘nạn nhân’ trên, còn có vài nạn nhân (không có ngoặc kép) khác nữa trong Thiền Am. Đây là những người không có dính dáng gì đến vụ án, nhưng lại trở thành nạn nhân thê thảm nhứt của công an, những kẻ côn đồ, và cả chức sắc tôn giáo. Đó là những chú tiểu và cô Bùi Ngọc Trâm (người chăm sóc các trẻ em mồ côi trong Thiền Am). Các luật sư bàn về từng nạn nhân một, và tôi tóm tắt những ý hay thông tin chính dưới đây.
Theo cáo trạng thì những bị can thuộc Thiền Am có những cách hành xử, nghi thức xâm phạm Đức Phật. Có ý kiến cho rằng những tượng Phật mà Thiền Am thờ cúng là bất hợp pháp.
Ông Thích Nhật Từ còn tố giác rằng Thiền Am đã “xúc phạm Đức Phật, mạo danh Đức Phật, làm ảnh hưởng đến hoạt động tôn giáo“.
Nhưng các luật sư xác định rằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Long An không đại diện cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Các luật sư hỏi Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Long An có đại diện cho Đức Phật hay không?
Thật ra, câu hỏi quan trọng hơn: Ai là Phật? Nên nhớ rằng Phật không phải là ‘Thượng Đế’ ở trên trời (như nhiều người nghĩ); Phật là người thật, người đã hoàn thiện được các phẩm chất tích cực và loại bỏ mọi phẩm chất tiêu cực. Người thường như chúng ta nếu tu tập tốt vẫn có thể trở thành Phật. Phật không phải chỉ là 1 cá nhân.
Do đó, các luật sư bác bỏ rằng tố giác của ông Thích Nhật Từ là vô căn cứ. Các luật sư còn đưa ra nhận xét rằng ông Thích Nhật Từ không có tư cách để phán xét những người trong Thiền Am vì ông ấy là người theo Phật giáo (cũng như người viết bài này), còn những người trong Thiền Am họ tu theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông Thích Nhật Từ phản bác rằng người theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương không cạo đầu, nhưng trong thực tế thì có người cạo đầu và mặc pháp phục. Phật Giáo khác với Bửu Sơn Kỳ Hương, và không thể áp đặt nghi thức của tôn giáo này (Phật Giáo) trên một tôn giáo khác (Bửu Sơn Kỳ Hương).
Theo các luật sư, ông Thích Nhật Từ và Thích Minh Thiện có thể nghĩ rằng Phật là của riêng họ, nhưng điều này sai vì Bửu Sơn Kỳ Hương (và nhiều tôn giáo khác) cũng thờ Phật và lấy triết lí Phật làm nền tảng.
Họ (các luật sư) còn tiết lộ rằng ông Thích Nhật Từ đã nhiều lần lôi kéo Thiền Am vào Giáo hội Phật Giáo Việt Nam. Và, khi Thiền Am không chịu theo Giáo hội của ông ấy, thì ông ấy quay sang bôi nhọ họ và vu cáo rằng Thiền Am xúc phạm Phật giáo. Các luật sư chỉ ra rằng hành vi lôi kéo, đe doạ của ông Thích Nhật Từ là một sự đàn áp tôn giáo và vi phạm pháp luật.
Tóm lại, đây là một cáo buộc yếu ớt nhứt, và theo biện luận của luật sư, người gọi là ‘nạn nhân’ có thể là chính là người vi phạm luật pháp, và ‘bị can’ (Thiền Am) mới chính là nạn nhân.
Trong video 2 các luật sư bàn về nạn nhân thứ hai là cơ quan công an huyệt Đức Hoà, nhưng câu chuyện khá phức tạp. Tôi phải nghe 2 lần và đối chiếu với những gì tôi hỏi các cá nhân liên quan mới nắm được diễn biến và nguồn cội của sự việc. Câu chuyện có liên quan đến không chỉ công an, mà còn các nhân vật như ông Võ Văn Thắng và bà Đoàn Thị Tuyết Mai và con của hai người là cô Võ Thị Diễm My.
Cô Diễm My là bạn của Lê Thanh Huyền Trân (một thành viên trong Thiền Am), người từng đoạt giải Quán quân trong kì thi “The Voice”. Huyền Trân là trẻ mồ côi được ông Lê Tùng Vân nuôi dưỡng và cho đi học. Diễm My muốn ở lại Thiền Am để phụ giúp chăm sóc các trẻ mồ côi trong đó, nhưng ông Lê Tùng Vân không chịu vì chưa có sự đồng ý của ông Thắng và bà Mai. Sau này, ông Thắng và bà Mai đồng ý cho Diễm My ở Thiền Am, nên ông Lê Tùng Vân đã làm thủ tục đăng kí hộ khẩu cho cô ấy.
Tưởng như vậy là yên, ai ngờ vài ngày sau (10/10/2019) ông Thắng và bà Mai nhân danh “tìm con” dẫn một nhóm côn đồ chừng 50 người xông vào Thiền Am, khủng bố, đập phá tài sản, hành hung gây thương tích cho một số người trong Thiền Am, và cướp tiền mặt hàng trăm triệu và tài sản của những thành viên trong Thiền Am. Khi công an đến lập biên bản, Thắng & Mai tỏ ra biết lỗi và đã xin lỗi nhưng tài sản và tiền bạt thì đã mất. Diễm My không có mặt trong Thiền Am hôm đó.
Đến ngày 12/12/2019, Thắng & Mai tác động đến công an huyện Đức Hoà để mời Diễm My và bà Cao Thị Cúc (chủ hộ Thiền Am) lên ‘làm việc’ liên quan đến sự vụ ngày 10/10/2019. Có vài thành viên của Thiền Am đi theo lên cơ quan công an Đức Hoà. Nhưng thay vì làm việc, họ tách biệt Diễm My và bà Cúc. Mấy người của Thiền Am chờ lâu quá mà không thấy Diễm My xuất hiện, nên họ bắt đầu cuống cuồng (vì sợ bị cáo buộc là làm mất Diễm My). Khi hỏi công an viên Trần Quốc Thắng thì ông này nói là Diễm My đã theo gia đình về nhà!
Quá bức xúc trước cách hành xử của công an huyện Đức Hoà, mấy người của Thiền Am làm đơn khiếu nại lên Bộ Công An tại TPHCM và họ làm video để trần tình sự việc, với ý định là sự mất tích của Diễm My không phải do họ mà ra. Trong video, họ có tri hô rằng công an bắt cóc Diễm My và yêu câu trả Diễm My. Trong video, ông Lê Thanh Nhất Nguyên nói:
“Yêu cầu công an trả Diễm My ra đây, mấy anh bắt cóc Diễm My vậy rồi mấy anh đổ lỗi cho tôi …” và “Nếu mà cái kết quả là không có đủ cơ sở để mà cáo buộc tội trạng xâm phạm gia cư bất hợp pháp hay các tội trạng trong này, tức là đây là một sự việc bỏ lọt tội phạm trầm trọng vô cùng chứ không phải thường.”
Công an huyện Đức Hoà vin vào câu nói đó và cho rằng họ là đối tượng bị hại, là ‘nạn nhân’ của Thiền Am.
Thật ra, câu chuyện tôi kể trên là phiên bản của công an. Còn phiên bản thật (người thật việc thật) thì rất khác. Trong một video clip phát ngày 1/11/2020, Diễm My lên mạng cho biết chính công an đã bắt cóc cô ấy, kéo lên một xe cứu thương và chở thẳng về nhà ông Thắng và bà Mai:
“… Tôi là cái người bị bắt cóc. Người công an ở phía sau ôm tôi vào lòng, hai tay ôm chặt, đè lên vú của tôi. Cái thằng đó tên là Bình. […] Tại sao nó dám đụng chạm đến thân thể con gái của tôi. Luật pháp nào cho phép nó làm điều đó […] Chính công an Bình, công an Thắng, và cả mấy chục công an trong cái đồn công an huyện Đức Hoà mới là tội phạm.”
Các luật sư biện luận và nhận định như sau:
Các luật sư đề nghị các cơ quan hữu trách cần phải làm rõ những cán bộ công an, cán bộ an ninh nào đã tiếp tay cho ông Thắng và bà Mai thực hiện những hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật như vậy, và những cán bộ nào đã có hành vi bao che cho việc vi phạm pháp luật của ông Thắng và bà Mai, trong đó có việc xâm phạm quyền tự do của cá nhân, bằng cách lắp đặt camera trái phép và sử dụng một số thiết bị được xem là của cơ quan an ninh để thực hiện cái mục đích của ông Thắng.
Các luật sư hỏi có hay không có hành vi bắt giữ người (Diễm My) trái phép vào ngày 12/12/2019, và qua đó có sự tiếp tay của ông Trần Quốc Thắng (điều tra viên cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đức Hoà) và một số người khác, trong đó có cả sự tiếp tay của người lái xe cấp cứu và trang mạng “Đạo Phật Ngày Nay”.
Các luật sư nói rằng những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có tổ chức, liên tục, nhiều tội danh của ông Thắng, bà Mai, và đồng bọn và tổ chức tôn giáo cần phải được xác minh và làm rõ.
Các luật sư nhận xét rằng sự việc côn đồ kéo đến nhà mà công an không xử lí là một sai lầm. Nếu như ngày 10/10/2019 những hành vi vi phạm pháp luật trắng trợn của ông Võ Văn Thắng được xử lí nghiêm minh, kịp thời, không bỏ sót tội phạm thì không xảy ra sự kiện ngày 12/12/2019 hay sự kiện ngày 11/12/2020. Việc bỏ qua hành vi như thế sẽ dấy lên một hiện tượng xã hội. Ngay cả luật sư cũng bị người xâm nhập hay stalk văn phòng. (Xâm phạm chỗ ở. Lắp đặt camera là vi phạm nghiêm trọng quyền tự do cá nhân). Họ đề nghị những người vi phạm phải được xử lí nghiêm.
Trong video thứ 3, các luật sư bàn về cáo buộc của ông Thích Nhật Từ, người được xem là một ‘nạn nhân’.Theo bản kết luận điều tra của công an tỉnh Long An, ông Thích Nhật Từ đệ đơn đề ngày 24/11/2021 tố cáo rằng ông Lê Tùng Vân và Lê Thanh Hoàn Nguyên đã
“có lời nói xúc phạm cá nhân ông Thảo, làm nhiều video báng bổ Đức Phật và có dấu hiệu vi phạm pháp luật.“
Vẫn theo công an Long An bằng chứng là một video clip phát trên youtube ngày 5/8/2021. Trong video đó, bé Nghi Tâm bịt mắt đọc làu làu 541 câu kinh. Trong đó, có một thông tin cho là xúc phạm danh dự cá nhân ông Thích Nhật Từ (không liên quan gì đến tôn giáo). Theo công an, bị can Lê Thanh Hoàn Nguyên được cho rằng đã nói:
“Cái tánh tôi y hệt như sư phụ tôi. Sư phụ tôi hả, nếu Giáo hội Phật giáo nói đúng, sư phụ nghe; Giáo hội nói tầm bậy thì sư phụ ngồi trước mặt cơ quan công an sư phụ nói cái ông Nhật Từ ngu như bò. Vậy thôi.”
Các luật sư cho rằng câu “ngu như bò” là không hợp lí, là sai. Nhưng họ cũng nói thêm rằng cái sai đó chỉ qua xin lỗi là xong chứ không phải là tội hình sự hay đi tù. Các luật sư cũng đã đại diện thân chủ xin lỗi ông Thích Nhật Từ.
Tuy nhiên, Hoàn Nguyên thốt ra câu nói đó cũng có căn nguyên đằng sau. Căn nguyên là ông Thích Nhật Từ trước đó đã vu khống, bịa đặt và xúc phạm những người trong Thiền Am một cách liên tục.
Trong một video thuyết pháp được phát tán từ youtube và các nền tảng xã hội khác, trước rất nhiều người nghe và [có lẽ] hàng triệu người xem, ông Thích Nhật Từ nói rằng những người trong Thiền Am phạm tội loạn luân. Ông dẫn lại lời của báo chí Nhà nước và nhà chức trách khẳng định rằng những người trong Thiền Am là loạn luân, và nhà chức trách chưa muốn công bố vì nhân đạo mà thôi. Ông Thích Nhật Từ còn đe doạ rằng ai dám phản đối thì ông sẽ phanh phui sự thật này. Nhưng các luật sư khẳng định những phát biểu đó của ông Thích Nhật Từ là hoàn toàn là bịa đặt, vì Thiền Am không hề phạm tội loạn luân.
Theo cách lí giải của luật sư, ông Thích Nhật Từ có thể bị xúc phạm hay là nạn nhân, nhưng những gì ông ấy xúc phạm những người trong Thiền Am thì còn gấp 100 hay 1000 lần. Nói cách khác, người của Thiền Am mới chính là nạn nhân của những vu khống, bịa đặt và xúc phạm của ông Thích Nhật Từ.
Trong Đơn Kêu Oan của Thiền Am, có đoạn viết:
“[…] thậm chí có một vị chức sắc tôn giáo (ý nói Thích Nhật Từ), có tiếng tăm, có uy tín và cũng tham gia hoạt động Youtube cũng úp mở kiểu ‘người ta biết, người ta đã nắm các chứng cứ, nếu ngoan, nếu im lặng thì người ta sẽ bỏ qua vì nhân đạo, còn nếu chống đối, cứng đầu thì người ta sẽ phanh phui, sẽ công bố và xử lý…‘, và ông ấy cứ ra rả ngày này qua ngày khác, thậm chí đe dọa, xúc phạm một số kênh Youtube có ý bênh vực chúng tôi và cổ súy, kích động những kênh đối lập đang công kích, nhục mạ, bôi nhọ thậm chí chửi bới chúng tôi chỉ nhằm câu view kiếm tiền.“
Các luật sư nhận xét rằng ông Thích Nhật Từ đã nhiều lần lên mạng dùng youtube và facebook đưa ra những cáo buộc rằng có ‘loạn luân’ trong Thiền Am. Các luật sư trích dẫn lời nói của ông Thích Nhật Từ cáo buộc rằng 5 chú tiểu (nổi tiếng với chương trình Thách Thức Danh Hài) có mẹ ruột là những sư cô trong Thiền Am, và các sư cô đó là con ruột của ông Lê Tùng Vân. Ông Thích Nhật Từ còn nói rằng:
“cái vụ thử máu vừa qua cho ra kết quả và đài truyền hình Long An đã công bố kết quả này, các tờ báo quan trọng đã đưa tin.“
Sau khi trích dẫn lời phát biểu đó của ông Thích Nhật Từ, các luật sư nhận định như sau:
“Những hành vi đó là tội ác. Chúng tôi nhắc lại là tội ác, cần phải trừng trị.“
Trong video thứ 2, các luật sư còn đề cập đến những nạn nhân thật, những nạn nhân mà họ gọi là ‘bất ngờ’. Nói theo tiếng Anh, họ là “collateral victims”, những người chẳng dính dáng gì đến vụ án nhưng lại trở thành nạn nhân của công an và cơ quan công quyền huyện Đức Hoà. Câu chuyện rất đau lòng. Các nạn nhân bất ngờ trong vụ án Thiền Am là:
Sau khi được trao giải nhứt trong chương trình Thách Thức Danh Hài, 5 chú tiểu được một công ti truyền thông mến mộ và giúp lập ra một kênh video có tên là “5 Chú Tiểu”. Kênh Năm Chú Tiểu được sự yêu mến của rất nhiều khán giả trên khắp thế giới, và nay đã có hơn 2.1 triệu người theo dõi.
Hiện nay, thu nhập chánh của Thiền Am là Kênh Năm Chú Tiểu. Các luật sư đoán rằng cứ mỗi 10,000 lượt xem thì kênh Năm Chú Tiểu có thể được hưởng 3600 đồng. Thành ra, cho dù có được 1000,000 lượt xem thì kênh Năm Chú Tiểu cũng chỉ được chừng 3.6 triệu đồng. Mỗi tuần, họ sản xuất vài video và thu hút rất nhiều người xem và do đó có tiền trang trải cho sinh hoạt trong Thiền Am. Nhờ nguồn thu nhập này mà Thiền Am có tiền nuôi dưỡng 35 con người trong đó.
Thế nhưng các luật sư cho biết trong ‘đơn tố cáo’, có người còn đòi đóng cửa kênh Năm Chú Tiểu, nhưng cách viết của họ còn tỏ ra một sự ganh tị rất đáng thương. Các luật sư cho biết với mức thu nhập như thế Năm Chú Tiểu là một
“sự ham muốn của rất nhiều người, chưa kể các đơn vị truyền thông muốn cạnh tranh sự ảnh hưởng đó, ngay cả một số cơ sở liên quan đến tôn giáo có những cái nét mà chúng tôi nghĩ là họ so bì, họ ganh ghét với cái lượng theo dõi như vậy. Nên ngay trong cái đơn từ của họ, họ cũng không quên nhắc đến cái lượng khán giả theo dõi và ủng hộ, họ còn đề cập luôn thu nhập như thế nào, trong khi đó thì đó là việc hoàn toàn riêng tư, nó chẳng liên quan gì đến Điều 331, thậm chí chẳng liên quan gì đến tội danh mà họ cố tính vu khống cho Thiền Am.”
Hiện nay, các luật sư đang tìm sự hỗ trợ của các chuyên gia và nhà hảo tâm nhằm duy trì kênh Năm Chú Tiểu.
Một nạn nhân bất ngờ khác là cô Bùi Ngọc Trâm (còn có pháp danh là Chơn Ngọc Xuân), một tình nguyện viên chăm sóc các trẻ em trong Thiền Am.
Cô Trâm làm thủ tục xin con nuôi từ Bệnh viện Từ Dũ. Nhưng chẳng hiểu vì nguyên cớ nào mà công an huyện Đức Hoà nhâ cơ hội đó đã cưỡng chế cô Trâm đi khám phụ khoa ở bệnh viện Xuyên Á.
Dựa vào tin này, một người tên là Trần Quốc Dũ đã làm một loạt video làm nhục cô Bùi Ngọc Trâm với tựa đề “Cô gái ấy đã đắc đạo sau 9 tháng 10 ngày?” Dũ lấy hình ảnh từ mạng, chỉnh sửa, và đăng tải trên youtube kèm theo những lời nói bôi nhọ, hạ nhục cô ấy. Trước đây, Dũ đã từng sản xuất và phát tán hàng ngàn video nhằm bôi nhọ và hạ nhục những người trong Thiền Am. Đây là một hành vi hoàn toàn nhứt quán với Du côn mạng.
Cô Trâm sau đó có đơn tố cáo công an huyện Đức Hoà và Trần Quốc Dũ. Công an huyện Đức Hoà giao cho người đã cưỡng ép cô đi khám phụ khoa “làm việc” với cô Trâm về đơn tố cáo! Điều tra viên này (không thấy nêu tên) nhân dịp này đã
“có hành vi đe doạ người tố cáo [là cô Bùi Ngọc Trâm], gây hoảng loạn tinh thần đối với người tố cáo.“
Khi luật sư đề nghị công an trả lời về vụ việc cưỡng ép cô Trâm đi khám phụ khoa, thì công an có công văn trả lời nhưng sai với những gì cô Trâm báo cáo. Công an trả lời rằng cô Trâm đã đồng ý với khám phụ khoa, nhưng điều này hoàn toàn không đúng sự thật.
Khi cô Bùi Ngọc Trâm tố cáo Trần Quốc Dũ về hành vi làm nhục đến công an huyện Gò Vấp, thì Trần Quốc Dũ không đến trả lời. Thay vì giải quyết lời tố cáo của cô Trâm, công an Gò Vấp đã có những hành động khó hiểu. Họ gởi công văn cho công an Trà Vinh (nơi Dũ sanh ra?) để xác minh lí lịch Trần Quốc Dũ nhưng … chưa có trả lời. Công an Gò Vấp còn yêu cầu công an Nha Trang:
Các luật sư nhận xét rằng hành xử của công an Gò Vấp là vô lí. Người tố cáo (tức Bùi Ngọc Trâm) trở thành người bị điều tra!
Thật khó tưởng tượng nổi những hành vi chẳng những vô lí mà còn mang tính trù dập người tố cáo của công an Gò Vấp. Cách hành xử của công an Gò Vấp đối với Trần Quốc Dũ làm cho người bàng quan nhứt cũng phải đặt câu hỏi có sự bao che cho kẻ vi phạm luật pháp một cách trắng trợn.
***
Tóm lại, theo biện luận của các luật sư cả 3 ‘bị hại’ hay ‘nạn nhân’ (Thích Minh Thiện / Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Long An, Thích Nhật Từ, và cơ quan công an Huyện Đức Hoà) không phải là nạn nhân đúng nghĩa. Các luật sư cho rằng ông Thích Minh Thiện và Thích Nhật Từ đã sai khi xem Đức Phật là thuộc về Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Cơ quan công an không hề bị hại, mà ngược lại, có những hành vi và hành động bức hại Thiền Am.
Theo luật pháp, hai chữ “nạn nhân” phải được hiểu là “cá nhân bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc tài sản do hậu quả của một tai họa xã hội, thiên tai, địch hoạ, một xã hội bất công, phân biệt chủng tộc. […] Nạn nhân của tội phạm là cá nhân, cơ quan, tố chức bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản do hành vi phạm tội gây ra.”
Chiếu theo định nghĩa trên, chính những người trong Thiền Am mới là nạn nhân đúng nghĩa. Thật vậy, theo nhận định của các luật sư, Thiền Am đã bị vu khống, xuyên tạc, ám hại trong suốt 3 năm trời bởi những kẻ dùng mạng xã hội (youtube, facebook), những chức sắc tôn giáo, quan chức Nhà nước, và cả báo chí ‘chánh thống’. Họ bị vu cáo là lợi dụng trẻ em, là lừa đảo tiền từ thiện, và nghiêm trọng và kinh tởm hơn hết là ‘loạn luân’. Các luật sư cho biết:
“[Thiền Am] là nạn nhân, là bị hại của một chiến dịch kinh khủng, và của bàn tay tội ác với một thế lực chúng tôi nghĩ rằng rất là mạnh nhưng chúng tôi nghĩ không có nghĩa là mạnh nhứt trong nước Việt Nam này. Tôi dám cam đoan điều đó. Và, bất cứ thế lực nào nếu như vi phạm pháp luật thì chắc chắn sẽ bị lôi ra ánh sáng.“
Một trong những kẻ thủ ác mà các luật sư đề cập đến là ông Thích Nhật Từ. Ông này tuy là một tu sĩ những có những hành vi rất khó giải thích, nếu không muốn nói là lạ lùng. Ông tán dương những người mà ông gọi là “youtuber chính nghĩa”, trong đó có Nguyễn Sin và Trần Quốc Dũ; ông còn vinh danh bà Nguyễn Phương Hằng (người đã bị tạm giam) như là “Bồ tát giữa đời thuờng”, là “Mỹ nhân cứu anh hùng”. Tất cả những nhân vật vừa kể đều có vấn đề với pháp luật. Nguyễn Sin là người đã phát tán những thông tin riêng tư, cá nhân, và cả bản giám định DNA giả tạo lên mạng và đã làm cho những người trong Thiền Am bị công chúng căm ghét một thời gian dài. Trần Quốc Dũ là người đã sản xuất hơn 2000 video chỉ để bịa đặt hay vặn vẹo thông tin nhằm nói xấu và làm nhục Thiền Am. Hành vi của họ hoàn toàn nhứt quán với hành vi của những kẻ tiếng Anh gọi là “Cyberbully” hay Du côn mạng. Hành vi du côn mạng là phạm pháp. Thật khó tưởng tượng nổi những con người như vậy mà được Thích Nhật Từ khen là ‘chính nghĩa’!
Những kẻ thủ ác khác là Võ Văn Thắng và Đoàn Tuyết Mai và đồng bọn. Hai người này, theo các luật sư, đã chủ mưu hãm hại Thiền Am một cách liên tục và trong một thời gian dài. Họ đã kéo hàng 50 côn đồ đến khủng bố Thiền Am, ăn cướp tiền bạc của Thiền Am, hành hung người trong Thiền Am. Họ đã dùng dụng cụ của cơ quan an ninh cung cấp để lắp đặt máy thu hình theo dõi Thiền Am, một hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền riêng tư của người khác. Các luật sư còn cho biết họ (Thắng & Mai) còn bắt giữ người phi pháp, cũng là một trọng tội. Hai người này từng xin lỗi Thiền Am, nhưng đó chỉ là bề ngoài, vì trong thực tế họ đã lên kế hoạch hãm hại Thiền Am một cách có tổ chức.
Các luật sư nhận xét:
“Thông tin về hành vi lừa đảo và loạn luân xảy ra nơi Thiền Am, đặc biệt về hành vi loạn luân là hoàn toàn sai sự thật, là bịa đặt và vu khống do một số Fbker và Youtuber dựng lên có chủ đích và ác ý, khiến cho các thành viên sống tại Thiền Am trở thành nạn nhân bị bức hại qua việc bị vu khống, thoá mạ liên tục, kéo dài với mức độ kinh hồn, bị đám đông quá khích gây hấn, đập phá, gây thương tích, huỷ hoại tài sản … Điển hình vợ chồng ông Võ Văn Thắng và Đoàn Thị Tuyết Mai xúi giục và lôi kéo khoảng 50 người quá khích đến gây án tại Thiền Am hay hàng trăm fan hâm mộ của bà Nguyễn Phương Hằng từng kéo đến Thiền Am phá cổng nhà, gây áp lực lớn cho các thành viên Thiền Am.“
Qua vụ án này, chúng ta thấy người dân ở những nơi mà công an xem thường luật pháp rất dễ trở thành nạn nhân của họ (công an) và những người có thể tác động đến công an. Nhìn vào diễn biến sự việc ở Thiền Am, bất cứ ai có chút công tâm thấy rõ ràng rằng “vụ án Thiền Am” thể hiện một khiếm khuyết mang tính thể chế: đó là không có sự độc lập giữa thiết chế tố tụng, hành pháp, và toà án. Trong môi trường không độc lập giữa 3 thiết chế này thì oan sai xảy ra là điều khó có thể tránh khỏi.
Khám xét hay uy hiếp?
Trong một video khác [5] các luật sư mô tả Thiền Am đã bị ‘khám xét’ (hay tấn công?) một cách ghê gớm, gây hoảng loạn cho những người già và trẻ em trong đó. Ngay cả luật sư có mặt cũng cảm thấy hoảng loạn.
Đó là việc khám xét Thiền Am ngày 7/3/2022 do cơ quan điều tra an ninh tỉnh Long An tiến hành. Các luật sư có mặt hôm đó. Công an nói rằng họ chỉ khám xét nơi ở, nơi cư trú và nơi làm việc của bị can Lê Tùng Vân mà thôi. Thế nhưng trong thực tế, họ huy động một lực lượng hùng hậu cả trăm người, gồm công an, kiểm sát viên, cán bộ hỗ trợ, có chó nghiệp vụ, có xe đặc chủng, có thiết bị phá sóng, có flycam bay vần vũ trên trời, v.v. Cách mô tả của luật sư cho thấy họ uy hiếp những người trong Thiền Am hơn là khám xét.
Các luật sư cho biết trong thời gian hành nghề mấy mươi năm qua họ chưa bao giờ thấy một lực lượng hùng hậu như vậy được huy động chỉ để khám xét chỗ ở và làm việc của 1 bị can. Các luật sư mô tả buổi khám xét như là trong phim hành động Hollywood mà trong đó cảnh sát tấn công vào sào huyệt của bọn trùm ma tuý! Những con chó gầm rú, xông vào từng ngõ ngách trong Thiền Am làm cho mọi người kinh hồn, hoảng loạn. Ngay cả luật sư cũng hoảng loạn vì không biết chuyện gì xảy ra.
Tuy nhiên, những người trong Thiền Am cho biết trước đó (từ ngày 4/1/2022) công an cũng đã bị khám xét không chỉ 1 lần mà nhiều lần, và cũng với một lực lượng còn hùng hậu hơn ngày 7/3/2022. Không chỉ hùng hậu, họ còn cho đóng quân bên ngoài và phong toả các hoạt động thường ngày của Thiền Am. Họ cô lập mọi người trong Thiền Am, họ lùng sục tất cả các phòng ngủ và làm việc của Thiền Am (dù trên danh nghĩa họ nói là chỉ khám xét nơi ở và cư trú của ông Lê Tùng Vân, còn các thành viên khác thì không liên quan). Sau khi lùng sục mọi nơi xong, họ yêu cầu mấy người trong Thiền Am kí tên, nhưng không ai chịu kí vì không biết khám xét gì và tại sao khám xét trong các phòng khác mà không giải thích. Sau vụ ‘khám xét’ đó, Thiền Am mất một số tài sản.
Thật kinh hoàng! Họ xem người dân hiền lành như là những kẻ thù nguy hiểm.
Nếu với những tiểu tiết và lời nói trong lúc bức xúc của những người trong Thiền Am bị toà án huyện Đức Hoà kết tội theo điều khoản 331 thì có lẽ tất cả người Việt Nam đều là tù nhân dự khuyết. Nếu tất cả những bức hại mà những người trong Thiền Am đã là nạn nhân trong suốt 3 năm qua không được giải quyết và những kẻ thủ ác gây tội ác đối với Thiền Am không bị xét xử, thì không một ai ở Việt Nam (ngoại trừ người có quyền thế và tiền) sống trong an bình. Nếu phiên toà sắp tới kết tội những nạn nhân trong Thiền Am là vi phạm điều 331 thì kết cục đó chỉ tích luỹ thêm những án oan, tô thêm những vết máu cho nạn nhân, và vẽ thêm một vết đen trong nền tư pháp mà thôi.
_____
Tham khảo các video của luật sư. Tất cả các câu phát biểu trong note này được trích dẫn từ các video sau đây:
[1] Nhật ký Thiền Am: Nạn nhân thứ nhất (về Thích Minh Thiện và Thích Nhật Từ):
[2] Nhật ký Thiền Am: Nạn nhân thứ hai (về cơ quan công an):
[3] Nhật ký Thiền Am: Nạn nhân bất ngờ (về Năm Chú Tiểu và Bùi Ngọc Trâm):
[4] Nhật ký Thiền Am: Nạn nhân cuối cùng (về ông Thích Nhật Từ):
[5] Nhật ký luật sư: Lời tri ân
Nhân bài viết của Bs Ngô Thế Vinh về Phạm Duy [1], tôi chợt nhớ đến ca khúc nổi tiếng “Tình ca” của ông. Thật ra, Việt Nam còn có một ca khúc có cùng tựa đề của Nhạc sĩ Hoàng Việt và cũng nổi tiếng. Cái note này bàn về những khác biệt giữa 2 ca khúc.
Điều thú vị là Phạm Duy xuất thân từ một gia đình danh giá ngoài Hà Nội, nhưng viết ca khúc Tình Ca ỏ Sài Gòn vào năm 1953. Còn Hoàng Việt là người gốc Nam kì nhưng viết bài Tình Ca ở ngoài Hà Nội vào năm 1957. Ít ai biết rằng Hoàng Việt chính là Lê Chí Trực, người gốc Cái Bè, Tiền Giang. Và, ông chính là tác giả ca khúc nổi tiếng ‘Tiếng Còi Trong Sương Đêm’ (kí tên Lê Trực) mà thế hệ tôi ở trong Nam đều biết.
Về bối cảnh sáng tác, Phạm Duy cho biết ông viết bài Tình Ca sau bài Tình Hoài Hương trong một căn phòng ở đường Phan Thanh Giản, vừa bồng con vừa hát “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi/ Mẹ hiền ru những câu xa vời, à à ơi tiếng ru muôn đời… Bài Tình Ca này không còn thẳng băng ruột ngựa như những bài ca kháng chiến trước đây. Bây giờ nó muốn gắn bó tất cả người dân trong nước bằng một tình cảm thống nhất: tôi yêu tiếng nước tôi, yêu đất nước tôi, yêu người nước tôi. Thật là may mắn cho tôi là nói lên được phần nào bản sắc quốc gia (identité nationale) qua bản Tình Ca này” [2].
Còn bài Tình Ca của Hoàng Việt thì được sáng tác ngoài Hà Nội. Trong thời chiến, Hoàng Việt tập kết ra Bắc (1954) và nhớ vợ con. Một hôm ông nhận được thư của vợ từ Sài Gòn và cảm xúc dâng trào nên viết ra ca khúc này trong một căn gác nhỏ ở Hà Nội.
Tuy có cùng tựa đề, nhưng nội dung thì khá khác nhau. Tình Ca của Phạm Duy bao gồm 3 đoạn: yêu tiếng nước tôi, yêu đất nước tôi, và yêu con người Việt Nam. Còn bài Tình Ca của Hoàng Việt thì có vẻ tập trung vào ‘tiếng ca’ và ’em’, với ‘tiếng ca chứa đựng hận thù sâu xa‘ và ‘xua kẻ thù đi mau, dập tắt chiến tranh đẫm máu‘.
Về giai điệu thì Tình Ca của Phạm Duy phải nói là rất tình tự dân tộc, dạt dào, giống như những tiếng ru, và mang âm hưởng dân ca Bắc Bộ. Còn bài Tình Ca của Hoàng Việt thì viết theo giai điệu nhạc Blue, nhưng có chút âm hưởng điệu hò Nam Bộ.
Bài Tình Ca của Phạm Duy được xem là một trong những ca khúc hay nhứt của tân nhạc Việt Nam. Đầu thập niên 2000 (?) công ti sản xuất máy karaoke Sơn Ca ở Sài Gòn đã mua 10 nốt nhạc đầu tiên của bài Tình Ca với cái giá 100 triệu đồng lúc đó. Phạm Duy tâm sự rằng “Nếu một trăm năm nữa, người ta vẫn hát bài ‘Tình ca’ với câu ‘Tôi yêu tiếng nước tôi’, thì 999 bài còn lại người ta có quên đi cũng được.”
Còn Bài Tình Ca của Hoàng Việt từng có thời bị cấm hát ở ngoài Bắc, nhưng sau này thì phổ biến và được nhiều người trong nước yêu thích. Bài này được các nhạc sĩ cung đình đánh giá là “bản tình ca hay nhất của dòng nhạc Cách Mạng”.
Bạn thích bài Tình Ca nào hơn?
____
[1] https://nguyenvantuan.info/2022/07/04/tinh-que-huong-trong-nhac-pham-duy-va-nhung-chan-dung
[2] http://vanviet.info/nghe-thuat/dng-nhac-ky-niem-voi-nhac-cu-mien-nam-ky-135-pham-duy-tnh-ca
Lời giới thiệu: Tôi hân hạnh giới thiệu đến các bạn một bài viết rất đặc sắc và quan trọng về Phạm Duy, người nhạc sĩ của “ngàn lời ca”. Tác giả bài viết là anh bạn tôi, Nhà văn, Bác sĩ Ngô Thế Vinh, đã chắt chiu những chứng từ và điểm qua sự nghiệp của Phạm Duy từ lúc ông tham gia kháng chiến chống Pháp, di cư vào Nam, đi tị nạn ở Mĩ, và hồi hương vào năm 2005.
Viết về Phạm Duy thì cả chục cuốn sách có lẽ vẫn không đủ, và cũng đã có nhiều người khác viết và vinh danh Phạm Duy, nhưng bài viết này của tác giả Ngô Thế Vinh thì khác. Khác không chỉ là những hình ảnh, thủ bút và chứng từ phong phú, mà phác hoạ được sự đa diện của một Phạm Duy là nhạc sĩ lớn nhứt của nền tân nhạc Việt Nam, nhưng là một Phạm Duy với những nghịch lí và có khi mâu thuẫn đến khó hiểu.
Nhạc sĩ Phạm Duy dù đã ra người thiên cổ, nhưng cuộc đời và sự nghiệp lớn của ông sẽ còn là đề tài để bàn thảo của giới học thuật trong tương lai. Ngày nay, đây đó ở Việt Nam, một số sáng tác của Phạm Duy vẫn còn là đề tài cấm kị, nhưng với cá nhân tôi thì Phạm Duy mãi mãi là một nghệ sĩ đã gieo vào tôi tình yêu quê hương, sự trân quí người Việt, và giúp tôi cảm nhận được cái đẹp của tiếng Việt. Đúng như tác giả Ngô Thế Vinh viết: “Một Phạm Duy đã sống qua hai thế kỷ, ông cưu mang tất cả sức nặng của tấn thảm kịch đất nước bốn ngàn năm thăng trầm — cả tấn bi kịch của một con người Việt Nam: vừa lớn lao và nhỏ nhoi, vừa đẹp đẽ và cả xấu xí.“
Cám ơn tác giả Ngô Thế Vinh và xin mời bạn đọc thưởng thức bài viết của tác giả.
NVT
__________
Ngô Thế Vinh
Lời Dẫn Nhập: Cám ơn bạn hữu gần xa, những người yêu mến nhạc và cả con người Phạm Duy, trong sự tin cậy, đã gửi và cả cho phép sử dụng các nguồn tài liệu quý giá trong đó có những thư từ trao đổi riêng tư với Phạm Duy cách đây cũng đã ngót 30 năm, không ngoài mục đích giúp người viết có chất liệu – đủ cho một cuốn sách, nhưng đó là công trình của tương lai. Đây chỉ một bài viết ngắn, nhưng cũng mong phác thảo được đôi nét chân dung của một nghệ sĩ lớn Phạm Duy — thần tượng của nhiều người qua nhiều thế hệ, với một cuộc sống đầy cảm hứng nhưng cũng rất phức tạp. Phạm Duy đã sống qua hai thế kỷ, “khóc cười theo vận nước nổi trôi” trong suốt chiều dài của một bi kịch Việt Nam cận đại, vừa hào hùng và cũng vô cùng bi thảm.
*
Phạm Duy sinh năm 1921 hơn tôi 20 tuổi, khoảng cách một thế hệ, khác biệt trong mọi bối cảnh sinh hoạt và cuộc sống. Những năm 1940, thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi cùng gia đình tản cư lên sống ở một vùng quê Thanh Hoá trong Liên khu IV; trên những thửa lúa vàng, giữa tuổi ấu thơ, tôi đã cùng với đám trẻ quê nghêu ngao hát bài Em Bé Quê và mấy bài ca kháng chiến khác của Phạm Duy. Ký ức chiến tranh lúc đó chỉ là hình ảnh một thị xã Thanh Hoá đang nguyên vẹn đẹp đẽ bị san bằng do chính sách “tiêu thổ kháng chiến” của Việt Minh. Liên Khu IV vẫn được coi như an toàn khu, không có lính Tây Lê-dương đến càn quét, và cảnh bom đạn nếu có là từ trên cao, với những chiếc máy bay Bê-Vanh-Nớp / B29 của Pháp bay dọc theo con sông Mã, gầm rú trên bầu trời, rồi từng đợt xả xuống những băng đạn lửa đum đum bắn chìm các thuyền đò, không có bộ đội chỉ có dân dã buôn bán di chuyển trên sông. Cảnh tang thương chết chóc lớn nhất mà tuổi thơ tôi đã chứng kiến là từng đợt máy bay Pháp bỏ bom oanh tạc ngôi chợ Rừng Thông với nhiều máu me và xác chết.
Năm 1951, khi hồi cư về Hà Nội, qua câu chuyện trong gia đình, tôi được biết, Phạm Duy tác giả Em Bé Quê đã có thời gian làm thợ sửa radio cho ông bác tôi ở phố Hàng Gai. Câu chuyện được nghe qua rồi cũng quên đi. Nhưng phải tới 70 năm sau, khi đọc cuốn Hồi Ký PD Tập I, tôi mới được biết về một Phạm Duy ở tuổi niên thiếu:
“Học chưa hết một niên khoá, tôi bị đuổi ra khỏi trường Kỹ Nghệ Thực Hành vì tôi phạm kỷ luật hơi nhiều: đánh nhau, bị cấm túc mà trốn ra khỏi trường. Tội nặng nhất là có một hôm, phạm một lỗi lầm nào đó nhưng không chịu được cái bợp tai của Besancon, tôi chửi nhau với xếp xưởng! Lại còn giơ búa định đánh nó nữa. Tôi bị đuổi ra khỏi trường ngay lập tức. Sợ ông anh quá, tôi không dám về nhà, đáp xe hàng về Trạm Chôi ở với gia đình vú… Sau vài ba tuần trốn mặt ông anh, tôi lò mò về nhà và bị đuổi ngay xuống garage ở. Thế là sau khi đã bị coi như đứa bé rắn đầu ương ngạnh, tôi trở thành mục tiêu của sự dè bỉu nơi hai người anh ruột và anh rể. Một buổi tối nào đó, trong bữa cơm, không nhớ một trong hai người anh nói một điều gì quá đáng, tôi đập cửa ra đi. Đúng như lời mỉa mai của người anh rể, thường cho tôi là một kẻ sans foutiste, tôi ”đếch” cần tới sự vồn vã thương yêu hay sự che chở nâng đỡ của người lớn nữa rồi. Tới ở chung với một gia đình quen rồi sau vài tuần lễ, tôi xin được việc làm ở hiệu sửa radio Nguyễn Đình Thụ tại phố Hàng Gai.
[Kỹ sư Nguyễn Đình Thụ là anh của mẹ tôi, bạn của Thạc sĩ Phạm Duy Khiêm, anh của nhạc sĩ Phạm Duy – khi cả hai cùng du học tại Pháp. Ghi chú của người viết].Phạm Duy kể tiếp:
Trước đây, dù mới ngoài 16 tuổi, tôi cũng có đôi chút kiến thức về radio và đã tự tay lắp được một máy radio nhỏ nghe bằng galène rồi, do đó tôi rất thích thú trong công việc mới mẻ này. Các máy radio của thời điện tử sơ khai còn dùng các bóng đèn và những mạch dẫn điện theo kiểu hétérodyne. Nếu so sánh với những chips điện tử bây giờ thì có thể nói rằng tôi đã đi vào điện tử ngay từ thời kỳ hồng hoang của nó. Làm thợ phụ, lương lậu không nhiều nhưng tôi rất vui vì kiếm ra những đồng lương đầu tiên trong đời mình. Hiệu sửa radio KS Nguyễn Đình Thụ ở ngay đầu Hàng Gai, tôi có dịp chứng kiến lối sống của lớp trẻ Hà Nội vào cuối thập niên 30 này.” Ghi lại sự kiện này, chỉ để tôi không còn ngạc nhiên và hiểu được tại sao Phạm Duy lại có khả năng nhạy bén khi đi vào lãnh vực high tech của máy điện toán rất sớm từ thập niên 1980. Phạm Duy có lẽ là nhạc sĩ Việt Nam duy nhất và đầu tiên đã biết ứng dụng máy điện toán [computer] để sáng tác nhạc, viết hồi ký và phổ biến âm nhạc của mình.
Phạm Duy với CD-ROM Multimedia 1995
Những năm tháng sống ở Mỹ, xứ sở của khoa học kỹ thuật, Phạm Duy đã mau chóng tự học hỏi và thích nghi. Phạm Duy đã rất hãnh diện về bộ CD ROM Multimedia đầu tiên không phải của riêng ông mà của cộng đồng người Việt hải ngoại. Trong cuốn Hồi Ký PD Tập 4, Phạm Duy viết:
“Tôi là kẻ may mắn nhất vì được làm quen với computer từ buổi bình minh của phát minh này. Từ cuối thập niên 80, tôi và Duy Cường đã khởi sự dùng máy computer. Trước tiên, chỉ để thay máy đánh chữ, nhưng khi đó chưa có ai đưa được “fonts chữ Việt” vào máy computer. Chúng tôi phải tìm mãi mới kiếm ra được một ông kỹ sư tên là Nguyễn Văn Tâm * – đang làm cho Tổ Chức Không Gian NASA — là người đầu tiên viết ra ”fonts chữ Việt”.
*Ghi chú của người viết: từ trước cho đến nay, tôi chỉ được biết và quen hai kỹ sư Việt Nam ở Mỹ đã làm nên hai bộ nhu liệu [software] tiếng Việt.
Sớm nhất là KS Nguyễn Việt, sinh quán ở Hà Nội, lớn lên ở Đà Lạt, xuất thân là sĩ quan Hải quân VNCH từ 1969 tới 1975, di tản sang Mỹ 1975, tốt nghiệp kỹ sư BS 1979, rồi MS 1985. Anh sáng lập công ty Diplomat, có trụ sở ở Newport Beach, đã sản xuất được bộ chữ tiếng Việt VN Labs và được cấp bằng sáng chế từ 1985.
Người thứ hai là KS Hồ Thành Việt, sinh quán ở Nha Trang, trẻ hơn Nguyễn Việt 6 tuổi, cũng di tản sang Mỹ 1975, tốt nghiệp kỹ sư BS 1985, bước đầu làm cho công ty Diplomat sau đó có trụ sở riêng ở Westminster, sản xuất bộ chữ tiếng Việt VNI từ 1988. Tuy bộ chữ Việt VNI ra sau VN Labs của Nguyễn Việt, nhưng do Hồ Thành Việt có khả năng marketing tốt hơn, bộ VNI được sử dụng rộng rãi hơn trong giới truyền thông và cộng đồng người Việt. Do Phạm Duy hai lần nhắc tới tên KS Nguyễn Văn Tâm làm cho NASA là “người đầu tiên viết ra fonts chữ Việt”, với sự thận trọng, người viết đã liên lạc với TS Trương Hồng Sơn tức nhà văn hoạ sĩ Trương Vũ, sang Mỹ từ 1975 và làm cho NASA cho tới khi nghỉ hưu, tôi nhận được email hồi âm của TS Trương Hồng Sơn: “Anh Ngô Thế Vinh ơi, tôi thật sự không biết. Hơi lạ. Tôi cũng không quen kỹ sư nào ở NASA tên Nguyễn Văn Tâm. NASA có nhiều trung tâm, ngoài số cơ hữu thì thành phần contractor khá đông nên có thể có mà mình không biết. Tuy nhiên, tôi cũng nghĩ như anh về những người đầu tiên làm nên bộ chữ Việt cho computer.”
Vào thời điểm 1985, mới chỉ có bộ chữ VN Labs, và 1988 có thêm bộ chữ VNI, cả hai đều được dùng cho hệ thống máy vi tính IBM PC. Như vậy, có thể có một KS Nguyễn Văn Tâm đã sáng chế ra được bộ chữ Việt ban đầu cho máy Apple Macintosh của Phạm Duy.
Vẫn Phạm Duy viết tiếp:
Thế là chúng tôi gài ‘’fonts chữ Việt’’ vào máy và bắt đầu dùng computer để viết thư, viết báo, viết Hồi Ký, viết sách nhạc và nhất là để giữ lại những tài liệu cũ chất chứa trong “những hồ sơ to tổ bố” — chữ của Phạm Duy. Và cũng phải mất một thời gian khá lâu để chúng tôi tìm mua những softwares về âm nhạc để viết nốt nhạc, để hoà âm. Và mua thêm những softwares về hội họa để làm tranh ảnh, trang trí v.v… Cho tới khi nhờ có computer mà tôi tiến đến giai đoạn làm ra được những CD-ROM…
Như đã từng là người đầu tiên phát hành đĩa CD-Audio, bây giờ, với sự cộng tác của một kỹ sư trẻ, anh Bùi Minh Cương ở San Jose, chúng tôi cho ra đĩa CD-ROM đầu tiên của Việt Nam. [*KS Bùi Minh Cương là cháu gọi ký giả Bùi Bảo Trúc là cậu, ghi chú của người viết].
Đây là một cuộc hôn phối rất tốt đẹp của nghệ thuật và kỹ thuật. Với đĩa CD-ROM đầu tiên của Việt Nam này, với chủ đề HÀNH TRÌNH TRÊN ĐẤT MẸ, chúng tôi có khát vọng đem chút gia tài văn hoá của người đi trước tặng cho thế hệ đi sau, mà có thể vì sinh ra và lớn lên ở hải ngoại, các em bị cắt đứt với dòng sống tinh thần và tình cảm của dân tộc. Hồi Ký PD Tập 4.
Trở lại giai đoạn 1954-1975, sau Hiệp định Genève (1954) chia đôi đất nước, do có kinh nghiệm với cộng sản, đã có hơn một triệu người từ miền Bắc bỏ hết nhà cửa ruộng nương di cư vào Nam. Từ Hà Nội, tôi theo gia đình vào Nam.
Phạm Duy thì đã rời bỏ kháng chiến về Hà Nội sau đó vào Nam từ 1951. Từ trong Nam ra Bắc, Phạm Duy và gia đình đã nổi tiếng ngay với Ban Hợp ca Thăng Long, gồm 6 người: Phạm Duy, Hoài Bắc, Hoài Trung, Thái Hằng, Thái Thanh, và Khánh Ngọc.
Tới thập niên 1960, khi tôi đã vào Đại Học Y khoa Sài Gòn, với sinh hoạt báo chí qua tờ báo Sinh Viên Y Khoa Tình Thương, quen biết với anh Lê Ngộ Châu, tôi có đôi lần gặp Phạm Duy ở toà soạn Bách Khoa. Phạm Duy không phải cây viết cho báo Bách Khoa nhưng rất thân với chủ nhiệm Lê Ngộ Châu, họ đã là bạn với nhau từ trong Liên Khu IV thời kỳ đầu kháng chiến. Bách Khoa có đăng một số bài của nhà nghiên cứu nhạc học George E. Gauthier người Canada viết về Phạm Duy [BK 332 (1/11/70), 334, 335, 337/338 (Xuân Tân Hợi), 339, 340, 342, 345, 346, 347, 350, 353, 354, 355, 363, 367, 372, và 375 (15/8/72), và cả bài phỏng vấn Phạm Duy của ký giả Lê Phương Chi. [BK 241-242, 243]. [tư liệu Phạm Lệ Hương]
Như câu chuyện dật sự, qua anh Lê Ngộ Châu, tôi còn được biết thêm về một số nét chân dung khác của Phạm Duy, kể cả trường hợp ra đời của bản nhạc Còn Chút Gì Để Nhớ phổ từ bài thơ Vũ Hữu Định ra sao.
Giai thoại 1: từ Lê Ngộ Châu và Trí Đăng [1970]
“Vào khoảng năm 1970 tòa soạn Bách Khoa nhận được bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu Định, một tên tuổi còn rất xa lạ với Lê Ngộ Châu nhưng do thấy bài thơ quá hay với hình ảnh nhẹ nhàng về phố núi Pleiku, Lê Ngộ Châu đã nhờ anh Trí Đăng [chủ nhà in Trí Đăng đang in báo Bách Khoa], chở xe gắn máy tới nhà Phạm Duy ở cư xá Chu Mạnh Trinh ngã tư Phú Nhuận, nơi quy tụ nhiều gia đình nghệ sĩ nổi tiếng như Năm Châu, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Minh Trang, Kim Tước… Lê Ngộ Châu đã đề nghị Phạm Duy phổ nhạc bài thơ Vũ Hữu Định – dù anh chưa biết Vũ Hữu Định là ai. Chỉ hai ngày sau Phạm Duy đã chắp cánh cho bài thơ bằng một ca khúc cùng tên và được phát ngay trên đài phát thanh Sài Gòn với giọng ca vượt thời gian của Thái Thanh. Phổ nhạc các bài thơ là một khía cạnh tài năng khác rất đặc biệt của Phạm Duy.”
https://www.voatiengviet.com/a/bach-khoa-le-ngo-chau/5943066.html
Giai thoại 2: từ Trương Điện Thắng với lời kể của Phạm Duy [2006]
Theo một nhà báo trong nước, Trương Điện Thắng thì: Những năm 1971-1972, bài hát Còn Chút Gì Để Nhớ của Phạm Duy là một trong những bài hát được yêu cầu nhiều nhất trong “Chương trình nhạc yêu cầu” trên đài Phát thanh Sài Gòn. Lúc đó tác giả bài thơ là nhà thơ Vũ Hữu Định — vừa qua tuổi 30, anh đang … trốn lính ở Sài Gòn và lang bạt ở Lâm Đồng, Bảo Lộc, Pleiku… Từ trong bóng tối với nhiều bút danh như Hàn Giang Tử, Vũ Hữu Định… chàng trai gốc An Cựu nhưng nói giọng Quảng Lê Quang Trung không nghĩ mình được nhạc sĩ tài ba Phạm Duy để ý. Với bút danh Vũ Hữu Định, anh bắt đầu xuất hiện trên tạp chí Bách Khoa của Lê Ngộ Châu, tuần báo văn nghệ Khởi Hành của Viên Linh… Bài Còn Chút Gì Để Nhớ đăng trên Khởi Hành và được nhà văn Võ Phiến chép vào sổ tay. Sau này, khi chúng tôi gặp lại Phạm Duy ở Nha Trang trong chương trình Duyên dáng Việt Nam 16 (12/2006), trong buổi ăn tối, Phạm Duy kể, ông đến chơi nhà Võ Phiến nhưng bạn đi vắng. Lân la chờ bạn trong phòng viết, thấy cuốn sổ tay bỏ ngỏ, ông giở vài trang đọc và bắt gặp bài thơ. “Lúc đó, tôi chưa biết anh Định là ai nhưng nhịp điệu và ngôn ngữ bài thơ làm tôi nảy ra ý định phổ nhạc.” [Còn Chút Gì Để Nhớ hay Số phận của mỗi tác phẩm, Trương Điện Thắng @T.Van 2017]
Giai thoại 3: từ Phạm Duy với mảng trí nhớ cuối đời [2012]
Trong cuốn sách Vang Vọng Một Thời do Phạm Duy biên soạn, Công ty Sách Phương Nam xuất bản 2015, Phạm Duy đã lại viết một phiên bản khác nữa về trường hợp phổ nhạc bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ, như sau:
“Saigon 1972. Tôi đi Pleiku để nghiên cứu nhạc Tây Nguyên. Trong một tuần lễ ở đó, tôi được gặp vài nhà thơ trẻ bị động viên đang đóng quân tại miền biên giới này. Lúc đó tỉnh lỵ Pleiku còn nhỏ hẹp lắm. Một nhà thơ trẻ Vũ Hữu Định, đã mô tả cái thành phố đi dăm phút đã về chốn cũ… trong một bài thơ rất dễ thương. Tôi phổ nhạc ngay lập tức, không thêm thắt hay sửa đổi một chữ nào trong bài thơ. Cũng vì tôi đang nghiên cứu nhạc Thượng nên tôi dùng ngay ngũ cung cơ bản – cung (do mi fa sol si do) trong phần giai điệu. [Vang Vọng Một Thời, Phạm Duy biên soạn, Phương Nam xuất bản, 2015]
Chỉ riêng việc Phạm Duy phổ nhạc một bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu Định, mà đã có tới 3 giai thoại / với 3 phiên bản khác nhau, và có thể còn thêm nhiều giai thoại khác nữa, tưởng cũng nên ghi lại ở đây, để độc giả tự tìm cho mình câu trả lời: đâu là một “sự thật – thật”.
…
Một đôi dịp khác, thảng hoặc tôi còn gặp Phạm Duy thoáng qua tại Quán La Pagode, nơi mà bạn văn Nguyễn Đình Toàn, ngoài giờ làm việc ở đài phát thanh, hầu như hàng ngày ra ngồi viết nơi quán Cái Chùa. Nguyễn Đình Toàn kể như một giai thoại vui là: Phạm Duy nó bị chứng cứng tay toa ạ, không bao giờ nó đưa được tay ra túi sau đụng vào chiếc ví của nó. Toàn nhỏ hơn Phạm Duy 15 tuổi, nhưng vẫn cứ xưng là mày tao – cũng như Mai Thảo vẫn xưng mày tao với Vũ Hoàng Chương hơn Mai Thảo tới gần một con giáp.
Vào thời gian đó, tôi cũng được đọc hai cuốn sách viết về Phạm Duy, một của Tạ Tỵ: Phạm Duy Còn đó Nỗi Buồn (1971), một của Nguyễn Trọng Văn: Phạm Duy đã Chết Như thế nào? (1971)
Sau 1975, từ trong trại tù cải tạo, tôi và các bạn tù cũng đã nghe những tin đồn lạ từ xa vọng về: nào là thống tướng Nguyễn Cao Kỳ đã về tới khu Công Giáo Tân Sa Châu, cầm đầu một tổ chức kháng chiến mưu đồ phục quốc, ly kỳ hơn nữa là câu chuyện Phạm Duy bị thổ huyết chết ngay trên một sân khấu ở Mỹ khi ông đang ôm đàn hát bài “Bầy Chim Bỏ Xứ”…
Con đường cái quan ra tới Hoàng Sa – Trường Sa
Tôi qua Mỹ 8 năm sau, và gặp lại Phạm Duy ở miền nam California trong một bối cảnh hoàn toàn khác. Không biết tôi đã gắn bó với dòng Mekong-Cửu Long từ bao giờ, nhưng bài hát Chiều Về Trên Sông của Phạm Duy cũng đã góp phần không nhỏ nuôi dưỡng tình yêu của tôi với con sông thắm đỏ phù sa ấy.
Vào thập niên 1990s khi tôi đang viết những chương sách cuối cho cuốn Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng, trước viễn cảnh một Việt Nam bị hãm vây bởi Trung Quốc, không chỉ với con sông Mekong đổ xuống từ thượng nguồn, mà cả ngoài Biển Đông, Trung Quốc đã cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam từ 1974, và đánh chiếm đảo đá ngầm Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa 1988.
Với Trường Ca Con Đường Cái Quan của Phạm Duy – con đường Việt Nam thống nhất chạy xuyên suốt từ ải Nam Quan xuống tới mũi Cà Mau đã như một nối kết lòng người. Nhưng nếu nhìn xa, Con Đường Cái Quan không dừng lại ở đó, bởi vì trong tâm khảm mỗi người Việt, Con Đường ấy còn thêm cả khúc đường biển tiếp nối ra tới hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa của Việt Nam. Đó cũng là lý do cuộc gặp gỡ giữa tôi với nhạc sĩ Phạm Duy với một gợi ý cách đây 27 năm. Chắc ông còn nhớ buổi nói chuyện với tôi trong căn nhà thân thuộc trên đường Hunter nơi Thị trấn Giữa Đàng ngày nào. Bởi vì sau cuộc gặp gỡ ấy, Phạm Duy vẫn đều đặn gửi cho tôi các tài liệu liên quan tới những sinh hoạt của ông.
Trước viễn ảnh một Biển Đông Dậy Sóng, những dòng chữ này một lần nữa gửi tới ông (2006) qua một chương sách Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, vẫn với tâm cảnh của “tam bách dư niên hậu” với niềm tin rồi ra cho dù thời gian xa tới đâu, Hoàng Sa – Trường Sa cũng sẽ lại “châu về Hợp Phố”.
Hồi ký Phạm Duy Bộ Hồi Ký 4 Tập của Phạm Duy, với 3 tập đầu do Phạm Duy Cường Xuất Bản, từ trái, Tập I: Thời Thơ Ấu – Vào Đời (1990), Tập II: Thời Cách Mạng – Kháng Chiến (1989), Tập III: Thời Phân Chia Quốc Cộng (1991); Tập IV: Thời Di Cư Qua Mỹ: chưa in, chỉ phổ biến qua bản PDF.
Bộ hồi ký 4 tập của Phạm Duy với hơn 1500 trang, qua giọng văn mộc mạc và bộc trực, Phạm Duy đã ghi lại khá trung thực các giai đoạn hào hùng và thăng trầm của cuộc đời ông và cũng là của đất nước qua hai thế kỷ. Điểm tích cực là qua bốn tập sách ấy, Phạm Duy không hề bêu xấu ai, và cả không che giấu những chi tiết rất riêng tư của mình. Không chỉ là một nhạc sĩ với tài năng lớn – có người gọi ông là thiên tài, nhưng qua bộ hồi ký, Phạm Duy còn là một nhà văn, với những trang sách ông viết tràn đầy sức sống và cảm xúc, rất hấp dẫn và cảm động. Với Một Ngàn Lời Ca, Phạm Duy còn là một nhà thơ.
Một học giả Mỹ, Tiến Sĩ Eric Henry đã cho rằng bộ hồi ký đồ sộ của Phạm Duy không chỉ hấp dẫn, nó còn giúp cho giới nghiên cứu tìm hiểu về xã hội Việt Nam qua các cuộc chiến tranh và những năm tháng hoà bình. Bản dịch tiếng Anh cuốn Hồi Ký Phạm Duy / The Memoirs of Phạm Duy đã được TS Eric Henry hoàn tất và được Cornell University Press nhận xuất bản. Một dự án hai bước [có một bản dịch hoàn chỉnh, và tìm được một nhà xuất bản Mỹ uy tín]; là điều mà Phạm Duy khi còn sống đã vô cùng ao ước. Nhưng sau khi Phạm Duy mất, do không có được sự đồng thuận của các người con Phạm Duy, The Memoirs of Phạm Duy cho đến nay vẫn chưa được phép xuất bản.
Một giai đoạn chống Cộng và lao động nuôi con
Phạm Duy tuy “nổi tiếng” về cuộc đời tình ái rất đa đoan của ông; nhưng nếu đã quen Phạm Duy, ai cũng biết ông là người cha rất thương các con. Cho dù đã là một nhạc sĩ với tên tuổi, nhạc của ông được ưa chuộng và hát khắp năm châu, tiền cachet của ca sĩ hát nhạc Phạm Duy có thể cao, nhưng lại không có phần đền bù tương xứng cho người nhạc sĩ sáng tác tài danh ấy. Có thể nói, ở hai thập niên đầu sau 1975, cuộc sống tỵ nạn của gia đình Phạm Duy khá chật vật, nhưng Phạm Duy vẫn luôn luôn lạc quan, và không từ nan làm bất cứ công việc gì để cải thiện sinh kế nuôi vợ là Thái Hằng và một đàn 8 đứa con. Hai năm đầu tỵ nạn sống ở Florida, ngoài các tours trình diễn nhỏ, Phạm Duy còn viết sách nhạc dạy Tự Học Đàn Guitare, in lại các băng cassette* cũ mà ông mang theo được theo lối thủ công để bán và phát hành qua đường bưu điện… vậy mà ông “nuôi nổi cả gia đình, một nửa ở Mỹ, một nửa ở Saigon”.
[*Trong Hồi Ký PD Tập IV, Chương I, Phạm Duy kể: Khi vội vã ra đi, vợ chồng mang theo được 2 va li nhỏ, tới đảo Guam thì bị mất một va li đựng quần áo ấm, nhưng may mắn còn chiếc va li thứ hai đựng nhiều kỷ vật vô giá như ảnh cũ, băng nhạc cũ.]
Bao nhiêu tiền kiếm được Phạm Duy hết sức dành dụm để gửi về nuôi 4 người con trai còn kẹt lại ở Việt Nam, và sau đó đủ tiền mua chỗ cho chúng vượt biển thành công sang đoàn tụ với bố mẹ. Phạm Duy tiết kiệm tới mức, khi hai đứa con nhỏ xin tiền bố mua đồ chơi và ông không cho, tụi nó gọi Phạm Duy là “Bố keo”.
Tính “keo” của Phạm Duy là một đức tính của ông – nhưng lại bị nhiều người đem ra bỉ thử. Phạm Duy có người vợ hiền là Thái Hằng, được nhiều người tôn vinh là bà thánh. Bà đã hy sinh sự nghiệp ca hát rất sớm từ khi sinh đứa con cuối cùng là Thái Hạnh, và để toàn thời gian chỉ để chăm sóc chồng và tám đứa con. Nhưng Thái Hằng không phải là Bà Tú Xương:
Quanh năm buôn bán ở ven sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng
Khác với ông Tú, Phạm Duy một vợ và có tới 8 người con, chỉ có một mình ông cáng đáng lo toan phần sinh kế gia đình. Ông không chỉ là một nghệ sĩ lớn có sức sáng tác rất sung mãn, đi trình diễn khắp đó đây, khiến nhà thơ Nguyên Sa đã gọi ông là “Phạm Duy Đại Lực Sĩ”, và cả ví von “Hình ảnh Phạm Duy là một thanh niên ngàn năm hai mươi tuổi.” [trích Nghệ Sĩ Việt Nam ở Hải Ngoại]. Không những thế ông còn là một người cha rất có trách nhiệm và thương con. Có lần ông nói thẳng với người bạn thân: “Nếu không như vậy thì ai là người nuôi đám con moa.” Biết được như vậy, người ta chỉ có thể cảm phục Phạm Duy hơn. Từ Florida dọn về California, nơi có đông đảo cộng đồng người Việt, Phạm Duy vẫn phải lao động cật lực nuôi một gia đình đông đúc 12 người: vợ chồng Phạm Duy, với 8 người con và cả các cháu nội ngoại trong một căn nhà 3 buồng ở Midway City, mà Phạm Duy đặt tên là Thị Trấn Giữa Đàng.
Điều mà không phải ai cũng biết là Phạm Duy đã từng có dự định: mở quán ăn hay làm nhân viên địa ốc mua bán nhà cửa, và rồi ông nhận làm cả dịch vụ tài xế hàng ngày lái xe đưa đón các bệnh nhân tới phòng mạch các bác sĩ ở Quận Cam. Cùng một lúc ông vẫn dành tất cả thời giờ còn lại cho âm nhạc, cho niềm đam mê của mình.
Phạm Duy viết trong Hồi Ký PD Tập 4:
“Trong thời gian tôi gặp Nguyễn Chí Thiện, anh bạn của tôi là bác sĩ Trần Ngọc Ninh đã từ Denver (Colorado) dọn về mở phòng mạch tại Santa Ana. Tôi vừa mua được một căn nhà mới ở ngay cạnh căn nhà cũ để “cứu sống” mười hai mạng người trong gia đình, bấy lâu nay vì ở chung một nhà chỉ có ba phòng ngủ và một phòng vệ sinh độc nhất cho nên vào mỗi buổi sáng (nói đùa đấy nhé) phải “giết” nhau mới làm được việc tiểu tiện, đại tiện, đánh răng, rửa mặt, tắm rửa! Bỏ thêm chút tiền xây thêm phòng ngủ, phòng tắm cho cả hai căn nhà, từ nay trở đi gia đình chúng tôi sống êm thắm như trong bài học của sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Tôi có đầy đủ sự yên tĩnh để làm hai công việc vừa khởi sự là soạn tài liệu cho bài thuyết trình về Năm Mươi Năm Tân Nhạc và phổ một số bài thơ của Nguyễn Chí Thiện thành 20 bài ngục ca.
Giải quyết xong vấn đề ăn ở cho toàn thể gia đình, tôi rất rảnh rỗi, nhân anh chị Ninh cần người đưa đón bệnh nhân (người già hoặc mới qua Mỹ chưa có xe hơi), tôi không nề hà nhận làm việc này ngay. Tôi đã từng làm thợ rèn, thợ điện, nông phu, thầy giáo trong thời niên thiếu. Qua Mỹ, đáng lẽ tôi cũng phải làm việc chân tay nhưng tôi khéo xoay sở nên được làm công việc trí óc.
Bây giờ tôi đang có phương tiện (xe hơi), sức khoẻ và thời giờ — lúc này chưa được nhiều nơi mời tôi đi hát như trong những năm sau –, tại sao tôi không dùng nó để kiếm tiền nhỉ? Dù chỉ là tiền “petty cash” cao hơn tiền xăng nhớt một chút thôi! Nhưng công việc rất nhàn nhã này không kéo dài vì xảy ra vụ một số y sĩ gian lận về medicare bị đưa ra toà. Khi nhận giúp việc cho cả hai bên bệnh nhân và bác sĩ, rất ngây thơ và ngay thẳng, tôi không biết tới chuyện lạm dụng này, bởi lẽ giản dị anh Ninh không hề làm chuyện đó. Nay thấy cần phải tránh xa cái thế giới đang có “sì căng đan” lớn nên tôi “sì tốp” ngay việc giúp bệnh nhân đi khám bệnh. Vả lại tôi đã khởi sự được mời đi hát sau khi soạn xong 20 bài ngục ca.
Dù sao đi nữa, tôi muốn cám ơn những ngày được làm nghề tài xế cao quý (giống như các ông hoàng Nga trắng tị nạn Cộng Sản ở Paris) vì tôi có dịp tiếp xúc với người dân thường, hoặc đã qua Mỹ từ 1975 hoặc vừa mới tới đây bằng đường vượt biên.
Tôi được biết rõ tâm tình của người tị nạn, biết thêm những chuyện vui buồn thầm kín trong xã hội lưu vong. Cuộc tiếp xúc thân mật với dân chúng lần này trong chiếc xe hơi chẳng khác chi lúc tôi đi hát bằng xe lửa, ô tô buýt, bằng thuyền và thời tôi đi bộ trong kháng chiến, đi tới đâu tôi cũng học hỏi rất nhiều ở người dân.
Ngoài ra, đưa bệnh nhân tới phòng mạch phải ngồi chờ rất lâu rồi mới đưa bệnh nhân về nhà, tôi có nhiều thời giờ để sáng tác. Tại phòng khám bệnh của bác sĩ Ninh, trong khi anh bạn bắt bệnh nhân thè lưỡi ra coi hay xắn tay đo tension, tôi ngồi cắn bút viết ngục ca bên cạnh những chai nước khử trùng. Hèn gì ngục ca có mùi nhà thương trong nhạc, ngoài mùi nhà tù của thơ. Có lúc rỗi rãi, chúng tôi ngồi nói chuyện văn nghệ văn gừng trong phòng mạch hay trong quán ăn trưa ở gần đó. Có thể nói bác sĩ Trần Ngọc Ninh là thính giả đầu tiên của những bài ngục ca.”
Lá thư đầu năm Ất Hợi 1995
Mùng Một Tết Ất Hợi, 31 February 1995
Hôm nay, ngày đầu năm, tôi khai bút (đúng ra là khai máy vi tính) để báo cáo anh chị vài tin mừng:
Vì là đĩa audio-visual có tính chất multimedia,ngoài trọng tâm là âm nhạc ra, CD ROM này còn có thêm những mục như:
Những tin vui này đã đến với tôi trước khi chúng ta bước vào năm mới, một năm mà tôi tưởng rằng sẽ chẳng còn gì để nói, để làm nữa. Tôi không ngờ rằng trước khi nhắm mắt lại được thấy phần thưởng cao quý nhất đến với tôi, không phải đến từ chính quyền trong nước hay một hàn lâm viện quốc tế… mà hoàn toàn đến từ những người yêu nhạc mà chị Phan Tú Khanh là đại diện tích cực nhất. Phần thưởng không kém phần quý báu là kỹ sư Bùi Minh Cương đã giúp tôi phổ biến tác phẩm qua hình thức CD ROM. Trong tương lai gần, với sự giúp đỡ của bạn bè, tôi có thể dễ dàng cho phần văn chương gồm cuốn NGÀN LỜI CA và 4 cuốn hồi ký, và phần âm nhạc với một số hoặc tất cả trên dưới 1000 nhạc phẩm của tôi vào CD ROM.
Tôi nghĩ rằng, vào ngày đầu của một năm mới, điều đẹp nhất đối với tôi là xin được chia vui cùng bạn. Không tiêu cực như vào lúc đầu của kiếp lưu vong, hai mươi năm đã trôi qua, được tiếp tục hành nghề hát rong và nhất là được sống ở một nước với nền kỹ thuật cao nhất và biết đem kỹ thuật vào nghề mọn của mình, với kết quả tích cực nhất… thật là đáng sống! Hoan hô cuộc đời.
Chúc bạn, bước vào một năm mới, cũng vui như tôi. Rất thân ái ./.
—–
T.B._ Lê Hữu Khoá có đồ án về Symposium, đính kèm.
Về Việt Nam và những chuyến đi thăm dò
Nhiều người vẫn nghĩ Phạm Duy chỉ có ý định về sống ở Việt Nam sau cái chết của Thái Hằng 1999, nhưng không hoàn toàn đúng như vậy.
Khá sớm từ trước 1994, qua nhưng thư từ gửi về Việt Nam, và cho bằng hữu, Phạm Duy đã có những ngỏ ý là muốn về sống ở Việt Nam, cả với hy vọng đòi lại được 3 căn nhà ở Phú Nhuận mà ông bỏ lại khi vội vã bỏ nước ra đi năm 1975.
Trong một thư riêng viết ngày 16/08/1994 gửi cho người bạn trẻ đang làm việc ở Singapore là Võ Tá Hân, tốt nghiệp MIT, một chuyên gia kinh tế ngân hàng, đang là Tổng Giám đốc của Singapore Finance, Võ Tá Hân cũng là tay đàn guitare cổ điển có hạng và rất mê nhạc Phạm Duy và là cháu ruột gọi nhà văn Linh Bảo là cô.
Phạm Duy viết: “Anh Hân thừa biết tôi đang được dân chúng hải ngoại yêu mến như thế nào rồi. Bây giờ mà tôi trở về với nhà nước vẫn còn là cộng sản, thì họ sẽ tẩy chay ngay”.
Cũng trong bức thư ấy, Phạm Duy viết tiếp: “Anh nên nhớ từ 1988, với 10 bài Rong Ca, tôi đã chấm dứt cái thứ âm nhạc được gọi là “chống cộng” rồi. Rong Ca là bỏ quên thế kỷ 20 đi, nhắm tới thế kỷ mới mà sống.” Rồi Thiền Ca là gì? Là: Tròn như viên đạn đồng đen, đã khô vết máu quên miền chiến tranh. Viên đạn sinh ra để giết người, thế mà nó còn quên được chiến tranh huống chi con người. (Chính quyền cũng đã quên được “lũ giặc lái Mỹ” ném bom cơ mà). Và nếu nghe Bầy Chim Bỏ Xứ thì thấy tôi đưa ra chủ trương chim lành chim dữ đều có thể sống chung với nhau được. Trong phần cuối bài tôi nói: diều hâu bạo dữ mời đi giữ biên cương… có nghĩa là chúng ta cũng rất cần có người cộng sản để ngừa Trung Hoa lúc nào cũng lăm le tràn xuống nước ta chứ!
Dầu sao đi nữa, tôi sung sướng vô cùng khi thấy có một số người trẻ hiểu tôi như anh Đỗ Trung Quân, Lưu Trọng văn (*con trai Lưu Trọng Lư). Hồi tôi gặp Trần Tiến ở Pháp cũng nghe nói Dương Thụ hết lòng bênh vực tôi. Thế là đủ rồi! Chẳng cần tới một hay hai vị quan chức “đoái thương” tới l’enfant prodigue — đứa con hoang đàng này ! Tôi nghe anh Trần Văn Khê nói rằng trong ban thường vụ chỉ có 2 người chống tôi thôi… Thư Phạm Duy, 16/08/1994*
Hoàng Thượng Khanh và ca khúc về miền Trung
Qua nhà văn Phan Lạc Tiếp từ San Diego, Phạm Duy mừng rỡ tìm lại được người bạn kháng chiến từ Bình Trị Thiên hơn nửa thế kỷ trước, hiện đang sống ở Hà Nội, anh tên Hoàng Thượng Khanh. Và tiếp ngay sau đó là những bức thư đầy cảm xúc của Phạm Duy gửi cho Hoàng Thượng Khanh.
Bức thư thứ hai,
Ngày 04/07/1994,
Anh Hoàng Thượng Khanh,
Hai tuần trước, khi Phan Lạc Tiếp gọi điện thoại cho tôi biết đã gặp Hoàng Thượng Khanh ở Hà Nội thì tôi rất mừng và sau vài dòng chữ viết vội cho Khanh, tôi đã nhận được thư Khanh. Thư vẫn là của con người super sensible mà tôi đã quen ở Huế hồi 1944 khi tôi là ca sĩ của gánh hát Đức Huy và hồi 1946 khi tôi hát ở Quán Nghệ Sĩ, con người sau đó vào năm 1948, đã chia ngọt sẻ bùi với tôi trong một thời gian khá lâu ở chiến khu Ba Lòng, Quảng Trị.
Trong một nửa thế kỷ mà C.V. Gheorghiu và Günter Grass gọi là thời chó má, Camus gọi là thời dịch hạch, Marquez gọi là thời thổ tả vì sự tung hoành của những guồng máy quyền lực liên tiếp xô đẩy thế giới xuống chết chóc tan lìa (Việt Nam là nạn nhân của mấy đế quốc này)… và nhất là sau gần nửa thế kỷ xa cách nhau, thế mà anh và tôi vẫn còn sống sót để gặp nhau ngày hôm nay qua thư từ, và một ngày gần gũi nào đó qua một cái ôm hôn “cười trong nước mắt, khóc trong nụ cười”… chao ôi là hạnh phúc !
Tôi nhớ nhất là những ngày cùng anh ngồi bên những con suối không tên ở chiến khu, lau rửa những vết sâu quảng đỏ loét ở chân mình, đời sống lúc đó cực kỳ gian khổ mà tại sao lòng mình thảnh thơi đến thế? Tại sao chỉ ăn cơm hẩm với mắm tôm, chịu đựng một cơn bão rừng ghê gớm (Khanh còn nhớ trận bão đó không?) sống rất nguy nan giữa lòng địch ở Đại Lược… thế mà tôi vẫn có thể soạn được những bài hát cao lớn như Về Miền Trung, Bà Mẹ Gio Linh, Mười Hai Lời Ru? Câu trả lời cũng giản dị: vào lúc đó chúng ta còn rất trẻ, chúng ta rất yêu nước và riêng tôi thì được hưởng một tình bạn rất thân thiết mà anh đã ban tặng cho tôi. Trong thư, anh viết” “không một lúc nào quên Duy”, trong thư này tôi cũng xin viết như anh: “không một lúc nào quên Khanh”. Và xin viết thêm: “không có Khanh, chưa chắc tôi đã có bài Về Miền Trung!
Với thư này, tôi mong Khanh còn nhớ được kỷ niệm nào của chúng mình trong ba lần gặp nhau đó thì viết vào giấy hay nói vào băng cassette rồi gửi cho tôi để giữ làm tài liệu sống cho một bảo tàng viện về tôi (chắc chắn) phải có trong tương lai. Ở hải ngoại, tôi đã có vài “PD Học Hội” được thành lập để người yêu nhạc làm công việc sưu tập tài liệu và truyền bá nhạc PD. Nhạc của tôi như Khanh sẽ thấy, không chỉ hoàn toàn là những hùng ca hay bi ca của một dĩ vãng vừa huy hoàng, vừa bi đát hay là những dằn vặt về thân phận con người (nhất là con người biệt xứ) hoặc những nỗi bất bình về tình hình đất nước… Nó còn mang dấu tích tư liệu của một người chứng thời đại, chẳng hạn Rong Ca là những trầm tư của một người Việt đã qua cầu thế kỷ 20, nay hát cho những năm 2000, nhưng nó không có cái nhìn khe khắt như các vị C.V. Gheorghiu và Günter Grass gọi là thời chó má, Camus gọi là thời dịch hạch, Marquez gọi là thời thổ tả kể trên.
Một nhà phê bình về tôi đã cho rằng “Hát về thế kỷ, hát về những chiều kích không gian thoáng rộng và thời gian dài không thể hát từ cõi tâm chật hẹp bị vướng mắc trong những khoảng cách, phân biệt. Phải đủ sức bay của chim Bằng mới bay khỏi tầm nhìn hữu hạn của thế gian mà có cái nhìn mênh mông hơn.” Đạo Ca, Thiền Khúc của tôi cũng không là tiếng hát của thằng mõ trong làng nữa, nó là tiếng ca vừa nhân hoà, vừa nhiên hoà của một bõ già chứng nhân của thời đại. Có câu hát này tôi cho là đắc ý :
Tròn như viên đạn đồng đen
Đã khô vết máu quên miền chiến tranh
Lẽ tất nhiên, Khanh cũng cho tôi biết Khanh đã sống ra sao trong một đất nước đã có quá nhiều oan khiên mà sự giải oan không có thể được giải quyết trong một năm, một tháng hay một ngày được. Chúng ta sẽ tránh không nói chuyện chính trị. Chúng ta chỉ trao nhau những lời tâm sự của hai thằng bạn già. Đúng như Khanh nói: “thì giờ còn lại ít lắm”! Và tôi cũng đã từng hát: “còn một ngày, vui muôn nỗi vui”! Vậy viết thư dài nhé, nên nhờ người bạn của tôi là chị Văn Dương Thành – mà chắc anh đã gặp — gửi đi cho đỡ tốn tiền tem.
Cuối cùng, vì được hân hạnh biết Tố Uyên, là bạn của Băng Thanh [là em gái nhà văn Linh Bảo, ghi chú cùa người viết], xin cho tôi gửi lời chào thân mến tới cô gái Huế họ Võ, người đã cùng em gái và tôi – trong một tiền kiếp nào đó — rảo bộ trên một con đường Vỹ Dạ, có nắng hạ có gió hè, xiết bao êm ấm.
Rất thân ái,
Phạm Duy
Kèm theo bức thư này, là một thư viết tay 3 ngày sau 7/7/94 gừi Võ Tá Hân:
Ngày 15/08/1994, Phạm Duy cũng từ Thị Trấn Giữa Đàng fax cho Võ Tá Hân, một bức thư thứ ba viết cho Hoàng Thượng Khanh, người bạn cố tri đang sống ở Hà Nội. Trong bức thư gửi bạn, Phạm Duy muốn bộc lộ hết tâm can:
Anh Hân,
Tôi vừa nhận được thư của Hoàng Thượng Khanh. Vội fax thư sau đây nhờ Hân chuyển cho ông ta. Cám ơn nhiều./.
Bức thư thứ ba
15 tháng 8, 1994
Anh Hoàng Thượng Khanh,
Hôm nay bà Nguyễn trở về Mỹ, đem theo thư của Khanh và ảnh Khanh do bà ta chụp. Khanh có vẻ bình tĩnh hơn trong ảnh do anh Võ Tá Hân chụp tháng trước. Bravo!
Vì Khanh muốn biết “gia cảnh” của mình nên xin “báo cáo”:
“Tới tháng 10 này, Duy vừa đúng 75 tuổi. Là người có nhiều tình nhân nhất trong đám văn nghệ sĩ lãng mạn thời 45, vậy mà Duy là người chồng ngoan nhất, vẫn cứ thờ một bà Thái Hằng mà tướng Nguyễn Sơn làm mối và chủ hôn, (này, nếu Khanh gặp bà Nguyễn Sơn thì hỏi có còn giữ tấm ảnh đám cưới của Duy-Hằng không?). Vợ chồng nhà này sống với nhau gần nửa thế kỷ rồi, có 8 con (5 trai, 3 gái và 6 cháu nội ngoại) hầu hết đã có vợ có chồng nhưng vẫn còn ở chung với cha mẹ trong ba căn nhà ở cùng phố. Tụi này ở nước Mỹ đã 20 năm, trước kia đi làm có đóng thuế đầy đủ nên từ ngày về hưu (từ 1985 – PD nghỉ hưu ở tuổi 64) được lĩnh tiền vừa đủ để sống mà không cần nhờ vả tới các con. Nói chung, từ ngày rời miền Bắc vào Nam (1951) gia đình này lúc nào cũng đủ ăn và trước khi đi Mỹ, có 3 căn nhà ở Phú Nhuận. Qua Mỹ với 20 dollars trong túi, tụi này làm lại cuộc đời và cuối cùng cũng có được 3 căn nhà như xưa.
Trong mấy năm qua, tình hình thay đổi, Duy ngỡ rằng có thể bán nhà ở Mỹ đem tiền về sống nốt những ngày còn lại ở quê nhà… Thế nhưng vào tháng 4 năm nay 1994, vợ con Duy về Việt Nam rồi khi họ trở về Mỹ, thì Duy thấy rằng sự trở về của Duy chưa thuận tiện chút nào cả. Thôi thì đành ở lại cái đất “tạm dung” này vậy! Nói cho ngay, Duy cũng đã quá quen với đời sống Mỹ Quốc rồi, về già, vấn đề sức khoẻ rất quan trọng, ở đây y học rất tối tân mình đỡ lo hơn (Duy đã 2 lần mổ rồi, ở phổi và ở bọng đái).
Voilà! Vì Khanh hỏi nên phải khai ra là như vậy, chứ không dám khoe khoang gì đâu nhé…
Khanh nhắc tới trường Hàng Vôi, 16 Carreau, Hưng Yên… làm Duy cảm động. Nhưng nếu có ngày nào Duy trở về đường xưa lối cũ, liệu có còn dư hương của kỷ niệm xưa hay không?
Có người* đã viết về Duy như sau: “PD cảm nhận được khúc ngoặt to lớn của dân tộc, viết Tình Hoài Hương như một tổng kết, rằng từ nay không chỉ xa quê nhà trong không gian mà là xa mãi trong thời gian, tình cảm kết tinh thành một nostalgie như là chứng liệu một thời. Nước Việt Nam sau 1945 đã bước vào một thời đại mới của cuộc diện thế giới, vĩnh viễn xoá bỏ ý niệm “cố hương” theo kiểu cũ. Cho nên Duy mô tả quê hương với tất cả các nét đằm thắm một thời của nó, đồng ruộng, luỹ tre, làn khói, con sông, cây đa, con trâu, bà mẹ… nhưng không một lời mơ ước là sẽ trở về. Còn đâu nữa mà về! Ông không mang ảo tưởng quay về cái cũ của những ngày đầu kháng chiến, ông cảm nhận được cú định mệnh đang giáng xuống Việt Nam bắt buộc đi vào một thời đại hoàn toàn mới, từ tình hoài hương ông kịp chuyển qua các báo hiệu cho một tâm cảm mới:
Chiều xoay hướng!
Sống vui trong mối tình muôn đường
Tình ngàn phương!
Biết yêu nhau như lòng đại dương
Thời đó ông chỉ có thể hát lên cung bậc chuyển tiếp cho một dự cảm. Người Việt Nam buộc phải ra khỏi cái nôi ấm áp thôn dã hàng ngàn năm của mình, cái bước đi đã được ý thức và được thực tập từ thời Đông Kinh Nghĩa Thục, thời Đông Du nhưng chưa bao giờ thật sự thành hiện thực. Sau cuộc chiến chín năm thì giấc mơ của Hoàng Giác:
Về quê xưa để đời sống êm đềm giấc mơ
Về quê xưa tìm bóng những ngày đã qua…
… rõ ràng không bao giờ thực hiện được nữa, “bóng những ngày đã qua” đã bay luôn. Phạm Duy đã nhìn ra những buổi chiều đã xoay hướng, chẳng có gì bắt phải nhìn mãi về phía quê nhà, và cũng đã chuyển làn khói ấm hương thôn ra thành tình ngàn phương, biến tình yêu đất nước thành tình đại dương rộng rãi. Con người thành người phiêu lãng, chứ không còn của một mảnh đất thân yêu cố định. Phiêu lãng là phiêu lãng đối với quê hương đã mất…”
[*Người viết ấy chính là nhà văn nhà báo Phạm Xuân Đài, tác giả bài Giấc Hương Quan (trong cuốn tùy bút Hà Nội trong mắt tôi xb1994) mà Phạm Duy trích dẫn trong bức thư này. Và PXĐ cũng. đã viết bài “Cái Chết Trong Ca Khúc Phạm Duy” đăng trên báo Thế Kỷ 21 khiến Phạm Duy cảm hứng làm một chuỗi video giới thiệu và diễn giải các ca khúc của Phạm Duy liên quan tới chủ đề này:
PXĐ là người yêu mến và ngưỡng mộ nhạc Phạm Duy từ lâu. Khi nghe tôi đang viết về Chân Dung Phạm Duy, PXĐ đã cung cấp cho tôi tài liệu và anh cũng khuyên tôi chỉ nên viết những điều lớn lao của Phạm Duy, hãy quên đi những chi tiết đời thường của ông. Ghi chú của người viết]
Duy mượn những lời trên để nói với Khanh về một vấn đề dễ làm ta mủi lòng: quê hương! Quê hương không chỉ là chùm khế ngọt mà thôi, quê hương trước hết là con người, là bạn bè, là người tình… Con người Việt Nam bây giờ ra sao? Bạn bè của Duy còn ai nữa đâu, nếu không tình cờ tìm ra Khanh thì có lẽ chỉ còn có Văn Cao là người bạn duy nhất. Người tình (hiểu theo nghĩa là người yêu nhạc PD), thì họ đâu được tự do nghe nhạc? Do đó, nếu chẳng bao giờ được trở về Việt Nam (vì lý do này nọ), thì Duy cũng đã chọn làm người của ngàn phương từ lâu rồi.
Thôi nhé, thư đã dài, hẹn thư sau. Mong thư Khanh. Chào Tố Uyên, Băng Thanh. Chúc quý bà tất cả những điều tươi tốt./.
Phạm Duy
…
Ba bức thư Phạm Duy gửi người bạn kháng chiến Hoàng Thượng Khanh — cả hai nay đã là người trăm năm cũ, không những là áng văn chương mà còn ghi lại những diễn biến nội tâm rất trung thực và phức tạp của con người yêu nước là Phạm Duy.
Cũng qua mấy bức thư ấy, để thấy rằng một Phạm Duy tuy nói thì như dỗi vậy thôi, nhưng ông vẫn kiên nhẫn tìm cách “vượt mọi cửa ải”, mong chờ ngày được trở về Việt Nam. Phải đến năm 2000, lần đầu tiên Phạm Duy mới được phép về thăm Việt Nam — để tự thân ông quan sát thực địa. Và như kỷ niệm cho chuyến đi đó, khi Phạm Duy trở về Mỹ, ông có ký tặng tôi bức ảnh khi ông đang đổ rượu trên mộ nhạc sĩ Văn Cao, người bạn kháng chiến thân thiết của Phạm Duy thuở nào.
Với tất cả thận trọng và dĩ nhiên cả sự khôn ngoan – như một bản năng sinh tồn, trong suốt 5 năm sau đó, Phạm Duy tiếp tục các chuyến đi thăm dò, và sau khi có Nghị Quyết 36, và nhất là khi ký được một Hợp Đồng 20 năm [2005-2025] với Phan Thị Lệ Giám đốc Công Ty Sách Phương Nam, Phạm Duy thấy có thể về sống được ở Việt Nam, ông đã chính thức ngỏ lời xin về Việt Nam từ năm 2000. Câu trả lời từ Hà Nội là phải chờ tới năm 2005. Và rồi thời điểm ấy cũng đã đến với Phạm Duy và gia đình.
Tiễn Phạm Duy hồi hương 1/5/2005
Sau ba mươi năm sống ở Mỹ, tới tuổi 84, với chuẩn bị rất chu đáo cho một chọn lựa cuối đời, Phạm Duy về sống hẳn ở Việt Nam. Trước ngày về của Phạm Duy, nhà báo Đỗ Việt Anh, người rất yêu mến nhạc tâm linh của Phạm Duy – lúc đó đang là chủ nhiệm nhật báo Người Việt, đã cùng bạn hữu tổ chức một buổi họp mặt ấm áp tiễn đưa Phạm Duy.
Phạm Duy “Ngày trở về”
Thời tuổi trẻ, có thể nói Phạm Duy đã có một cuộc sống hào hùng của một thanh niên dấn thân yêu nước, ông đặt chân tới khắp miền đất nước từ Bắc vô Nam. Rồi với ba mươi năm sống ở Mỹ, Phạm Duy đã có dịp đi trình diễn khắp 5 châu. Tới tuổi 84, Le Repos du Guerrier, Phạm Duy đã dứt khoát có một chọn lựa không phải là không khó khăn với cả nhiều vật vã nội tâm: Phạm Duy từ bỏ một cộng đồng Việt Nam hải ngoại yêu mến ông và chọn về sống những năm cuối đời ở Việt Nam.
Khi đã an cư lạc nghiệp nơi quê nhà từ 2005, Phạm Duy đã thích thú hồi tưởng lại “những ngày sau 1975, đã có một tấm ảnh Phạm Duy “to tổ bố” — vẫn chữ của Phạm Duy, được trưng bày trong khu bảo tàng Tội Ác Mỹ Nguỵ”, 28 Trần Quý Cáp – cũng là địa chỉ trường Đại học Y Khoa Sài Gòn cũ năm nào. Chính quyền mới lúc đó đã xem ông như kẻ phản bội kháng chiến và là biểu tượng cho nọc độc của “Văn hoá Mỹ Nguỵ”.
[Riêng với người viết, cuốn Vòng Đai Xanh viết về các sắc dân Thượng cũng bị kể là thứ rác rưởi của tàn dư văn hoá Mỹ Nguỵ nên cũng “được” trưng bày trong đó.]
Nhưng rất may mắn là mấy ngày cuối tháng Tư 1975, Phạm Duy có tên trong danh sách được nhân viên CIA Ed Jones giúp di tản, qua Mỹ kịp thời. Và hơn ai hết, Phạm Duy hiểu rất rõ rằng nếu kẹt ở lại, bị lùa vào trong các trại tù cải tạo cùng với bao nhiêu ngàn văn nghệ sĩ miền Nam khác, thì Phạm Duy sẽ “đi đoong” — vẫn chữ của Phạm Duy và chắc chắn là sẽ không có “Ngày Về” như hôm nay.
Như một flashback, tưởng cũng nên trích dẫn trong bài viết này: mấy dòng bút ký của Phạm Duy từ Guam một hòn đảo Mỹ trên Thái Bình Dương rất xa Việt Nam, và là chứng nhân cho những giờ phút sụp đổ của Sài Gòn:
“Ngày hôm nay cũng là ngày Saigon vừa được Bắc quân gọi là giải phóng. Giờ lịch sử đã điểm. Một ông nằm cạnh tôi đang dò đài Saigon với cái máy radio nhỏ tí. Mọi người trong phòng lặng lẽ kéo tới, khi nghe thấy có chương trình phát thanh về cuộc thắng của Bắc quân và cái thua của Cộng Hoà Việt Nam. Tôi cảm thấy buồn bã vô cùng! Chẳng nhẽ nằm đó và bịt tai lại, tôi vùng dậy, xuống thang ra khỏi chung cư.
Bây giờ tôi mới ý thức được rằng Guam là một hòn đảo. Tôi lững thững bước ra bãi biển. Đứng trước cảnh trùng dương bát ngát, lòng tôi rất im lặng, dửng dưng. Tôi không còn một chút rung động nào nữa trước cảnh biển cả mênh mông như những ngày trước đây. Tôi không còn là tôi nữa rồi ! Quay lưng lại biển, tôi lặng lẽ bước về chung cư.
Đi qua phòng thông tin của trại, bỗng nghe từ các loa lớn phóng ra tiếng nói của một xướng ngôn viên: — Tổng Thống Dương Văn Minh kêu gọi binh sĩ Cộng Hoà đầu hàng.
Tôi càng buồn rầu hơn nữa, rảo bước về chung cư, ngồi bệt xuống sàn gỗ. Mọi người vẫn vây quanh cái radio để nghe những tin tức liên quan tới ngày Bắc quân tiến vào Saigon. Trong radio bỗng có tiếng Trịnh Công Sơn hát bài Nối Vòng Tay Lớn với giọng hát thất thanh và với tiếng đệm đàn guitare rất là sai dây. Tôi chạnh lòng nghĩ tới thân phận mình, nếu bị kẹt lại liệu mình có phải hành động như thế không? [ngưng trích dẫn, Hồi Ký PD tập 4]
Cũng trong Hồi Ký PD tập 4 Phạm Duy viết: “Từ trước tới nay ‘người ta’ thường dùng đủ mọi cách để chia rẽ tôi và Trịnh Công Sơn, nhưng không ai ngăn được tình đồng nghiệp giữa chúng tôi, dù có khi hai người không có chung một quan điểm. Năm 1988, tình cờ Phạm Duy gặp lại Trịnh Công Sơn ở Paris, cùng Đặng Tiến, chúng tôi rong chơi trên vỉa hè hay ngồi quán café tán gẫu. Tuyệt nhiên chúng tôi không nói chuyện chính trị chính em, văn nghệ văn gừng gì cả… nhưng khi tôi nhờ “người tình trẻ” mang về Việt Nam một cassette Mười Bài Rong Ca tôi vừa thực hiện xong thì Sơn OK ngay. Do đó tâm sự “người tình già” đã được phổ biến ở trong nước. Mùa Hè 2001, tôi có việc phải về Saigon, vài ngày sau đám tang Sơn, tôi rủ Trần Văn Khê tới thắp hương trước bàn thờ anh, riêng tôi đã khấn ơn anh ngày nào, thay mặt tôi đem Rong Ca về quê hương.” [Hết trích dẫn, Hồi Ký PD 4]
Bây giờ Khu bảo tàng Tội Ác Mỹ Nguỵ đã đổi tên, là nhà Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh (War Remnants Museum), nơi vẫn còn trưng bày với các cỗ đại bác, bom mìn, đạn dược trong đó có cả bom 7 tấn, bom CBU, cả xe tăng, máy bay trực thăng, của Đế quốc Mỹ bỏ lại và cả những chuồng cọp kẽm gai biểu tượng cho tội ác Mỹ Nguỵ đầy ải các chiến sĩ cách mạng, được mang về từ Côn Đảo và Phú Quốc, đã trở thành một “tụ điểm nóng” của du lịch và tuyên truyền, với hàng trăm ngàn khách thăm viếng mỗi năm.
Từ Việt Nam, qua các cuộc phỏng vấn, khi được hỏi về động cơ nào khiến Phạm Duy chọn về sống ở Việt Nam, ông đã nói rất hùng biện và thuyết phục, Phạm Duy nhấn mạnh ông lúc nào cũng là người Việt Nam nên chọn lựa đó chỉ là: lá rụng về cội, cá lội về nguồn. Ông đem theo 1000 lời ca về tặng cho quê hương và sống với những người yêu nhạc của ông bấy lâu.
Với đôi chút dè dặt ban đầu, Phạm Duy nói về đây, ông sẽ chọn “làm thinh”, và nếu có “ồn ào” thì chỉ là làm thương mại, ông làm theo yêu cầu của Công Ty Phương Nam chỉ để bán CDs và bán sách.
Nhưng rồi sau đó ông đã “không còn làm thinh” nữa mà mạnh dạn nói tới nhiều điều. Người viết trích dẫn ra đây đôi lời của Phạm Duy từ hai cuộc phỏng vấn cùng vào tháng Giêng 2012, để thấy một Phạm Duy rất nhất quán về những điều ông nói ra, và không đưa ra thêm lời bình luận nào.
(1) Cuộc phỏng vấn của TS Nguyễn Nhã với nhạc sĩ Phạm Duy ngày 12/01/2012,
_ (2) Cuộc phỏng vấn của 2 ký giả Eccetera và Vũ Hoàng Lân PhốBolsaTV.com với nhạc sĩ Phạm Duy ngày 28/01/2012
[Ghi Chú của Người viết: Hai cuộc phỏng vấn Phạm Duy, với thời lượng đã hơn hai tiếng đồng hồ, chỉ làm làm công việc trích dẫn đôi câu nói của Phạm Duy có thể không hoàn toàn đúng với ngữ cảnh, khiến có thể có những suy diễn bất lợi và cả không công bằng với Phạm Duy, vậy đề nghị với bạn đọc bỏ ra thời gian để xem / nghe trọn vẹn từng lời nói của Phạm Duy từ hai cuộc phỏng vấn ấy – tiếng Anh gọi đó là: Phạm Duy In His Own Words – trên cả hai YouTube với đường dẫn / links đã ghi ở trên.].
Đôi Dòng trích dẫn:
Nói về người Việt tỵ nạn đang sống ở hải ngoại
Phạm Duy khi nói về người Việt Nam hải ngoại, về sự chia rẽ của cộng đồng tỵ nạn ấy, cũng là nơi Phạm Duy chung sống với họ 30 năm. Và nay từ căn nhà ba tầng trong cư xá Lê Đại Hành, Quận 11 được Công Ty Phương Nam cung cấp, ông nói về họ như sau: “Đúng là chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng, họ mới tới Mỹ, không một xu dính túi, còn ăn tiền trợ cấp mà đòi chống cộng cái gì, có tổ chức hội đoàn nào có được tới 4 người đâu, 3 là cùng.”
Với những người còn giữ trong lòng mối hận thù cộng sản, Phạm Duy nói với họ như một lời khuyên là: “Phải biết cám ơn, phải biết xin lỗi, và phải biết quên!” Với tướng Nguyễn Cao Kỳ từng là thông gia của Phạm Duy, ông khen: “Ông Kỳ can đảm, đã từng là Phó Tổng Thống mà biết hạ mình khi quyết định về Việt Nam”. Phạm Duy còn nói tới khả năng là nếu một chính phủ “hoà hợp” trong tương lai và ông Kỳ có thể sẽ đại diện cho cộng đồng hải ngoại tham gia chính phủ ấy.” [sic]
Đọc lại Tập 4 Hồi Ký Phạm Duy để thấy: một Phạm Duy trong suốt 2 thập niên đầu sống ở hải ngoại, ông đã rất tích cực hoà mình tham gia các phong trào chống Cộng cùng với cộng đồng người Việt tỵ nạn, ông phổ nhạc các bài thơ của Cao Tần Lê Tất Điều, phổ 20 bài Ngục Ca rất nổi tiếng của “ngục sĩ” Nguyễn Chí Thiện, hợp tác với Phong trào Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh đi trình diễn văn nghệ khắp năm châu. [PhamDuyHoiKyIV.pdf]
Nói về Nghị Quyết 36 và chính sách hoà hợp hoà giải của Hà Nội
Phạm Duy nhắc tới NQ36, ông tâm đắc với Thứ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Thanh Sơn về chính sách hoà hợp hoà giải, và đó cũng chính là động lực khiến ông tin tưởng quyết định xin về sống ở Việt Nam. Ông xin hồi tịch, và hãnh diện với tấm thẻ CMND (Chứng Minh Nhân Dân) và Hộ khẩu mà ông được cấp một năm sau, và ông sung sướng với mỗi bài hát của ông khi được nhà nước cho phép hát. Ra thăm Hà Nội, Phạm Duy ca ngợi một Hà Nội đời sống hết sức tiến bộ, nhà cửa nguy nga, “đó là điều tôi rất vui”; [2] và cả với một Sài Gòn phát triển, ông khen khu Sài Gòn Mới như Phú Mỹ Hưng với nhà cửa đẹp hơn cả ở bên Mỹ, khen một đất nước mà nay người dân đã được ăn no mặc đủ và cách tiêu tiền ở Việt Nam còn hơn cả ở Mỹ. [sic] Và người ta cũng được biết là sinh nhật của ông đã có lần được tổ chức ở nhà ông Lê Thành Ân, người Mỹ gốc Việt từng là Tổng Lãnh Sự Sứ Quán Mỹ ở Sài Gòn. Môi trường sống của Phạm Duy ngày nay đã không còn là với Bà Mẹ Quê, Em Bé Quê mà là với xã hội trên cao.
Nói về mối đe doạ từ Trung Quốc và đại hoạ Biển Đông
Phạm Duy khen chính sách ngoại giao khôn ngoan của nhà nước cộng sản khi Việt Nam phải sống “dưới nách” của Trung Quốc. Theo ông, hiểm hoạ Việt Nam trở thành thuộc quốc và mất các quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa qua cuộc chiến tranh là không có và ông tin vào các hội nghị thương thuyết giữa các nước. Nếu ai vội vã chống đối có thể gây trở ngại cho giải pháp hoà bình và Phạm Duy có nhắc tới phản ứng “nóng nảy” của Cù Huy Hà Vũ*, con trai của Huy Cận bạn ông thuở nào.
[*Cù Huy Hà Vũ 2011 đã công khai lên tiếng phản đối đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc trong đó bao gồm cả Hoàng Sa – Trường Sa, ghi chú của người viết]
Rồi bằng một giọng nói khinh bạc / cynical Phạm Duy còn nói thêm với Nguyễn Nhã, người đang phỏng vấn ông: “Giả sử như Trung Quốc có đánh đến Nha Trang, thì tôi — Phạm Duy vẫn còn có thể trốn vào toà Đại Sứ Mỹ, vì tôi vẫn còn Passport với quốc tịch Mỹ.” [sic] [1]
Nói về Tạ Tỵ người bạn chí cốt chí thân 42 năm sau
Mùa Thu năm 1970, khi được biết Tạ Tỵ viết một cuốn sách về Phạm Duy, ông đã có một bức thư viết tay hai trang gửi Tạ Tỵ, nói lên nỗi xúc động của mình. Trích dẫn:
“Gửi Tạ Tỵ thân mến,
Thật là cảm động và cũng thật là ngượng ngùng khi biết rằng Tỵ sẽ dành một cuốn sách cho cái mặt mẹt này, sau khi đã viết xong 10 khuôn mặt cao quý của làng văn nghệ nước ta.
Cảm động vì trong cơn hoả mù hiện tại, ít ra cũng có một người muốn soi sáng đến tận cùng con người và sự nghiệp Duy, nhất là người đó lại là Tỵ, từ thuở tiền kháng chiến, trong kháng chiến, hậu kháng chiến và trong những ngày sắp tàn cuộc chiến này, lúc nào cũng gần mình, hiểu biết mình, kể cả cái hay lẫn cái dở…” [Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn, do Văn Sử Học của Nguyễn Nhã xuất bản, 1971]
Nhưng rồi 42 năm sau lần xuất bản đầu tiên cuốn Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn, 7 năm sau ngày Phạm Duy trở về sống ở Sài Gòn – ở tuổi 91, ông đã nói rất khác về Tạ Tỵ, người bạn chí cốt chí thân của ông từ tuổi thanh xuân thuở nào. Khi TS Nguyễn Nhã cầm trên tay cuốn sách Tạ Tỵ viết về Phạm Duy do chính Nxb Văn Sử Học của Nguyễn Nhã xuất bản 1971, thì Phạm Duy với giọng bỉ thử gọi đó là Nỗi Buồn Cười hay Nỗi Buồn Nôn, và rồi nhận định: Cuốn sách ấy viết quá dở, không trách được vì ông ấy làm Tâm lý chiến, nên chỉ viết được thế thôi. Cũng vẫn từ miệng Phạm Duy nói với Nguyễn Nhã: Tạ Tỵ là người nói láo khi kể lại những ngày đi tù cải tạo khi viết cuốn sách… *[Phạm Duy thì không nhớ tên cuốn sách ấy, nhưng ai cũng biết đó là cuốn hồi ký Đáy Địa Ngục, Thằng Mõ xuất bản, 1985] [1]
Sau 1975, Tạ Tỵ không được may mắn như Phạm Duy được CIA đưa đi, ông bị bắt đi tù cải tạo 6 năm, hồi ký Đáy Địa Ngục ghi lại kinh nghiệm Tạ Tỵ đã trải qua trong những năm tháng nghiệt ngã tù đày với lao động khổ sai “ăn không đủ no, đói không đủ chết.” Ra tù 1981, khi gặp lại Lê Ngộ Châu tại toà soạn Bách Khoa cũ, Tạ Tỵ chỉ còn là một hình hài tàn tạ với đầu bạc răng long. Tạ Tỵ sau đó đã can đảm vượt biên, lần thứ hai mới tới được đảo Pulau Bidong, Mã Lai và cuốn hồi ký Đáy Địa Ngục đã được Tạ Ty viết ngay từ ngày đặt chân trên đảo. [Tuyển Tập II Chân Dung Văn Học, Ngô Thế Vinh, Việt Ecology Press 2022]
Lịch sử cận đại Việt Nam, rồi ra vẫn còn đó một “cuốn sách trắng” về quần đảo ngục tù Việt Nam từ Nam ra Bắc sau 1975, nơi đày ải bao nhiêu nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ miền Nam, và không thiếu người là bạn hoặc nếu không cũng đồng trang lứa với Phạm Duy, họ đã bị chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Vĩnh Lộc, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Trần Tuấn Phát, Dương Hùng Cường… hay vừa ra khỏi tù thì chết như Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường.
Và nay, trên báo chí trong nước, lại thấy ảnh Phạm Duy cùng mấy người con đang trở lại quê nhà, để một lần nữa đi trên Con Đường Cái Quan ngày nào. Và từ trên những sân khấu chói loà ánh sáng từ Sài Gòn ra tới Hà Nội, là hình ảnh Phạm Duy hoàn toàn khác, vẫn với mái tóc bạc phơ, khi nói thì cầm giấy đọc, và rồi tay ôm những bó hoa nhiều màu giữa những tiếng vỗ tay của khán giả.
Phạm Duy: một tài năng lớn và nhân cách
Sau 30 năm sống ở Mỹ, trong tình yêu thương của cộng đồng người Việt ở hải ngoại, nay Phạm Duy chọn về sống ở Việt Nam, đó là quyền của ông, cần được mọi người tôn trọng. Và như ước nguyện, ông được sống và chết ở Việt Nam.
Sự nghiệp âm nhạc lớn lao của Phạm Duy thấm đẫm “Tình Quê Hương” đã in sâu vào tâm khảm nhiều thế hệ. Phạm Duy hiện diện như một tượng đài uy nghi trong nền âm nhạc cận đại của Việt Nam. Thế hệ này và cả những thế hệ sau sẽ vẫn hát một số những bài ca của Phạm Duy.
Giới trẻ thì muốn tìm tới Phạm Duy như một thần tượng, họ không chỉ ngưỡng mộ tài năng lớn của Phạm Duy, họ còn ao ước thấy một nhân cách lớn nơi ông. Nhưng rồi họ ngộ ra rằng Phạm Duy không có được cả hai.
Cùng với nhiều văn nghệ sĩ khác, Phạm Duy đã rất sớm rời bỏ kháng chiến để về thành, với lý do chính đáng là không chấp nhận một nền văn nghệ chỉ huy của những người cộng sản, và bảo vệ quyền tự do sáng tạo.
Với cảm hứng và có tự do, Phạm Duy đã sáng tác những bài ca bất hủ từ nốt nhạc tới ca từ. Nhưng rồi qua thời gian, qua từng thời kỳ, người yêu nhạc Phạm Duy không tránh khỏi ngạc nhiên khi thấy “ông đã tự kiểm duyệt mình”, ông sửa lời ca gốc của những bài hát viết trong thời gian kháng chiến sao cho hợp cảnh hợp thời. Ai đã từng theo dõi từng bước chân đi của Phạm Duy, không thể không rất lấy làm tiếc nhiều khi họ cũng đã bị lạc lối.
Nhạc sĩ Phạm Duy có đủ tuổi thọ để sống qua hai thế kỷ, trải qua mọi hoàn cảnh, “khóc cười theo vận nước nổi trôi”.
Không ai có thể nghĩ Phạm Duy không hiểu cộng sản, chỉ có thể nghĩ ở những năm cuối đời với tuổi tác, sự phán đoán của ông không còn sắc bén nữa. Để rồi vẫn thấy đó, một Phạm Duy của đời thường, theo tất cả cái nghĩa “trần ai” của một kiếp nhân sinh. Không nói tới cuộc đời tình ái đa đoan của Phạm Duy vì đó là phần đời tư của ông cần được tôn trọng, người viết chỉ đề cập tới ở đây một Phạm Duy của quần chúng và những gì liên quan tới sự nghiệp sáng tạo của ông.
Khi viết về chân dung Phạm Duy, để thấy rằng một Phạm Duy có nhiều chân dung trong các giai đoạn cuộc đời nghệ sĩ của ông. Phạm Duy luôn luôn khẳng định ông là một nhạc sĩ, một người Việt Nam, không quan tâm tới chuyện chính trị. Nhưng điều rất nghịch lý là vào giai đoạn cuối đời, với sự nghiệp đã to tát đến như thế Phạm Duy lại chọn trở về sống trong một đất nước vẫn chưa có tự do, vẫn có đó một nền văn nghệ chỉ huy – Phạm Duy đã chọn một cuộc sống an phận với cảnh “chim hót trong lồng”. Không ai ép buộc ông, nhưng ông đã tự nguyện nhiều lần có những phát biểu mang màu sắc chính trị, mang tính cách “xuôi dòng”, khiến ngay cả những người vốn yêu mến và luôn luôn bênh vực ông cũng đã phải sượng sùng đến chau mày.
Sau khi Phạm Duy mất, không ít những bài nhạc của Phạm Duy vẫn còn bị cấm kỵ. Việt Nam Việt Nam là bài rất tâm đắc của Phạm Duy — được ông nhắc tới năm 2012, tuy đã xin phép nhưng lúc đó vẫn chưa được phê duyệt. Lý do thầm kín, mà “bên thắng cuộc” không bao giờ muốn nghe, là đã có nhiều người nghĩ tới là bài hát này có thể được chọn làm bài quốc ca cho một đất nước Việt Nam tương lai có dân chủ.
Phạm Duy đã chết, con bài Phạm Duy, một sản phẩm của NQ36 đã chết theo ông. Tuy không có văn bản chính thức, nhưng dường như đã có một chỉ đạo từ trên cao là từ nay tên tuổi Phạm Duy không còn được ồn ào nhắc tới nữa, sách của Phạm Duy / bộ Hồi Ký đồ sộ 4 tập hay các sách viết về Phạm Duy cũng không dễ dàng có được giấy phép xuất bản sau khi Phạm Duy mất.
Cuốn sách ảnh Phạm Duy Ngày Về (2005 – 2013)
Một ví dụ điển hình là cuốn sách ảnh của nhiếp ảnh gia Nguyễn Phong Quang, với nhan đề Phạm Duy Ngày Về, cho dù trước đó đã được Nxb Trẻ nhận in, và dự định phát hành nhân kỷ niệm ngày giỗ đầu của Phạm Duy 28/01/2014 nhưng cho đến nay, tám năm sau (2022) sách vẫn không được cấp phép xuất bản mà không nêu bất kỳ lý do nào.
Nguyễn Phong Quang tuy là nhiếp ảnh gia tài tử, nhưng chụp hình rất đẹp, do anh rất ngưỡng mộ và có niềm say mê âm nhạc của Phạm Duy, nên ngay khi Phạm Duy trở về Việt Nam Nguyễn Phong Quang đã theo sát bước chân Phạm Duy và có thể nói Nguyễn Phong Quang là người duy nhất sở hữu một bộ ảnh đầy đủ về 13 năm cuối đời của nhạc sĩ Phạm Duy từ khi đặt chân trở lại Việt Nam cho tới khi Phạm Duy mất trên giường bệnh.
Người am hiểu tình hình trong nước đã đưa ra nhận định: “Những năm sau ngày Phạm Duy mất, có một chủ trương không qua văn bản, là không cho phép xuất bản các tác phẩm mới nào liên quan đến Phạm Duy! Dường như họ “dùng Phạm Duy” cho một giai đoạn gọi là “cởi mở” đã đủ, nay không cần nữa nên thôi! Bên cạnh đó, còn có vài nhân vật lãnh đạo văn hoá thành phố vẫn không muốn các tác phẩm của Phạm Duy đứng bên cạnh tác phẩm của họ, không muốn mọi người tung hô, xưng tụng Phạm Duy nhiều hơn họ…”
Phác thảo chân dung một con người sống động như Phạm Duy không phải là điều dễ dàng. Sẽ không thể thụ động quan sát Phạm Duy chỉ ở một góc nhìn mà phải qua nhiều góc cạnh để thấy được những khuôn mặt khác nhau của ông. Các mảng khác nhau ấy nếu kết hợp có thể tạo ra được hơn một bức chân dung có thần. Nói theo ngôn từ hội hoạ của Tạ Tỵ thì đó là: “chiều thứ tư / 4ème dimension” còn gọi chiều động trong kỹ thuật tạo hình của trường phái lập thể. Theo nghĩa đó, sẽ không có duy nhất một chân dung Phạm Duy – mà có những chân dung Phạm Duy luôn luôn biến dạng và cả đổi màu theo thời gian.
Một Phạm Duy đã sống qua hai thế kỷ, ông cưu mang tất cả sức nặng của tấn thảm kịch đất nước bốn ngàn năm thăng trầm — cả tấn bi kịch của một con người Việt Nam: vừa lớn lao và nhỏ nhoi, vừa đẹp đẽ và cả xấu xí. Phạm Duy mất ở tuổi 92, qua câu thơ của thi hào Nguyễn Du: “thác là thể phách còn là tinh anh,” tinh anh ấy là gia tài âm nhạc đồ sộ của Phạm Duy, để rồi qua đãi lọc của thời gian, của “tam bách dư niên hậu”, sẽ chỉ còn lại những giai điệu bất tử, thanh thoát bay bổng với thấm đẫm tình quê hương, mang theo cả một phần hồn của dân tộc.Chúc ông an nghỉ ngàn thu trong lòng đất mẹ có tên thiêng liêng là Việt Nam – hay còn gọi là quê nhà.
Ngày mất của Phạm Duy 27/01/2013, nhà thơ Trần Mộng Tú trong niềm cảm xúc đã viết “Lời Cám Ơn Nhạc sĩ Phạm Duy”, tuyệt vời như một bài thơ, gói ghém toàn sự nghiệp của Phạm Duy. Nay được phép của Chị Trần Mộng Tú, người viết xin trích đăng ở đây bài thơ xuôi ấy, như một Kết Từ cho bài viết Chân Dung Phạm Duy.
Trần Mộng Tú – Lời Cám Ơn Nhạc sĩ Phạm Duy
Trên mười ngón tay anh chẩy xuống ngàn ngàn dòng lệ long lanh ngũ sắc, bật lên những tiếng cười hoan ca cho dân tộc Việt.
Anh viết những dòng sử Việt bằng âm nhạc, anh bắn những nốt nhạc thay đạn vào suốt chiều dài của cuộc chiến ngoại xâm.
Anh nhắc nhở công ơn tổ tiên, anh hùng dân tộc mỗi ngày trên môi người Việt.
Anh khóc cười bằng nốt nhạc lời ca cho tình yêu, con người, quê hương, dân tộc,
Anh băng bó vết thương trong chiến tranh, anh đốt lửa tìm kiếm hòa bình.
Anh vung tay, mây trôi như lụa giũ, nước như thủy tinh vỡ, anh khắc hình cha Lạc Long Quân vào núi, núi không còn là đá, anh thả tình mẹ Âu Cơ xuống biển, biển không còn là đại dương.
Ngôn ngữ trong những ca khúc của anh trong suốt, lãng mạn, bát ngát tình tự dân tộc, đẹp như những viên ngọc trắng, trong như những giọt nước mưa.
Anh lên rừng, rừng thay lá, anh xuống suối, suối khóc òa. Bằng âm nhạc, bằng tình tự dân tộc anh đi từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau suốt cuộc đời mình không ngơi nghỉ.
Tình yêu quê hương trong ca từ của anh làm cho cả người hát và người nghe ứa lệ.
Ở những vết thương anh cho máu chẩy thành mật ong, đám khói là hơi thở của mái nhà, em bé là con trâu, cái áo rách, cái bếp lửa là mẹ, củ khoai, bát nước chè là những người con.
Ngôn ngữ Việt dưới ngón tay anh trở thành Tiếng Nước Tôi thiêng liêng của dân tộc. Anh mang những tinh hoa của ngôn ngữ Việt tặng cho người Việt.
Âm nhạc lời ca của anh ngập tràn tình yêu thương người Việt, nước Việt.
Trong tình yêu đôi lứa của nhân gian anh cho cô tiên hiện xuống giữa đời, cỏ hồng mọc trên những sườn non không bao giờ úa, anh rùng mình hạnh phúc bằng âm giai.
Anh thanh, anh tục, anh thiền, anh đập phá bằng âm nhạc.
Anh uống, anh ăn, anh thở, giữa âm điệu và lời ca.
Anh sống đời mình trong mỗi phân vuông của cuộc đời bằng âm nhạc, anh chưa để lãng phí một giây phút nào của cuộc sống.
Anh để lại cho đồng chủng anh, cho kho tàng âm nhạc của dân tộc Việt một khối gia tài không một ngoại bang nào chiếm đoạt được.
Anh là một món quà quý giá mà cuộc tiến hóa của bao đời tổ tiên Việt Nam đã đúc kết nên và trao cho dân tộc vào thế kỷ 20.
Anh sinh ra và nằm xuống trên quê hương mình, nước Việt Nam.
Xin gửi anh một lời Cám Ơn Trân Quý.
TRẦN MỘNG TÚ 27/01/2013
NGÔ THẾ VINH
Little Saigon, 04/07/2022
THAM KHẢO:
1/ Hồi Ký Phạm Duy, Tập I, II, III. Nxb Phạm Duy Cường, [Tập IV bản PDF]
2/ Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn. Tạ Tỵ. Nxb Văn Sử Học, Saigon, 1970
3/ Ngàn Lời Ca. Phạm Duy. Phạm Duy Cường Musica Production,19874/ Vang Vọng Một Thời. Phạm Duy. Công ty Sách Phương Nam, 2015
Hôm qua uống cà phê với bạn bè và nghe những nhận định về ‘văn hoá’ trong giới quan chức Việt Nam rất đáng để chia sẻ ở đây. Tôi cố gắng tóm tắt trong 10 thói quen dưới đây. Các bạn đọc xem có đúng không?
Người nhận định là một chuyên gia tư vấn từng làm việc cho một công ti tư vấn nước ngoài ở Việt Nam. Anh ấy (tạm gọi là M) là con trai của một gia đình tị nạn, đến Úc khi mới 5 tuổi. Anh ấy là người đã trưởng thành và được đào tạo trong hệ thống và môi trường giáo dục Úc.
Anh M từng làm cho các công ti tư vấn bên Úc, Anh, Mĩ, và sau này (5 năm trước) vì lí do “tị nạn ái tình” nên anh về Việt Nam đầu quân cho một công ti tư vấn nước ngoài. Anh tiếp xúc với rất nhiều quan chức Việt Nam và có những nhận xét mà tôi tạm xếp vào nhóm ‘văn hoá làm việc’. Anh chỉ đưa ra nhận xét (chứ không đánh giá là đúng hay sai hay chê gì cả) như là một cách nói để bạn bè bên Úc không ngạc nhiên khi về làm việc ở trong nước.
1. Tôn sùng bằng cấp và danh xưng
M cho biết trong thời gian làm việc ở Việt Nam anh thấy các quan chức rất mê bằng cấp, đặc biệt là văn bằng tiến sĩ, và trọng danh xưng. Các danh thiếp của quan chức Nhà nước thường chi chít những bằng cấp, chức vụ trong bộ máy công quyền, chức vụ trong các đoàn thể. Có người cẩn thận ghi bằng 2 thứ tiếng Việt và Anh, nhưng phiên bản tiếng Anh thì rất ngô nghê. Họ có xu hướng đánh giá kĩ năng và kinh nghiệm nhân viên qua bằng cấp, kiểu như hễ người có bằng cấp cao được xem là có kinh nghiệm cao và thường được giao trọng trách. Nhiều người dù làm trong lãnh vực dịch vụ và kinh doanh nhưng vẫn thích có bằng tiến sĩ.
Họ cũng rất quan tâm đến danh xưng, và hay gọi nhau bằng danh xưng trong các buổi họp. Chẳng hạn như họ gọi nhau là “Thưa tiến sĩ”, “Thưa giám đốc”, có vẻ giống như phim Hàn Quốc. Tuy nhiên, M cho biết có khi họ cũng gọi quá thân mật như trong gia đình: thư kí hay cấp dưới thì gọi cấp trên bằng “Chú”, “Bác”, “Cô”, v.v. M cho biết thoạt đầu cũng thấy là lạ, nhưng riết rồi quen.
2. Hách dịch, quan liêu, khinh thường dân chúng
Các quan chức trong hệ thống công quyền Việt Nam, nhứt là công an, rất xem thường dân chúng. Anh kể chuyện khi vào đồn công an báo cáo bị móc túi, anh nghe thấy mấy người công an quát tháo người khác, đập bàn, gọi họ là “mày”, “con”, “thằng”, y như xem họ là tội phạm. Các viên chức hành chánh cũng vậy, họ nói chuyện với dân không nhìn vào mặt người ta và hay gắt gỏng. Ngay từ người tiếp dân làm thủ tục hành chánh nho nhỏ cũng có thể “hành dân lên bờ xuống ruộng”, và anh M từng là một nạn nhân. Người có chức quyền càng cao thì mức độ quan liêu và hách dịch càng lớn.
Tuy nhiên, M nhận xét rằng cái cơ chế và văn hoá có khi biến họ (quan chức) thành những kẻ quan liêu. Ý nói rằng cấp dưới nhiều khi tỏ ra quá cung phụng cấp trên, và làm cho cấp trên quen với sự cung phụng đó. Ví dụ tiêu biểu là bức hình quan chức cao cấp (?) được người cõng từ xe vào văn phòng họp vì đường ngập nước.
M theo dõi vụ án Thiền Am khá sát và đưa ra nhận xét về cách mà quan ra toà rất khác với dân ra toà. Quan ra toà thì đường hoàng, ăn mặc như là người chưa bị kết án (và điều này hoàn toàn hợp lí), còn mấy thanh niên của Thiền Am ra toà thì bị còng tay, cho mặc áo tù nhân, và viên công an hung hăn chỉ trỏ, làm như họ đã bị kết án vậy.
3. Hành xử 2 mặt
Quan chức Việt Nam thường là những người hai mặt. Trước mặt đối tác thì họ cười cười nói nói thân mật, tay bắt mặt mừng, nhưng sau khi đối tác đi rồi thì họ quay sang nói xấu người ta và gọi người ta bằng “Thằng”, “Con”, thậm chí còn đưa ra những nhận xét mang tính sex của đối tác. Đối với người nước ngoài, quan chức Việt Nam quen miệng gọi họ là “Thằng”, “Con”, “Bọn”, “Chúng”, nhưng trước mặt họ thì tỏ ra kính nể và nể phục.
Anh M còn cho biết các quan chức Việt Nam cũng có thái độ hai mặt trước chuyên gia Việt kiều như anh. Trước mặt anh thì họ khen và thân thiện, nhưng khi họp chi bộ thì họ lúc nào cũng nói với đồng đảng viên là coi chừng anh ấy, làm như là người nước ngoài thì không tin được vậy. Nói cách khác, họ vẫn xem anh ấy là “Yếu tố nước ngoài” và lúc nào cũng cảnh giác. Anh biết được điều này khi có người trong chi bộ cho biết. Anh M khuyên là đừng nghe và tin những gì giới quan chức Việt Nam nói, vì lời nói của họ không tương quan với cách họ làm.
4. Cái gì cũng biết
Một trong những điều mà người nước ngoài phải làm quen với quan chức (và cả giới khoa học Việt Nam — tôi thêm) là phải chuẩn bị tinh thần để nghe họ nói “cái gì cũng biết”. Nhiều khi họ cần trợ gíup của đối tác nhưng lúc nào cũng tỏ vẻ như họ là người am hiểu tất cả.
Có khi đối tác bàn đề nghị làm như thế này hay thế kia, thì phản ứng của các quan chức Việt Nam thường là “chúng tôi đã có cái đó rồi” hay “chúng tôi đã làm rồi”. Họ tỏ ra ngang hàng với đối tác, và điều này cũng là một phản ứng tâm lí dễ hiểu (inferiority complex), nên các đối tác nước ngoài thường lịch sự ghi nhận, nhưng vẫn làm theo chương trình nghị sự của họ. M khuyên rằng tuy cách họ nói thì có vẻ như “cái gì cũng biết”, nhưng cần phải hiểu ngược lại là “họ không biết gì cả.”
5. Hoang tưởng
Song song với “Cái gì cũng biết” là thói hoang tưởng cũng rất phổ biến trong giới quan chức Việt Nam. Tình trạng hoang tưởng thể hiện qua những suy nghĩ duy ý chí, suy nghĩ không đến nơi đến chốn, suy nghĩ rằng Việt Nam có thể làm những điều mà nước ngoài không thể làm được, hay Việt Nam cũng tiến bộ như các nước Âu Mĩ. Họ rất thích cách nói “Lần đầu tiên ở Việt Nam” và từ đó tỏ ra quá tự tin, không thấy thế giới bên ngoài ra sao và lớn như thế nào.
Anh M từng làm việc với những người học ở Đông Âu về và những người này dường như có suy nghĩ rằng họ chẳng thua kém gì các nước phương Tây như Mĩ, Úc, Anh, Pháp. Ngay cả những người mới học ở các nước phương Tây chỉ vài năm mà nghĩ rằng họ biết hết về văn hoá phương Tây! Tuy nhiên, đối tác nước ngoài thì không mấy quan tâm đến sự hoang tưởng của họ, để cho họ nói thoải mái, còn đối tác thì chỉ tập trung vào “làm được việc”.
6. Thụ động và chồng chéo
Trong nhiều buổi họp, các quan chức cấp thấp thường tỏ ra rất thụ động. Họ rất ít có chánh kiến. Họ có khi có ý kiến nhưng ý kiến thiếu tính độc lập, mà chỉ chờ một người cao cấp đưa ra ý kiến, rồi họ nói theo. Nhưng cách họ nói theo nghe cứ như là một cách nịnh hót rất kì cục. Khi họ không đồng tình với cấp trên, họ tường giữ im lặng. Nhưng sau buổi họp thì họ bày tỏ sự bất đồng ý kiến bằng những ngôn từ tục tĩu và xúc phạm.
Anh M cho biết rất khó làm việc với các quan chức Việt Nam vì sự chồng chéo giữa đảng, người thừa hành và đoàn thể. Có khi người mình bàn việc không phải là người quyết định, vì người quyết định có thể là bí thư đảng bộ nhưng không nắm quyền gì chánh thức! Thành ra, khi xảy ra vấn đề thì họ đổ thừa cho cấp thừa hành, còn đảng chủ trương thì lúc nào cũng đúng, ý nói không có người chịu trách nhiệm.
7. Nô lệ vào tiểu tiết
Anh M nhận xét rằng các quan chức Việt Nam rất thích tiểu tiết. Có khi cuộc họp chỉ có 1 giờ đồng hồ nhưng họ bỏ ra cả 30 phút để bàn cãi nhau chỉ vì một tiểu tiết như một chữ, một câu văn, một con số lẻ (mà họ gọi là “chính xác”) chẳng làm thay đổi nội dung của vấn đề, nhưng làm mất giờ của nhiều người. Có khi họ chỉ bắt lấy một tiểu tiết và bác bỏ toàn bộ nghị luận của người khác.
Nói cách khác, họ “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”. Tuy nhiên, điều kì lạ là họ rất tự hào vì đã chỉ ra được một tiểu tiết nào đó và xem đó như là một “thắng lợi”, một sự thông minh! Hành vi của họ rất giống như nhân vật Trạng Quỳnh.
8. Nhiều chuyện và lạc đề
Các quan chức Việt Nam thường … nhiều chuyện. Những quan chức cao cấp họ có cơ hội tiếp xúc với những quan chức trung ương, nên họ có những chuyện tiếu lâm để kể cho cấp dưới nghe, nhưng những chuyện họ kể thường lạc đề, chẳng dính dáng gì đến vấn đề đang bàn. Thoạt đầu nghe những câu chuyện như thế thì cũng thú vị, nhưng nó rất mất thì giờ. Anh M kể rằng một hôm trong một hội thảo, một quan chức cao cấp ngoài Hà Nội được mời lên nói chuyện; anh tưởng sẽ nghe về viễn kiến của người này, nhưng thật ra ông chỉ kể những chuyện ăn uống, chơi bời trong các chuyến công tác ở nước ngoài!
Các quan chức rất thích nói về những ăn chơi đàn đúm trong các động đĩ ở các nước phương Tây như là “trả thù dân tộc”! Là người lớn lên ở Úc và xem mình là người của phương Tây, nên M rất “dị ứng” với cách nói mang mặc cảm thấp hèn đó.
Cấp cao “nhiều chuyện” đã đành, nhưng cấp dưới còn “lắm chuyện” hơn. Họ soi mói nhau từng cử chỉ, từng cái quần, màu áo, chiếc xe, và đem ra làm chuyện để bàn tán kiểu “ngồi lê đôi mách”. Thoạt đầu anh M không quen, nhưng qua nhiều năm anh chỉ biết ngồi nghe mà không có phản ứng!
9. Xuề xoà
Đa số các quan chức Việt Nam, kể cả những người cao cấp, tỏ ra khá xuề xoà. Trong các buổi họp quan trọng, trong khi khách mời đều ăn mặc trang trọng, họ lại xuất hiện trong trang phục ‘casual’ (vd: áo ngoài quần, mang dép). Anh kể một lần anh tham dự một buổi họp có cả khách mời nước ngoài, một quan chức ngoài Hà Nội đến chủ trì nhưng cách ăn mặc của ông làm cho người ta thấy ông không tỏ ra tôn trọng khách mời chút nào.
Không chỉ xuề xoà, rất nhiều trong giới quan chức còn tỏ ra là những người không am hiểu về văn hoá giao tiếp. Cho dù họ ăn mặc theo cách thức phương Tây nhưng vẫn để lộ những lệch lạc về phong cách như caravat hay chọn áo, hay thậm chí cách dùng dĩa, nĩa, dao, li, v.v. trong các buổi dạ tiệc. Có lẽ họ thiếu huấn luyện về văn hoá giao tiếp của doanh nhân.
10. Không đúng giờ
Không đúng giờ gần như là một “bệnh mãn tính” của người Việt chứ không hằn là quan chức Việt Nam. Có người trễ cả nửa tiếng đồng hồ mà không hề có lời xin lỗi, càng không báo trước là họ sẽ trễ giờ họp. Người có chức vụ càng cao thì tình trạng trễ giờ càng phổ biến. Hình như một số quan chức cho rằng họ quan trọng hơn người khác và do đó họ có quyền trễ giờ. Anh M còn nghe họ nói rằng phải đi trễ giờ để cho đối tác biết mình là người quan trọng!
Mười thói quen trên có liên quan đến chỉ 1 điều mà người phương Tây gọi là professionalism – tính chuyên nghiệp. Thiếu tính chuyên nghiệp là một “yếu tố nguy cơ” làm cho các quan chức Việt Nam khó hội nhập với thế giới.
Dĩ nhiên, không phải quan chức nào cũng như mô tả trên, vì trong thực tế tôi từng tiếp xúc với nhiều quan chức và thấy họ ok (đa số), có người chuyên nghiệp (ít), có người tỏ ra thân mật (nhiều), còn đằng sau thì không biết. Tuy nhiên, chỉ cần 50% các quan chức với các thói quen trên thì cũng đủ để giật lùi Việt Nam vài chục năm.
Mấy ngày qua thấy bạn bè nhắc đến ca khúc “Gia tài của mẹ”, nhưng mãi đến hôm nay tôi mới biết nguồn cơn. Cái note này thuật lại một câu chuyện thú vị về số phận của ca khúc đó trước 1975. Theo tôi, cái chế độ kiểm duyệt văn nghệ kiểu Mao-ít ở Việt Nam đã quá xưa rồi, nên bỏ đi, để nhà cầm quyền có thể ngẩng cao đầu nói câu “hoà giải dân tộc”.
Ca khúc “Gia tài của mẹ” là một trong những ‘bài tủ’ của thế hệ tôi thời trước 1975. Ca khúc được viết chắc vào năm 1965 hay 1966 trong loạt “Ca Khúc Da Vàng”. Trong đó, có những ca khúc như Nước mắt cho quê hương, Đồng dao hoà bình, Ta thấy gì đêm nay, Chờ nhìn quê hương sáng chói, và đặc biệt là Gia tài của mẹ. Bởi vậy, khi đọc review thấy phim gì mới về Trịnh Công Sơn không có đề cập đến Ca Khúc Da Vàng làm nhiều người thế hệ tôi không mặn mà mấy.
Ca khúc Gia tài của mẹ rất dễ hát. Giai điệu đơn giản. Lời ca rất dễ nhớ, dễ thấm vào thanh niên có suy tư về hiện tình đất nước. Chính vì thế mà ca khúc này thường được trình diễn trong các buổi picnic và … biểu tình.
Nhưng Gia tài của mẹ còn là một ca khúc mà giới tâm lí chiến VNCH sử dụng để chiêu hồi lính Bắc Việt. Theo một sĩ quan tình báo VNCH, trước đây giới tâm lí chiến đã cho trực thăng phát thanh ca khúc Gia tài của mẹ với tiếng hát Khánh Ly nhắm thẳng vào lính Bắc Việt dọc đường mòn HCM.
Vẫn theo viên sĩ quan tình báo, Trịnh Công Sơn trong một lần phỏng vấn đã nói với ông rằng:
“Tôi không kêu gọi họ buông súng hay mang súng trở về như Bộ Chiêu hồi, nhưng tôi đã làm việc ấy một cách tế nhị và rất thâm trầm như bài ‘Lại cần với nhau’ với lời nhạc ‘… đừng bỏ tôi… đừng bỏ tôi… đi hai mươi năm qua… còn gì cho anh… còn gì cho tôi… không còn gì… không còn gì… còn lại chiến tranh… hai mươi năm chinh chiến mẹ ngủ không yên…’ Và còn nhiều nữa, tôi đã nói thẳng với họ hãy vượt mọi trấn áp, từ bỏ rừng núi… mà trở về cùng với dân tộc đang chịu quá nhiều đoạ đầy thống khổ như bài ‘Nối vòng tay lớn’ với câu kết luận ‘Vượt thác cheo leo… hay ta vượt đèo… từ quê nghèo lên phố lớn… nắm tay nối liền biển xanh sông gấm… nối vòng tay lớn…’ Tôi đã nói chuyện với họ như bằng hữu, như anh em chứ không phải như ông Bộ trưởng Chiêu hồi.
Phương cách của tôi theo tôi nghĩ có thể thích hợp và được họ vui vẻ chấp nhận và lĩnh hội hơn. Tôi thương yêu và kính trọng họ thật, với tình người thật, với tinh thần ruột thịt thật và muốn trải với họ chút tâm sự thật. Tôi có thể bị công an, bị chính ông kết tội nhưng đó là sự thật tôi không giấu giếm. Cũng bằng cách này, tôi đã gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh cho những giới chức chỉ đạo chiến tranh của bên này và cả bên kia.” (trích từ talawas [1]).
Nếu câu nói trên được thuật lại chính xác thì Trịnh Công Sơn viết Gia tài của mẹ hay những ca khúc khác trong Ca Khúc Da Vàng là có nghĩ đến mấy người bộ đội miền Bắc. Rất có thể vì thế mà mấy người nắm quyền kiểm duyệt văn hoá ngày nay cảm thấy ‘dị ứng’ với ca khúc nổi tiếng này?
Chế độ kiểm duyệt văn hoá, kể cả âm nhạc, theo cách chúng ta thấy ở Việt Nam ngày nay thật ra bắt nguồn từ bên Tàu sau khi Mao Trạch Đông cướp chánh quyền thành công. Quan điểm của Mao là đảng cộng sản China phải đóng vai trò vừa là người thầy, vừa là người kiểm soát đời sống văn hoá của người dân. Trong vai trò người thầy, đảng phải ‘giáo dục’ những gì họ xem là lẽ phải và những gì họ đánh giá là sai trái. Trong vai trò của kiểm soát viên, đảng giữ quyền cho phép cái gì được lưu hành và cái gì cần phải cấm đoán. Trước sự xâm nhập của nhạc phương Tây vào đời sống văn hoá của giới có học, Mao tuyên bố rằng cần phải ‘khoa học hoá’ âm nhạc truyền thống, và đồng thời lọc bỏ những ‘cặn bã’ trong âm nhạc phương Tây hay chịu ảnh hưởng phương Tây. Nhà cầm quyền miền Bắc Việt Nam, không ngạc nhiên, cũng học theo cách làm đó.
Nhìn bao quát như vậy để chúng ta không ngạc nhiên trước sự kiểm duyệt âm nhạc sau 1975 ở miền Nam. Thoạt đầu, người ta rất ngạc nhiên là nhà cầm quyền mới có hẳn một danh sách những cuốn sách nào và những ca khúc nào hay những tác giả nào được lưu hành hay không được lưu hành. Mấy người từ miền ngoài mới vào và những người miền Nam mới từ trong rừng ra đánh giá rất thấp văn hoá – văn nghệ miền Nam. Họ xem nền văn nghệ miền Nam là quảng bá lối sống phương Tây, là sùng bái đồng tiền, là cổ suý cho lối sống truỵ lạc dâm ô, là phi nhân tính, v.v. (danh sách các tính từ rất dài). Một phong trào tiêu diệt ‘tàn dư văn hoá Mĩ nguỵ’ được phát động. Đó là chuyện của 4 thập niên trước.
Thời gian gần đây, hình như nhà cầm quyền văn hoá đã dần dần nhận thức được rằng những cáo buộc hấp tấp và hồ đồ trước đây là sai lầm. Việt Nam ngày nay đã dần dần ‘hội nhập’ quốc tế, và giới có học đã tiếp xúc được với những giá trị văn hoá và nhân văn mà miền Nam đã tiếp nhận 50 năm truóc. Người ta đã nhận ra rằng những Võ Phiến, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Du Tử Lê, Dương Nghiễm Mậu, Phạm Duy, Lam Phương, Trần Thiện Thanh, Vũ Thành An, Phạm Đình Chương, Từ Công Phụng, Chế Linh, v.v. (danh sách rất dài) không phải là ‘phản động’ mà là những tài năng đáng trân quí, những ‘tài sản quốc gia’ của Việt Nam. Vậy là người ta cho lưu hành một số ca khúc (và tác phẩm văn học nghệ thuật trước 1975), và giới trẻ đã bắt đầu tiếp xúc với những tác phẩm của các vị đó.
Ca khúc “Gia tài của mẹ” chỉ là một trong những di sản quí báu của nền văn nghệ miền Nam (làm ơn bỏ chữ ‘đô thị’ nghen) trước 1975. Đó là một ca khúc được viết ra trong một thời kì biến động lịch sử theo cái nhìn của Trịnh Công Sơn. Cái nhìn của ông ấy rằng cuộc xung đột võ trang Nam – Bắc là một cuộc ‘nội chiến’; rằng những tuyên truyền biện minh cho cuộc chiến là dối trá (nên mới có câu “Dạy cho con tiếng nói thật thà”); rằng sự du nhập của những chủ thuyết Tây – Tàu là “lai căn”, và những kẻ du nhập đó là “một bọn lai căn”; rằng bọn lai căn đó đã làm cho “ruộng đồng khô khan” và “nhà cháy từng ngàn”, hay nói chung là “một nước Việt buồn”. Nhà cầm quyền có thể đồng ý hay không đồng ý với cảm nhận của ông ấy, nhưng ông ấy có quyền viết ra những cảm nhận đó, và giới trẻ có quyền biết được thế hệ cha anh nghĩ gì về cuộc chiến.
Riêng cá nhân tôi thì đồng ý với Trịnh Công Sơn về những ý tưởng trong ca khúc “Gia tài của mẹ”. Hãy nhìn vào cái gia tài đó sau cuộc chiến: lòng người li tán; một nhóm thiểu số ăn trên ngồi trốc xem người dân chẳng ra gì; sự thật lịch sử bị biến dạng; công lí là một điều xa xỉ; tài nguyên để lại cho con cháu đời sau thì càng ngày càng cạn kiệt; và người Việt vẫn bỏ nước ra đi và chết thảm. Với hiện trạng đó, nếu không gọi một “nước Việt buồn” thì gọi là gì? Trịnh Công Sơn đã đúng.
_____
[1] http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12753&rb=0206#anm1
Dĩ nhiên ở đây tôi chỉ bàn về ca khúc “Gia tài của mẹ” thôi. Tôi biết rằng sau 1975, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tỏ ra thân thiện với nhà cầm quyền qua những bài viết và phát biểu. Chẳng hạn như vào ngày 30/4/1975, Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh Sài Gòn phát biểu những lời hơi khó nghe:
“Hôm nay tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam, các bạn trẻ và Chính phủ Cách mạng lâm thời xem những kẻ ra đi là những kẻ phản bội đất nước. Chính phủ Cách mạng lâm thời đến đây với thái độ hòa giải, tốt đẹp. Chúng ta không có lý do gì để sợ hãi mà ra đi cả. Đây là cơ hội duy nhất và đẹp đẽ nhất để đất nước Việt Nam được thống nhất và độc lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước suốt mấy chục năm nay. Tôi xin tất cả các bạn, thân hữu và cũng như những người chưa quen của tôi xin ở lại và kết hợp chặt chẽ với Ủy ban Cách mạng lâm thời để góp tiếng nói xây dựng miền Nam Việt Nam này.”
Câu nói đó của TCS đã làm cho những người vượt biển rất giận dữ và không tha thứ. Họ giận đến nổi những chương trình ca nhạc vinh danh ông ở Mĩ và Úc đều bị biểu tình phản đối (nhưng vẫn diễn ra).
Ngay cả nhiều bạn tôi, tuy không phải là trong quân đội VNCH, nhưng vẫn không chấp nhận thái độ của TCS. Thỉnh thoảng tôi cũng bị phiền phức hay gây ra tranh cãi trong nhóm bạn bè khi tôi tỏ ý hâm mộ TCS!