Các bạn đang làm trong lãnh vực cơ xương? Các bạn đang tìm đề tài “không đụng hàng” cho nghiên cứu khoa học? Các bạn muốn tìm hiểu về công nghệ dual-energy X-ray absorptiometry (DXA)? Chúng tôi hân hạnh thông báo một lớp học CME chủ đề “DXA và Sức Khỏe Xương” sẽ được diễn ra ở ĐHYK Phạm Ngọc Thạch vào ngày 21/9-22/9/2022.
Máy DXA đời mới
Bối cảnh
Loãng xương là một bệnh lí có nguyên nhân từ sự suy giảm của mật độ xương và suy thoái cấu trúc xương. Chẩn đoán loãng xương dựa vào giá trị của mật độ xương (BMD) được đo bằng máy DXA (dual-energy X-ray absorptiometry). Thông thường, người phụ trách đo BMD phải có chứng chỉ của hiệp hội International Society for Clinical Densitometry (ICSD).
Nhưng ở Việt Nam, tuyệt đại đa số bác sĩ và kĩ thuật viên phụ trách DXA đều không qua đào tạo ICSD. Do đó, các bác sĩ và kĩ thuật viên thiếu kiến thức và kĩ năng về nguyên lí vận hành của máy DXA, nên việc đo lường BMD không được chính xác hay diễn giải không đúng.
Ngoài ra, nhiều bệnh viện và trung tâm chưa sử dụng hết công năng của máy DXA cho việc chẩn đoán béo phì và gãy xương. Đa số chỉ sử dụng DXA đo BMD mà không có thêm ứng dụng nào khác.
Ứng dụng DXA cho nghiên cứu béo phì và tim mạch
Mục tiêu
Do đó, Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch tổ chức một lớp học CME chuyên đề “DXA và sức khoẻ xương: từ căn bản đến nghiên cứu khoa học.” Mục tiêu chung của chương trình CME này là cung cấp kiến thức và kĩ năng căn bản DXA, diễn giải kết quả đo lường BMD và thành phần cơ thể. Sau khi xong chương trình CME, học viên sẽ:
Hiểu về nguyên lí của máy DXA;
Hiểu ý nghĩa của khái niệm “bone mineral density” là gì;
Hiểu ý nghĩa của chỉ số T và chỉ số Z, và chẩn đoán loãng xương chính xác;
Sử dụng máy DXA để đo thành phần cơ thể (lượng cơ và lượng mỡ);
Sử dụng máy DXA để đánh giá nguy cơ gãy xương;
Sử dụng DXA để đánh giá trabecular bone score (TBS).
Học viên
Chương trình CME được thiết kế cho các học viên là bác sĩ, chuyên gia về chẩn đoán hình ảnh, kĩ thuật viên, và sinh viên y năm cuối.
Chứng chỉ CME sẽ do Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch cấp.
Thời gian
Ngày 21 – 22/9/2022
Địa điểm
Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
2 Dương Quang Trung
Phường 12, Quận 10, TPHCM
Liên lạc ghi danh
Nguyễn Phạm Phương, ĐT 097-695-7670
Email: phongqlkh.ttncys@pnt.edu.vn
Học phí 2 triệu đồng.
Chương trình ngày 21/9/2022
Bài giảng 1: Giới thiệu về nguyên lí của dual-energy X-ray absorptiometry (KS Nguyễn Huy Đạt và Nguyễn Phước Quang Tuấn)
Bài giảng 2: Kĩ thuật đo lường mật độ xương (BS Mai Duy Linh)
Bài giảng 3: Chỉ số T và chỉ số Z (GS Nguyễn Văn Tuấn)
Bài giảng 4: Đánh giá sự thay đổi mật độ xương (GS Nguyễn Văn Tuấn)
Bài giảng 5: Sử dụng VFA để đánh giá nguy cơ gãy xương (BS Hồ Phạm Thục Lan)
Bài giảng 6: Đo lường thành phần cơ thể (BS Hồ Phạm Thục Lan)
Nguyễn Hưng Quốc là một nhà phê bình văn học xuất sắc ở hải ngoại. Mới đây, anh cho xuất bản cuốn hồi kí nhan đề “Sống và Viết ở Hải Ngoại” với nhiều ‘tiết lộ’ mang tính chứng từ của một thời, kể cả tiết lộ về chuyện anh không được về Viêt Nam. Cái note này muốn giới thiệu cuốn hồi kí đến các bạn.
Vào cuối thập niên 1980s, Nguyễn Hưng Quốc (tên thật là Nguyễn Ngọc Tuấn) xuất hiện trên văn đàn hải ngoại một cách sáng chói vì anh đem lại một luồng gió mới trong phê bình văn học. Những ai đã chán với cách phê bình văn học theo cảm tính về một tác phẩm, nhiều sáo ngữ về bối cảnh, và nghiêng về những câu chuyện cá nhân, đột nhiên tìm thấy một cách phê bình văn học mới mẻ, có phương pháp luận rõ ràng, có khoa học tính, và có khi cả định lượng. Trước đây, đã có một nhà phê bình nổi tiếng là Đặng Tiến ở Pháp, nay văn đàn hải ngoại có thêm một Nguyễn Hưng Quốc. Nhà văn Võ Phiến cho rằng “Người xứ An Nam ta chưa có nhà lí luận văn học nào mà viết đẹp như Nguyễn Ngọc Tuấn. Nhiều đoạn đọc mà mê.” Quả đúng như vậy.
Nhưng trong thế giới khoa bảng, Nguyễn Ngọc Tuấn còn là một nhà nghiên cứu và giảng viên môn Việt Học tại Đại học Victoria (Úc) và có nhiều đóng góp đáng kể cho việc duy trì môn Việt Học ở Úc. Anh từng được Hội đồng Nghiên Cứu Khoa học Úc (ARC: Australian Research Council) cấp tài trợ cho nghiên cứu về tiếng Việt và văn học Việt. Cần nói thêm rằng ARC chỉ tài trợ cho những nhà nghiên cứu có hạng và có tiềm năng. Sự thành công trong việc được ARC tài trợ là một minh chứng về khả năng học thuật của Nguyễn Hưng Quốc.
Cho đến nay, Nguyễn Hưng Quốc đã xuất bản khoảng 20 cuốn sách, kể cả sách tiếng Anh. Có thể nói cuốn nào của anh ấy tôi đều đọc và rất thích. Những cuốn mà tôi rất tâm đắc (như Thơ, v.v… và v.v…, Văn học Việt Nam dưới chế độ cộng sản), và từng có bài giới thiệu (nhưSống với chữ). Theo tôi biết cuốn “Văn học Việt Nam dưới chế độ cộng sản” — tuy cái tựa đề mang tính ‘dữ dội’ nhưng thật ra là một tổng quan rất công phu và tuyệt vời — được các nhà văn và nhà nghiên cứu văn học trong nước rất thích.
Nhưng đằng sau những thành tựu đó là một hành trình gian nan của người tị nạn, một con người yêu quê hương và đầy trăn trở. Những đoạn đường sự nghiệp và trăn trở đó được tác giả chắt chiu thành một cuốn hồi kí “Sống và Viết ở Hải Ngoại“. Tác giả viết về con đường vào văn học mà tác giả gọi là “lộc văn”, dạy học, những bạn văn, chuyện bị cấm nhập cảnh Việt Nam, và kết thúc bằng chương viết về “vấn đề bản sắc của người cầm bút lưu vong.” Chương nào cũng cuồn cuộn thông tin được chuyển tải bằng một văn phong sắc bén và gãy gọn.
Lộc văn
Nguyễn Hưng Quốc là một bút danh, và chữ ‘Hưng Quốc’ đã từng làm cho nhiều người lầm tưởng là tác giả có một chủ trương chánh trị, nhưng không phải. Thật ra, Nguyễn Hưng là một dòng họ ở Quảng Nam, còn “Quốc” thì chỉ là một ý nghĩ tình cờ này sinh khi còn ở Pháp. Nguyễn Ngọc Tuấn, sanh ra và lớn lên ở Quảng Nam, quê hương của những nhân vật lịch sử như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi, Phân Châu Trinh, v.v.
Nguyễn Hưng Quốc cho biết anh có “lộc văn” đầu đời từ quãng thời gian theo học đại học ở Sài Gòn. Tốt nghiệp từ Đại học Sư phạm TPHCM vào cuối thập niên 1970s với hạng xuất sắc qua một bài luận văn về tư tưởng yêu nước, và được Gs Lê Trí Viễn ưu ái cho ở lại đại học làm cán bộ giảng dạy.
Nhưng thập niên 1970s, 1980s là thời của chủ nghĩa lí lịch, mà theo đó những người có liên quan với chế độ VNCH không thể tiến thân, thậm chí không thể vào học đại học. Do đó, nhiều người đã chọn con đường vượt biên. Gs Mai Quốc Liên từng khuyên chàng sinh viên Nguyễn Ngọc Tuấn rằng “Cậu ráng tìm đường đi vượt biên đi. Với lí lịch cậu bây giờ, chế độ này sẽ không sử dụng cậu đâu. Như vậy thì phí tài của cậu“. Có lẽ nghe theo lời khuyên đó, Nguyễn Hưng Quốc đã tìm đường vượt biên.
Giữa tháng 6 năm 1985, anh đến Pulau Laut, Nam Dương. Anh được Pháp nhận cho đi định cư, và tháng 11/1985 thì anh tới Pháp bắt đầu hành trình của một người tị nạn. Ở Pháp, sau một thời gian làm phụ bếp (giống tôi), anh lại hưởng một lộc văn khác: làm việc cho tạp chí Quê Mẹ của Thi Vũ Võ Văn Ái. Khi đã ổn định cuộc sống một chút, cũng nhờ “lộc văn” mà anh đã thành công trong việc bảo lãnh vợ con từ Việt Nam sang Pháp định cư.
Lộc văn của anh ấy còn tiếp tục khi sang Úc. Qua sự bảo trợ Ts Nguyễn Xuân Thu, lúc đó là một giảng viên Việt học ở Úc, Nguyễn Hưng Quốc được sang Úc định cư vào đầu năm 1991. Ở Úc, cũng nhờ tài viết văn và những cuốn sách phê bình văn học anh viết ở Pháp, nên được nhận vào vừa giảng dạy tiếng Việt vừa theo học tiến sĩ mà không qua chương trình cao học (masters).
Trong sách, Nguyễn Hưng Quốc tiết lộ một thông tin thú vị là vào năm 1992, tổ chức của Hoàng Cơ Minh từng quyết định trao giải thưởng cho anh, nhưng anh từ chối vì không muốn dính dáng vào các tổ chức chánh trị.
Phê bình văn học
Nguyễn Hưng Quốc bắt đầu viết về văn học trong thời gian làm việc cho tạp chí Quê Mẹ ở Pháp. Những bài viết đó sau này được tập hợp và in thành một cuốn sách “Tìm hiểu nghệ thuật thơ Việt Nam” gây tiếng vang. Nhà văn Mai Thảo từng nhận xét rằng: “Bình luận về thơ ở ngoài nước hiện giờ chúng ta có một tài viết thông minh và xuất sắc: đó là Nguyễn Hưng Quốc”.
Tại sao Mai Thảo viết như vậy? Tại vì Nguyễn Hưng Quốc đem lại một cách phê bình mới mang tính khoa học hơn trước đây. Trước đây, Nguyễn Hưng Quốc phát hiện rằng văn học Việt Nam thường được nhận xét qua 3 hình thức: (i) phê bình một tác giả; (ii) phê bình một tác phẩm; và (iii) tổng kết một giai đoạn. Đọc những bài phê bình như thế thì thấy văn chương bay bổng, nhưng hình như nội dung thì có vẻ ‘định tính’, chủ quan. Đào sâu thêm quá trình hình thành văn học Việt Nam, Nguyễn Hưng Quốc nhận ra 5 đặc điểm nổi bật:
tính chất truyền khẩu;
tính chất thực dụng;
tính chất phản trí thức;
tính chất nghiệp dư; và
tính chất thuộc địa.
Những nhận định trên được đúc kết trong tác phẩm “Văn học Việt Nam từ điểm h(ậu h)iện đại“. Cuốn sách này gây ra vài tranh cãi vì những cái nhìn mới mẻ mà những người bảo thủ hay những người thiên về ‘nguyên trạng’ khó có thể cảm nhận được.
Nguyễn Hưng Quốc là một nhà phê bình văn học có khả năng khuấy động không khí văn học ở hải ngoại và không ngại xông vào những trận bút chiến. Một trong những ‘ồn ào’ mà tôi từng theo dõi và thích thú là những tranh luận chung quanh bài thơ Con Cóc. Ai trong chúng ta cũng biết đó là một bài thơ dở, dở đến độ thầy cô hay lấy bài thơ ra để minh hoạ cho cái dở. Thế nhưng chỉ có Nguyễn Hưng Quốc lí luận rằng đó là một bài thơ hay! Mà, lí luận dễ hiểu chứ chẳng có gì quá siêu hình và trừu tượng. Bài viết của Nguyễn Hưng Quốc làm cho một số nhà phê bình trong nước như Đỗ Minh Tuấn và Đinh Bá Anh, cùng các cây viết ở hải ngoại như Đặng Tiến, Phạm Thị Hoài, Bùi Vĩnh Phúc, và Thuỵ Khuê tham gia tranh luận.
Bạn văn
Trong chương viết về bạn văn, bạn đọc sẽ được dịp biết qua các nhà văn nổi tiếng ở trong nước và hải ngoại. Tác giả thuật lại những kỉ niệm nho nhỏ với các ‘văn nhân’ trong nước như Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến, Phạm Xuân Nguyên (người mà anh xem là thân nhứt), v.v. Có chuyện vui vui là khi Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp vẽ tặng tác giả, ông chỉ ghi là “tặng Nguyễn Ngọc Tuấn” mà không dám dùng bút danh “Nguyễn Hưng Quốc”!
Ở hải ngoại, tác giả quen với những nhà văn nổi tiếng, trong đó có Võ Phiến, Nguyễn Xuân Hoàng, Mai Thảo (chủ bút tạp chí Văn), và Nguyễn Mộng Giác (chủ bút tạp chí Văn học). Mai Thảo là một văn tài nhưng khi qua Mĩ ông sống một cuộc sống nghèo nàn và cô đơn. Tuy nghèo, nhưng Mai Thảo lại rất hào hiệp với bạn bè, và bạn văn của ông thì không khi nào thiếu. Và, trong căn phòng nhỏ mà ông ở đó cũng chính là ‘văn phòng’ của tạp chí Văn lừng danh một thời. Đọc những trang viết về Mai Thảo tôi mới biết bút danh Mai Thảo đến từ đâu:
“Sở dĩ tôi lấy bút hiệu Mai thảo là vì hồi nhỏ, khi đi học, ở trong trường, tôi có một thằng bạn làm thơ với bút hiệu Mai Luân. Thơ cũng vừa thôi, nhưng hồi đó, chẳng hiểu tại sao, tôi mê thơ hắn lạ lùng. Coi hắn như thần tượng. Nên mới đặt cho mình bút hiệu Mai Thảo. Cùng là Mai cả. Mai Luân. Mai Thảo. Năm đó, tôi khoảng mười lăm tuổi”.
Võ Phiến là một văn tài mà Nguyễn Hưng Quốc rất ngưỡng mộ. Anh ấy viết đến 2 cuốn sách về Võ Phiến (Võ Phiến, Nxb Văn Nghệ 1996; Thư Võ Phiến, Người Việt 2015). Võ Phiến là người từng theo Việt Minh nhưng sau này ‘dinh tê’, rồi trở thành một nhà văn lừng danh ở miền Nam. Nhưng chẳng hiểu sao sau 1975 nhà cầm quyền mới xem Võ Phiến là một ‘biệt kích văn nghệ’. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây nhà cầm quyền trong nước cho in lại một số tác phẩm của ông. Trong một lần gặp Võ Phiến ở California (lúc đó ông đã cao tuổi), ông hỏi Nguyễn Hưng Quốc:
“Anh nghĩ bây giờ ở trong nước người ta có đọc tôi không, hả anh?“
Nguyễn Hưng Quốc đáp: “Có chứ. Một cuốn sách của bác mới được in lại ở trong nước, được nhiều người đọc là khen lắm“.
Ông tặc lưỡi “Lạ nhỉ! Không ngờ người ta lại cho in lại sách của tôi.”
Cấm nhập cảnh Việt Nam
Bấy lâu nay, cộng đồng người Việt ở nước ngoài đồn đại rằng Nguyễn Hưng Quốc không được nhà cầm quyền cho nhập cảnh Việt Nam. Tuy nhiên, ít ai biết được câu chuyện đằng sau là như thế nào. Hai chương cuối của cuốn sách này là một tường thuật về diễn biến của sự việc.
Ngày 19/11/2005, Nguyễn Hưng Quốc dẫn một nhóm sinh viên của Đại học Victoria (Úc) về Việt Nam để làm một chuyến du khảo (study tour). Các sinh viên thì được nhập cảnh, nhưng riêng Nguyễn Hưng Quốc thì gặp trở ngại. Anh được một viên chức an ninh dẫn vào phòng chờ và được thông báo là Nhà nước Việt Nam không chào đón anh tới Việt Nam. Xin trích đoạn đối thoại giữa viên công an ở phi trường Tân Sơn Nhứt và Nguyễn Hưng Quốc:
“‘Anh tên Nguyễn Ngọc Tuấn hay Nguyễn Tuấn Ngọc?’
‘Nguyễn Ngọc Tuấn.’
‘Anh sinh ở đâu?’
‘Quảng Nam.’
‘Anh dạy đại học ở Úc, phải không?’
‘Vâng.’
‘Anh đến Việt Nam có chuyện gì không?’
‘Tôi dẫn một đoàn sinh viên Úc về Việt Nam tham quan và học tiếng Việt.’
‘Đoàn sinh viên Úc có bao nhiêu người?’
’14 người, nhưng ở đây với tôi chỉ có 11 người. Một người đã đến Hà Nội và hai người sẽ bay từ Bangkok đến Hà Nội tối nay.’
‘Xin anh chờ một lát.’
[…]
‘Tôi xin thông báo với anh biết là chúng tôi được lệnh không cho anh nhập cảnh vào Việt Nam.’
Tôi sửng sốt: ‘Cái gì? Tôi không được vào Việt Nam?’
‘Nhưng tại sao tôi không được nhập cảnh vào Việt Nam?’
‘Tôi không được biết. Tôi chỉ làm theo lệnh từ Bộ Công An’.
‘Nhưng ít ra Bộ Công An phải cho biết lí do chứ.’
‘Chúng tôi không được quyền biết. Chúng tôi chỉ là cấp thừa hành’.”
(Hết trích).
Bốn năm sau (2009), Nguyễn Hưng Quốc được Đại sứ quán Việt Nam tại Úc cấp visa để anh về Việt Nam tham dự một hội nghị về văn học ở Hà Nội. Với visa, anh ấy lại lên đường đi Việt Nam, và nghĩ lần này thì chắc sẽ hanh thông. Nhưng anh đã sai, vì lần này anh lại gặp trở ngại tại phi trường Nội Bài. Xin trích lời tác giả mô tả:
“[…] ‘Chuyện gì xảy ra cho việc nhập cảnh của tôi?’ Lê Thao [nhân viên hãng hàng không Thai Airways] đáp: ‘Em là đại diện của hãng hàng không Thái Lan. Em được công an cho biết là phải lo vé cho anh trở lại Bangkok.’
Tôi ngạc nhiên ‘Nhưng tôi có visa vào Việt Nam mà.’ Lúc ấy một trong 4-5 tên công an đứng chung quanh mới lên tiếng: ‘Nhưng nhà nước Việt Nam không hoan nghênh anh vào Việt Nam.’
Tôi lặp lại câu vừa rồi: ‘Nhưng tôi đã được toà đại sứ Việt Nam tại Úc cấp visa nhập cảnh Việt Nam rồi mà.’ Viên công an ấy lại đáp: ‘Nhưng nhà nước Việt Nam không hoan nghênh anh vào Việt Nam.’
Tôi ngạc nhiên thật sự: ‘Nếu vậy sao Toà đại sứ Việt Nam tại Úc lại cấp visa cho tôi?’ Viên công an ấy đáp: ‘Chuyện ấy thì anh về hỏi lại Toà đại sứ ở Úc’.”
Kể từ đó đến nay (2022) đã 13 năm, Nguyễn Hưng Quốc không về lại Việt Nam. Và, có lẽ anh cũng không có dự tính về quê nhà, và anh là một cây bút lưu vong thật sự.
Không được về Việt Nam, nhưng tác giả lúc nào cũng trăn trở về quê hương và quan tâm đến những diễn biến thời cuộc ở trong nước. Anh tự xem mình là một nhà văn lưu vong và cô đơn. Anh nhận định rằng những cây viết như anh ở nước ngoài chỉ là những ‘người đứng bên lề’ đối với những sinh hoạt văn học ở trong nước, và anh đi đến kết luận “Không có ai cô đơn cho bằng nhà văn lưu vong.“
Tuy nhiên, Nguyễn Hưng Quốc vẫn cầm bút, vẫn viết bằng tiếng Việt, và vẫn giãi bày những nỗi niềm của mình trước những biến động của thời cuộc:
“Phần tôi, mặc dù sống ở ngoại quốc đã gần 40 năm, vẫn chủ yếu viết bằng tiếng Việt. Tiếng Việt là quê hương của tôi. Các thứ tiếng khác chỉ là những cõi lưu đày, ở đó, tôi không có quá khứ, cũng không có họ hàng. Tiếng Việt còn là thân thể của tôi. Khác với tất cả các ngôn ngữ khác mà tôi biết, cảm xúc của tôi đối với tiếng Việt, và chỉ với tiếng Việt, là những cảm giác mang tính vật lý, thậm chí, nhục thể để tôi có thể run lên với chữ, phập phồng thở với từng thanh bằng thanh trắc. Viết tiếng Việt, với tôi, là tham gia vào một cuộc giao hoan. Lặng lẽ và cô độc.”
_____
TB: Sống và Viết ở Hải Ngoại, do Lotus Media xuất bản 2022, phát hành toàn cầu trên Amazon.com
LGT: Tiếp theo bài viết về Phạm Duy, Nhà văn Ngô Thế Vinh mới công bố một bài viết chân dung của Tiến sĩ Eric Henry, có thể xem là một nhà ‘Phạm Duy Học’. Ông từng là một cựu quân nhân Mĩ ở Việt Nam trong thời chiến, và qua đó mà tiếp xúc với âm nhạc Việt Nam. Ông là một người ngoại quốc hiếm hoi có những nghiên cứu có hệ thống và có những nhận định sâu sắc về nhạc Việt Nam và đặc biệt là nhạc Phạm Duy. Một trong những nhận xét của ông mà tôi rất tâm đắc là nhạc Việt Nam thường thiên về thương nhớ thời đã qua (hay nói theo tiếng Anh là nostalgia). Tiến sĩ Henry là người đã nghiên cứu về nhạc Phạm Duy rất kĩ và đã dịch bộ hồi kí Phạm Duy (hàng ngàn trang) sang tiếng Anh. Như là một cách tri ân, Nhà văn Ngô Thế Vinh đã soạn một bài viết công phu về Eric Henry mà tôi tin rằng bạn đọc sẽ tìm thấy nhiều thông tin có giá trị. NVT
_____
Việt Nam — Những Ngày Trở Lại của Cựu Chiến Binh Eric Henry
NGÔ THẾ VINH
Lời Dẫn Nhập: Bài viết về TS Eric Henry với dự kiến ban đầu kết hợp với Chân Dung Phạm Duy. Nhưng rồi, riêng phần Phạm Duy đã dài tới ngót 50 trang giấy, nên Chân Dung Eric Henry phải tách ra một bài khác, vẫn mong bạn đọc có cái nhìn kết hợp hai chân dung do tính bổ sung của hai nhân vật Phạm Duy và Eric Henry trên chặng đường tìm hiểu nền Tân nhạc Việt Nam cùng với các bước gian truân để hình thành và xuất bản bộ Hồi Ký tiếng Anh TheMemoirs of Phạm Duy, dự trù sẽ do Cornell University Press xuất bản. Tưởng cũng cần nói thêm,Thư viện Đại Học Cornell là nơi còn lưu trữ đầy đủ nhất di sản 20 năm Văn học Miền Nam 1954-1975, và “ngọn lửa phần thư” của những người Cộng sản Việt Nam muốn tận diệt nền văn hóa ấy đã không sao lan tới được.
Hình 1: Chân dung TS Eric Henry, ảnh trích từ Jacket cuốn Garden of Eloquence / Thuyết Uyển, của Lưu Hướng, do Eric Henry dịch và giới thiệu, University of Washington Press xuất bản 2021. [nguồn: photo by Nguyễn Phong Quang]
ERIC HENRY VÀ TÔI
Lần đầu tiên tôi gặp TS Eric Henry, cách đây 5 năm (2017), và ngạc nhiên khi biết Eric – là một cựu chiến binh Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam, nhưng lại rất “ít chất lính”. Bước vào lứa tuổi 20, tới hạn quân dịch Eric quyết định đơn giản: nhập ngũ làm bổn phận một công dân, sau đó trở về đi học lại. Ngay trong thời gian quân ngũ, Eric vẫn rất ham đọc, và đã có được một số hiểu biết về nền văn hóa Đông phương, đặc biệt là Việt Nam và Trung Hoa. Eric có năng khiếu về ngôn ngữ, nói tiếng Việt khá thông thạo và tinh tế, không có âm hưởng thứ tiếng Việt tục tằn của mấy chú GI’s học được từ các quán bars trong thời gian phục vụ ở Việt Nam. Tới một đất nước chiến tranh lại có nhiều tôn giáo như ở Việt Nam, Eric cũng đã học được cách trả lời dí dỏm và an toàn cho mấy câu hỏi dễ phân cách lòng người, như “Anh theo đạo gì?” — “Tôi theo đạo vợ”, và đạo vợ mặc nhiên được công nhận như một thứ đạo phổ quát cho đám đàn ông lính tráng lúc đó, cho dù khi sang Việt Nam, Eric vẫn đang còn là một thanh niên độc thân.
Khi biết tôi cũng là người cầm bút, mới vỡ lẽ ra Eric đã đọc cuốn tiểu thuyết Vòng Đai Xanh, từ một ấn bản tiếng Việt do Nxb Văn Nghệ California tái bản năm 1987. Eric cho biết vẫn giữ cuốn sách đó trên kệ sách và anh cũng rất quan tâm tới người Thượng trên Cao nguyên. Do “văn kỳ thanh”, chúng tôi đã dễ dàng nói chuyện với nhau hơn.
Eric Henry cho biết anh mê nhạc Phạm Duy, đã thích thú đọc và dịch xong toàn bộ Hồi Ký 4 tập dài hơn 1500 trang của Phạm Duy trong vòng hơn một năm. Bản dịch ấy đã được Cornell University Press nhận xuất bản từ 2009, bốn năm trước ngày Phạm Duy mất nhưng cho đến nay cũng đã 13 năm (2009-2022) cuốn sách ấy vẫn còn ở dạng bản thảo.
Hình 2a:trái, Eric Henry, 27 tuổi, sau khi hoàn tất khóa học tiếng Việt 12 tháng tập trung / intensive tại Defense Language Institute, Fort Bliss, El Paso, Texas. Eric được gửi sang Việt Nam phục vụ trong ngành quân báo Sư Đoàn 25 Kỵ binh (25th Infantry Division) đóng ở Củ Chi. Hình chụp năm 1970, Eric bảo: “Thuở ấy tôi nói được tiếng Việt nhưng chưa bắt đầu học tiếng Tàu”; phải, Ngô Thế Vinh, 28 tuổi là quân y sĩ quân lực VNCH, hình chụp năm 1969, sau khi tốt nghiệp khóa huấn luyện Lực Lượng Đặc Biệt và Nhảy Dù tại Động Ba Thìn, gia nhập binh chủng Mũ Xanh LLĐB (Green Beret / Special Forces), sau này là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù.Hình 2b:42 năm sau chiến tranh Việt Nam, cựu chiến binh Hoa Kỳ Eric Henry nay là một học giả và cựu chiến binh VNCH Ngô Thế Vinh nay là một bác sĩ trong một VA Hospital, cả hai đều bước qua ngưỡng tuổi “cổ lai hy” gặp nhau ở Huntington Beach, California, nhân chuyến đi của Eric sang gặp những người con trong gia đình Phạm Duy – để thảo luận về một hợp đồng với Cornell University Press tiến tới xuất bản bộ sách The Memoirs of Phạm Duy, một dự án mà Phạm Duy khi còn sống đã rất ao ước nhưng chưa thực hiện được cho đến ngày Phạm Duy mất (27/01/2013). [photo by Phạm Lệ Hương, tư liệu Ngô Thế Vinh]Hình 3: Tiếp đón anh Eric Henry tại nhà chị Phạm Lệ Hương, Huntington Beach California, từ trái: Ngô Thế Vinh, Nguyễn Duy Chính, Phạm Phú Minh, Eric Henry, Bùi Bích Hà, Trần Huy Bích; phải: Eric Henry đang ngắm bức tranh Mẹ và Con của họa sĩ Lemur. (photo by Phạm Lệ Hương và Ngô Thế Vinh).
ERIC HENRY NĂM NĂM SAU
Mới đây năm 2022, khi vào thư mục của Cornell University Press tìm mua bản tiếng Anh bộ Hồi Ký Phạm Duy để tặng một người bạn Mỹ vốn rất quan tâm tới văn hóa Việt Nam, nhưng không thấy, tôi liên lạc với Eric và được biết cuốn sách vẫn chưa xuất bản, với lý do là sau khi Phạm Duy mất, không có di chúc chỉ định quyền thừa kế cho riêng một người con nào, nên cho đến nay, vì chưa có sự đồng thuận của tất cả 7 người con trong gia đình Phạm Duy, Cornell University Press vẫn chưa thể xuất bản bộ Hồi Ký The Memoirs of Phạm Duy.
Và tiếp theo đó là một chuỗi emails trao đổi với Eric Henry cho thấy những bước gian truân của Eric với bộ Hồi Ký Phạm Duy, và tôi có hứa với Eric sẽ làm những gì có thể làm được trong khả năng để bộ Hồi Ký The Memoirs of Phạm Duy có thể sớm ra mắt.
NỀN TÂN NHẠC VIỆT NAM VÀ ERIC HENRY
Hình 4: Hình chụp Nhạc sĩ Phạm Duy và Tiến sĩ Eric Henry trong quán cà phê Nirvana / Niết Bàn, 29 đường Phùng Khắc Khoan, phường Đa Kao, quận 1, Saigon; với ghi chú của Eric: “Buổi sáng 9 tháng 7, năm 2005 — tôi đến Nirvana để gặp một nhà báo làm việc cho tạp chí Người Viễn Xứ, cô Quỳnh Lệ nói là muốn phỏng vấn tôi. Khi bác Phạm Duy được biết là tôi sẽ đi đến đó thì ngay lập tức tình nguyện tháp tùng để giúp tôi trả đáp những câu hỏi của cô Lệ”. [photo by Quỳnh Lệ, tư liệu Eric Henry]
Đó là tháng Bảy năm 2005, chỉ mới hai tháng sau “ngày về của Phạm Duy”, khi trả lời một câu hỏi của phóng viên Quỳnh Lệ: Giáo sư nhận xét và đánh giá thế nào về nền âm nhạc Việt Nam? Eric Henry đã đưa ra một nhận định khá bất ngờ và thú vị:
“Nhạc Việt Nam nói chung nhiều chất “mineur”[âm giai thứ, ghi chú của người viết]. Nội dung phần lớn xoay quanh 3 đề tài chính, đó là thương nhớ đến một quê hương đã xa xôi, thương nhớ một cuộc tình đã qua, mong muốn được trở về một khoảng thời gian trong quá khứ mà mình yêu quý –– thường là thời thơ ấu. Cả 3 đề tài đó hầu hết đều mang tâm trạng tiếc nuối, buồn đau. Khác hẳn với nhạc Trung Quốc, phần lớn là vui tươi, rộn ràng, có câu cú ngắn gọn và mang tính đối xứng – symmetry – 4 câu, 8 câu. Bài hát Tây phương cũng thường có từng 8 ô nhịp, 16 ô nhịp. Bài hát Việt Nam phong phú về tiết điệu và câu cú hơn, cách tổ chức mỗi câu nhạc thường không rập khuôn. Tôi thích nhạc Việt Nam và thích những nhạc sĩ sáng tác những ca khúc có những câu nhạc không đều. Đó như là một sự khám phá cái mới.” [5]
Trịnh Y Thư — anh bạn vong niên của tôi, một nhà thơ, một nhà văn, một tay đàn guitar classic có hạng, một dịch giả uy tín qua các tác phẩm cổ điển, anh nổi tiếng ngay với tác phẩm Đời nhẹ khôn kham(The Unbearable Lightness of Being), cuốn tiểu thuyết khó dịch của nhà văn Pháp gốc Tiệp Milan Kundera, tạp chí Văn Học xuất bản, 2002 — anh cũng là người viết Lời Tựa cho Tuyển Tập Chân Dung II Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa (2022), Trịnh Y Thư đã rất tâm đắc với nhận xét của TS Eric Henry về nền tân nhạc Việt Nam. Trịnh Y Thư viết:
Thưa anh Ngô Thế Vinh, ý kiến của Giáo sư Henry là rất chính xác. Nhạc Việt nói chung mang nhiều tính hoài niệm (nostalgia), và có lẽ đó là tính cách chung của người Việt, luôn luôn thương nhớ cái gì thuộc về quá khứ, một quá khứ đôi khi được chắt lọc qua một lăng kính. Do đó, âm nhạc nặng tính trữ tình, không thực, vì phải vận dụng trí tưởng tượng nhiều. Nhạc ít nói về hiện thực, về đời sống thật ngoài đời, về tương quan giữa con người với con người hay giữa con người với thiên nhiên, ngoại cảnh. Giữa thời chiến tranh khốc liệt, nhạc nói về cuộc chiến có rất ít, chỉ có mấyca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn, và một vài bài phổ thơ của Phạm Duy là hết…
Về mặt kỹ thuật sáng tác, nhận định Giáo sư Henry đưa ra cũng rất đúng. Đa số nhạc sĩ Việt Nam sáng tác theo cảm quan trực cảm, ít ai triển khai một bài nhạc theo quy trình hàn lâm. Nhạc đi theo ca từ, đôi khi chỉ là phương tiện để diễn đạt ca từ. Vài trường hợp ngoại lệ là Cung Tiến, Vũ Thành… Điểm đặc biệt là nhạc Việt chú trọng phần nhiều đến giai điệu, bài nào có giai điệu hay, du dương, trữ tình, bài đó ăn khách. Đó là lý do nhạc Việt rất nghèo hòa âm, một khúc nhạc thường chỉ chuyển cung(modulation) 3, 4 lần là xong bài.
Tuy nhiên, theo quan điểm Giáo sư EricHenry, thì tất cả những điều trên lại là ưu điểm của nhạc Việt, bởi nó là sự lệch chuẩn, nó đi chệch ra ngoài những khuôn khổ (đôi khi rất khuôn sáo) thông thường…Trịnh Y Thư
Sau khi được đọc ý kiến của Trịnh Y Thư, Eric có thêm một bình luận cho rằng, “cách đánh giá của anh Trịnh Y Thư không gần với cách đánh giácủa tôi”. Eric viết như sau:
Cám ơn Anh Vinh đã cho tôi thấy những nhận xét về nền âm nhạc ViệtNam của anh Trịnh Y Thư. Phản ứng của tôi là mặc dầu anh ấy thấy các đặc tính của âm nhạc VN mà tôi đã đưa ra với cô Quỳnh Lệ không phải sai lầm, nhưng tôi vẫn thấy là cách đánh giá của anh ấy không gần gì với cách đánh giá của tôi—tại vì anh cho là những đặc tính ấy đều là khuyết điểm, còn tôi cho là ưu điểm!Tôi đã nghiên cứu không ít về các nền âm nhạc của những nhà nước Đông Á, Trung Quốc, Đại Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Phi Luật Tân lẽ dĩ nhiên có một số ca khúc tuyệt đẹp—nhưng vẫn không nhiều bằng nước ViệtNam—và bề sâu sắc cũng không bằng! Tôi có khi nói với người ta là người Việt là người Ý Đại Lợi của Viễn Đông!
Cũng vẫn Eric Henry, khi nói tới nhạc sĩ Phạm Duy thì anh rất say sưa. Eric nhận định:
“Ca khúc của Phạm Duy rất phong phú. Có thể chia làm nhiều thời kỳ khác nhau: thời kháng chiến, thời ở Nam bộ, thời hải ngoại.Riêng thời hải ngoại cũng có thể phân thành nhiều giai đoạn. Nhạc Phạm Duy không có những tiếc nuối đau buồn như phần đông các nhạc sĩ khác. Có khi cũng có khóc lóc nhưng không quá sầu não. Thường thường, ông ấy hay viết theo một lối nói như là kể chuyện. Chủ đề trong nhạc Phạm Duy rất đa dạng và nhiều sắc độ, gần như không có giới hạn nào cả. Ví dụ như với chủ đề Mẹ thì mỗi bài là một sắc thái, một yếu tố riêng biệt;như bài “Bà Mẹ Gio Linh”, “BàMẹ quê”…
Qua sự nghiên cứu của tôi, tôi thấy rằng nhạc Việt Nam là một môn học, mà trong đó nhạc Phạm Duy là một môn học nữa. Nói về số lượng tác phẩm, sự đa dạng và phẩm chất thì nhạc Phạm Duy chiếm tỉ trọng gần phân nửa. Do vậy, nếu như tác phẩm của ông không được phổ biến thì nền âm nhạc Việt Nam sẽ chịu một sự hụt hẫng nhất định nào đó.Tôi nghĩ ông ấy là một trong những người nghệ sĩ yêu nước. Mà phần đông những người Việt Nam sống ở nước ngoài cũng rất yêu nước.Nếu tính về lịch sử thì những người theo Quốc Dân Đảng cũng là người yêu nước, chứ không chỉ riêng Việt Minh. Những năm gần đây, Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách rất cởi mở thông thoáng đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Tôi nghĩ là chính quyền Việt Nam sẽ cho phép phổ biến các ca khúc hay của nhạc sĩ Phạm Duy.”[5]
Qua thực tế hiện nay, cũng để thấy rằng, Eric Henry không chỉ là quá lạc quan mà còn là lạc quan quá sớm khi cho rằng, “chính quyền Việt Nam sẽ cho phép phổ biến các ca khúc hay của nhạc sĩ Phạm Duy.” Qua bài viết này, tôi muốn nói với anh Eric Henry rằng: chỉ khi nào một đất nước Việt Nam bước vào thời kỳ dân chủ, có một nền văn nghệ tự do, thì lúc đó âm nhạc Phạm Duy mới có thể cất cánh và bay bổng.
BƯỚC GIAN TRUÂN CỦA ERIC HENRY
VỚI THE MEMOIRS OF PHẠM DUY
“Lịch sử của các nỗ lực của tôi để xuất bản sáchThe Memoirs of Phạm Duy, giống như lịch sử của chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô – là một đoạn lịch sử vô cùng dài và vô cùng phức tạp. Bắt đầu từ đâu để kể cho rõ rành đây?” [ trích dẫn email của TS Eric Henry, gửi Ngô Thế Vinh ngày 04/05/2022 ]
Eric Henry đã gặp nhạc sĩ Phạm Duy như thế nào?
Eric Henry kể: “Cuối mùa hè năm 2003, khi tôi đang đi thăm Tiểu Sài Gòn, gặp nhà báo Đỗ Ngọc Yến, chủ bút tờ báo Người Việt, đã giúp tôi làm quen với gia đình Phạm Duy.
Hình 5: trái, năm 1975, Phạm Duy gặp Đỗ Ngọc Yến trong những ngày đầu tỵ nạn tại Hoa Kỳ; từ trái, Đỗ Ngọc Yến, Thái Hằng, Đỗ Quý Toàn, Phạm Duy, Lê Tất Điều; phải, năm 2002, Đỗ Ngọc Yến, người sáng lập nhật báo Người Việt, tiếp Phạm Duy trong cuộc Hội luận về Nhạc Phạm Duy tại Little Saigon. Eric Henry kể, chính nhà báo Đỗ Ngọc Yến đã giúp tôi làm quen với gia đình Phạm Duy. [tư liệu Phạm Duy, và Phạm Phú Minh]
Lần đó Phạm Duy đang đi thăm Việt Nam (2003) chưa về, cho nên tôi chưa có cơ hội gặp ông, nhưng tôi đã làm quen với anh Phạm Duy Hùng, là con thứ ba của nhạc sĩ. Khi gặp nhau ở nhà cha tại Midway City, chúng tôi nói chuyện 2 tiếng đồng hồ về nhạc của người cha, và lần đó tôi cũng được biết là Duy Hùng là người đàn ghi-ta rất giỏi. Anh ấy mời tôi đưa ra nhan đề của bất cứ ca khúc nào của nhóm Beatles, và bảo đảm là anh sẽ trình diễn được trên ghi-ta. Vậy nên tôi đưa ra tên bài “Across the Universe” của John Lennon, và anh Hùng, không chút nào do dự, đã đàn và hát cho tôi nghe bài ấy một cách toàn vẹn lắm—không có âm nào đánh sai.
Năm tháng về sau, tức là tháng Giêng năm 2004, khi tôi đi Cali lần nữa, tôi mới được gặp Phạm Duy lần đầu tiên. Sau đó hai tháng, tôi đã gặp mặt với ông lần nữa, và sau hai tháng, tôi đã đề nghị với ông (bằng một bức thư gửi qua bưu cục) là tôi dịch Hồi Ký Phạm Duy sang tiếng Anh.
Bức thư là như thế này:
Thư gửi Nhạc sĩ Phạm Duy:
Kèm theo đây là ba chương mở đầu của Hồi Ký I dịch sang tiếng Anh—xin mời Ông coi thử. Tôi thấy rằng bốn quyển HồiKý của Ông là một tác phẩm có giá trị tối cao đối với bất cứ ai muốn hiểu thêm về Việt Nam trong thế kỷ vừa qua.
Nếu Ông thấy cách phiên dịch của tôi trong mấy chương này chấp nhận được, thì tôi sẽ tiếp tục làm, và sẽ đi tìm một nhà xuất bản để in ra về sau — tôi thấy là sự đồng ý của Ông sẽ giúp tôi nói chuyện với các nhà xuất bản — nhưng nếu Ông không muốn tôi làm công việc này — có lẽ Ông đã có người phiên dịch rồi, chẳng hạn — thì tôi sẽ ngừng tay ngay.
Tôi thấy việc phiên dịch dòng văn của Ông rất thích thú và không khó khăn lắm — nếu mỗi buổi tối tôi dành một tiếng đồng hồ cho công việc này thì trong vòng 3 đến 5 ngày tôi đều dịch xong một chương được, và khi nào gặp chỗ khó hiểu, thì tôi có thể đi tham khảo với một số người bên đây.Tiện đây, xin cho Ông biết là mùa hè này tôi sẽ ở ViệtNam với 10 sinh viên từ 13 tháng 6 đến 12 tháng 8—vị trí là “Nhà Khách Phạm Ngọc Thạch,” Saigon—và sau đó tôi sẽ có mặt ở quận Cam từ ngày 12 đến ngày 17, tháng 8.Hy vọng việc sáng tác Mười Bài Hương Ca đang tiến triển tốt đẹp, thuận lợi. Dư âm của mấy bài đó vẫn trong tai tôi.
PHẠM DUY: VÌ TÔI LÀ TARZAN
Mỗi lần tôi / Eric Henry gửi email đến ông / Phạm Duy để đặt ra vài câu hỏi đối với Hồi Ký, thì ông đều gửi hồi âm rất nhanh — có khi chỉ cần đợi một hai tiếng đồng hồ thôi. Có lần tôi đã gửi một số câu hỏi đến ông, và trên email đó nói là tôi biết rằng ông lúc ấy rất bận với việc tổ chức một cái show — cho nên tôi thấy là ông không cần trả lời nhanh — tôi chờ đợi được, không sao. Sau một hai tiếng, tôi nhận được thư hồi âm của ông. Trên đó ông nói, “Đúng như anh nói, tôi hiện giờ bận lắm, nhưng tôi vẫn trả lời nhanh được, tại vì tôi là… Tarzan!”. Sau đó, trên một bức thư khác của ông có câu: “Anh thấy không? Tarzan* vẫn đong đưa trong rừng!”
*Ghi chú của người viết: Tarzan là một nhân vật điện ảnh hư cấu, mô phỏng theo cuốn tiểu thuyết “Tarzan of the Apes” xuất bản 1912 của Edgar Rice Burroughs. Tarzan là câu chuyện một đứa trẻ hoang được đàn khỉ đột nuôi dưỡng và lớn lên trong rừng rậm Phi châu, sau trở thành một tráng sĩ dũng mãnh của rừng xanh; cho dù có được tiếp xúc với xã hội văn minh nhưng Tarzan vẫn chọn trở về với thiên nhiên hoang dã, vượt qua bao hiểm nguy, sống như người vượn tự do tung hoành trong rừng sâu. Tarzan đã từng là người hùng của nhiều thế hệ thiếu niên thế kỷ trước.
PHẠM DUY: ĐỂ TÔI NHẢY THEO
Khi mới bắt đầu làm quen với Phạm Duy, tôi – Eric Henry hứa với ông là sẽ làm hai việc: lời hứa thứ nhất là tôi sẽ làm trọn việc phiên dịch bốn quyển Hồi Ký của ông, lời hứa thứhai là sẽ tìm được một nhà xuất bản cho tác phẩm đó ở bên Mỹ.
Một năm sau tôi đã hoàn tất việc phiên dịch, và bốn năm sau đó tôi đã tìm được một nhà xuất bản, là Southeast Asian Publications của Đại Học Cornell – sau này là Cornell University Press. Rồi tôi trở về Việt Nam để làm một bộ chú thích với hơn 1,500 footnotes về những nhân vật và địa danh trong Hồi Ký và để ký một hợp đồng với Phạm Duy và Đại Học Cornell.
Khi sắp ký hợp đồng, Phạm Duy chợt nhớ là ông có một hợp đồng khác với Công ty Văn hóa Phương Nam mà ông đã ký vài năm trước, nói là Phương Nam có quyền tuyệt đối buôn bán những tác phẩm của Phạm Duy — nhưng Hồi Ký không phải là một bài ca, chắc là ông có thể ký một hợp đồng với Đại học Cornell không sao.
Nhưng khi ông tham khảo với Phương Nam về việc này, thì ông khám phá ra là từ ngữ “tác phẩm” không chỉ bao gồm tác phẩm âm nhạc mà bao gồm tác phẩm văn chương nữa. Như vậy ông không có quyền ký hợp đồng với Cornell.
Điều này khiến tôi – Eric Henry thất vọng nặng nề, và tôi viết thư cho Phạm Duy, nói nửa đùa nửa thật là nếu không có cách xuất bản bản tiếng Anh cuốn Hồi Ký, thì tôi sau này sẽ chỉ có nước nhảy xuống sông tự tử thôi.[Sic]
Trong thư hồi âm của Phạm Duy, ông nói là tôi không phải quá bận tâm về việc này. Chắc là trong tương lai sẽ có cách xuất bản Hồi Ký bằng tiếng Anh. Và ông đã đề nghị với tôi một vài kế hoạch để đạt đến mục đích đó.
Và cuối cùng Phạm Duy đã có một tái bút như thế này: “Khi nào ông quyết định nhảy xuống sông, xin cho tôi biết nhé – để tôi nhảy theo!”Điều ấy cũng cho thấy tính hài hước và thái độ luôn luôn lạc quan của nhạc sĩ Phạm Duy.
MỘT TIỂU SỬ DO ERIC HENRY TỰ VIẾT
Cùng với bài viết về “Những Chân Dung Phạm Duy”, tôi có dự định viết thêm Chân Dung của TS Eric Henry. Khi được tôi yêu cầu một tiểu sử do chính Eric Henry viết, anh đã trả lời tôi qua một email (Chủ Nhật ngày 8/05/2022):
“Tôi coi lại tiểu sử mà tôi đã viết cho BBC nay bổ sung thêm và sửa chữa như sau: Tôi sinh năm 1943 [15/03/1943], bố mẹ tôi đều là nhạc sĩ nhà nghề. Thời thơ ấu đã tập dương cầm và dưới ảnh hưởng của song thân đã có cách hiểu biết và yêu dấu được nhạc cổ điển phương tây. Từ năm 1960, tôi bắt đầu đánh dương cầm và dạy dương cầm làm sinh kế, nhưng chưa biết gì hết về nước Việt Nam, huống chi nhạc Việt Nam.Năm 1968 tôi nhập vào lục quân Mỹ và được huấn luyện tập trung cấp tốc 12 tháng về tiếng Việt.
Đến năm 1970, tôi được đóng ở Việt Nam (Củ Chi, Xuân Lộc, rồi đến tỉnh Quảng Trị) với lục quân Mỹ. Ngoài vai trò thông dịch, tôi còn phỏng vấn nói chuyện với khá nhiều tù binh của Bắc quân. Thuở đó tôi làm quen với Truyện Kiều và một số tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh, Duyên Anh, nhưng vẫn không biết nhiều về nhạc phổ thông Việt Nam. Có lần tôi chép ra cái giai điệu của bài “Tôi Đưa Em Sang Sông” (Nhật Ngân sáng tác). Tôi cũng đã nghe nói một chút về tên tuổi của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Như thế là hết.
Và tôi đã rời Việt Nam mùa hè năm 1971.Sau đó tôi làm nghiên cứu sinh (graduate student) về văn chương Trung Quốc ở Đại học Yale.Năm 1980 bắt đầu dạy Trung văn, hồi trước tại Dartmouth College, và từ 1982 trở đi tại University of North Carolina. Năm 1995, tôi bắt đầu mở lớp Việt ngữ ở Carolina, và từ năm 1999 bắt đầu coi những video Paris by Night. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy là trong những ca khúc Paris by Night, có khoảng 40 phần trăm có giá trị nghệ thuật; vả lại, lối hát của nhiều ca sĩ trên đó hấp dẫn lắm, điêu luyện lắm!
Từ năm 2000 trở đi tôi đã không ngừng tìm hiểu bằng mọi cách về âm nhạc Việt Nam. Và mấy năm gần đây cũng đã tìm cách hiểu được một chút về văn hóa ca hátcủa Nhật Bổn, Đại Hàn, Trung Quốc, ĐàiLoan,vàPhi Luật Tân. Khoảng năm 2002 trong khi đi thăm một nhà sách Việt Nam – nhà sách Thế Hệ ở Falls Church, Virginia, tôi đã thấy, mua, và đem về nhà, quyển I Hồi Ký của Phạm Duy, và đã thấy ngay rằng đây là một tác phẩm có giá trị tối cao đối với bất cứ ai muốn hiểu thêm về Việt Nam trong thế kỷ vừa qua…
Về quá trình học vấn của Eric Henry, được người viết trích dẫn từ: Eric Henry Curriculum Vitæ, University of North Carolina.
Học Vấn:
Tiến Sĩ / Ph.D. 1979, Văn Chương Trung Quốc / Chinese Literature, Yale University, Department of East Asian Languages and Literatures. Dissertation title: “Chinese Amusement: An Introduction to the Plays of Li Yü” / Lý Ngư
Thạc Sĩ / M.Ph. 1976, Văn Chương Trung Quốc / Chinese Literature, Yale University, Department of East Asian Languages and Literatures. Research paper title: “On the Nature, Structure, and Evolution of the Chin Yun Ch’iao chuan, a popular novel of the Early Ch’ing”
Cử Nhân / B.A. 1972, Văn Chương Anh / English Literature, Amherst College, summa cum laude. Senior thesis title: “On Doan Truong Tan Thanh”,the National Poem of the Vietnamese”
Other education:
1977–78: One–year intensive language study at the International University Program for Chinese Language Studies at the Stanford Center in Taipei
1968–69: One–year intensive language training in Vietnamese at the Defense Language Institute Support Command, Fort Bliss, Texas
Những tác phẩm đã xuất bản:
Sách viết:
Chinese Amusement: The Lively Plays of Li Yü李漁(Lý Ngư): Henry, Eric. Hamden, CT: Shoe String Press (Archon Books), 1980, xvi, 288 pp.
Sách Dịch:
Garden of Eloquence; a translation ofShuō Yuàn說苑(Thuyết Uyển) in bilingual format with textual notes; commissioned by the editorial board of The Culture and Civilization of China (a joint program of the American Council of Learned Societies and Washington University Press). Shuō Yuàn (Thuyết Uyển) is a collection of 718 items, of which most are historical narratives, compiled by Liú Xiàng 劉向 (Lưu Hướng) and presented to the throne in 17 BCE. Seattle: University of Washington Press, 2022
In Whose Eyes; a translation, with Nguyễn Quang Dy and Wayne Karlin, of Chuyện Nghề Của Thủyby Trần Văn Thủy and Lê Thanh Dũng (2013), Amherst: University of Massachusetts Press, 2016, xv, 219 pp.
Những Chương Sách và Bài Báo
“Running Amok in Early China”; in Behaving Badly in Ancient China edited by Norman Rothschild andLeslie Wallace; Honolulu: University of Hawaii Press, 2017, pp. 171-188
“Some East Asian Popular Song Lyrics”Southeastern Review of Asian Studies 33 (Jan. 2012)
“Evidence for a Usurpation in Sòng”Warring States Papers 1 (2010), pp. 227-230
. “A Note onChūnqiū Shìyǔ春秋事語(Xuân Thu Sự Ngữ) Item 5” Warring States Papers 1 (2010), pp. 55-58.
“The Submerged History of Yuè” Sino-Platonic Papers, pub. by Victor Mair, Univ. of Pennsyvania, no. 176 (June, 2007)
“Bước Đường Lữ Thứ,” (“Footsteps of a Wayfarer”) Carolina Việt Báo 22 (Oct. 2006), pp. 79 – 84 (in Vietnamese; consists of cross-cultural observations prompted by travel in China and Vietnam)
“Phạm Duy và lịch sử Việt Nam hiện đại” (a translation by Phổ Tịnh of the article below); posted on the website TALAWAS (2005)
“Phạm Duy and Modern Vietnamese History,”Southeastern Review of Asian Studies 27 (2005), pp. 89 – 105
Tân Nhạc: Notes Toward a Social History of Vietnamese Music in the 20th Century / Một vài ghi chú về lịch sử xã hội âm nhạc Việt Nam.Michigan Quarterly; 44.1 (winter, 2005), pp. 135-147
Anachronisms inLüshì Chunqiu呂氏春秋(Lữ Thị Xuân Thu)andShuōyuàn說苑(Thuyết Uyển); Early Medieval China, vol 9 (2003), pp. 127-138
“Chinese and Indigenous Influences in Vietnamese Verse Romances of the 19th Century”Crossroads 15.2 (2001); pp. 1 – 40
“The Social Significance of Nudity in Early China,”Fashion Theory 3.4 (Dec., 1999), pp. 1-12
“Junzi yue君子曰(Quân-tử viết)VersusZhongni yue仲尼(Trọng-nê viết) in Zuo zhuan (Tả Truyện)”; Harvard Journal of Asiatic Studies 58.1 (June, 1999), pp. 125-161
“Chu-ko Liang 諸葛亮(Gia Cát Lượng) in the Eyes of His Contemporaries,”Harvard Journal of Asiatic Studies 52.2 (Dec., 1992), pp. 589-612
“The Motif of Recognition in Early China,”Harvard Journal of Asiatic Studies 47.1 (June, 1987), pp. 5-30
“On the Nature of the Kieu Story,”Vietnam Forum (Yale University Council on Southeast Asian Studies) 3 (Winter-Spring 1984), pp. 61-98
Những Bài Điểm Sách
Poetic Transformations: Eighteenth-CenturyCulturalProjects on the Mekong Plains, Claudine Ang; Harvard University Asia Center, 2019, in China Review International,25.1 (2020)
The Commentarial Transformation of theSpringand Autumn, Newell Ann Van Auken; Albany; SUNY Press, 2016, in Dao:A Journal of Comparative Philosophy,Fall2018
The Kim Vân Kiều ofNguyễn Du (1765 – 1820), translated by Vladislav Zhukov; Canberra; Pandanus Books, 2004, in Journal of Vietnamese Studies3:1 (Winter 2008), pp. 240-245
Persons, Roles, and Minds: Identity in Peony Pavilion and Peach Blossom Fan, Tina Lu, Stanford University Press, 2001; 2001; in CLEAR[summer, 2002]
Guanzi: Political, Economic, and Philosophical Essays from Early China; A Study and Translation. Volume II. By W. Allyn Rickett. Princeton: Princeton University Press, 1998; in Journal of Asian Studies[1999]
Những Sách Chưa Xuất Bản:
Sách Viết:
“Historical Narrative in Early China” (a study of genre and content among the narratives collected in Zuo zhuàn, Guó yu, Zhànguócè, and Shijì; 336 pp.) Zuo zhuàn 左傳 (Tả Truyện), Guó yu 國語 (Quốc Ngữ), Zhànguócè 戰國策 (Chiến Quốc Sách), and Shijì 史記 (Sử Ký)
“Readings in Chinese Historical Legend” (course textbook; 543 pages)
“Xin xù Summaries” (detailed summaries of the 176 narratives of the extant Xin xù 新序 (Tân Tự), with notes on sources and allusions; a research tool; a collaboration with Professor Anne Kinney)
“Chinese Phrase Lexicon.” Approx. 10,000 phrases, proverbs, and short classical passages cross-referenced by lexical item; computer document in process of expansion.
“Vietnamese Proverb Lexicon.” Similar in scope and concept to the above, but more focused on proverbs; computer document in process of expansion.
Sách Dịch:
From classical Chinese:
“Stories from the States” (a bilingual edition of Guóyǔ 國語 (Quốc Ngữ) with introduction and notes; approx. 1,000 pp. Guóyǔ 國語 (Quốc Ngữ) is a collection dating from c. 300 BCE consisting of 243 historical narratives)
“Chronicle of the States of the Eastern Chou, Vol. I” (a translation, Chinese to English, of the first forty chapters of DongZhou liè guó zhì; 東周列國志; (Đông Chu Liệt Quốc Chí)762 pp.
From Vietnamese:
Memoirs(Hồi Ký) by Phạm Duy, four volumes (approximately 1,200 pages); Volume One: Coming of Age in the North; Volume Two: The Resistance; Volume Three: The Period of Division; Volume Four: My Sojourn Abroad. More than 1,500 detailed footnoteson persons, places, and events,to be published by Cornell University Press.
Hình 6a: trái,bìa sách In Whose Eyes, do University of Massachusetts Press xuất bản, 2016 là bản dịch tiếng Anh cuốn hồi ký Chuyện Nghề của Thuỷ; phải, với lời đề tặng: “Thân tặng Bác sĩ Ngô Thế Vinh, bạn đồng đội của tôi – Eric Henry, ngày 28/05/2022. [tư liệu Ngô Thế Vinh]Hình 6b: trái, bìa cuốn sách Thuyết Uyển / Garden of Eloquence của Lưu Hướng, sách dày 1232 trang, do TS Eric Henry dịch và giới thiệu, University of Washington Press, Seattle xuất bản 2021; phải, trang sách đề tặng với 3 ngôn ngữ Việt, Hoa, Anh. Eric Henry còn có tên Việt Nam là Vũ Văn Hòa* – Hòa là tên của GS Nguyễn Đình Hòa, tác giả bộ từ điển Anh Việt mà Eric luôn luôn ôm theo khi anh bắt đầu học khóa tiếng Việt ở El Paso trước khi sang chiến trường Việt Nam. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
* Nửa thế kỷ trước, khi bắt đầu học tiếng Việt tại Defense Language Institute ở Fort Bliss, Texas, tôi đã mời người xung quanh gọi tôi là “anh Hòa”, vì thuở đó tôi hay sử dụng một cuốn tự vị của một học giả cùng tên: Nguyễn Đình Hòa. Sau đó vài tháng, khi thấy là cần đến một tên đầy đủ hơn, tôi chọn “Văn” làm tiếng đệm, vì đó hình như là thói quen của nhiều gia đình Việt Nam—và sau đó tôi chọn “Vũ / Võ” làm họ, tại vì âm thanh của “Vũ Văn Hòa” nghe lại hình như… êm tai.Sau khi bắt đầu trở về từViệt Nam và xã giao thường xuyên với người Việt, thì tôi đã dần dần chấm dứt sử dụng tên “Hòa”, vì cảm thấy là người Việt không có vấn đề nào cả với tên “Eric”. Nhưng khi nào tiếp xúc với người Hoa thì tiếp tục dùng tên “Vũ Văn Hòa”, vì thấy là họ thích cách gọiVũ Tiên Sinh (武先生) không thích cách gọi Eric Tiên Sinh “Eric 先生” cho mấy.
Đọc lược qua số tác phẩm của Eric Henry, tôi đã rất ngạc nhiên và hỏi Eric là thời giờ đâu và cả bí quyết làm việc của anh ra sao để có thể viết được nhiều tác phẩm như thế? Eric trả lời tôi ngay:
Anh Vinh thân quý,
Tôi thấy Anh là vị tác giả“đa sản 多產, prolific— chữ của Eric” bằng tôi — và trái với tôi, anhcó một nghề khác đi song với nghề viết văn: nghề làm bác sĩ!Nhưng nếu Anh có hứng thú hỏi tôi có bí quyết gì để có cách viết nhiều, thì tôi sẽ trả lời như thế này:
Tôi vốn là người làm biếng. Nhưng đồng thời tôi cũng là người rất thích tuân thủ thói quen.Nếu muốn hoàn tất một tác phẩm, thì phải lập thành một bộ thói quen nào đó — như mỗi ngày viết một trang văn, chẳng hạn. Nếu giữ thói quen đó suốt một năm, thì khi đến cuối năm mình sẽ có 365 trang — đủ để tạo thành cả một cuốn sách!
Tuy vậy, cái thú vật yêu quý nhất của tôi trong giới vạn vật là con lười (sloth) của Châu Nam Mỹ. Ước gì có thể treo mình xuống liên miên từ một cành cây như thú vật ấy!Thân quý,Eric
ERIC HENRY VÀ THE MEMOIRS OF PHẠM DUY
Và rồi những emails trao đổi tiếp theo giữa Eric và tôi đều có liên quan tới chặng đường 13 năm gập ghềnh của bộ sách tiếng Anh The Memoirs of Phạm Duy cho đến nay vẫn chưa có thể xuất bản.
Email 1: Anh Bác sĩ Ngô Thế Vinh thân kính,[ May 4, 2022 ]
Rất cảm ơn Anh quan tâm đến việc xuất bản sách phiên dịch Hồi Ký Phạm Duy. Lịch sử của các nỗ lực của tôi và các người “đồng minh” để xuất bản sách này giống như lịch sử của chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô — là một đoạn lịch sử vô cùng dài và vô cùng phức tạp.Bắt đầu từ đâu để kể cho rõ rành đây?
Một lần, Phạm Duy và tôi sắp ký hợp đồng với Cornell S.E. Asia Publications vào năm 2009 để xuất bản sách này – nhưng một công ty VN mang tên là Phương Nam không cho phép – tại vì PhạmDuy mấy năm trước đã ký một hợp đồng với Phương Nam và dành cho công ty ấy độc quyền xuất bản và phổ biến tất cả sản phẩm củaPhạmDuy, gồm có cả sản phẩm thuộc lãnh vực văn chương (như Hồi Ký, chẳng hạn).
Về sau, vào năm 2012, vài tháng trước khi qua đời, PhạmDuy đã thực hiện được một sự thay đổi trên hợp đồng này, nói là độc quyền này của Phương Nam chỉ hữu hiệu trên đất Việt Nam mà thôi, chớ không hữu hiệu trong lãnh vực của các nước khác. Biện pháp này đã giải quyết vấn đề với Phương Nam, nhưng chưa giải quyết được vấn đề với nhữngngười con của PhạmDuy — đặc biệt là với Duy Đức, người con trai út của Phạm Duy.
Xin lỗi, tôi phải tạm ngừng viết, vàtôi sẽ giải thích thêm vào buổi chiều ngày mai.Kính thư,Eric
Email 2: Anh Vinh thân mến,[ May 5, 2022 ]
Ngoài Duy Đức ra, một nhân vật khác trong việc này là Tina Phạm, luật sư của gia đình Phạm Duy — tôi đã từng trao đổi thư từ với Tina từ năm 2009. Duy Đức lúc nào cũng làm theo ý kiến của Tina. Theo Tina, Duy Đức nên đòi hỏi nhà xuất bản Cornell bảo đảm là họ sẽ “indemnify” (bồi thường) gia đình Phạm Duy nếu họ bị công ty Phương Nam kiện. Nhưng Sarah Grossman, tổng biên tập của Cornell nói với tôi là Cornell không thể phát hành một văn kiện “bảo đảm” như thế. Sarah Grossman đã phát hành giùm tôi một văn kiện khác tuyên bố là Nxb Cornell sẽ tuyệt đối không tìm cách bán tác phẩm này trên đất Việt Nam. Nhưng Tina và Duy Đức chưa thỏa mãn với lời hứa chính thức này của Cornell.
Eric Henry sau đó đã liên lạc với Ban Giám Đốc Cty Phương Nam, và bây giờ Cty Phương Nam đã có giám đốc và phó giám đốc mới. Eric Henry đã nhận được thư hồi âm của Trịnh Hải Phương, phó giám đốc Phương Nam.
Kính chào ông Eric Henry,
Tôi là Trịnh Hải Phương, Phó Giám đốc công ty TNHH MTV Sách Phương Nam, có nhận được thư của ông Eric Henry đề nghị cho phép xuất bản bản tiếng Anh “Hồi ký nhạc sĩ Phạm Duy” ở Mỹ. Sau khi chúng tôi kiểm tra lại nội dung hợp đồng độc quyền khai thác các tác phẩm của nhạc sĩ Phạm Duy thì nhận ra công ty Phương Nam chỉ độc quyền khai thác trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Do đó công ty Phương Nam không giữ quyền khai thác tác phẩm của nhạc sĩ Phạm Duy ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Về đề nghị của ông thì thuộc quyền quyết định của gia đình nhạc sĩ Phạm Duy, những người thừa kế. Do đó ông có thể liên hệ với gia đình nhạc sĩ Phạm Duy để trao đổi.
Trân trọng,Trịnh Hải Phương
Nhận được thư này, tôi gửi thư hồi âm như sau:
Kính gửi Ông Trịnh Hải Phương,
Rất cám ơn Ông gửi thư hồi âm. Thư của Ông rất rõ rệt và rất là giúp việc. Tôi sẽ cho Nxb Cornell và gia đình nhạc sĩ Phạm Duy biết về thư này ngay lập tức. Tôi thấy là mỗi người sẽ yên tâm hơn; (và trong bản dịch Hồi Ký tôi sẽ nói về vai trò quan trọng của Công ty Phương Nam trong việc hồi hương của nhạc sĩ Phạm Duy. Tôi thấy là nếu hồi trước không có Phương Nam, thì cuộc hồi hương ấy chắc là không có cách nào thực hiện được.) Một lần nữa, xin hết lòng đa tạ Ông và các đồng nghiệp. Xin chúc Ông mọi sự tốt đẹp. Eric Henry
Và Ông Phương đã trả đáp như thế này:
Kính gởi ông Henry,
Cám ơn ông đã hồi âm, công ty Phương Nam chỉ góp một phần nhỏ trong việc phổ biến những giá trị nghệ thuật của nhạc sĩ Phạm Duy đến với người dân Việt Nam.
Cá nhân Phương Nam cũng rất cảm kích công việc anh đã làm cho nhạc sĩ Phạm Duy và hy vọng tập hồi ký được sớm xuất bản.
Trân trọng,Trịnh Hải Phương
Như vậy, Công ty Phương Nam không những không phản đối việc này, mà còn hy vọng là TheMemoirs of Phạm Duy được sớm xuất bản.
Email 3: Anh Vinh thân quý,[ May 7, 2022 ]
Cám ơn Anh gửi cho tôi thấy thiếp chúc mừng 1996, và bức thư 1995 mà đều mang bút tích của cố nhạc sĩ. Tôi sẽ tiếp tục cung cấp chi tiết về vụ tìm cách xuất bản The Memoirs of Phạm Duy.Thân ái,Eric
…
Cám ơn Anh liên lạc với Duy Minh, Duy Cường và Duy Đức. Tôi thấy là Duy Cường, giống như tôi, rất muốn thấy Cornell xuất bản The Memoirs. Thân ái, Eric
Email 4: Anh Vinh thân quý,[ May 10, 2022 ]
Nay mai, tôi sẽ viết thêm một chút về vụ xuất bản “TheMemoirs”. À, suýt quên: 3 bản hợp đồng mà tôi đã gửi cho Anh không chút nào “classified”. Muốn trích dẫn câu nào, xin tùynghi!Chúc Anh thoải mái, yên tâm,Thân ái, Eric
…
NGÔI NHÀ MỚI CỦA PHẠM DUY
Hình 7a: trái, ngôi nhà mới 3 tầng trong cư xá Lê Đại Hành, phường 13, quận 11 nơi Phạm Duy đã sống tám năm còn lại cuối đời, từ trái: Phạm Duy Minh, Phạm Duy, và kiến trúc sư tân trang căn nhà. Nếu không có gì biến động, căn nhà này sẽ thuộc quyền sở hữu của gia đình Phạm Duy sau 20 năm 2005 – 2025. [nguồn: photo by Nguyễn Phong Quang]
Hình 7b: Dọn đến ngôi nhà mới, Phạm Duy Đại Lực Sĩ — chữ của Nguyên Sa, vẫn miệt mài làm việc với dàn máy điện toán Macintosh ở tuổi đã gần 90. [Photo by Nguyễn Phong Quang]
Hình 8: Hình chụp tháng 8 năm 2006 tại căn nhà Phạm Duy trong cư xá Lê Đại Hành, từ trái, Eric Henry dịch giả Bộ Hồi Ký Phạm Duy, nhạc sĩ Phạm Duy lúc đó 85 tuổi, Harry Diakoff là bạn tấm cám của Eric, cũng rất mê nhạc Phạm Duy. Harry Diakoff đã quay phim hai cô bạn gái dùng vũ điệu để diễn giải hai ca khúc của Phạm Duy là: Ngày Trở Về, và Ru Con, khi được xem khúc phim ấy, Phạm Duy tỏ ra rất hứng thú. [tư liệu và ghi chú của Eric Henry]Hình9: Eric Henry tới thắp nén nhang trên ngôi mộ chưa xây của nhạc sĩ Phạm Duy. Eric Henry viết: ảnh này được chụp vào ngày 13 tháng 11, năm 2013. Ngày đó tôi đi với Nguyễn Phong Quang, Duy Cường, và một bạn gái của Duy Cường từ Sài Gòn đến nghĩa trang tỉnh Bình Dương để thăm mộ Phạm Duy. Nấm mồ khi đó chưa được hoàn thành, chưa có pho tượng Phạm Duy. [Photo by Nguyễn Phong Quang]
BA BỨC THƯ NGÔ THẾ VINH GỬI
NHỮNG NGƯỜI CON NHẠC SĨ PHẠM DUY
Qua điện thoại, tôi liên lạc được với Phạm Duy Minh, người con trai thứ hai của nhạc sĩ Phạm Duy, đang sống nơi căn nhà của cha ở Midway City. Tôi có nói với Duy Minh về ý nghĩa to lớn của bộ Hồi Ký tiếng Anh đối với sự nghiệp của Bố Phạm Duy khi được University Press của một Đại Học danh giá là Cornell nhận xuất bản. Đây cũng là điều mà Phạm Duy khi còn sống đã rất mong ước.
Nhưng rồi qua Duy Minh – nay là con cả trong gia đình sau khi Duy Quang mất, tôi được biết là tất cả bảy anh em – cùng có quyền thừa kế giống nhau, nếu chưa có sự đồng thuận tuyệt đối 7/7 thì chưa thể có một hợp đồng với Đại Học Cornell. Và sau đó Duy Minh đã cho địa chỉ email của ba người: Duy Minh, Duy Cường và Duy Đức để tôi có thể trao đổi liên lạc.
Mặc dù đang rất bận rộn, nhưng do sự trân quý sự nghiệp âm nhạc / văn hóa của nhạc sĩ Phạm Duy, tôi đã không ngần ngại chia sẻ những ý nghĩ tâm huyết với Duy Minh, Duy Cường, Duy Đức và các Anh Em trong gia đình Phạm Duy, chỉ với mục đích duy nhất là làm sao vượt qua tất cả những trở ngại hiện nay để bộ Hồi Ký The Memoirs of Phạm Duy sớm được xuất bản.
Và sau đây là vắn tắt nội dung ba bức thư ngỏ, trong đó tôi xưng Anh với những người con của nhạc sĩ Phạm Duy, vì tất cả đều nhỏ tuổi hơn.
Tôi có nhắc, là mấy năm cuối đời Bố Phạm Duy đã quan tâm và kỳ vọng rất nhiều về bộ Hồi Ký bản tiếng Anh nếu được xuất bản ở Mỹ. Năm 2012, một năm trước khi Phạm Duy mất, trong một cuộc phỏng vấn Ông còn hãnh diện nhắc bộ sách The Memoirs of Phạm Duy. Đến nay 2022, 10 năm đã trôi qua, bản tiếng Anh ấy vẫn còn nằm ở Đại Học Cornell như một bản thảo. Và người dịch cuốn sách ấy là Tiến Sĩ Eric Henry, mà mấy Anh Em cũng đã từng gặp, Anh ấy năm nay cũng đã 79 tuổi rồi, với tuổi đã cao như vậy, nếu có vấn đề gì về sức khỏe đột ngột xảy ra cho Anh ấy, thì bao nhiêu công sức của Anh Eric Henry và của Bố Phạm Duy sẽ có nguy cơ bị rơi vào quên lãng! Sẽ rất đáng tiếc!
Tôi cũng nhắc tới điều mà Duy Minh và mấy Anh Em có thể e ngại là có vi phạm bản Hợp Đồng với Công ty Văn Hóa Phương Nam, nhưng điều đó không có — vì trước khi Bố Phạm Duy mất, bản hợp đồng với Phương Nam ghi rõ chỉ hiệu lực trong lãnh thổ Việt Nam!
Và như vậy, tiếng nói quyết định cuối cùng để The Memoirs of Phạm Duy có thể được Cornell University Press xuất bản là nơi 7 anh em — những người con thừa kế di sản Phạm Duy.
Tôi đã đề nghị Duy Minh, Duy Cường, Duy Đức và tất cả mấy Anh em trong gia đình nên cùng nhau bàn bạc để có một quyết định đúng vì sự nghiệp lâu dài của nhạc sĩ Phạm Duy. Vì thời gian sinh học thì không phải là bất tận. Tôi cũng nhắc cho Duy Minh, Duy Cường, và Duy Đức cùng các anh em trong gia đình nhạc sĩ Phạm Duy thêm một văn kiện từ Đại Học Cornell / attachment của “Sarah Grossman bảo đảm là Nxb Cornell sẽ tuyệt đối không bán TheMemoirs of Phạm Duy trên đất Việt Nam.”
Cho dù ngay từ ban đầu, Nhạc sĩ Phạm Duy đã đồng thuận làm việc song hành với TS Eric Henry để hình thành được bộ sách tiếng Anh đồ sộ The Memoirs of Phạm Duy. Nhưng nay do Bố Phạm Duy đã mất, Nxb University Press Cornell vẫn cần thêm một giấy cho phép / Permission của những người con thừa kế di sản Phạm Duy, tôi cũng đã gửi kèm theo eMail thứ 3 này một mẫu bản thảo / draft lá thư cho phép ấy. Một thủ tục đơn giản nhưng quan trọng để Đại Học Cornell có thể khởi sự in bộ sách The Memoirs of Phạm Duy. Bản thảo gợi ý đó như sau:
To: Eric Henry
Cc: Cornell University Press
I, Phạm Duy Minh, the son of the Vietnamese song composer and authorPhạm Duy, am the copyright proprietor (representing both myself andmysixbrothers and sisters), of the musical and literary works of my father, including his four-volume set ofVietnamese-language memoirs, Hồi Ký Phạm Duy. I, Phạm Duy Minh, hereby grant you permission to promote your annotated English translation ofthis autobiographical work, which I have seen and approved.
With this letter Icertify as well that I grant you permission to publish this workwith Cornell University Press.
Signed,
Phạm Duy Minh
“Và rồi tôi có nhắc tới ngày 27.01.2023 sắptới đây sẽ là Ngày Giỗ thứ 10 của nhạc sĩ Phạm Duy. Ngày Giỗ sắp tới ấy sẽ có thêm rất nhiều ý nghĩa nếu trên bàn thờ Bố Phạm Duy, thay vì chỉ có hoa trái nhang đèn, sẽ là một bộ sách The Memoirs of Phạm Duy, điều mà Anh Vinh biết chắc chắn là nhạc sĩ Phạm Duy đã rất ao ước lúc sinh thời!”
Một cuốn sách được xuất bản bởi một Đại Học danh tiếng như Cornell, sẽ được lưu trữ nơi các thư viện lớn trên thế giới, để từ đó có thể mở ra các cuộc nghiên cứu, đây không chỉ là niềm tự hào của Bố Phạm Duy mà còn niềm hãnh diện cho các thế hệ thứ 2 thứ 3 của gia đình nhạc sĩ Phạm Duy. Hãy không để dự án lớn này bị “đứt gánh giữa đường” để sau này chỉ còn lại là sự hối tiếc!
…
Bằng mọi giá, Duy Minh Duy Cường Duy Đức và Các Anh Em cần có nỗ lực “tạo thuận” cho giấc mơ của Bố Phạm Duy trở thành hiện thực, để rồi ra, Duy Minh Duy Cường Duy Đức và Các Em sẽ không phải thốt nên câu là “rất tiếc”…
Last but not least, Think Big nha mấy Anh Em!
…
Các emails này tôi đều có gửi cho Anh Eric được đọc, trong một email thứ ba không rút ngắn, có thêm đoạn này:
…
Thập niên 1970, khi anh Vinh họp một Hội nghị Sinh Viên Á Châu bên Nhật, anh Vinh thấy các bảng hiệu rầm rộ quảng cáo cho cuốn phim “Love Story” mô phỏng theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của Erich Segal: câu catchphrase ấy là:“Love means never having to say you’re sorry / Yêu là không bao giờ phải nói câu là anh rất tiếc”.Anh Vinh lúc này thì nghĩ tới tình yêu thương của những đứa con đối với Bố Phạm Duy. Bằng mọi giá, Duy Minh và Các Em cần phải “tạo thuận” cho giấc mơ của Bố Phạm Duy trở thành hiện thực, để rồi ra, Duy Minh và Các Em sẽ không phải thốt nên một câu là “rất tiếc”.
Đó là những điều tâm huyết mà Anh Vinh muốn chia sẻ với Duy Minh, Duy Cường, Duy Đức và các Anh Em.
…
Eric Henry viết:
Anh Vinh thân quý, Thiệt ra, tôi rất thích draft email [3] mà Anh đã gửi cho tôi thấy ngày hôm qua — trong khi đọc, tôi thấy là cách viết của nó hùng biện đến độ “chuyển trời rung đất”, có đầy đủ sức lực khiếnthần quỷ rơi lệ, tuy vậy, nếu Anh thấy là draft mới nhất sẽ hữu hiệu hơn, thì tôi cũng xin tuân theo. I trust your judgement.
Với 3 bức tâm thư được gửi đi và đã đến người nhận, nhưng rồi vẫn là sự im lặng của những người con Nhạc sĩ Phạm Duy.
Không biết ngày mai của bộ Hồi Ký ấy sẽ ra sao: Que Sera, Sera… Và rồi trong sự tin cậy, Eric Henry sau đó cũng đã gửi tôi một copy bản thảo bộ sách The Memoirs of Phạm Duy như “Của tin gọi một chút này làm ghi.“[Nguyễn Du]
PHẠM DUY – ERIC HENRY VÀ HUẾ
Trong một bài viết thay lời chúc mừng thượng thọ Phạm Duy 90 tuổi (2011) nhan đề Phạm Duy và Huế, Đặng Tiến viết:
“Nhạc sĩ Phạm Duy không có quan hệ dây mơ rễ má gì với đất Huế và người Huế, nhưng xứ thần kinh đã để lại trong nhạc phẩm anh nhiều âm hưởng và hình ảnh sâu đậm, đặc biệt sau bốn lần ghé Huế: 1944 khi đi hát rong; 1946 sau cách mạng tháng 8, từ chiến khu Nam Bộ về Bắc; 1948 trong kháng chiến chống Pháp; và 1953 khi về thành.”
Không phải chỉ có 4 lần ghé Huế, Phạm Duy đã có rất nhiều lần ra Huế sau thập niên 1960, khi cường độ chiến tranh Việt Nam đi vào giai đoạn khốc liệt nhất, cũng là thời gian Phạm Duy viết 10 bài Tâm Ca. Riêng Nguyễn Đắc Xuân có ba bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc: Để Lại Cho Em, Nhân Danh, Chuyện Hai Người Lính. Bài Tâm Ca Số 5 – Để Lại Cho Em, là một dấu ấn đặc biệt của giai đoạn ấy.
Ca khúc “Tâm ca số 5” (nhạc: Phạm Duy, thơ: Nguyễn Đắc Xuân) qua lời giới thiệu của chính tác giả và tiếng hát Khánh Ly.
TÂM CA SỐ 5: ĐỂ LẠI CHO EM
(nhạc: Phạm Duy – thơ: Nguyễn Đắc Xuân)
Ðể lại cho em này nước non mình Ðể lại cho em một nước đẹp xinh Một miền oai linh hiển hách Chỉ còn dư vang thần thánh Ðể lại cho em hèn kém của anh Ðể lại cho em cuộc sống mệt nhoài Ðể lại cho em hồn nước tả tơi Ðường đời quanh co kẹt lối Lòng người không căm giận dỗi Ðể lại cho em tội lỗi qua rồi…
Cuộc gặp gỡ giữa Phạm Duy – Nguyễn Đắc Xuân, và tôi sau này nơi căn nhà bên bờ sông Hương ấy được ghi lại trong Chương XVII cuốn tiểu thuyết Vòng Đai Xanh, với nhân vật hư cấu tên Vy, một sinh viên Phật tử tranh đấu chính là Nguyễn Đắc Xuân và một nhạc sĩ nổi danh về Dân Ca là Phạm Duy.
Đôi lần vào Sài Gòn, Nguyễn Đắc Xuân đều có tới tòa báo Tình Thương, Xuân đích thân đem theo một bài viết hay đôi bài thơ để được chọn đăng trên tờ báo Tình Thương.
Khoảng tháng 4/1965, khi ấy tôi đang là Tổng thư ký tòa soạn báo Sinh Viên Y Khoa Tình Thương, Nguyễn Đắc Xuân, trong một chuyến vào thăm các Thầy ở chùa Già Lam, có tới tòa soạn 103 Nguyễn Bỉnh Khiêm gần đài Phát thanh Sài Gòn, trao tay một bài viết nhan đề: Bài Âu Ca của Phạm Duy, sau đó bài được chọn đăng trên báo Tình Thương số 17, phát hành tháng 5/1965. Nguyễn Đắc Xuân rất mê nhạc Phạm Duy và nhất là phần ca từ, Xuân viết: “lời nhạc của anh hay hơn cả thơ”. Nguyễn Đắc Xuân cũng có làm thơ, Bài Tâm Ca số 5 sáng tác năm 1965 của Phạm Duy phổ từ bài thơ “Để Lại Cho Em” của Nguyễn Đắc Xuân.
Hình9: Bài Âu Ca của Phạm Duy, của Nguyễn Đắc Xuân được đăng trên báo SVYK Tình Thương số 17, tháng 5/1965. Trong cùng năm, Phạm Duy sáng tác bản nhạc Tâm Ca Số 5 phổ từ bài thơ Để Lại Cho Em của Nguyễn Đắc Xuân. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Một năm sau đó, tháng 5/1966, tôi gặp lại Nguyễn Đắc Xuân ở Huế trong chuyến ra Chùa Từ Đàm, cùng Chủ Nhiệm Phạm Đình Vy thực hiện cuộc phỏng vấn 96 Phút với Thượng Tọa Thích Trí Quang.
Khi ấy, Nguyễn Đắc Xuân là sinh viên năm cuối ban Việt Hán Đại học Sư phạm Huế và là Đoàn trưởng Đoàn Sinh viên Quyết tử Huế, được coi như một thành phần chủ chốt của Phong trào đô thị đấu tranh của cộng sản nằm vùng nấp bóng Phật giáo, sau đó bị lộ diện và truy lùng, Xuân trốn vào sống trong các chùa và sau đó thoát ly vào mật khu của cộng sản từ cuối 1966.
Tới Tết Mậu Thân 1968, thì Nguyễn Đắc Xuân xuống núi, lộ nguyên hình là một cán bộ cộng sản và đã có mặt ở Huế trong suốt chiều dài tấn thảm kịch Tết Mậu Thân, nơi diễn ra vụ thảm sát hơn ba ngàn thường dân Huế với các nấm mồ chôn tập thể.
Sau 1975, với công lao cách mạng ấy, đảng viên cộng sản Nguyễn Đắc Xuân được phong làm cán bộ Tuyên giáo Thành ủy Huế, được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, rồi sau đó được bầu làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Thành phố Huế và kiêm nhiệm nhiều chức vụ khác.
Và từ 1966 cho tới nay 2022, chưa bao giờ tôi gặp lại người sinh viên quyết tử năm xưa – nay Xuân có thêm danh xưng là “nhà Huế học”, có người còn dễ dãi gọi Nguyễn Đắc Xuân là sử gia. Ở tuổi 85, Nguyễn Đắc Xuân (sinh năm 1937), không còn là hình ảnh gầy ốm của một sinh viên “hàn nho” thuở nào, và khi gặp phóng viên Phan Đăng, báo Công An Nhân Dân, Nguyễn Đắc Xuân với giọng hãnh tiến: “Tôi xây nhà được nhờ viết sách. Cho con cái đi học nước ngoài nhờ viết sách. Sống khỏe nhờ viết sách.“ [Báo Công An Nhân Dân PV nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, 25.03.2019]
Nguyễn Đắc Xuân – nhân danh một nhà Huế học, đã nói về Cố đô Huế như sau: “Không đâu êm ả, phẳng lặng tựa như mặt nước sông Hương nhưng cũng không ở đâu sóng lũ dữ dội như ở Huế. Khách đường xa đến Huế ai cũng thấy đời sống chậm, khoan thai, họ không hiểu Huế là nơi có những biến động không nơi nào trên nước mình sánh được.”
Và biến động “không nơi nào trên nước mình sánh được” vẫn là vụ thảm sát Tết Mậu Thân 1968 – kéo dài suốt 26 ngày hay đúng hơn 624 giờ — mà mỗi giờ là giờ thứ 25 / La Vingt-cinquième Heure của mỗi người dân Huế sống sót — và trong “mắt bão” Tết Mậu Thân đó, tên tuổi Nguyễn Đắc Xuân luôn luôn được nhiều phía nhắc tới, như một tác nhân và là nhân chứng sống.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN “ĐỎ” VÀ NHẠC “VÀNG”
Mùa Hè 2017, 4 năm sau ngày Phạm Duy mất, TS Eric Henry được mời ra nói chuyện ở Nhạc Viện Huế, với đề tài ban đầu là: “Nhạc Á Đông, nhạc Phạm Duy” sau phải đổi là “Lịch sử nhạc phổ thông Việt Nam và các nước láng giềng”, tên Phạm Duy không được chính thức ghi trên Poster trong sự kiện văn hóa ấy. Eric Henry qua một email, đã kể cho tôi nghe diễn tiến trước và sau chuyến đi Huế ấy:
“Khi nói với khán thính giả, tôi – Eric Henry muốn kể lể cho họ nghe một mảnh đối thoại ngày nào giữa tôi và Phạm Duy. PhạmDuy đã hỏi tôi, “Ông nghĩ gì về nhạc vàng?” Trả đáp của tôi lúc ấy là: “Tôi thấy nhạc vàng là một loại nhạc chân thật.”[khi nghe câu ấy, Phạm Duy đã không nói gì, nhưng có vẻ nửa đồng ý nửa bất đồng ý.]
Khi tôi thảo luận về việc này với Nguyễn Đắc Xuân, anh Xuân đã “cảnh cáo” tôi là trong một nơi công cộng như Nhạc viện Huế, tôi không được nói là nhạc vàng là loại nhạc “chân thật” – vì nếu nói thế, thì mỗi người nghe sẽ hiểu là bên cạnh nhạc chân thật phải có một loại nhạc “không chân thật” nữa – và mỗi người sẽ hiểu ngay là nhạc “không chân thật” là cái gì: nhạc đỏ.
Cho nên tôi – Eric Henry đành phải theo lời dặn Nguyễn Đắc Xuân và tự kiểm duyệt. Trong khi diễn giảng trước khán thính giả, tôi chỉ nói: “nhạc vàng là một loại nhạc mà biểu tỏ cảm tưởng chân thành về đời sống của người bình thường”. Tôi rất là không thích câuấy — quá thiếu bề thẳng thắn, thiếu bề trung thực!
Trong buổi nói chuyện, TS Eric Henry đã nói được những nét cơ bản về tân nhạc tại Việt Nam và một số nước trong khu vực Đông Nam Á, và cả Đại Hàn, Trung Quốc.
TS Eric Henry chủ yếu nhấn mạnh đến nền tân nhạc Việt Nam, trong đó đáng chú ý nhất là nhạc sĩ Phạm Duy, TS Eric Henry đã nhận xét: “Nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy đa dạng như các bức tranh của danh họa Picasso”.
Hình 10: trên, TS Eric Henry trên sân khấu của Học Viện Âm Nhạc Huế, trong một buổi thuyết giảng: ngày 07/06/2017 về chuyên đề với tên ban đầu là: “Nhạc Á Đông, nhạc Phạm Duy” sau phải đổi là “Lịch sử nhạc phổ thông Việt Nam và các nước láng giềng”; dưới, TS Eric Henry đang trình diễn piano bản nhạc “Thuyền Viễn Xứ”. Riêng với hai ca khúc kể chuyện “Chiếc Cặp Tóc Thơm Tho” và “Tình Sầu”, tôi chỉ trình diễn từng đoạn để giúp thính giả hiểu cách cấu trúc trong hai bài đó. [tư liệu Eric Henry]
Trong bài diễn văn tôi – Eric Henry, cũng kể một truyện ngụ ngôn, “Hai đứa bé” để biểu tỏ sự khác biệt then chốt giữa nhạc Phạm Duy và nhạc Trịnh Công Sơn. Có lẽ đây là phần duy nhất trong bài có mùi vị buồn cười. Câu chuyện ấy như sau:
Có lần, khi đi thăm Phạm Duy ở nhà của ông tại Midway City bên Cali, tôi đang ngồi bên cạnh ông trên ghế sô-pha, và chúng tôi bắt đầu nói chuyện về sự khác biệt giữa nhạc của ông và nhạc Trịnh Công Sơn. Nhân dịp ấy, tôi nói với ông là đề tài này thường hay khiến tôi liên tưởng đến một truyện cười, mà tôi xin kể ra cho ông nghe. Lúc ấy tôi hơi sợ là truyện này có thể khiến ông thấy mếch lòng, nhưng tôi không sợ lắm, tại vì tôi biết Phạm Duy không những thông minh tột độ, mà còn là người có óc khôi hài, cho nên chắc sẽ có sức thưởng thức được. Truyện là như thế này:
Hai Đứa Bé: Có ngày một cặp vợ chồng đi thăm một bác sĩ tâm lý. Họ hết sức lo âu tại vì hai đứa con trai của họ đều có một bệnh tâm lý nặng nề.Một đứa bé thì lạc quan tuyệt đối, lạc quan quá độ, lạc quan vô lý. Còn đứa bé thứ hai có một thứ bệnh tật đối nghịch—bé ấy bi quan tuyệt đối, bi quan quá độ, bi quan vô lý.
Sau khi bác sĩ nghe xong, ông ta nói, “Được rồi, tôi có một phương pháp điều trị hai đứa ấy. Cái quá trình điều trị mà tôi định sử dụng sẽ kéo dài ba ngày. Xin ông bà trở lại đây ngày mai với hai đứa bé. Ngày kế tiếp, khi vợ chồng trở lại với hai đứa con, thì bác sĩ đã chuẩn bị xong hai căn phòng khác nhau. Một căn phòng đầy đồ chơi. Đồ chơi ấy có rất nhiều thứ, được làm một cách rất tinh vi, và có nhiều màu sắc vừa sáng vừa đẹp. Còn căn phòng thứ hai, thì đầy cứt ngựa. Chỉ có cứt ngựa thôi, không có gì khác bên trong.
Và bác sĩ cho đứa bi quan dọn vào phòng đồ chơi và ở lại đó ba ngày, trong khi đứa lạc quan ở lại phòng cứt ngựa ba ngày. Sau thời gian chỉ định đã qua, các người lớn bước vào phòng đồ chơi, và thấy là đứa bi quan đang khóc liên miên với những giọt nước mắt lớn rơi xuống mặt.
Bác sĩ hỏi em:
“Em sao thế? Em không thích đồ chơi này sao?”
Và em trả đáp:
“Những đồ chơi này thật là đẹp, thật tinh vi, thật đáng quý. Và chính vì thế tôi cảm thấy đau buồn vô cùng. Vì tôi biết rõ là những đồ chơi này không thể tồn tại vĩnh viễn. Một ngày sẽ đến khi tất cả đồ chơi này sẽ bị tan vỡ hết.” Nói xong, em bé khóc lần nữa, với vẻ bi thảm hơn trước.
Rồi các người lớn bước vào phòng cứt ngựa. Họ thấy là bé lạc quan có vẻ hết sức vui sướng. Nó đang reo vui và đang nhảy liên miên từ một góc phòng đến một góc phòng khác.
Bác sĩ hỏi:
“Em sao thế? Cứt ngựa xung quanh không khiến em thấy chán sao?”
Và em trả đáp:
“Cứt ngựa thật nhiều như vậy, thì chắc chắn có một con ngựa thực sự ở đâu đó!” Và em ấy tiếp tục nhảy và reo vui.
…
Xin hỏi quý vị cảm thấy như thế nào—đứa bé nào là Phạm Duy, và đứa bé nào là Trịnh Công Sơn? Khi kể ra truyện này cho Phạm Duy nghe, tôi thấy là cái chi tiết mà ông tâm đắc nhiều nhất là chi tiết cứt ngựa, nhưng sau khi nghe, ông không tỏ ra ý kiến nào về sự so sánh mà tôi đã muốn đưa ra.
Sau truyện “Hai đứa bé”, tôi – TS Eric Henry -bàn bạc về hai ca khúc kể truyện của PhạmDuy: “Chiếc cặp tóc thơm tho” và “Ngày xưa một chuyện tình buồn”[Hương Ca số 9 và số 4],và đã đi sâu phân tích từ chủ đề, ca từ, cấu trúc, giai điệu, 2 ca khúc điển hình ấy trong số 10 bài Hương Ca của Phạm Duy được sáng tác mấy năm cuối ở hải ngoại, trước khi Phạm Duy chọn về sống ở Việt Nam.
Riêng các sinh viên ở nhạc viện Huế hoàn toàn không có phản ứng nào cả—lý do là họ đang ngồi với hằng trăm bạn đồng học, xen lẫn với công an văn hóa và trong một hoàn cảnh công khai như vậy—làm sao mà có đầy đủ can đảm để đặt ra bất cứ câu hỏi hoặc nhận xét nào đấy? Rất tiếc là không thể có cuộc gặp mặt riêng tư với một số nhóm nhỏ sinh viên—nếu đã làm như thế được, thì chắc là kết quả sẽ khác hẳn.
MỘT CHÚT RIÊNG TƯ
Được Eric Henry tặng sách, như một đáp lễ, qua Amazon tôi gửi tặng Eric bộ sách Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa. Chỉ 3 ngày sau, tôi nhận được email hồi âm của Eric:
“Hoan hô! Amazon đúng hẹn rồi! Tôi vừa nhận được Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa, Tập 1 và Tập 2. Trong khi coi Tập 2, tôi hài lòng và quan tâm đặc biệt khi thấy là Anh đã chú ý nghệ thuật tạo hình trong những bài viết về họa sĩ Tạ Tỵ và hai điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ và Mai Chửng. Tôi cũng muốn thấy những gì mà Anh đã viết về John Steinbeck. Tôi suốt nhiều năm hết sức đam mê ngôn ngữ đẹp do Steinbeck tạo ra trong tiểu thuyết (gần như đầu tay) của anh: Tortilla Flat. Có hai quyển sách của Anh, tôi bây giờ có cơ hội được giáo dục về nhiều khía cạnh của văn hóa Việt Nam. Đây là một niềm vui lớn!”
Rồi là một email tiếp theo:
“Tôi đã coi lại tập Chân Dung 1, và thấy là ngoại trừ các bài viết về Hoàng Ngọc Biên, Đinh Cường và Nghiêu Đề, có bài viết về họa sĩ Nguyên Khai nữa. Tôi rất muốn biết thêm về những người đã “cống hiến cả cuộc đời của mình cho nghệ thuật” này.
Giống như Anh, tôi suốt nhiều năm đã được cái may mắn trở nên khá thân mật với nhiều người “bất thường tầm — vẫn chữ của Eric”. Tiếc thay, họ đang dần dần trở thành “người của trăm năm cũ” rồi. Tôi nên bắt chước Anh và thử viết một tập “chân dung” để vinh danh họ.”
Và chẳng thể ngờ, cũng từ đây giữa hai chúng tôi nảy nở ra mối tương quan mới, với một dự án mới: TS Eric Henry dự định sẽ dịch sang tiếng Anh hơn một ngàn trang toàn bộ hai tập Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa của tôi. Tôi cũng hiểu rất rõ rằng, Eric cũng đang còn bận rộn với bao nhiêu công trình dở dang khác của anh.
“Vạn sự khởi đầu nan”, chúng tôi vẫn nói với nhau như thế. Tôi còn nói thêm câu: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.Ngay hôm sau, tôi lại nhận được một email khác của Eric:
Anh Vinh thân quý, Dưới đây là hình chụp của cụ Nguyễn Bá Học (1857 – 1921), tác giả danh ngôn “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.Câu đó tôi đã ngâm đi ngâm lại suốt năm mươi mấy năm vừa qua, là một phần căn bản của cuộc sống Eric Henry.
Danh ngôn này hình như là biến thể của một câu trong thơ Bạch Cư Dị 白居易 (772 – 846): 行路難不在水不在山,只在人情反覆間. (Hành lộ nan bất tại thủy bất tại sơn, chỉ tại nhân tình phản phúc gian), ý nghĩa hơi khác, nhưng cũng sâu sắc—tuy vậy, không có tinh thần hào hùng của câu Nguyễn Bá Học.
Không lâu sau đó, tôi nhận được một chương sách dịch đầu tiên Chân Dung Mặc Đỗ của bộ sách tiếng Anh dự tính có nhan đề là: Creative World of the South Vietnam 1954 – 1975. Và rồi liên tiếp sau đó, cứ mỗi hai tuần hay mười ngày, tôi lại nhận được bản dịch một Chân Dung mới. Và hôm nay là Dương Nghiễm Mậu: “Forty Years of Dương Nghiễm MậuAnd the “Autobiography ofNguyễnDu” cũng là Chân Dung thứ sáu vừa được Eric dịch xong, cùng với một lá thư của dịch giả Eric Henry, mà tôi muốn chia sẻ với bạn đọc, thay cho một kết từ của bài viết này.
Anh Vinh thân quý,Anh thật là “nhà báo của các nhà báo – Eric dùng cụm từ trong bài viết về Chân Dung Như Phong”.Đối với Anh, thế giới này không có cách giữ được bất cứ việc bí mật nào — sợ là chẳng bao lâu nữa sự hiểu biết của Anh về quá khứ EricHenry sẽ vượt qua chính EricHenry!
Tôi bây giờ đang nghĩ về một bức thư mô tả các tác phẩm của Anh cho một nhà xuất bản. “Chân Dung tập 1” tôi tạm gọi là: “The Creative World of South Vietnam, vol. 1: Eighteen Literary, Artistic, and Cultural Portraits”. Tôi đã làm một danh sách cho các nhà xuất bản dễ thấy nội dung là như thế nào (và sẽ làm một danh sách tương tự cho tập 2): Tôi bắt đầu suy nghĩ về việc liên lạc với các nhà xuất bản.Eric
…
Để hoàn tất bản dịch hơn một ngàn trang sách, rồi tìm được một nhà xuất bản Mỹ trong dòng chính như University Press, còn là cả một chặng đường dài gian truân, như qua một câu thơ Tản Đà:
Hai vai gánh nặng con đường thời xa, và rồi chúng tôi cùng chúc cho nhau, giữ sao cho chân cứng đá mềm.
Và cả hai chúng tôi cũng không bao giờ quên, là làm sao bằng mọi giá sớm xuất bản cho được bộ sách The Memoirs of Phạm Duy, một trong những ước mơ của nhạc sĩ Phạm Duy nay vẫn còn đang dang dở.
NGÔ THẾ VINH
Little Saigon, 08/08/2022
THAM KHẢO
1/ “Phạm Duy and Modern Vietnamese History.”Eric Henry. Southeastern Review of Asian Studies 27 (2005), pp. 89 – 105.
2/ The Memoirs of Phạm Duy. Translated from the Vietnamese by Eric Henry. To be published by Cornell University Press.
3/ The curious memoirs of the Vietnamese composer Phạm Duy. John C. Schafer. Journal of Southeast Asia Studies. Feb 2012. The National University of Singapore, 2012.
4/ Tìm hiểu Nhạc Phạm Duy / Phạm Duy’s Study. Nhiều tác giả. Lưu hành nội bộ. [nguồn: Phạm Duy, tháng Giêng 2007]
5/ Phỏng Vấn GS ngôn ngữ học Tiến sĩ Eric Henry. Quỳnh Lệ. Người Viễn Xứ, 17/07/2005.
Tôi rất hân hạnh thông báo đến các bạn xa gần rằng một lớp học về phương pháp nghiên cứu khoa học sẽ được diễn ra ở ĐH Y Dược Cần Thơ từ 13/9 đến 20/9/2022 (6 ngày). Đây là lớp học căn bản, rất thích hợp cho những sinh viên sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ) nhưng cũng cho cả bất cứ ai có ý định làm nghiên cứu khoa học trong công việc của mình.
Đại học Y Dược Cần Thơ
Mục tiêu
Mục tiêu chính của khoá học là trang bị cho các học viên những kiến thức cơ bản về qui trình, thiết kế nghiên cứu khoa học, phương pháp thu thập dữ liệu, lên kế hoạch phân tích, và các phương pháp phân cơ bản cho tích dữ liệu. Học viên còn học kĩ năng ngôn ngữ R và quan trọng hơn hết là diễn giải kết quả phân tích. Sau khi xong khoá học, chúng tôi kì vọng học viên sẽ có khả năng:
Phân biệt thế nào là ‘nghiên cứu khoa học’ và không phải nghiên cứu khoa học;
Đánh giá ý tưởng nghiên cứu khoa học;
Phương pháp thiết kế nghiên cứu;
Phương pháp thu thập dữ liệu;
Cách thiết kế bộ câu hỏi;
Phương pháp phân tích dữ liệu;
Hiểu về ý nghĩa của giả thuyết khoa học, kiểm định thống kê (test of significance), và diễn giải trị số P;
Sử dụng ngôn ngữ R và JASP.
Học viên
Lớp học được thiết kế dành cho bất cứ ai quan tâm đến hay có ý định làm nghiên cứu khoa học: nghiên cứu viên, nghiên cứu sinh và sinh viên, chuyên viên phân tích dữ liệu. Các nhà quản lí khoa học cũng sẽ thấy khoá học này có ích.
Giảng viên
Ngoài tôi ra, còn có các bạn giảng viên sau đây:
TS Trần Sơn Thạch (UTS, Úc)
TS Hà Tấn Đức (BV Đa Khoa TƯ, Cần Thơ)
TS Nguyễn Tất Đạt (Trường ĐHYD Cần Thơ)
Địa điểm
Lớp học sẽ diễn ra 2 hình thức trực tiếp và online (qua zoom).
Trực tiếp: Giảng đường 1, tầng trệt Khoa Y, Trường Đại học Y Dược Cần Thơ, số 179 Nguyễn Văn Cừ, Phường An Khánh, Quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ.
Địa chỉ zoom sẽ được gởi cho người ghi danh.
Thời gian
Từ ngày 13/9/2022 đến 20/9/2022.
Chương trình
Chương trình dự kiến gồm 18 bài giảng. Chương trình giảng được xây dựng theo mô hình lí thuyết (buổi sáng) và thực hành (buổi chiều). Học viên sẽ được cung cấp các dữ liệu thực tế để thực hành bằng ngôn ngữ R.
Ngày 1 (13/9/2022)
Bài 1: Qui trình nghiên cứu khoa học. Ý tưởng nghiên cứu đến từ đâu; phân biệt thế nào là nghiên cứu khoa học và những gì không phải là nghiên cứu khoa học; qui trình nghiên cứu; ý nghĩa của nghiên cứu khoa học.
Bài 2: Chọn mô hình nghiên cứu. Giải thích các điểm yếu và điểm mạnh của các mô hình nghiên cứu cắt ngang, bệnh chứng, đoàn hệ, nghiên cứu RCT, phân tích tổng hợp.
Bài 3: Phương pháp thu thập dữ liệu. Giới thiệu cách thu thập dữ liệu và nguyên tắc thiết kế bộ câu hỏi.
Ngày 2 (14/9/2022)
Bài 4: Giới thiệu R. R sẽ được sử dụng cho phân tích dữ liệu trong lớp học. Bài giảng này sẽ giới thiệu ngôn ngữ R, vận hành, cách đọc dữ liệu, cách biên tập dữ liệu, và một số phân tích đơn giản.
Bài 5: Quản lí dữ liệu. Quản lí dữ liệu là khâu rất quan trọng cho nghiên cứu khoa học nhưng thường hay bị xem thường và dẫn đến nhiều hệ quả nghiêm trọng. Bài này sẽ giới thiệu cách sắp xếp dữ liệu sao cho thích hợp cho phân tích và những qui tắc đạo đức trong việc quản lí dữ liệu.
Bài 6:Phân tích mô tả (biến liên tục, biến phân nhóm). Giới thiệu các phương pháp phân tích mô tả như trung bình, độ lệch chuẩn, khoảng tin cậy 95%. Bài giảng nhấn mạnh đến ý nghĩa và cách diễn giải hơn là kĩ thuật.
Bài 7: Phân tích bằng biểu đồ. Trong khoa học biểu đồ đóng vai trò rất quan trọng, nhưng rất tiếc nhiều nghiên cứu có biểu đồ quá kém. Bài này sẽ giới thiệu các nguyên tắc và phương pháp soạn biểu đồ phẩm chất cao dùng các chương trình như ggplot2 và sjPlot. Đây là một trong những khâu rất quan trọng để hiểu dữ liệu và ý nghĩa của dữ liệu.
Ngày 3 (15/9/2022)
Bài 8: Giới thiệu ý tưởng kiểm định giả thuyết. Bài giảng bàn về hai trường pháp ước tính (estimation) và kiểm định giả thuyết (hypothesis testing), và ý nghĩa của trị số P. Học viên sẽ nắm được ý nghĩa của trị số P và mối liên hệ với kiểm định giả thuyết.
Bài 9: Phương pháp so sánh 2 nhóm (biến liên tục). Một trong những mục tiêu nghiên cứu cơ bản là so sánh hai nhóm. Bài giảng sẽ giới thiệu phương pháp t-test cho dữ liệu tuân theo luật phân bố chuẩn, và phương pháp bootstrap cho các dữ liệu không tuân theo luật phân bố chuẩn.
Bài 10: Phương pháp so sánh 2 nhóm biến định tính. Bài giảng sẽ giới thiệu phương pháp z-test, Ki bình phương, và các chỉ số như odds ratio và relative risk để sử dụng cho việc so sánh hai nhóm với biến outcome là định tính hay biến nhị phân.
Ngày 4 (18/9/2022)
Bài 11: Phân tích tương quan. Giới thiệu khái niệm “tương quan” (correlation) và
phương pháp ước tính hệ số tương quan.
Bài 12: Mô hình hồi qui tuyến tính. Giới thiệu mô hình hồi qui tuyến tính đơn giản y = a + b*x + e, giả định và phương pháp kiểm định giả định, ý nghĩa của tham số và cách diễn giải các chỉ số từ mô hình hồi qui tuyến tính.
Bài 13: Mô hình hồi qui tuyến tính đa biến. Tiếp tục mô hình hồi qui tuyến tính, bài này sẽ giới thiệu mô hình hồi qui đa biến tiên lượng (multiple linear regression) và những vấn đề liên quan đến đa cộng tuyến, cách chọn biến số có giá trị tiên lượng tốt nhất.
Ngày 5 (19/9/2022)
Bài 14: Mô hình logistic đơn biến. bài giảng sẽ giới thiệu khái niệm odds và tỉ số odds (odds ratio) và ứng dụng trong mô hình hồi qui logistic. Bài giảng sẽ tập trung vào cách diễn giải ý nghĩa của các tham số trong mô hình và ý nghĩa thực tế.
Bài 15: Mô hình logistic đa biến. Tiếp tục mô hình hồi qui logistic đơn biến, bài này sẽ trình bày phương pháp phân tích với nhiều biến tiên lượng và những vấn đề kèm theo như đa cộng tuyến.
Bài 16: Phân tích sống còn (survival analysis). nhiều nghiên cứu khoa học quan tâm đến yếu tố thời gian dẫn đến biến cố. Bài này giới thiệu phương pháp life-table và Kaplan-Meier trong việc mô tả các biến thời gian và xác suất sống còn. Phương pháp log-rank test cũng sẽ được giới thiệu qua chương trình “survival” trong R.
Ngày 6 (20/9/2022)
Bài 17: Mô hình Cox. tiếp tục phương pháp Kaplan-Meier là [mô hình] Cox’s proportional hazards model. Bài giảng sẽ giới thiệu khái niệm “hazard” (rủi ro) và cách xây dựng mô hình Cox để tiên lượng một biến phụ thuộc.
Bài 18: Sai sót phổ biến trong thiết kế nghiên cứu và phần tích dữ liệu. Trong thực tế có rất nhiều sai sót và thiếu sót trong phân tích dữ liệu, và những sai sót này dẫn đến bài báo bị từ chối công bố trên các tập san quốc tế.
Đăng kí và liên lạc
Học viên sẽ đăng kí từ ngày ra thông báo đến hết ngày 9/9/2022.
Lệ phí khóa học: 5 triệu đồng/học viên (bao gồm sách, tài liệu giảng dạy, và teabreak trong suốt 6 ngày học, và Giấy chứng nhận đào tạo liên tục 48 giờ).
Sáng nay, đang đi công tác ở Gold Coast, nghe hung tin: Bs Phạm Văn Đởm, cựu Giám đốc Bệnh viện Kiên Giang, mới qua đời, thọ 73 tuổi. Dù biết rằng với những căn bệnh hiểm nghèo thì việc anh ấy sẽ ra đi chỉ là vấn đề thời gian, nhưng nghe tin này tôi vẫn thấy buồn tiếc. Tôi chợt nhớ lại những kỉ niệm mà tôi có cùng với anh ấy cả 20 năm qua.
Hồi Tháng Tư năm nay, khi về Việt Nam công tác tôi có ghé qua Rạch Giá gặp bạn bè. Định gọi điện cho anh ấy đến chơi, nhưng ai cũng nói ‘không nên’, vì anh ấy đang mắc bệnh nặng. Trước đó, anh bị đột qụi nhưng qua khỏi, nhưng rồi lại phát hiện mắc bệnh hiểm nghèo khác, rất có thể phải nhập viện. Vài ngày trước, một người bạn ở Bệnh viện Kiên Giang cho biết anh ấy đã nhập viện ở Chợ Rẫy và đamg trong cơn nguy kịch. Đến 9 giờ tối ngày 3/8 thì anh ấy trút hơi thở cuối cùng. Anh thọ 73 tuổi.
Tiến sĩ Phạm Văn Đởm (1949 – 2022)
Lần đầu gặp nhau: ít nói
Tôi và anh Đởm có nhiều kỉ niệm. Không nhớ lần đầu tôi gặp anh là năm nào, chỉ nhớ rằng đó là một dịp tôi về quê thăm nhà, và nhân tiện muốn ghé qua bệnh viện chơi, vì nghe nói bệnh viện mới có cái máy DXA. Tôi gọi điện cho anh và tự giới thiệu (nghĩ anh ấy làm gì biết tôi là ai). Nhưng không ngờ anh ấy biết khá rõ và còn nhắc lại những bài báo tôi đăng trên TT nữa! Anh ấy nói “Anh chờ đó chừng 3 tiếng, họp xong tôi sẽ đi đón anh.” Tôi nói tôi có thể lái Honda ra Rạch Giá, nhưng anh ấy gạt đi ý tưởng đó, nói rằng ‘nguy hiểm lắm‘.
Đúng 3 giờ sau, cái xe Corolla nhỏ màu xanh đậm đã đậu ở Chắc Kha. Lần đầu tiên gặp anh ấy tôi hơi ngạc nhiên, vì nhìn khá trẻ so với cái tuổi đời mà tôi nghe bạn bè nói. Anh Đởm từng là sinh viên thời trước 1975 (SPC); sau năm 1975 có thời đi lính đánh nhau bên Campuchea; rồi giãi ngủ và đi học ở trường y Sài Gòn. Sau đó là một quá trình làm việc ở nhiều nơi, và ghi danh học tiến sĩ. Sau khi có bằng tiến sĩ, rồi chẳng hiểu sao anh ấy ‘lưu lạc’ về Kiên Giang và được bổ nhiệm làm sếp bệnh viện. Tôi nói lưu lạc (trong ngoặc kép) là vì anh ấy không phải là dân Kiên Giang, mà là dân Ô Môn, Cần Thơ (cũng chẳng bao xa đối với Rạch Giá). Tuy nhiên, Kiên Giang xem anh ấy là một trong những người con ưu tú.
Anh Đởm là người rất ít nói, và điều này tôi ‘phát hiện’ khi ngồi trên xe. Suốt con đường chừng 30 phút anh ấy không nói gì nhiều, mà chỉ hỏi tôi về lâu chưa, thời tiết ở bên Úc ra sao (vì anh ấy có con định cư ở Melbourne). Tôi hỏi tình hình ở Kiên Giang ra sao thì anh ấy nói “Anh đi vòng vòng thì sẽ biết rõ hơn, chứ tôi nói thì làm sao đầy đủ được.” Tôi thì nghĩ có thể anh ấy cẩn thận với người có ‘yếu tố nước ngoài’, nên giữ lời.
Đến nơi, anh ấy dẫn tôi đi một vòng và giới thiệu với ban giám đốc bệnh viện và những trưởng khoa, những người mà tôi vẫn giữ liên lạc cho đến nay. Rồi anh ấy dẫn tôi đi vòng bệnh viện, lúc đó rất ư là bận rộn và bề bộn, và sau cùng là đi xem cái máy DXA mới mua, trông rất ok, nhưng hình như máy được một quĩ nào đó ở nước ngoài tài trợ nên phải mua loại máy mà quĩ đó yêu cầu.
Anh ấy hỏi tôi có thể sử dụng máy này cho việc gì, và tôi vui vẻ trả lời và đưa ra một đề nghị (đùa) là dùng cái máy này để đo tỉ trọng mỡ ở các viên chức trong tỉnh. Không ngờ anh ấy nói điều đó hoàn toàn ok, vì các quan chức phải đi kiểm tra sức khoẻ theo định kì nên có thể làm. Tuy nhiên, nói vui thế thôi, chứ tôi đề nghị là nên xác định giá trị tham chiếu trước, rồi sau đó dùng nó cho việc chẩn đoán và theo dõi loãng xương.
Giống như ‘truyền thống’ miền Tây, tôi được giữ lại cho đến tối, rồi kéo nhau ra quán Gió Biển. Đó là lần đầu tiên tôi ghé qua quán này và thấy thích lắm. Ra đó một hồi thì những người bạn tôi gặp lúc trưa nay cũng kéo nhau ra đó. Hoá ra, hôm đó là tiệc đãi … tôi. Tôi đang nghĩ trong bụng mình chưa làm gì mà sao họ đãi mình. Nhưng vui trước cái đã.
Thật ra, buổi gặp mặt hôm đó là mở đầu cho hàng loạt việc làm sau này mà tôi và Bs Nguyễn Đình Nguyên thực hiện cho bệnh viện và đồng hương Kiên Giang. Những lớp huấn luyện về nghiên cứu khoa học, lớp CME loãng xương, và hàng loạt seminar nhỏ được tổ chức ở đây.
Sau này, cứ mỗi lần tôi về nhà là anh ấy đều kéo ra Rạch Giá, làm chuyện này việc kia. Có khi chẳng làm gì mà chỉ … nhậu. Nói ‘nhậu’ không là chưa đủ mà thật ra là bàn về chuyện đào tạo này nọ. Qua những lần gặp như thế tôi có nhiều kỉ niệm với anh ấy và các bạn ở Kiên Giang.
Từ trái sang phải: tôi, Bs Nguyên, và Bs Đởm. Hình này hình như cũng 15 năm rồi, chụp trong buổi kết thúc lớp học mà Bs Nguyễn Đình Nguyên (người đứng giữa, sau này tốt nghiệp tiến sĩ từ UNSW) và tôi phụ trách giảng. Anh Đởm đề nghị Uỷ ban tặng bằng khen cho tôi, nhưng tôi không chịu. Mà, không chịu cũng không được, nên vẫn có … bằng khen.
Kỉ niệm “Gặp ông Tây”
Có lần tôi có việc gấp nên cần đi máy bay từ Sài Gòn về Rạch Giá (vốn chỉ 35 phút thôi), nhưng khổ nỗi là không còn vé. Dạo đó, người Rạch Giá hay đi máy bay lên Sài Gòn, vì rất tiện và giá cả cũng tương đối mềm. Tôi bí quá, nên thử gọi điện cho anh Đởm xem có giúp gì được không.
Tôi biết anh ấy là người có nhiều quen biết ở Rạch Giá, nên chắc có thể có những kênh riêng để mua vé máy bay. Thật không ngờ là anh ấy vui vẻ nói ok. Tôi đang phân vân ‘OK là sao?’ nhưng không hỏi thêm. Anh ấy chỉ nói sáng ra phi trường là có vé, vì văn phòng bệnh viện sẽ lo hết. Anh nói trong các chuyến bay Sài Gòn – Rạch Giá, thường có một ghế dành cho lãnh đạo đi công tác gấp, và may mắn là hôm đó chẳng có lãnh đạo nào đi, nên tôi … đi.
Tuy nhiên, thay vì máy bay chở tôi đi Rạch Giá thì lại đi tuốt ra … Phú Quốc! Tôi còn đang thắc mắc, chưa biết chuyện gì xảy ra, thì máy bay hạ cánh. Người ra đón tôi là anh Đởm, vẫn tươi cười nhưng không giải thích gì cả.
Ngoài tôi, anh ấy còn đến chào đón một ông khách Tây (tên Paolo, nếu tôi nhớ không lầm) trên chuyến bay, rồi anh ấy quay sang tôi nói rằng ông Tây này đại diện cho một tổ chức y tế bên Âu châu đến thăm bệnh viện Kiên Giang với hảo ý cho một cái máy cho khoa ung thư. Tôi hỏi “rồi sao tôi có mặt ở đây“, anh ấy cười bí hiểm nói “Đi nhậu trước rồi nói chuyện sau.“
Địa điểm nhậu có tên là “Quán biên thuỳ”. Chủ quán là người Rạch Giá ra đây lập nghiệp, và anh quen biết rất nhiều trong giới Nhà nước và doanh nghiệp. Chủ quán là người rất văn nghệ, có sẵn cây đờn và sẵn sàng ca vọng cổ phục vụ khách quen. Khi tới quán thì đã có vài người trong bệnh viện ở đó. Anh Đởm giới thiệu tôi là “Thầy” từ Úc về chơi, và ông Tây là “Nhà hảo tâm”, rồi quay sang chủ quán anh nói “Anh đãi cho hai thượng khách này món nào coi được cái nghen“.
Tôi nghĩ trong bụng mình có là thượng khách gì đâu, mình chỉ … ăn ké thôi. Hoá ra, đó là món nhum biển, nó như con sò nhưng có gai chung quanh, và người ta hay nạo lấy thịt ăn sống với tái chanh. Lần đầu tiên tôi ăn món đó và thấy ngon. Ông Tây (là dân Ý) nói rằng ở Ý người ta cũng ăn sống như ở Phú Quốc này.
Chiều về đi tắm biển anh ấy mới nói rằng anh ấy muốn đãi ông Tây kia trước khi làm việc chánh thức vào ngày mai (tức Thứ Hai), và đúng vào lúc tôi về thăm nhà nên anh ấy “bắt cóc” tôi làm thông dịch luôn vì tôi khá rành bệnh viện này trước đây và cũng là người con của Kiên Giang. Dĩ nhiên là tôi vui vẻ nhận lời.
Tối về khách sạn, tôi lại gặp thằng em là Bs Mẫn (lúc đó nó mới du học đâu bên Mĩ về và làm việc cho Bệnh viện Kiên Giang) đang lúi húi soạn slides. Tôi hỏi slides cho chuyện gì, thì nó nói là để cho buổi buổi họp ngày mai với ông Tây kia. Tôi nói rằng “nếu em muốn ca bài khó khăn, thì em phải có những con số về dân số của tỉnh, số giường bệnh viện, số bệnh nhân, số bệnh nhân ung thư, v.v. vì Tây họ rất ư là định lượng. Nói khơi khơi họ không ‘phê’ đâu.” Cuối cùng thì tôi cũng giúp cho nó có một bộ slides hoàn chỉnh để nói chuyện và ca bài ‘khó khăn’.
Kỉ niệm buổi họp ‘lịch sử’
Ngay trong đêm đó chúng tôi soạn cái itinerary cho ông Tây, chính xác đến từng phút. Giờ nào, phút nào ổng làm gì, đi đâu, v.v. đều nằm trong cái itinerary. Ổng rất ‘ấn tượng’ với cách làm việc này và cám ơn rối rít.
Chúng tôi đi tàu từ Phú Quốc về Rạch Giá chuyến sớm nhứt. Sau buổi ăn sáng bún cá ngon ơi là ngon, anh Đởm và tôi dẫn ông Tây đi vòng bệnh viện. Ui chao, bệnh nhân nằm la liệt từ trong ra ngoài, và chiếm luôn cả mấy gốc cây.
Ông Tây hỏi tôi “Họ là thân nhân hả?” Tôi nói “Họ là bệnh nhân”. Ông ấy mở mắt kinh ngạc nói chưa bao giờ ông ta thấy cảnh tượng quá ‘upset’ như thế này trong đời. Ttôi nói “Chút xíu nữa vào họp anh sẽ biết tại sao.” Ông ấy vẫn lắc đầu.
Dẫn ông ấy đến khoa ung thư, nơi mà tổ chức y tế của ổng muốn xem xét tài trợ cho cái máy quan trọng. Em trưởng khoa hình như tên là Bs Tuấn, nói chuyện thật thà rặc miền Tây. Tôi đóng vai thông dịch. Tôi nói bằng tiếng Việt với em bác sĩ rằng ông này đến đây với ý định cho máy, em nhớ ca bài ‘khó khăn’ nghen. Tôi nháy mắt cho em ấy, nhưng hình như em ấy không hiểu ý tôi. Tôi quay sang ông Tây và giới thiệu đây là bác sĩ trưởng khoa, người sẽ giới thiệu hoạt động của khoa.
Ông Tây hỏi khoa có bao nhiêu bệnh và bao nhiêu giường, bác sĩ Tuấn trả lời bằng tiếng Việt và đưa ra những con số khá thấp. Tôi nhắc khéo là em nghĩ trong tương lai con số sẽ tăng rất cao, gấp 2-3 lần con số này, nhưng em ấy không hiểu mà vẫn nói “Dạ, mấy con số đó là chính xác thầy.” Tôi nói thì dĩ nhiên là chính xác, nhưng chúng ta đang xin máy mà em nói vậy thì chưa đủ lí do để ổng cho mình.
Tôi quay sang ông Tây nói bằng tiếng Anh kèm theo mấy con số cao gấp 2 lần, làm ông ấy kinh ngạc nói “Trời ơi! Cái mày cũ kĩ này mà phục vụ cho bao nhiêu người đó ư?” Tôi gật đầu nói “Ừ. Tôi đã nói với ông rồi: đây là nơi nghèo khó mà.”
Sau đó là vào phòng họp để nghe báo cáo về tình hình quá tải của bệnh viện và y tế nói chung ở tỉnh. Sau báo cáo của Bs Mẫn đến phiên tôi nói về tình hình hình y tế ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, kèm theo những con số cụ thể làm ông Paolo rất ấn tượng. Tôi nói chỉ có 5 phút mà điệp khúc ‘khó khăn’ lặp lại 5 lần. Tôi có ý nói vậy để nhấn mạnh. Kết qủa mĩ mãn là bệnh viện được tài trợ cho cái máy mà anh Đởm muốn.
Đúng theo lịch trình sắp xếp trong itinerary, ông Tây được đưa về sân bay để quay về Sài Gòn. Hình như ổng còn đi đâu nữa trong chuyến viếng thăm Việt Nam.
Kỉ niệm làm thông dịch
Có năm tôi về thăm nhà và cận dịp Tết, nên chỉ muốn tiêu thời gian trong quê với bà con thôi. Nhưng chẳng hiểu sao anh Đởm biết tôi có mặt ở Kiên Giang, nên gọi điện nói rằng sẽ có xe đến đón tôi trong 2 giờ nữa. Để chi vậy? Anh ấy nói có chuyện quan trọng cần đến tôi.
Hình này đã 15 năm rồi. Hôm đó là buổi họp dành cho người nước ngoài đầu tư ở Kiên Giang và cả Việt kiều. Kiên Giang là nơi xuất phát của rất nhiều ‘Thuyền Nhân’ vào thập niên 1970s và 1980s, nên có rất nhiều Việt kiều ở đây. Hôm đó tôi được Bs Phạm Văn Đởm đề cử làm thông dịch viên cho ông đồng hương người Úc đang đầu tư vào một dự án lớn ở tỉnh Kiên Giang.
Hoá ra, “chuyện quan trọng” là một buổi liên hoan cuối năm mà tỉnh tổ chức cho các nhà đầu tư và NGO ở nước ngoài đang hoạt động ở Kiên Giang. Trong số các nhà đầu tư này có khá nhiều người Úc và người Úc gốc Việt. Anh Đởm là trưởng ban tổ chức buổi lễ, và muốn tôi phát biểu vài câu và sẵn dịp làm thông dịch luôn.
Dĩ nhiên là tôi không có lựa chọn nên phải nhận lời. Tôi làm thông dịch cho ông Úc, nhưng thật ra tôi chỉ nghe ổng nói gì rồi nói lại theo cách tôi hiểu, chớ không dịch từng chữ. Có những câu ổng nói dài dòng, tôi dịch ngắn ngủn. Khi xuống khán đài tôi giải thích cho ổng hiểu là tiếng Việt gọn lắm, mình có khi nói cả chục chữ nhưng tiếng Việt chỉ cần 2 chữ. Ổng gật gù.
Đến phiên tôi phát biểu, anh Đởm còn dặn nói gì để cho thấy Kiên Giang mình … khác. Tôi nói Kiên Giang là một Việt Nam trong Việt Nam, hiểu theo nghĩa có một chút Vịnh Hạ Long, một chút rừng, biển mênh mông, và dĩ nhiên là ruộng đồng phì nhiêu. Tôi trích con số tỉ lệ tăng trưởng GDP giữa An Giang co hơn Kiên Giang, và nói Kiên Giang có thể phát triển hơn nữa. Bởi vì An Giang chẳng có biển mà họ lại là nơi chế biến hải sản từ Kiên Giang!
Phóng viên có mặt hôm đó rất thích phát biểu của tôi, nên họ kéo tôi ra ngoài và phỏng vấn và ghi hình. Họ kêu tôi nói lại lời phát biểu hồi nãy, và tôi làm y chang cộng với vài dữ liệu khác. Họ nói tối nay sẽ phát hình và tôi nhớ đón xem.
Tôi gọi điện về nhà hân hoan báo cho mấy người em và bà con là “Tối nay coi tao trên truyền hình Kiên Giang”. Ai cũng theo dõi, nhưng đến phút cuối cùng của bản tin thì chẳng thấy tôi đâu.
Hoá ra, có người trong uỷ ban hôm đó đã không vui khi nghe tôi so sánh Kiên Giang với An Giang, nên họ quyết định không phát đi lời phát biểu đó. Anh Đởm thì không ngạc nhiên, và cho rằng đó chỉ là cách truyền thông người ta làm việc thôi.
Kỉ niệm khô cá sặc
Nhớ lần anh ấy rủ tôi đi Cần Thơ gặp một quan chức cao cấp (cấp thứ trưởng) để vận động xin tài trợ cho bệnh viện. Đến Cần Thơ thì đã 8 giờ tối, và chúng tôi được sắp xếp cho ở Nhà khách chánh phủ, nguyên là một trung tâm chỉ huy hải quân thời VNCH. Phòng ốc vẫn còn rất tốt và chỉnh chu.
Đói bụng quá, nên tôi kêu đồ ăn. Nhưng đây là quán của Nhà nước, nên vận hành y như Nhà nước, tức là chậm chạp, hành chánh hoá. Tôi kêu vài món trên thực đơn, nhưng món nào cũng nhận câu “Hết rồi chú ơi.” Bí quá tôi kêu món khô cá sặc và xoài, nhưng vẫn câu trả lời “Hết rồi chú ơi!”
Anh Đởm nãy giờ không nói gì đột nhiên nói một câu: “Mày nói sao cho nghe được coi. Miền Tây mà không có khô cá sặc sao? Còn hết thì mày phải tìm cách làm cho có, như ra ngoài mua đem về đây.” Nghe sếp Đởm nói có lí, anh chàng bồi bàn chạy vào trong ‘hội ý’ gì đó, rồi đi ra nói “Dạ, gần hết giờ làm việc rồi. Mấy chú thông cảm.“
Tôi cười ha hả nói: Thôi mình ra bến Ninh Kiều thì chắc ăn hơn.
***
Sau này tôi còn gặp anh Đởm nhiều lần ở Rạch Giá, Cần Thơ và trong các hội nghị y khoa ở Việt Nam, và một lần ở Úc. Thật ra, tôi nghe biết rằng mấy năm gần đây anh Đởm bị đột quị, rồi kéo theo là những di chứng nguy hiểm làm cho sức khoẻ càng ngày càng suy kém.
Cuối năm 2019 tôi về Việt Nam ăn Tết và gặp anh ấy ở Rạch Giá. Lúc đó thì nhìn bề ngoài anh ấy vẫn ok, nhưng anh than phiền là sức khoẻ kém quá, nên chỉ đến đây nói chuyện, không ăn uống gì đâu. Không ngờ hôm đó là lần gặp mặt sau cùng, vì sau đó là Covid-19 và phong toả suốt 2 năm không đi đâu được. Ngay cả tháng 4 vừa qua tôi cũng không có dịp gặp anh ấy. Đúng là “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô / Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.” Nay thì anh ấy đã giã biệt cõi trần và chuyển nghiệp. Xin mượn cái note này để vừa ôn kỉ niệm xưa vừa nói lời chia tay với anh Đởm. Tôi chắc rằng là bác sĩ anh ấy biết quá rõ qui luật sinh lão bệnh tử mà phàm là người thì ai cũng phải trải qua. Mong anh được siêu thoát về với cõi lãnh. Xin san sẻ nỗi buồn với chị Đởm và gia đình.
Mấy ngày qua, báo chí trở nên khá ồn ào chung quanh vấn đề lễ phục trong ngày lễ tốt nghiệp của Trường đại học Kinh tế thuộc ĐHQGHN. Tôi nghĩ người ta ồn ào không hẳn là lễ phục dành cho sinh viên, mà là lễ phục của hiệu trưởng trông có vẻ mang màu sắc tôn giáo. Tôi có vài lời chia sẻ dưới đây, và báo chí cũng có đăng. Nay viết lại cho đầy đủ hơn.
Phẩm phục của hiệu trưởng Trường đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) ngày 29/7. Ảnh của Fanpage nhà trường
Lễ phục tốt nghiệp đại học rất đa dạng vì tuỳ thuộc vào quốc gia và truyền thống văn hoá. Ở các nước chịu ảnh hưởng Anh, hầu hết các lễ phục khoa bảng đều theo truyền thống của Đại học Oxford hay Đại học Cambridge. Hai đại học này đã đặt ra những qui định về lễ phục cho sinh viên tốt nghiệp và cho những giáo sư trong đại học từ thế kỉ 15. Sau này, các đại học Mĩ lại thay đổi một vài đặc điểm từ lễ phục của hai đại học trên. Rất khó tóm tắt các qui định về lễ phục tốt nghiệp đại học vì sự khác biệt rất lớn giữa các đại học trong một quốc gia và giữa các quốc gia.
Lễ phục cho sinh viên tốt nghiệp
Đối với sinh viên tốt nghiệp đại học, lễ phục thường có 3 trang phục chính: áo choàng (gown), nón (mortarboard), và huy hiệu (hood). Mỗi trang phục có nhiều màu (hơn 20 màu) và hình dạng khác nhau. Do đó, tổng hợp màu sắc và hình dạng có thể lên đến hàng trăm loại lễ phục khác nhau cho từng ngành học và cấp học.
Áo choàng trong thực tế là lễ phục do các tu sĩ thời xưa bên Âu châu thiết kế. Vì thời tiết lạnh, nên áo choàng thường rất dày và khá nặng, và thường có màu đậm (như đen, nâu, tím đậm, nhưng cũng thỉnh thoảng có màu đỏ). Áo choàng là biểu tượng của dân chủ trong học thuật, tức là trong buổi lễ tốt nghiệp thì ai cũng mặc áo choàng, tức ‘ai cũng như ai’. Thế nhưng nếu chú ý kĩ thì sẽ thấy có sự khác biệt về độ dài và màu sắc giữa các ngành học. Chẳng hạn như người tốt nghiệp bằng Tiến sĩ Khoa học (Doctor of Science) thì mặc áo chòang dài màu đỏ thắm, nhưng cấp tiến sĩ, thạc sĩ và cử nhân thì thường là màu đen.
Nón cũng là một trang phục dùng để phân biệt bằng cấp. Thời La Mã, khi nô lệ được trả tự do, họ thường đội nón hình vuông; do đó, nón là biểu tượng của tự do. Đến thế kỉ 15, nón thường có hình vuông, tượng trưng cho sách vở, cho thành tựu trong sự học. Sau này, vài đại học có loại nón tròn hoặc bát giác, thường dành cho cấp tiến sĩ và tiến sĩ khoa học. Nhìn chung, nón là biểu tượng của tự do và học thuật.
Huy hiệu hayhoodtrong thực tế là một tấm vải đeo sau lưng nhưng được choàng ngang cổ. Màu của huy hiệu nói lên ngành học. Chẳng hạn như ở Đại học New South Wales (theo truyền thống Cambridge) thì huy hiệu màu tím dành cho ngành y, màu đỏ là ngành kĩ thuật, màu trắng là khoa học xã hội, v.v. Nhưng nếu trường đại học theo truyền thống Đại học Oxford thì màu của huy hiệu có thể khác.
Đây là phẩm phục của Doctor of Science (medicine) truyền thống Cambridge. Đứa chụp hình bên tôi là đứa cháu.
Lễ phục cho hiệu trưởng và giáo sư
Hiệu trưởng đại học (ở Anh và Úc gọi là ‘Vice-Chancellor’) thường có phẩm phục khác với sinh viên, tuy nhiên về màu sắc và hình dạng thì vẫn theo qui định như tôi mô tả trên. Điều này có nghĩa là nếu họ tốt nghiệp tiến sĩ và từ ngành y chẳng hạn và nếu theo truyền thống Cambridge thì phẩm phục vẫn là áo choàng, viền tím, và nón bát giác. Nhưng điểm khác chủ yếu là phẩm phục của hiệu trưởng có thêm vằn hay vạch (thường màu vàng). Có vài đại học, hiệu trưởng mặc áo choàng màu đỏ (nếu họ có bằng Tiến sĩ Khoa học) và viền vàng.
Đây là phẩm phục của hiệu trưởng UNSW, truyền thống Cambridge
Điểm khác biệt thứ hai là trong buổi lễ tốt nghiệp có sự hiện diện của hiệu trưởng thì phải có người vác quyền trượng dẫn đầu. Theo truyền thống Anh, quyền trượng là biểu tượng của uy quyền, và nó được đặt trong trong các buổi họp Quốc hội, Hội đồng thành phố, v.v. Bởi vì đại học là ‘chủ nhân’ học thuật và là thiết chế duy trì truyền thống học thuật và uy quyền đối với những người đến đó theo học, nên buổi lễ tốt nghiệp phải có quyền trượng. Sự hiện diện của cái trượng trong buổi lễ có nghĩa là có người với chức vụ cao nhứt trong buổi lễ. Trước khi bắt đầu buổi lễ, có người vác quyền trượng đi trước và hiệu trưởng theo sau. Nhưng khi hành lễ quyền trượng phải được đặt trên giá nằm ngang, ý nói là chỉ sử dụng quyền lực một cách công minh.
Ở các đại học Úc tôi không thấy các hiệu trưởng đeo collar (cái vòng xích choàng ngang cổ). Vòng xích này có lịch sử từ thế kỉ 15 (hay 16?) thường làm bằng vàng, là biểu tượng của chức vụ cao nhứt. Do đó, các thị trưởng thành phố thường đeo vòng xích để khách biết rằng đó là người có chức vụ cao nhứt trong buổi lễ. Đối với đại học thì sự hiện diện của quyền trượng là biểu tượng của quyền uy cáo nhứt, nên các hiệu trưởng không đeo vòng xích.
Như mô tả trên, lễ phục khoa bảng rất đa dạng (và khá màu mè), nhưng mỗi cái áo choàng, mỗi cái nón, và mỗi huy hiệu đều có lịch sử và ý nghĩa đằng sau. Nếu không rõ những ý nghĩa của các trang phục này mà ‘biến chế’ thì rất dễ dẫn đến ngộ nhận không cần thiết. Tưởng cần nhắc lại là trước đây, cụ Phan Châu Trinh đã từng phê bình vua Khải Định về trang phục chẳng giống ai như sau: “Bệ hạ tự chế ra một thứ lễ phục kiểu mới, tự mặc ra để ra Triều. Kiểu ấy là trên áo cẩm bào cũ, thêu vào cái cầu vai kiểu Âu, còn cổ áo và tay áo thời đính vài ngọc lòe loẹt, Âu không ra Âu, Á không ra Á, lại trên nón vua thời thêu thêm những hình rồng phụng sáng ngời”.
Câu hỏi đặt ra là các đại học Việt Nam nên cho sinh viên mặc lễ phục như ở phương Tây? Tôi nghĩ rằng không cần. Việt Nam có một nền văn hiến và truyền thống khoa bảng lâu đời. Các phẩm phục dành cho trạng nguyên, thám hoa, bảng nhãn đã có từ xa xưa, và (theo tôi) cũng trang trọng. Tại sao không sử dụng các lễ phục thời xưa, và nếu cần, chỉ thay đổi vì chi tiết về màu sắc và thiết kế là có một bộ lễ phục đậm chất Việt Nam cho sinh viên và giáo sư Việt Nam.