Bước qua lời nguyền: tiến hành dự án Đập Stung Treng là huỷ diệt môi sinh (ecocide) – một nhìn lại

Lời giới thiệu: Một trong những vấn đề thời sự quan trọng nhứt, có ảnh hưởng xấu đến sự sống còn của người Việt và cư dân vùng Đông Nam Á là những can thiệp vào sông Mekong. Sự can thiệp đó bao gồm những con đập lớn do Trung Quốc xây dựng ở thượng nguồn và cả những con đập ở hạ nguồn (Thái Lan, Lào, Cam bốt, Việt Nam). Mới đây, nhà cầm quyền Cam bốt cho phục hoạt dự án thuỷ điện Stung Treng, vốn đã là mối quan tâm của các cơ quan quốc tế. Dự án này sẽ làm cho hơn 10,000 người dân mất chỗ ở và ảnh hưởng tiêu cực đến môi sinh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Trớ trêu thay, những ảnh hưởng này có sự góp phần của Việt Nam (ta tự hại mình).

Trong bài viết dưới đây mà tôi hân hạnh giới thiệu, Bác sĩ Ngô Thế Vinh trình bày chi tiết về những tác động đó. Bs Ngô Thế Vinh cảnh báo rằng nước phương Bắc có sẵn trong tay một loại ‘vũ khí nước’ để phát động một cuộc chiến môi sinh mà nếu chúng ta không lên tiếng phản đối thì sẽ chịu những hậu quả nghiêm trọng cho cả vùng ĐBSCL. NVT

****

Bước qua lời nguyền: tiến hành dự án Đập Stung Treng là huỷ diệt môi sinh (ecocide) – một nhìn lại

NGÔ THẾ VINH

Gửi 20 triệu cư dân ĐBSCL

không được quyền có tiếng nói

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

Lời Dẫn Nhập: Năm 2020, đã có một lúc bao nhiêu triệu cư dân vùng hạ lưu sông Mekong thở phào nhẹ nhõm khi nghe tin Bộ Điện Lực Cam Bốt   tuyên bố hoãn mọi dự án thuỷ điện trên sông Mekong trong 10 năm tới [1], như vậy là ít nhất có một thời kỳ dưỡng thương cho dòng sông bị đầy những vết cắt do chuỗi đập thuỷ điện của Trung Quốc và Lào phía thượng nguồn. Nhưng rồi mới đây, chỉ hai năm sau, 2022, là một tin chấn động khác: Phnom Penh tuyên bố cho tái phục hoạt / resurrection dự án thủy điện Stung Treng 1.400 MW trên dòng chính sông Mekong phía đông bắc Cam Bốt sát ranh giới với Lào. Dự án này không chỉ sẽ tàn phá sinh cảnh các khu đất ngập được bảo vệ bởi Công ước Ramsar ký kết từ năm 1971, mà còn gây tác hại vô lường trên hai vùng châu thổ phì nhiêu Tonlé Sap và ĐBSCL. Đây là bài đầu tiên trong loạt 3 bài viết nhìn lại toàn cảnh cuộc hành trình gian truân của một dòng sông – Sông Mekong hơn nửa thế kỷ qua.      

*

MEKONG SẼ KHÔNG XÂY THÊM ĐẬP THUỶ ĐIỆN MỚI

Tổng Giám đốc Điện Lực Cam Bốt, Keo Rattanak đã nói với các phóng viên báo chí tại tòa nhà Hội đồng Bộ trưởng ở Phnom Penh ngày 8/8/2019.

Cam Bốt không có kế hoạch xây các đập thủy điện trên dòng chính Sông Mekong mặc dù vẫn để các nhóm nghiên cứu khảo sát tiềm năng của các dự án. Chúng tôi không bàn cãi về bất cứ đầu tư nào trong lãnh vực này,” Rattanak nói tiếp. “Như vậy, quý vị không phải quan tâm về vấn đề này. Chúng tôi sẽ cố gắng đáp ứng nhu cầu điện theo những phương thức khác.[1]

     Cam Bốt phải đối đầu với tình trạng thiếu điện trầm trọng, với các khu dân cư hàng ngày bị cúp điện cùng với giá điện tăng. Thủ tướng Hun Sen nói sẽ gửi ông Rattanak đi Thổ Nhĩ Kỳ mua một con tàu phát điện (Power ship 200 MW) để bù đắp. Chính phủ cũng cố gắng gia tăng sản xuất điện mặt trời để đáp ứng nhu cầu điện cho cư dân.

     Hem Odom, một chuyên viên tham vấn độc lập về nguồn năng lượng thiên nhiên, đã hoan nghênh phát biểu của ông Rattanak, với cảnh báo về một con đập dòng chính sông Mekong sẽ gây những tổn thất rộng lớn, với xói lở hai bên bờ sông, cạn kiệt nguồn cá cũng là nguồn protein trong bữa ăn hàng ngày của người dân Cam Bốt. Không phải chỉ có Cam Bốt, mà cả Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Thiếu nước từ thượng nguồn sông Mekong và từ Biển Hồ, nước mặn xâm nhập vào ĐBSCL sâu và xa hơn.”  

TIN TỐT ĐẸP CHO SÔNG MEKONG     

World Wildlife Fund (Quỹ Đời Sống Hoang Dã Thế giới)đã vui mừng khi nghe được bình luận mới đây của Ngài Keo Rattanak, Tổng Giám đốc Điện lực Cam Bốt, rằng ông không muốn thấy hai dự án thủy điện dòng chính sông Mekong Sambor và Stung Treng được có trong quy hoạch năng lượng từ nhiều nguồn / mix energy.

      Bình luận trên được phát trong chương trình truyền hình hội thảo “Tầm nhìn Năng lượng” ở Phnom Penh do Phòng Thương mại Hoa Kỳ tổ chức và được vui mừng đón nhận do giá trị vô hạn của một dòng chảy tự do trên sông Mekong đối với hàng triệu cư dân Cam Bốt đang sống phụ thuộc vào con sông, với lượng cá bắt được là nguồn protein chính của họ. 

      Sông Mekong là định hình địa lý của đất nước Cam Bốt. Chảy xuống từ biên giới Nam Lào, và cuối cùng thì đổ vào ĐBSCL của Việt Nam qua hai nhánh: sông Tiền, và sông Bassac – có tên là sông Hậu khi vào Việt Nam. Sông Mekong cũng là nguồn cá nước ngọt lớn nhất thế giới.  Vùng đất ngập Ramsar thuộc tỉnh Stung Treng cũng là nơi cư trú của các chủng loại cá vô cùng hiếm quý như Irrawaddy Dolphin và Pla Beuk chỉ có trên sông Mekong và đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. 

      Cho tới hiện nay, khúc sông Mekong hạ lưu phía Nam Lào còn chảy tự do. Nếu Cam Bốt xây đập lớn ngăn chặn bất cứ ở khúc đoạn nào cũng sẽ gây những rối loạn về thủy học và hủy hoại của cả một hệ sinh thái không thể đảo nghịch, và cũng là thiết yếu cho sự sống còn của Biển Hồ với con sông Tonlé Sap chảy hai chiều theo mùa mỗi năm.

       Những dòng sông thoáng chảy đem tới những lợi ích quan trọng từ hệ sinh thái. Dòng sông bảo dưỡng nguồn cá nước ngọt bảo đảm an toàn lương thực cho hàng triệu cư dân, đem phù sa màu mỡ cho canh nông và cả ngăn ngừa tổn thất các cơ sở hạ tầng và đất đai do sạt lở. 

      Thay vì xây những con đập khổng lồ như Stung Treng và Sambor, Cam Bốt nên chú tâm tới nguồn năng lượng tái tạo bền vững như năng lượng mặt trời và điện gió. Những trại điện mặt trời có thể được xây dựng nhanh chóng, với giá thành rẻ hơn và tác động môi sinh rất ít. Trong khi những con đập thủy điện khổng lồ thì cực đắt và tốn kém, mà còn đưa tới hậu quả hủy hoại nguồn cá, sự đa dạng sinh học và đời sống cộng đồng. 

      Một dòng sông thoáng chảy sẽ giúp cho hàng triệu cư dân vốn sống phụ thuộc vào con sông ấy tiếp tục duy trì cuộc sống ổn định, với sự đa dạng sinh học của dòng sông, để phát triển lợi ích cho những thế hệ tương lai… Teak Seng, WWF Cambodia director

https://www.phnompenhpost.com/opinion/good-news-mekong

MỚI HAI NĂM MÀ ĐÃ BƯỚC QUA LỜI NGUYỀN

Dự án Đập Stung Treng 1.400 MW trên dòng chính sông Mekong đang  ngủ yên bấy lâu, thì nay 2022 lại được phục sinh (resurrection), khiến các cộng đồng cư dân trong lưu vực hết sức lo ngại, và cả giới bảo vệ môi sinh  vô cùng ngỡ ngàng.

Chỉ ba ngày trước khi bước sang năm 2022 (29/12/2021), Nhóm Hoàng Gia / Royal Group thuộc Tập đoàn (Conglomerate) tài phiệt lớn và thanh thế nhất của Cam Bốt đã viết thư cho chính phủ Phnom Penh xin phép cho họ được  nghiên cứu trong vòng 6 tháng tính khả thi (feasibility) của con đập thủy điện Stung Treng. Yêu cầu trên đã được Bộ trưởng Năng lượng và Hầm mỏ Cam Bốt chấp thuận, và tỉnh trưởng Stung Treng Svay Sam Eang cũng đã ra lệnh cho các giới lãnh đạo quận hạt hợp tác với Nhóm Nghiên cứu và Phát triển SBK được Nhóm Hoàng gia thuê mướn. [1]

Vị trí nghiên cứu để xây con đập thủy điện lớn nhất xứ Chùa Tháp nằm trên các vùng đất ngập (wetlands) tỉnh Stung Treng phía đông bắc Cam Bốt được bảo vệ bởi Công ước Ramsar 1971 – một Công ước mà chính Cam Bốt cũng đã đặt bút ký cam kết tuân thủ từ 1999.

Dự án thủy điện Stung Treng đã có từ năm 2007 nhưng đã phải khựng lại do bị các tổ chức bảo vệ môi sinh chỉ trích mạnh mẽ vì những tác động hủy hoại rộng lớn trên môi trường và cả sinh kế của người dân Cam Bốt.

Đến nay 2022, dự án ấy lại được Nhóm Hoàng Gia Cam Bốt phục hoạt – mà ai cũng biết Royal Group là một nhóm tài phiệt của chính quyền Phnom Penh, đã từng đứng sau dự án thủy điện Hạ Sesan-2 (Lower Sesan-2) trên một phụ lưu lớn nhất của sông Mekong đã từng gây tai tiếng trong các cộng đồng cư dân trong lưu vực.

Khu đất ngập Ramsar tỉnh Stung Treng chiếm một diện tích 14.600 hectares, trải dài 40 km lên tới phía bắc nơi con sông phụ lưu Sekong đổ  vào sông Mekong, ngay sát với biên giới Cam Bốt và Nam Lào. Đây cũng là sinh cảnh (habitats) cuối cùng còn sống được cho các loài cá hiếm quý và rất nhiều loài chim nước đang có nguy cơ tuyệt chủng.

VÙNG XÂY CON ĐẬP STUNG TRENG:

Năm 2007 nhóm Bureyagesstroy thuộc tập đoàn Thủy điện nhà nước Nga (RusHydro) tham gia cuộc nghiên cứu xây đập Stung Treng, nhưng chỉ hai năm sau, công ty Nga này bỏ cuộc. Và rồi Công ty quốc doanh Sông Đà của Việt Nam nhảy vào thay thế. Kết quả của các cuộc nghiên cứu ấy đã gây ra rất nhiều chỉ trích gay gắt nên dự án Stung Treng phải gác lại. [1]

Tới năm 2012, cuộc khảo sát của Viện Nghiên cứu và Phát triển Ngư nghiệp Nội đảo (Inland Fisheries Research and Development Institute)

thuộc Bộ Ngư nghiệp Cam Bốt nhận thấy con đập Stung Treng sẽ làm giảm lượng thủy  sản xuống tới 24% vào năm 2030. Và các nhà nghiên cứu đã cảnh báo con đập Stung Treng có thể gây tình trạng suy dinh dưỡng và ảnh hưởng tới sức khỏe của các cộng đồng cư dân nghèo.

Hình 1: trái, sơ đồ khu đất ngập trong tỉnh Stung Treng, nơi Nhóm Hoàng Gia dự trù sẽ xây con đập thủy điện 1.400 MW; phải: cảnh quan của vùng đất ngập Stung Treng. [nguồn: Gerald Flynn / Mongabay][1]

Tháng 10/2017 Thủ Tướng Hun Sen đã đến Stung Treng chủ trì lễ khánh thành đập thủy điện Hạ Sesan-2 công suất 400 MW với diện tích hồ chứa 340 km2 gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singaporedo Công ty HydroLancang của Trung Quốc nắm 51% cổ phần, Nhóm Hoàng gia Cam Bốt 39% và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) 10%.

Con đập Hạ Sesan-2 được xem là tệ hại nhất: nó đe dọa sự sinh tồn của hơn 50 chủng loại cá và cũng làm giảm 9,3 % tổng sản lượng cá trong lưu vực [khoảng 200.000 tấn cá/ năm]. Ảnh hưởng tác hại môi sinh đó không chỉ trên lãnh thổ Cam Bốt mà lên xa tới Lào, Thái Lan và xuống tới ĐBSCL, được coi như vựa lúa của Việt Nam.

Năm 2021, Tổ chức Theo Dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) đã ấn hành một hồ sơ dày 137 trang gọi “Hạ Sesan-2 một thảm họa — Lower Sesan-2 a disaster” [1], lên án các nhà xây đập đã vi phạm nhân quyền, chà đạp các cộng đồng cư dân bản địa (indigenous peoples) và con đập đã hủy hoại nguồn cá trên sông Sesan một cách nghiêm trọng, cùng lúc là sự thất bại cả về mục tiêu của sản xuất điện. Chỉ có chính người dân Cam Bốt là phải trả một cái giá quá đắt!

Hình 2: Tưởng cần nói thêm là EVN / Electricity of Vietnam, Công Ty Điện Quốc Doanh Việt Nam cũng đã nhúng tay rất sâu vào dự án Hạ Sesan-2 này ngay từ những bước đầu.

Với những hậu quả tiêu cực đó khiến công ty xây đập Trung Quốc HydroLancang và Nhóm Hoàng Gia thân chính phủ Hun Sen và đã cố gắng tô vẽ sao cho tạo ra được một hình ảnh tích cực về con đập Hạ Sesan-2. Nhưng vẫn có một cơn bão chỉ trích từ các tổ chức NGOs bảo vệ môi sinh đồng loạt lên án dự án đập Hạ Sesan-2 do những than vãn của bao nhiêu chục ngàn cư dân đã phải di dời (resettlements), do hồ chứa đã làm ngập 30,000 mẫu đất vốn là những khu sinh sống trù phú yên ổn và hạnh phúc bấy lâu của bao nhiêu ngàn gia đình qua rất nhiều thế hệ.

Đã từng qua những trải nghiệm đắng cay từ con đập Hạ Sesan-2, nay cư dân sinh sống trong tỉnh Stung Treng đang vô cùng lo ngại khi thấy Nhóm Hoàng Gia trở lại và vẫn với toán Nghiên cứu và Phát triển SBK khảo sát địa chất (geological studies) cho con đập lớn 1.400 MW – thay vì hoãn lại cho tới năm 2030.

Mao Sareth, trưởng khu ngư nghiệp Koh Khan Din, là một nội đảo vùng phía nam khu đất ngập Ramsar, tỉnh Stung Treng đã phát biểu:

“Chúng tôi đã từng phản đối con đập Don Sahong của Lào vì biết rõ nó sẽ tác hại trực tiếp trên cuộc sống của chúng tôi. Nhưng rồi, những phản đối ấy cũng vô ích và chẳng thay đổi được gì. Con đập Don Sahong vẫn cứ hoàn tất. Rồi chúng tôi phản đối con đập Hạ Sesan-2 ngay trong lãnh thổ đất nước chúng tôi và rồi cũng vô ích thôi, con đập ấy vẫn hoàn tất, chỉ có chúng tôi là mất tất cả: mùa màng, thủy sản và sinh kế cuộc sống.”[1] 

Ian Baird, gốc Canada là một  tên tuổi rất quen thuộc, nhà hoạt động môi sinh, từng sống nhiều năm trên đất Lào, Cam Bốt và là chuyên gia bảo vệ nguồn cá sông Mekong, khi nghe nói về kế hoạch phục hoạt đập thuỷ điện Stung Treng 1.400 MW,  Ian Baird nhận định rằng con đập ấy sẽ là một đe dọa nghiêm trọng trên lưu vực sông Mekong.

“Công ước Ramsar quả thật là rất yếu, chính quyền vẫn có thể làm điều mà họ muốn, nhưng nếu so với Việt Nam và Lào, thìCam Bốt vẫn có quan tâm nhiều hơn tới phản ứng của cộng đồng quốc tế và với Công ước Ramsar. Đó là lý do mà năm 2020, Cam Bốt đã tuyên bố hoãn mọi kế hoạch thủy điện trong 10 năm 2020-2030.  Điều mà các quốc gia Mekong khác trong lưu vực không hề làm.

Hình 3: TS Ian Baird, Đại học Wisconsin, nhà hoạt động môi sinh, từng sống nhiều năm trên đất Lào, Cam Bốt và là chuyên gia bảo vệ nguồn cá sông Mekong. [Nguồn: Tom Fawthrop]

“Có rất nhiều lý do để phải quan tâm ở đây, nếu con đập Stung Treng vẫn cứ tiến hành. Con sông Mekong đang chết bởi hàng ngàn vết cắt / death by a thousand cuts. Tôi đã quan sát trong nhiều năm, và thật là buồn, nhưng nhưng liệu chúng ta sẽ làm được gì?”[1]

VẪN CÓ MỘT LỰA CHỌN TỐT HƠN

Trước một thực tế: Cam Bốt đang thiếu điện, mà giá điện thì rất cao, và thủy điện cũng không hề rẻ. Không những thế, 2 dự án đập dòng chính Stung Treng và Sambor sẽ có tác động hủy hoại môi sinh rất nghiêm trọng trên nguồn nước và nguồn cá trong lưu vực.

Câu hỏi đặt ra là liệu có một lựa chọn nào tốt hơn thủy điện cho đất nước Cam Bốt? Câu trả lời là có, KS Phạm Phan Long đã viết trên tạp chí chuyên ngành PV Magazine (03/12/2019) về tiềm năng điện mặt trời nổi (FSS / floating solar system) của Biển Hồ có thể lên tới 28 GW (tức là 28.000 MW), tức là gấp 20 lần công suất con đập Stung Treng (1.400 MW), với giá thành cho kwh rẻ hơn, không kể cái giá môi sinh phải trả với thủy điện.Dự án FSS này có thể được thực hiện qua nhiều giai đoạn trên một phần mặt Biển Hồ với một mạng lưới tải điện thông minh (smart grid)  sẽ có khả năng giải quyết nhu cầu năng lượng điện sạch, là một ưu điểm với “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” – một ưu đãi thiên nhiên mà đất nước Cam Bốt có được. [3]

Sáng kiến dự án mặt trời nổi khác trên hồ chứa đập thủy điện phụ lưu Nam Ngum, KS Phạm Phan Long đề xuất công bố trên PV Magazine 01/11/2019 nay đang trở thành một hiện thực qua bản tin của Laotian Times ngày 20/02/2020: “chính phủ Lào đã ký kết với công ty Trung Quốc Hangzhou Safefound Technology để xây dựng giàn điện mặt trời nổi 1.200 MW trên mặt hồ đập Nam Ngum-1 khi hoàn thành có thể coi như lớn nhất thế giới.”

Nếu Phnom Penh cũng như Lào –  quyết tâm thực hiện dự án mặt trời trên Biển Hồ, thì 2 con đập Stung Treng và Sambor sẽ vĩnh viễn không cần thiết, mà FSS còn bảo đảm sinh kế cho hơn 30 triệu cư dân sống trong hai vùng châu thổ Tonlé Sap và ĐBSCL Việt Nam. Nhưng đến bao giờ?

KHỞI ĐẦU CHO MỘT KẾT THÚC: MỘT NHÌN LẠI

Sự kiện Phnom Penh bước qua lời nguyền, cho phục sinh dự án đập Stung Treng 1.400 MW, sẽ  là con đập dòng chính đầu tiên và lớn nhất trên sông Tonle Thom (tên Khmer của con sông Mekong) trong lãnh thổ Cam Bốt, như một hồi chuông báo động cho giới bảo vệ môi sinh, họ coinhư đây là bước “khởi đầu cho một kết thúc” đối với hệ sinh thái trong Lưu Vực Dưới sông Mekong (Lower Mekong Basin).  

Đây cũng chính là lúc để chúng ta ÔN CỐ TRI TÂN,  nhìn lại cuộc hành trình gian truân hơn nửa thế kỷ của một dòng sông, là mạch sống (lifeline) của hơn 70 triệu cư dân sống ven sông trong lưu vực.

NHỮNG CON ĐẬP LANCANG-MEKONG

Vậy mà đã 65 năm từ khi Liên Hiệp Quốc khai sinh Ủy Ban Sông Mekong 1957 (Mekong River Committee) cùng với các dự án đập thủy điện trên sông Mekong đã có rất sớm, nhưng rồi các dự án ấy bị gác lại do cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài và lan ra cả 3 nước Đông Dương, sau chiến tranh thì là mối e ngại về tác hại  rộng rãi của các con đập ấy trên môi sinh.

Có thể nói, trước thập niên 1970, Mekong vẫn còn là một con sông hùng vĩ và hoang dã, lớn thứ ba Châu Á, chảy qua 7 quốc gia kể cả quốc gia Tây Tạng* (Tây Tạng về phương diện địa dư chính trị, bấy lâu người viết vẫn ghi nhận như một quốc gia cho dù đang bị Trung Quốc xâm chiếm), với nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú, chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon Nam Mỹ.

Với chiều dài 4.800 km, Mekong là con sông lớn thứ 11 của thế giới,  
với tiềm năng thủy điện khoảng 60.000 MW, chia ra như sau:

_ 28.930 MW cho Lưu Vực Trên sông Mekong (Upper Mekong Basin) hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Trung Quốc;

_ 30.000 MW cho Lưu Vực Dưới (Lower Mekong Basin) nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc, chảy qua 5 quốc gia Myanmar, Lào, Thái Lan, Cambodia  và Việt Nam.

Nhưng cho tới nay, do nhu cầu năng lượng điện ngày càng gia tăng cho phát triển, con sông Mekong ấy đã và  đang bị hàng ngàn “vết cắt” do vô số những con đập thủy điện trên dòng chính và khắp các phụ lưu, từ bắc xuống nam với một chuỗi những hậu quả tiêu cực như sau:

1/ _ Các Hồ Chứa Thủy Điện Giữ Lại Hơn 75 tỉ m3 Nước:

Kỹ sư Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation – người đã theo dõi và lên tiếng bảo vệ sông Mekong rất sớm từ thập niên 1990, đã làm một kết toán về dung tích tổng cộng (total storage) chuỗi hồ chứa đập thủy điện hiện nay – kể cả các hồ chứa đập phụ lưu (tributary dam reservoir) trong lưu vực sông Mekong với kết quả là: tổng số dung tích lên tới 75 tỉ mét khối (m3),chiếm 16% lưu lượng trung bình hàng năm của sông Mekong,[2] lượng nước lưu trữ và tỉ lệ so với từng nước góp vào sông Mekong như sau:

_ Trung Quốc chiếm phần lớn nhất 43 tỉ mét khối (56%),

_ Lào 25 tỉ mét khối (15%),

_ Thái Lan 5 tỉ mét khối (6%)

_ Cam Bốt 1.8 tỉ mét khối (2%)

_ Việt Nam chỉ có 1 tỉ mét khối (1.5%).

Hình 4a (trái), những đập thủy điện dòng chính Sông Mekong: 11 con đập trên sông Lancang-Mekong Vân Nam, TQ đã lưu trữ 43 tỉ m3 nước, sản xuất 21.300 MW điện; riêng Lào đang hiện thực giấc mơ trở thành “Bình điện Á Châu / Asia’s Battery”, với 9 đập thủy điện dòng chính và vô số đập phụ lưu. Lào cũng lưu trữ 25 tỉ m3 nước. Riêng con đập Luang Prabang 1.410 MW do công ty quốc doanh PetroVietnam là chủ đầu tư.  [nguồn: Michael Buckley, Ngô Thế Vinh cập nhật và ghi chú].
Hình 4b (phải), vùng xám là Lưu Vực Lớn Sông Mekong [GMS / Greater Mekong Subregion] diện tích: 795.000 km2, chiều dài chính: 4.400 km, dòng chảy trung bình: 15.000 m3 /giây. [nguồn: MRC Secretariat 2000].

Không phải chỉ có lượng nước, còn thêm các yếu tố quan trọng hơn nữa là phương thức vận hành (operation) và điều tiết (regulation) của các con đập ấy. Do lấy nước vào các hồ chứa trong mùa mưa nên đã làm suy yếu dòng chảy của con sông Mekong, triệt tiêu sức mạnh của nhịp lũ (flood pulse), để tạo được dòng chảy ngược (reverse flow) trên con sông Tonlé Sap đưa nước vào Biển Hồ, vốn là  một hồ chứa nước ngọt thiên nhiên lớn nhất thế giới – như một trái tim điều hòa và tiếp máu cho hai vùng châu thổ Tonlé Sap của Cambodia và ĐBSCL Việt Nam. [2]

Với hậu quả nhãn tiền là: thời điểm con sông Tonlé Sap chảy ngược vào Biển Hồ không những đến trễ hơn 3 tháng (2019) và cũng chấm dứt sớm hơn, chỉ còn có 3 tháng thay vì 5 tháng như trước đây. Rừng lũ / floodforest thiếu lũ và cá không đủ thời gian để vào đẻ trứng và tăng trưởng… Cho nên các mùa thu hoạch cá chưa bao giờ thấp đến như vậy.

Hình 5: (1) Thời kỳ trước đập (Pre-Dam Period): Diện tích Biển Hồ co giãn theo hai mùa Mưa Nắng: Mùa Khô (trái) là hồ cạn chỉ với diện tích 2.500 km2; Mùa Mưa (phải), từ tháng 5 đến tháng 9, do nước sông Mekong dũng mãnh đổ về, con sông Tonlé Sap đổi chiều, chảy ngược vào Biển Hồ làm nước hồ dâng cao hơn từ 8 tới 10 mét và tràn bờ và làm ngập các khu Rừng Lũ / flooded forest, diện tích Biển Hồ tăng gấp 5 lần hơn, khoảng 12.000 km2. (2) Thời kỳ sau đập (Post-Dam Period): do các hồ chứa thượng nguồn lấy nước vào mùa mưa, lưu lượng dưới nguồn bị giảm mạnh, sông Mekong mất nhịp lũ / flood  pulse, khiến cho con sông Tonlé Sap không còn duy trì được dòng chảy ngược, Biển Hồ thiếu nước, thiếu phù sa, thiếu cá – được ví như một trái tim thiếu máu… ảnh hưởng tới hàng triệu cư dân sống trên hai vùng châu thổ Tonlé Sap và ĐBSCL. [nguồn: bản đồ Tom Fawthrop; ghi chú Ngô Thế Vinh].

Từ 15 năm qua diện tích Biển Hồ ngày càng bị thu hẹp; ước tính lượng nước từ sông Mekong thượng (upper Mekong) đổ vào Biển Hồ đã giảm mất 30 tỉ m3/ năm – ảnh hưởng trầm trọng tới nguồn nước, nguồn cá  và cả thiếu phù sa là nguồn phân bón thiên nhiên thiết yếu cho đất đai  nông nghiệp.

Ngày Hội Nước Sẽ Trở Thành Quá Khứ: Không biết từ bao lâu rồi, Lễ Hội Nước Bon Om Tuk có lẽ có từ thời vua Jayavarman VII thế kỷ thứ XII, người có công xây dựng khu đền đài Angkor như một kỳ quan của thế giới, và từ đó cứ hàng năm, khi vừa hết Mùa Mưa, mực nước sông Mekong bắt đầu ổn định và con sông Tonlé Sap lại chảy xuôi dòng đem theo vô số tôm cá từ Biển Hồ đổ vào các nhánh sông Mekong, xuống xa tới ĐBSCL. Đây cũng là thời điểm của Ngày Hội Nước được tính theo tuần trăng vào khoảng tháng 11 diễn ra trước Hoàng Cung, nơi bốn nhánh sông Mekong hội tụ, khu mà người Pháp gọi là Quatre Bras*. Trong dịp lễ hội này, vua và hoàng hậu tới đây chung vui với thần dân, và “Khai Mùa” cho ngư dân đánh cá, cho nông dân bắt đầu mùa gieo trồng.

[*Quatre Bras, tiếng Pháp là bốn cánh tay, tên Khmer là Chatomuk, là nơi hội tụ của 4 nhánh sông: nhánh thứ nhất từ thượng nguồn là sông Mekong Thượng (1), tới Phnom Penh chia làm hai nhánh: Mekong Hạ (2) và sông Bassac (3) là cánh tay thứ hai và thứ ba, cũng là sông Tiền và sông Hậu khi chảy vào Việt Nam, còn cánh tay thứ tư là con sông nước ngọt Tonlé Sap (4) bắt nguồn từ Biển Hồ. Đây cũng là nơi diễn ra Ngày Hội Nước Bon Om Tuk vào khoảng tháng 11 hàng năm trước Hoàng Cung.]

Nhưng rồi những năm gần đây, theo tin báo Phnom Penh Post [31/10/2015] TT Hun Sen một lần nữa đã phải ký sắc lệnh huỷ bỏ ngày Lễ Hội Nước dự trù tổ chức vào ngày 24 tới 26 tháng 11 “do mực nước sông quá thấp và tình trạng hạn hán mà Vương quốc Cam Bốt đang phải đối đầu.” Đây là lần thứ tư trong vòng 5 năm chính phủ Hun Sen đã phải hủy bỏ Lễ Hội Nước truyền thống hàng năm, thường tụ hội hàng mấy trăm ngàn người đổ về thủ đô Nam Vang để tham dự lễ hội đua thuyền trên sông Tonlé Sap.  

Như một nhịp điệu có từ ngàn năm, với con Sông Tonlé Sap chảy hai chiều một hiện tượng thiên nhiên được coi như kỳ quan của thế giới, rồi ra sẽ không còn nữa và trở thành truyện cổ tích cho các thế hệ mai sau của đất nước Khmer.   

2/ _ Các Hồ Chứa Cắt Giảm Hơn 65% Lượng Phù Sa:

Trước năm 1992 khi chưa có nhiều thủy điện, trung bình hàng năm qua hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, sông Mekong  đổ ra Biển Đông 166.7 Mt/ năm phù sa  ((Mt/ Megatone: triệu tấn)), từ năm 1993 do các hồ chứa trên thượng nguồn đã chắn giữ lại một số lượng lớn phù sa, tới thời điểm 2020, lượng phù sa ấy đã giảm xuống chỉ còn 57.6 Mt/ năm, giảm 65%và tới năm 2040 có lẽ sẽ không còn lượng phù sa đáng kể nào từ con sông Mekong đổ ra biển.[4]

Tình trạng ngăn chặn phù sa trong các hồ chứa không chỉ  làm mất nguồn dinh dưỡng cho đất; dòng chảy “đói phù sa” (hungry water) còn gây ra  “một tiến trình đảo ngược”, thay vì vùng châu thổ ĐBSCL được bồi đắp thêm đất thì nay dòng chảy lại nạo vét sỏi cát phù sa dưới lòng sông (riverbed incision), gây xói mòn sạt lở suốt dọc hai bên bờ sông và cả các vùng đất duyên hải. Hậu quả là một ĐBSCL đang mất đất, và mũi Cà Mau thì đang bị cắt lẹm mỗi năm. Theo ước tính của TS Lê Anh Tuấn, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Biến Đổi Khí Hậu Đại học Cần Thơ thì mỗi năm ĐBSCL đã mất đi hơn 600 hectares đất do sạt lở. Và do không có dòng chảy mạnh với phù sa để chắn sóng, khiến nước biển ngày càng lấn sâu và xa thêm vào trong đất liền.   

3/ _ Lượng Nước Quan Trọng Từ Các Phụ Lưu Sông Mekong

Nước sông Mekong không chỉ từ nguồn tuyết tan trên Cao nguyên Tây Tạng, mà phần nước từ các phụ lưu đổ vào cũng rất quan trọng. Theo tường trình từ Ủy Hội Sông Mekong (MRC) thì tỉ lệ trung bình hàng năm phần góp nước từ các phụ lưu theo mỗi quốc gia như sau:

Trung Quốc 16%, Lào là lớn nhất 35%, rồi tới Thái Lan 18%, Cambodia 18%, Việt Nam 11%, Myanmar là ít nhất 2%.

Mối Hiểm Nguy Mạng Lưới Đập Phụ Lưu: Nam Ngum 150 MW có thể được xem là con đập thủy điện phụ lưu đầu tiên của Lào và được hoàn tất rất sớm 1971 giữa giông bão của cuộc chiến tranh Việt Nam.

Trước khi Lào và Cambodia có kế hoạch thực hiện dự án 12 con đập dòng chính hạ lưu, thì Lào, Cambodia, Việt Nam, Thái Lan đã và đang liên tục xây những đập phụ lưu. Thái Lan với đập Pak Mun 136 MW (1994) trên sông Mun, Việt Nam với con đập Yali Falls 720 MW (1996) cùng với các con đập phụ lưu khác trên sông Sesan và Seprok trên Cao nguyên Trung phần, Lào thì từ sau con đập Nam Ngum (1971), đã xây thêm nhiều con đập phụ lưu khác như: Nam Theun-Hinboun 210 MW trung Lào, Nam Leuk 60 MW trong vùng Bảo tồn Sinh thái tỉnh Vạn Tượng, Nam Theun 2 lớn nhất 900 MW trung Lào, Houay Ho 150 MW giữa hai tỉnh Champassak và Attapeu nam Lào, Xe Pian-Xe Namnoy 438 MW trên cao nguyên Bolovens đông nam Lào, Xe Kaman 1.468 MW tỉnh Attapeu cực đông nam.

Việt Nam tuy đứng hàng thứ 5 trong 6 nước, nhưng cũng đã xây những  đập thủy điện trên khắp các phụ lưu sông Mekong trên Cao nguyên Trung phần; Việt Nam còn là một thành viên đầu tư vào dự án Mekong của Lào và Cam Bốt như vậy, Việt Nam không phải là hoàn toàn vô can, “bàn tay cũng đã tự nguyện nhúng chàm” góp phần trực tiếp gây biến đổi lưu lượng và cả sút giảm phù sa trên dòng chính con sông Mekong. Cùng với các con đập dòng chính Mekong, mạng lưới những con đập phụ lưu cũng có ảnh hưởng tích lũy đáng kể đối với tình trạng dòng chảy, lượng phù sa và nguồn cá lưu vực sông Mekong.

Hình 6: Nam Ngum, con đập phụ lưu đầu tiên của Lào, biểu ngữ giăng ngang con đập đánh dấu 25 năm thống nhất nước Lào. Hiện đang có một dự án độ phá trên mặt hồ đập Nam Ngum-1, xây dựng giàn điện mặt trời nổi 1.200 MW nếu hoàn thành sớm có thể coi như lớn nhất thế giới.”  [nguồn: photo by Ngô Thế Vinh 2000] 

Đập Phụ Lưu Hạ Sesan-2: Cùng với các con đập dòng chính Mekong, mạng lưới những con đập phụ lưu – điển hình là con đập phụ lưu Hạ Sesan 2 (Lower Sesan 2) đã có ảnh hưởng tích lũy đáng kể đối với tình trạng dòng chảy, lượng phù sa và nguồn cá lưu vực sông Mekong.

Con đập phụ lưu Hạ Sesan 2 gây ảnh hưởng nghiêm trọng hơn cả do nằm dưới điểm hợp lưu của hai con sông Sesan và Srepok. 3S là tên hệ thống 3 con sông phụ lưu lớn sông Mekong: Sekong, Sesan, Srepok cùng đổ vào dòng chính sông Mekong nơi tỉnh Stung Treng, đông bắc Cam Bốt. Đập Hạ Sesan 2 với chiều cao 75 m, diện tích hồ chứa 340 km2 (gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singapore), công suất 400 MW. Điện Lực Việt Nam (EVN/ Electricity of Vietnam) đã góp 10% cổ phần trong số 816 triệu MK, phần còn lại là của Nhóm Hoàng Gia Cam Bốt (Cambodia’s Royal Group) và Công ty Năng lượng Lan Thương Trung Quốc (HydroLangcang International Energy Co., Ltd). Lại vẫn Trung Quốc, ngoài chuỗi đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam, nay cánh tay TQ nối dài xuống xa tới cả những con đập phụ lưu hạ nguồn. 

Hình 7: Mạng Lưới 3S, ba sông phụ lưu: Sekong, Sesan, Srepok
cùng hội tụ đổ vào dòng chính sông Mekong [nguồn: Decarboni] 
Hình 8: Công ty quốc doanh Điện Lực Việt Nam (EVN / Electricity of Vietnam) cũng chung sức xây đập thuỷ điện Hạ Sesan 2 như hành động cầm súng bắn vào chân mình [nguồn: Decarboni]

Cư dân Cam Bốt sống trong vùng xây đập Hạ Sesan 2 đã cùng với Nhóm Bảo vệ 3 Dòng Sông (3S Rivers Protection Network), đã viết thư lên Quốc Hội Cam Bốt phản đối con đập, và họ cũng kéo nhau lên tới thủ đô Phnom Penh biểu tình tạo áp lực nhưng đã không đưa tới một kết quả nào.

Trước những tác hại hiển nhiên của con đập Hạ Sesan 2 trên ĐBSCL: biến đổi dòng chảy, mất nguồn nước, mất nguồn phù sa và cá… Việt Nam không những đã không có tiếng nói ngăn chặn phản đối mà còn góp vốn cho Cam Bốt thực hiện dự án tai hại ấy, có thể ví như một hành động cầm súng tự bắn vào chân mình / shoot oneself in the foot.

Nguồn Nước Sông Mekong Theo Mùa: nếu tính theo mùa, thì vào mùa khô do tuyết tan nhiều hơn trên Cao nguyên Tây Tạng, lượng nước từ khúc sông Lancang-Mekong Vân Nam đổ qua Lào xuống tới Vạn Tượng chiếm tới 80%, và xuống tới tỉnh Kratié đông bắc Cambodia là tới 40%. [2]

Khi Trung Quốc hoàn tất 11 con đập dòng chính trên khúc sông Lancang-Mekong, và chỉ riêng với hai con đập lớn nhất như hai con khủng long Nọa Trác Độ (Nuozhadu, 2014) 5.850 MW với hồ chứa lớn nhất và Tiểu Loan (Xiaowan, 2010) 4.200 MW là con đập cao nhất – theo Fred Pearce, Đại học Yale, thì “sông Mekong đã trở thành “tháp nước và nhà máy phát điện của Trung Quốc”. Philip Hirsch, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu sông Mekong Đại học Sydney đưa ra nhận định “Hai con đập Nọa Trác Độ và Tiểu Loan sẽ ảnh hưởng trên suốt dòng chảy của con sông Mekong xuống tới tận ĐBSCL của Việt Nam.”

Không thể không kể tới những yếu tố hủy hoại khác từ Trung Quốc: phá những khu rừng nguyên sinh (deforestation); dùng chất nổ dynamite khai thông các khúc sông ghềnh thác, vốn là sinh cảnh (habitats) thiết yếu của các loài cá, ảnh hưởng nghiêm trọng trên sự cân bằng thủy học, gây sụp lở bờ sông cùng phá hủy các loại hoa màu trồng ven sông, với mục đích chỉ để mở rộng lòng sông cho các con tàu lớn Trung Quốc dễ dàng đi xuống phương nam.

Với hơn 40 tỉ mét khối nước dự trữ trong các hồ chứa khổng lồ Vân Nam, Trung Quốc có trong tay thứ “vũ khí nước” đầy quyền lực để giáng cho các nước nhỏ Mekong “những bài học”. Và trong thầm lặng, Trung Quốc đã phát động một “cuộc chiến môi sinh” mà không cần tuyên chiến.

VẪN MỘT ĐIỆP KHÚC NGỤY BIỆN CỦA TRUNG QUỐC

Ngay từ thập niên 1990, khi chỉ mới có con đập dòng chính đầu tiên Mạn Loan (Manwan) 1.500 MW (1993), trong suốt bao nhiêu năm sau đó, như một điệp khúc, các học giả Trung Quốc luôn luôn ngụy biện cho rằng: “Các con đập thủy điện Vân Nam đã giúp tăng dòng chảy trong mùa khô làm giảm hạn nơi các quốc gia hạ nguồn, như vậy các con đập Trung Quốc chỉ có lợi !” [sic]

Đã thế, mà vẫn có những vị khoa bảng người Việt, cũng chỉ dựa trên lý luận thô thiển ấy với con số 16% lưu lượng trung bình/ năm từ khúc sông Lancang-Mekong Vân Nam để bảo rằng tác hại của chuỗi đập thuỷ điện bậc thềm Vân Nam / Mekong Cascades là không đang kể và đừng có đổ lỗi cho Trung Quốc!  [sic] KS Phạm Phan Long, trong một bài viết trên VOA, đã nhận định: “Do Biến đổi Khí Hậu, mưa ít dần nơi lưu vực trên là có thật, nhưng hạn hán tới sớm hơn và khắc nghiệt hơn khi thiếu mưa là do trữ nước vào các hồ chứa thủy điện, chính chúng có khả năng gây ra hạn hán cả khi có mưa, chưa kể vào những năm ít mưa, lại vẫn tích trữ nước gây hạn hán càng thêm kinh khủng.

Hình 9a: Mạn Loan (Manwan) 1.500 MW, là con đập lịch sử, con đập thủy điện dòng chính đầu tiên (1993) trên sông Lancang-Mekong, Vân Nam. Ngô Thế Vinh 09/2002 đứng bên chân con đập Manwan. Hàng chữ Hán phía trên đập: Mạn Loan Điện Xưởng 漫湾电厂 . [tư liệu Ngô Thế Vinh, Việt Ecology Foundation]
Hình 9b: Nọa Trác Độ (Nuozhadu) 5.850 MW, con đập dòng chính lớn nhất (2014) trên sông Lancang-Mekong, Vân Nam. Hàng chữ đỏ bên trái: “Hoa Năng Nọa Trát Độ thủy điện trạm” [Trạm thủy điện Nọa Trát Độ của công ty Hoa Năng / Huaneng Power International, Ltd.”]; Hàng chữ trắng bên phải tấm hình: “Năng nguyên vu thủy — Hữu dung nãi đại” (Khả năng bắt nguồn từ nước — Có sức chứa sẽ thành lớn). [photo by Ying Qiu, International River]

Và như đã phân tích, chuỗi tác hại không đơn giản chỉ có yếu tố nước, [mà nguồn nước ấy cũng rất “bất trắc” do Trung Quốc “tùy tiện” xả ra trong mùa khô từ các con đập thượng nguồn], mà còn phải kể tới những yếu tố “sinh tử” khác như: (1) phá vỡ chu kỳ dòng chảy thiên nhiên của con sông Mekong, (2) triệt tiêu nhịp lũ – flood pulse trong mùa mưa khiến không còn dòng chảy ngược trên con sông Tonlé Sap tiếp nước cho Biển Hồ — cũng là trái tim tiếp máu cho hai vùng châu thổ Tonlé Sap và ĐBSCL, (3) làm mất nguồn phù sa, mất nguồn dinh dưỡng cho đất canh tác, gây sạt lở hai bên bờ sông và cả vùng duyên hải khiến mất đất và diện tích  vùng châu thổ ĐBSCL ngày một teo quắt lại, (4) lưu lượng hàng năm trên 2 con sông Tiền sông Hậu ngày một xuống thấp, dòng chảy không còn phù sa tỷ trọng thấp khi đổ ra Biển Đông rất yếu, không có khả năng chắn sóng khiến nạn ngập mặn ngày càng lấn sâu và lấn xa vào vùng châu thổ… Chưa kể tới yếu tố kép: đất lún do lạm dụng khai thác các tầng nước ngầm. Theo Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, tốt nghiệp Đại học Wisconsin, một  chuyên gia sinh thái vùng đất ngập (wetlands) đã đưa ra những con số báo động (2017): “Nông thôn vùng sông nước Cửu Long bây giờ toàn xài nước ngầm; có khoảng 1 triệu giếng khoan mỗi ngày rút lên 2 triệu m3/ngày, dùng cho sinh hoạt đủ thứ, vậy nên ĐBSCL đang bị sụt lún nhanh gấp 10 lần nước biển dâng do biến đổi khí hậu.” 

Tới tháng 3/2022, theo Tổng Cục Thủy Lợi, việc khai thác nước ngầm nơi ĐBSCL đã tăng lên với 2 triệu giếng khoan, mỗi ngày rút lên 2,5 triệu m3/ngày, và 40% lượng nước ngầm ấy phục vụ cho sinh hoạt, phần còn lại cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.[5]

Từ sau 1975, những dự án trọng điểm của nhà nước CS Việt Nam được cổ xuý là để “cải tạo” ĐBSCL, nhưng thực tế đã chứng minh là gây tác hại nhiều hơn. Đó là những hủy hoại mang tính tích lũy. Và kết luận dễ dàng nhất để rũ bỏ mọi trách nhiệm là đổ lỗi cho Mẹ Thiên nhiên, cho Biến đổi Khí hậumà không kể tới một những hậu quả tích lũy của những yếu tố nhân tai, do chính con người gây ra do sự vô cảm và chạy theo các nhóm lợi ích của giới cầm quyền Hà Nội.   

Hình 10: Với hơn 600 km bờ sông các tỉnh Miền Tây đang bị sạt lở; hình trái, Sông Hậu tỉnh An Giang với nhiều khúc bờ sông bị sạt lở do nhiều yếu tố nhân tai: mất lượng phù sa do hồ chứa nơi những con đập thủy điện thượng nguồn, nạn phá rừng, nạo vét lòng sông khắp nơi để khai thác cát. [VN Express 15.05.2017]; hình phải, bờ Sông Hậu sạt lở nơi huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp. [photo by PanNature VN 2009]

Người dân Việt Nam đang phải chứng kiến một kịch bản ảm đạm, như một cuốn phim quay chậm, một Đồng Bằng Sông Cửu Long còn rất non trẻ đang  từ từ tan rã – cùng với cả một nền Văn Minh Miệt Vườn cũng chỉ mới hơn 300 năm tuổi”.  

NGÔ THẾ VINH

Columbus Day, 10/10/2022

Tham khảo:

1/ Cambodian Mega Dam’s Resurrection on the Mekong “The Beginning of the End”. Gerald Flynn, Nehru Pry,15 Sept. 2022

2/  Thủy Điện Lancang-Mekong gây khát nước và đói phù sa cho Đồng Bằng Sông Cửu Long cách nào?  Phạm Phan Long, PE., Viet Ecology Foundation, 20.03.2020 http://vietecology.org/article/article/2382

3/ Mặt Trời Trên Biển Hồ Cứu Dòng Mekong. Phạm Phan Long, PE, Viet Ecology Foundation, 15.12.2019 http://vietecology.org/article/article/1351

4/ Effects of riverbed incision on the hydrology of the Vietnamese Mekong Delta. Doan Van Binh, et al. First published: 02 January 2021, https://doi.org/10.1002/hyp.14030

5/ Vũ Khí Giải Cứu Sông Mekong: Chất Xám và Tiếng Nói. Phóng viên Môi sinh Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị phỏng vấn BS Ngô Thế Vinh 25/04/2016.

6/ Ứng phó sụt lún đất ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Tổng Cục Thuỷ Lợi 13/03/2022. http://www.tongcucthuyloi.gov.vn/tin-tong-hop/ung-pho-sut-lun-dat-o-vung-dong-bang-6260

Khoá học nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế

Chúng tôi hân hạnh thông báo đến các bạn khóa học 6 ngày về Nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế sẽ được tổ chức tại Trường Đại học Tôn Đức Thắng (TDTU) từ 6/11/2022 đến 12/11/2022. Đây là khoá học tiếp theo khoá học vào tháng 4 năm nay tại TDTU.

Khóa học này có mục tiêu chánh là trang bị kiến thức về qui trình và nguyên lí nghiên cứu khoa học, và kĩ năng soạn bài báo khoa học thích hợp cho công bố quốc tế. Chúng tôi nhắm đến các học viên là sinh viên sau đại học, nghiên cứu sinh, và bất cứ ai có ý định làm nghiên cứu khoa học. Sau khi hoàn tất khoá học, chúng tôi kì vọng rằng học viên sẽ:

  • Hiểu các khái niệm cơ bản về nghiên cứu khoa học và phương pháp luận
  • Nhận ra những chủ đề nghiên cứu, phát biểu câu hỏi nghiên cứu theo công thức PICOT
  • Biết đánh giá một câu hỏi nghiên cứu
  • Biết viết đề cương nghiên cứu
  • Hiểu khái niệm ‘bias’ và ‘confounder’
  • Hiểu phương pháp phân tích dữ liệu
  • Biết viết một bài báo khoa học cho công bố quốc tế
  • Biết tiếng Anh trong nghiên cứu khoa học
  • Biết tiêu chuẩn đứng tên tác giả và cách viết cảm tạ
  • Biết chọn tập san cho công bố khoa học (tránh tập san dỏm).

THÔNG TIN KHÓA HỌC

Khai giảng

06/11/2022

Thời gian

Buổi sáng 8h00 – 11h30
Buổi chiều 13h30 – 16h30

Thời lượng

6 ngày

06/11/2022 – 12/11/2022

Hình thức

OFFLINE: Trường đại học Tôn Đức Thắng (19 Nguyễn Hữu Thọ, P.Tân Phong, Q.7, TP. Hồ Chí Minh)

ONLINE: nền tảng Zoom

Nội dung khoá học

Khóa học sẽ bao gồm 16 bài giảng, được chia làm 2 phần. Phần 1 (8 bài giảng) liên quan đến phương pháp nghiên cứu khoa học. Phần 2 (8 bài giảng) tập trung vào kĩ năng công bố quốc tế. Chương trình cho từng ngày như sau:

Ngày 6/11

  • Bài giảng 1: Tổng quan qui trình nghiên cứu: qui trình, ý tưởng, đánh giá. Bài giảng trình bày qui trình của một công trình nghiên cứu khoa học, cách phát hiện chủ đề nghiên cứu, cách phát biểu câu hỏi nghiên cứu theo công thức PICOT, và tiêu chuẩn FINER.
  • Bài giảng 2: Các mô hình nghiên cứu. Bài giảng sẽ giới thiệu các mô hình nghiên cứu cắt ngang, đoàn hệ, thí nghiệm can thiệp, và vài mô hình nghiên cứu không cần labo (dry lab research), thế mạnh và thế yếu của mỗi mô hình nghiên cứu.
  • Bài giảng 3: Khái niệm bias và confounder.  Rất nhiều nghiên cứu khoa học không có giá trị hay kết luận sai vì vấn đề sai lệch và nhiễu. Bài giảng quan trọng này sẽ giới thiệu khái niệm bias (thiên lệch) và nhiễu (confounder) trong các nghiên cứu khoa học qua các ví dụ thực tế.

Ngày 7/11

  • Bài giảng 4: Thu thập và quản lí dữ liệu. Chất lượng dữ liệu là yếu tố hết sức quan trọng cho một nghiên cứu có giá trị. Người ta có câu “Đầu vào là rác thì đầu ra cũng là rác”, dữ liệu nhiễu thì đầu ra cũng chỉ là nhiễu. Do đó, kiểm tra chất lượng dữ liệu là khâu rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Bài giảng sẽ giới thiệu một số nguyên tắc trong việc thu thập dữ liệu bằng bộ câu hỏi, những nguyên tắc quản lí số liệu sao cho việc phân tích dễ dàng hơn.
  • Bài giảng 5: Phân tích dữ liệu 1. Phân tích dữ liệu đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển hoá dữ liệu thô thành thông tin. Bài giảng này sẽ cung cấp một tổng quan các phương pháp phân tích dữ liệu như phân tích mô tả, phân tích suy luận, và các mô hình trong phân tích.
  • Bài giảng 6: Giới thiệu JASP. Chương trình JASP là một phần mềm hoàn toàn miễn phí được xây dựng trên nền tảng ngôn ngữ R. Đối với những ai từng dùng SPSS sẽ rất dẽ làm quen với JASP vì giao diện menu.

Ngày 8/11

  • Bài giảng 7: Hiển thị dữ liệu. Bài giảng sẽ giới thiệu 4 nguyên tắc Tufte trong hiển thị dữ liệu và thực hiện qua chương trình JASP. Các biểu đồ phổ biến như biểu đồ phân bố, biểu đồ hộp, biểu đồ tương quan, v.v. sẽ được giới thiệu trong bài giảng.
  • Bài giảng 8: Phương pháp ước tính cỡ mẫu. Trong nghiên cứu khoa học, ước tính cỡ mẫu là một bước rất quan trọng vì liên quan đến ngân sách nghiên cứu và ý nghĩa của kết quả. Ở Việt Nam nhiều nghiên cứu được ước tính cỡ mẫu không đúng phương pháp vì không bám sát mục tiêu nghiên cứu. Do đó, bài giảng này sẽ hướng dẫn các yếu tố (hay thông tin) cần thiết để ước tính cỡ mẫu cho các mô hình nghiên cứu cắt ngang, bệnh chứng và đoàn hệ.
  • Bài giảng 9: Đề cương nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu là một văn bản quan trọng hệ thống hoá ý tưởng, phương pháp, và kế hoạch nghiên cứu. Tuy nhiên, nhiều người không biết cách viết đề cương nghiên cứu. Do đó, bài này sẽ trình bày cách viết một đề cương nghiên cứu qua từng phần. Mỗi phần sẽ được minh hoạ bằng một hay vài ví dụ thực tế để học viên có thể thực hành theo.

Ngày 9/11: NGHỈ

Ngày 10/11

  • Bài giảng 9: Cấu trúc IMRaD của một bài báo khoa học. Bài giảng sẽ giới thiệu cấu trúc chuẩn của một bài báo khoa học là IMRaD. Những bước cần chuẩn bị cho việc soạn một bài báo khoa học. Phần nào cần viết trước và phần nào cần viết sau sẽ được bàn luận trong bài giảng.
  • Bài giảng 10: Cách viết phần Dẫn nhập và Bàn luận. Phần Dẫn nhập của một bài báo khoa học là lí do tồn tại của bài báo, nên cần phải được quan tâm đúng mức. Bài giảng sẽ giới thiệu công thức viết dẫn nhập có tên là CaRS (creating a research space). Bàn luận là phần khó viết nhất trong một bài báo khoa học. Trong bài giảng này, học viên sẽ học một công thức đơn giản (gồm 6 đoạn văn) nhưng rất hiệu quả trong việc cấu trúc phần bàn luận.
  • Bài giảng 11: Cách viết phần Phương pháp. Bài giảng sẽ giới thiệu những thông tin liên quan đến thiết kế nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phương pháp đo lường, phương pháp phân tích, v.v. cho một bài báo khoa học. Mỗi mục sẽ được minh họa bằng những câu văn quen thuộc hay những mô tả đã được công bố trên các tập san khoa học nổi tiếng trên thế giới.

Ngày 11/11

  • Bài giảng 12: Cách viết phần Kết quả. Kết quả là trái tim của một công trình nghiên cứu. Nhưng viết phần Kết quả có khi là một thách thức đáng kể cho những người mới vào nghiên cứu, vì không biết viết cái gì trước và cái gì sau, hay viết sao cho thuyết phục. Bài giảng này sẽ trình bày một số phương pháp và nguyên tắc quan trọng trong việc mô tả kết quả nghiên cứu. Phần đầu sẽ bàn về cách viết. Phần hai hướng dẫn cách thiết kế bảng số liệu và những biểu đồ có phẩm chất cao.
  • Bài giảng 13: Cách viết bản Tóm tắt. Bài báo khoa học đòi hỏi phải có một abstract (tóm tắt), thường giới hạn trong 250 đến 300 từ. Tóm lược một bài báo 20-30 trang thành 250-300 từ là một thách thức. Bài giảng này sẽ giới thiệu hai dạng abstract: loại có cấu trúc và loại không có cấu trúc. Bài giảng cũng sẽ bàn về những chiến lược cụ thể để viết phần abstract sao cho đầy đủ thông tin trong vòng 250-300 từ.
  • Bài giảng 14: Nguyên tắc đặt tựa đề bài báo khoa học.  Tựa đề bài báo khoa học là một yếu tố rất quan trọng, có khi quyết định sự thành bại của bài báo, nhưng rất ít được các tác giả chú ý. Bài giảng này sẽ giới thiệu những nguyên tắc trong việc đặt tựa đề, cùng những điều không nên làm khi đặt tựa đề. Một số nghiên cứu khoa học về tựa đề bài báo cũng sẽ được trình bày để minh họa cho các nguyên tắc chung.

Ngày 12/11

  • Bài giảng 15: Tiếng Anh trong khoa học. Tiếng Anh là một khó khăn đáng kể cho các nhà nghiên cứu mà tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Anh. Tiếng Anh trong khoa học càng là một loại ‘ngôn ngữ’ khá đặc thù. Trong bài giảng này, chúng tôi sẽ giới thiệu nguyên lí IDEA cho viết văn khoa học dùng tiếng Anh.
  • Bài giảng 16: Chọn tập san khoa học. Chọn tập san thích hợp để công bố kết quả nghiên cứu đang là một vấn đề thời sự, vì có quá nhiều tập san “dỏm” trên thế giới. Điều nguy hiểm hơn nữa là có những tập san nằm ở biên giới dỏm và thật. Rất nhiều nhà khoa học Việt Nam đã trở thành nạn nhân của những tập san dỏm. Bài giảng này sẽ giới thiệu các tiêu chuẩn để giúp các bạn phân biệt tập san dỏm và tập san thật, cùng những tiêu chí để chọn tập san chuyên ngành thích hợp cho nghiên cứu.

Giảng viên

Gs Nguyễn Văn Tuấn: Giám đốc trung tâm công nghệ y tế và trưởng labo nghiên cứu loãng xương; Giáo sư xuất sắc (Distinguished Professor) của Đại học Công nghệ Sydney (UTS); Giáo sư kiêm nhiệm của Đại học New South Wales và Đại học Notre Dame Australia; và Giáo sư xuất sắc của Đại học Tôn Đức Thắng. GS Tuấn từng là hay đang là biên tập học thuật (Academic Editor) cho nhiều tập san y khoa như J Bone Miner Res, Osteoporosis Int, Bone, Scientific Reports, PLoS ONE, Current Osteoporosis Reports, Therapeutic Advances in Musculoskeletal Disease, và là chuyên gia bình duyệt cho rất nhiều tập san y khoa trên thế giới, kể cả New England Journal of Medicine, Lancet, JAMA, BMJ, Ann Int Med, Nature, Science, v.v.

Ts Trần Sơn Thạch: Giảng viên dịch tễ học của Đại học Công nghệ Sydney và Đại học New South Wales, và nhà nghiên cứu y khoa thuộc Viện nghiên cứu y khoa Garvan. TS Thạch là tác giả của nhiều bài báo khoa học được công bố trên những tập san lừng danh trên thế giới (như JAMA, New England Journal of Medicine, PLoS Medicine, eLife, v.v.) và là người bình duyệt cho nhiều tập san khoa học trên thế giới.

Ts Lê Thị Thanh Loan: Chuyên môn Thống kê Kinh tế, Phân tích định lượng; hiện là Viện trưởng Viện Chính sách Kinh tế và Kinh Doanh thuộc Trường Đại học Tôn Đức Thắng.

Ghi danh tại đường link dưới đây:

https://docs.google.com/forms/d/e/1FAIpQLScp3hGnDPqIQDWKsbIWcYYaR-m4IU2dhqZmd9oaMPt_5Hp-VQ/viewform

Học phí: Học viên thông thường (5 triệu đồng); viên chức và giảng viên của ĐH Tôn Đức Thắng (4.5 triệu);  sinh viên, học viên cao học – thạc sĩ  (4 triệu).

Liên lạc: Mọi thắc mắc xin vui lòng liên hệ qua địa chỉ email: ibep@tdtu.edu.vn hoặc số điện thoại/Zalo: 083 4447 288 (Ms. Hoà)

Link chánh thức: https://ibep.com.vn/dao-tao-thuc-chien/nghien-cuu-khoa-hoc-va-cong-bo-quoc-te

Luận án áo ngực và tiêu chuẩn FINER

Một trong những tranh cãi chung quanh luận án ‘áo ngực’ là nghiên cứu đó có xứng tầm tiến sĩ. Có người nói rằng nghiên cứu đó chỉ xứng tầm học sinh trung học. Nói vậy e rằng quá đáng. Trong cái note này tôi xin chia sẻ tiêu chuẩn FINER để đánh giá một nghiên cứu khoa học

Nếu các bạn tìm một bộ tiêu chuẩn cho luận án tiến sĩ thì sẽ thấy rất … chung chung. Chẳng hạn như ở Đại học UNSW (Úc), qui định chung của một luận án cấp tiến sĩ là có đóng góp nguyên thuỷ vào kiến thức chuyên ngành (original contribution to knowledge). Đóng góp ‘nguyên thuỷ’ ở đây có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Đại khái, khái niệm ‘original contribution’ bao gồm những khía cạnh sau đây:

(a) ứng viên phải là người tự tạo ra dữ liệu mới từ một ý tưởng mới (chớ không lấy dữ liệu của người khác); hoặc

(b) ý tưởng nghiên cứu mới nhưng dùng dữ liệu cũ [có thể là] của người khác; hoặc

(c) phương pháp mới hay cách làm mới nhưng ý tưởng thì không mới; hoặc

(d) phương pháp mới nhưng dùng dữ liệu thứ phát; hoặc

(e) cách diễn giải mới mà trước đây chưa ai nghĩ tới.

Có khi người ta thêm một câu rằng luận án tiến sĩ phải là một ‘showcase’ rằng ứng viên đã gặt hái được kĩ năng nghiên cứu khoa học và kĩ năng này sẽ giúp cho ứng viên trở thành một nhà nghiên cứu độc lập trong tương lai. Tóm lại, hiểu một cách khái quát, luận án cấp tiến sĩ phải thể hiện một sự đóng góp nguyên thuỷ và kĩ năng nghiên cứu khoa học.

Tiêu chuẩn FINER

Riêng cá nhân tôi thì hay bàn đến 5 tiêu chuẩn của một nghiên cứu cấp tiến sĩ được tóm gọn bằng 5 chữ cái FINER. Đây là ý tưởng của một người bạn và đồng nghiệp của tôi và đã được đề cập trước đây trong cuốn “Cẩm nang nghiên cứu khoa học” do tôi soạn và xuất bản ở Việt Nam. Vậy FINER là gì? Xin trả lời ngắn gọn:

F là viết tắt của chữ feasibility (tính khả thi): Một công trình nghiên cứu cấp tiến sĩ phải mang tính khả thi, hiểu theo nghĩa có thể làm trong thời gian 3 năm với nguồn lực và tài nguyên đang có. Đây là tiêu chuẩn quan trọng nhứt cho đề cương nghiên cứu, bởi vì nếu nghiên cứu không khả thi thì rất không công bằng cho nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu sinh có thể tham gia vào một chương trình nghiên cứu dài hạn và tập trung vào một lãnh vực chuyên biệt trong vòng 3 năm thì cũng có thể xem là mang tính khả thi.

I là interesting (thú vị):  Một nghiên cứu thú vị có nghĩa là câu hỏi nghiên cứu mang tính thách thức, một ý tưởng mà đồng nghiệp có khi thấy giật mình và thốt lên ‘Wow’ (vì họ chưa nghĩ tới). “Thú vị” còn có nghĩa là cách tiếp cận câu hỏi nghiên cứu được xem là ‘đẹp’ hay ‘elegant’.

N là novelty (cái mới): Những nghiên cứu có giá trị thường đóng góp thông tin mới, dữ liệu mới. Một nghiên cứu chỉ đơn thuần lặp lại những gì người khác đã làm (tiếng Anh gọi là nghiên cứu ‘me too) không xứng đáng để tốn tiền và công sức. Cái mới trong nghiên cứu có thể là mới về ý tưởng, mới về cách tiếp cận, mới về phương pháp, mới về kết quả, hoặc mới về cách diễn giải. Ngày nay, rất khó có một nghiên cứu hoàn toàn mới, mà chỉ mới trong một hay hai khía cạnh trên. Do đó, một câu hỏi nghiên cứu không cần phải hoàn toàn mới và nguyên thủy, nhưng cần phải có cách tiếp cận hay phương pháp mới.

E là ethics (đạo đức): Nghiên cứu khoa học phải đáp ứng tiêu chuẩn về đạo đức (hay y đức nếu là nghiên cứu y khoa). Nếu nghiên cứu mang tính quá xâm phạm cơ thể bệnh nhân, hoặc phơi nhiễm bệnh nhân với các yếu tố nguy hiểm khó chấp nhận được thì không thể là có đạo đức được.  

R là relevance (tác động): Đây là tiêu chuẩn quan trọng, nhứt là đối với khoa học ứng dụng. Một trong những đặc điểm của một nghiên cứu tốt là tính liên quan, có ảnh hưởng, có tác động. Có thể nói rằng tác động là tiêu chuẩn quan trọng nhất của một nghiên cứu ứng dụng. Một cách tốt nhứt để xác định nghiên cứu có tác động hay không là tưởng tượng đến những kết quả có thể thu thập được, và xem xét các khả năng mà kết quả đó có thể đóng góp vào sự phát triển kiến thức, hay ảnh hưởng đến thực hành lâm sàng, ảnh hưởng đến chánh sách y tế, hay đóng góp vào việc soạn thảo phác đồ điều trị mới, hoặc mở ra một định hướng nghiên cứu mới.

Về luận án áo ngực

Quay lại câu hỏi luận án ‘áo ngực’ mà báo chí làm ồn ào có đáp ứng tiêu chuẩn của một luận án tiến sĩ. Tôi đã đọc luận án [1] và nghĩ là nội dung luận án (dữ liệu, cách tiếp cận, phương pháp) có thể đáp ứng tiêu chuẩn một luận án tiến sĩ. Tại sao tôi nghĩ vậy? Tại vì:

(a) Chủ đề nghiên cứu hợp lí, dù mới nghe qua thì có vẻ ‘lạ’. Thật ra, dã có hàng trăm nghiên cứu trong chủ đề này đã được xuất bản trên thế giới. Có thể nó lạ đối với vài người, nhưng rất chánh thống đối với giới khoa học. Cứ đọc phần Dẫn nhập của luận án sẽ thấy trên thế giới đã có vài luận án tiến sĩ trong chủ đề áo ngực rồi.

(b) Thiết kế nghiên cứu cũng rất đúng chuẩn mực khoa học, có thể trả lời những câu hỏi mà tác giả nêu ra.  Tác giả dùng mô hình ‘cross-sectional’ cho nghiên cứu và như thế là hoàn toàn khả thi. Tác giả có lí giải rõ ràng về số lượng nữ sinh theo công thức thống kê chuẩn.

(c) Nghiên cứu đã tạo ra những dữ liệu mới cho Việt Nam. Dữ liệu khoa học là vàng, và dữ liệu mới càng quí báu. Trong nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng các phương tiện đo lường như GE Druck DPI (Mĩ), máy Scan3D MB2019, và software Geomagic Design X với những thông số kĩ thuật nghiêm chỉnh. Những dữ liệu thu thập được từ nghiên cứu này xứng đáng một luận án tiến sĩ (chứ không phải như vài người nhận xét là chỉ đáng nghiên cứu của học sinh phổ thông — nói như vậy là quá đáng).

(d) Phương pháp phân tích ok. Tác giả đã sử dụng một số mô hình phân tích dữ liệu như phân tích thành phần (principal component analysis), phân tích cụm (cluster analysis), mô hình Bayesian Model Averaging để chọn các đặc điểm quan trọng. Nói chung, tôi thấy tác giả đã dùng các phương pháp phân tích hoàn toàn thích hợp và hiện đại.

(d) Cách trình bày kết quả phân tích nói chung là ok, nhưng tôi nghĩ có thể làm cho tốt hơn. Có khá nhiều dữ liệu và kết quả mà tôi không thể mô tả hết ở đây (không cần thiết), một số kết quả mang tính mô tả còn lại là các kết quả phân tích tương quan bằng [chủ yếu] mô hình hồi qui tuyến tính.

Cách viết cũng có thể cải tiến cho dễ hiểu hơn. Những mệnh đề như “độ tiện nghi áp lực của áo ngực”, “kích thước ngực đặc trưng”, “Ứng dụng phân tích thành phần chính PCA”,  “vector kỳ vọng”, v.v. không phải dễ hiểu và có thể diễn tả rõ ràng hơn. Chẳng hạn như công thức tính ‘hiệp phương sai’ (trang 67) cũng có thể viết lại cho dễ hiểu hơn. Trong phần mô tả phương pháp phân tích mô tả (trang 69), tác giả có vẻ lẫn lộn giữa các tham số trong quần thể (parameter) và chỉ số thống kê tính toán từ mẫu (gọi là statistic) nên đã dùng kí hiệu chưa đúng qui ước.

Ngoài ra, cũng có vài chỗ cần xem xét lại hay giải thích cho rõ ràng hơn. Chẳng hạn như phần phân tích phương sai (trang 88), cần phải giải thích tại sao bậc tự do là 39, và mục đích của bảng này là để nói lên điều gì. Ngoài ra, chỉ số F không thể là 0 được. Những cách viết như “Kết quả phân tích ANOVA Pr(>F) < 0,05” là rất khó hiểu. Trong thực tế Pr(>F) không có ý nghĩa; chỉ có “P < 0,05” là có ý nghĩa. Cũng cần nói thêm rằng khi tác giả kiểm định nhiều giả thuyết thì ngưỡng P < 0.05 là khá dễ dãi; đáng lí ra nên là P < 0.05/k (k là số giả thuyết) thì mang tính thuyết phục hơn. Tuy nhiên, đây chỉ là những điểm nhỏ, và những điểm này không làm thay đổi nội dung và kiết luận của luận án.

Có vài chỗ liên quan đến cách dịch tiếng Anh sang tiếng Việt tôi thấy nên xem lại. Chẳng hạn như dịch chữ ‘pressure’ sang tiếng Việt là ‘áp lực’ thì có lẽ không đúng; theo tôi ‘áp suất’ thì đúng hơn. Nhưng nói thật là tôi cũng không chắc chắn mấy về đề nghị này.

Tóm lại, tôi thấy luận án án “nh hưởng của đặc điểm nhân trắc ngực nữ sinh Bắc Việt Nam tới áp lực và độ tiện nghi áp lực của áo ngực” chẳng có vấn đề gì phải ồn ào, mà đáng lí ra là nên khen tác giả đã thực hiện được một nghiên cứu / thí nghiệm rất khó khăn. Dữ liệu khoa học là vàng. Trong luận án này, tác giả đã cung cấp những dữ liệu quan trọng về nhân trắc học liên quan đến ngực của phụ nữ Việt Nam (chứ chẳng riêng gì miền Bắc Việt Nam). Tôi nghĩ những kết quả này nên đúc kết thành một bài báo khoa học để công bố trên các tập san có bình duyệt trong chuyên ngành.

___________

[1] Toàn văn của luận án: https://husteduvn-my.sharepoint.com/personal/sdhhusteduvn/layouts/15/onedrive.aspx?ga=1&id=%2Fpersonal%2Fsdh%5Fhust%5Fedu%5Fvn%2FDocuments%2FNCS%2FLuan%20an%20Tien%20si%2F2022%2F08%2F19

PS: Sẵn đây xin thông báo rằng một khoá học về nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế sẽ diễn ra tại Đại học Tôn Đức Thắng từ ngày 6/11 đến 12/11. Trong khoá học này chúng tôi sẽ nói về tiêu chuẩn FINER, nguyên lí đặt tựa đề bài báo khoa học, và phương pháp viết bài báo cho công bố quốc tế. Kính mời các bạn ghi danh theo địa chỉ sau đây:

Giải Nobel Y Sinh Học năm 2022: Ôn cố tri tân

Hôm nay, Hàn lâm viện Thuỵ Điển trao giải thưởng Nobel Y sinh học cho Giáo sư Svante Pääbo (người Thuỵ Điển đang làm việc ở Đức) [1] vì có công khám phá hệ gen của người cổ đại và giúp chúng ta hiểu hơn về quá trình tiến hoá của nhân loại. Tôi gọi giải thưởng Nobel Y sinh học năm nay là thuộc loại ‘ôn cố tri tân’.

Giáo sư Svante Pääbo

‘Ôn cố tri tân’ là ôn lại chuyện ngày xưa để hiểu rõ chuyện ngày nay. Chuyện ngày nay là đại dịch Covid-19. Có khi nào các bạn thắc mắc tại sao có những người bị nhiễm SARS-Cov-2 (sẽ viết tắt là nCov) nặng hơn người khác, thậm chí tử vong. Dĩ nhiên là có nhiều yếu tố có thể giải thích cho ‘hiện tượng’ này, nhưng hoá ra gen là một trong những yếu tố đó. Và, người phát hiện ra gen có liên quan đến bệnh trạng Covid-19 chẳng ai khác hơn là khôi nguyên giải Nobel Y sinh học năm nay: Giáo sư Svante Pääbo.

Trong một bài báo ngắn công bố trên Nature vào năm 2020 [2], Giáo sư Hugo Zeberg và Giáo sư Pääbo, qua phân tích DNA, phát hiện rằng một gen ở Nhiễm sắc thể số 3 có liên quan đến nhiễm nCov nặng. ‘Nặng’ ở đây là bị nhập viện, thở máy, hay tử vong. Một biến thể của gen này được tìm thấy ở 63% người Bangladesh, và những người mang biến thể gen này có nguy cơ tử vong cao gấp 2 lần người dân trong cộng đồng.

Điều thú vị là gen này có nguồn gốc từ hệ gen của tông người Neandertals hơn 30,000 năm trước. Một số (khoảng 3-6%) chúng ta (tức người Đông Nam Á) cũng mang người người biến thể gen này.

Để hiểu hơn câu chuyện ‘ôn cố tri tân’ của Gs Svante Pääbo, chúng ta cần phải điểm qua các tông người. Tất cả chúng ta, bất cứ dân tộc nào trên thế giới, đều có tổ tiên xuất phát từ Phi châu. Người tinh khôn (Homo sapiens) có mặt ở Phi Châu vào khoảng 300,000 năm trước. Người Neandertals cũng xuất phát từ Phi Châu và sống ở Âu Châu và Tây Á vào khoảng 400,000 năm trước.

Mô hình di dân cổ đại giải thích rằng khoảng 70,000 năm trước, có nhiều nhóm người tinh khôn rời Phi Châu và tản mát đi khắp nơi trên thế giới, kể cả Đông Nam Á. Những nhóm nguời này tồn tại song song với người Neandertals hơn 10 ngàn năm, nhưng ít ai biết mối liên hệ giữa 2 nhóm tông người này. Tuy nhiên, khoa học biết rằng tông người Neandertals đã bị tuyệt chủng vào khoảng 30,000 năm trước.  

Vì họ đã tuyệt chủng, nên rất khó tìm về nguồn cội. Chỉ có một cách là phân tích DNA từ xương của họ. Nhưng chiết xuất DNA từ những tông người này rất khó vì nó đã bị tan huỷ và có thể bị nhiễm bởi DNA từ các nguồn khác. Công trình nghiên cứu dẫn đến giải Nobel cho Gs Pääbo chính là cách chiết xuất DNA cổ đại từ những tông người như Neandertals. Gs  Pääbo tập trung vào phân tích mitochondrial DNA (một chất liệu di truyền sản xuất năng lượng trong tế bào), và ông đã giải trình tự mitochondrial DNA từ một xương có tuổi 40,000 năm và chỉ ra rằng nó khác với mitochondrial DNA của con người hiện đại và loài tinh tinh.

Bước kế tiếp, ông và đồng nghiệp ứng dụng công nghệ hiện đại để giải trình tự DNA của hệ gen người Neandertal, và công trình này đã được công bố vào năm 2010. Nhóm nghiên cứu phát hiện rằng tổ tiên của người tinh khôn và Neandertals tồn tại khoảng 800,000 năm trước. Khoảng 1-4% hệ gen của người Âu châu và Á châu ngày nay có nguồn gốc từ gen của người Neandertals.

Qua giải trình tự gen, Gs Svante Pääbo và đồng nghiệp khám phá một tông người có tên là Denisovan. Họ giải trình tự hệ gen từ xương ngón tay 40,000 năm tuổi từ Siberia và chỉ ra rằng hệ gen này rất khác với người tinh khôn và Neandertals. Có thể 6% DNA của chúng ta (người Đông Nam Á) là xuất phát từ tông người Denisovan.

Những nghiên cứu của Gs Svante Pääbo và đồng nghiệp cùng sự tiến bộ của công nghệ giải trình tự gen đã cho ra đời một lãnh vực khoa học mới có tên là paleogenomics. Khoa họcpaleogenomics phân tích và tái thiết lập hệ gen của các loài vật đã tuyệt chủng.

Ứng dụng khoa học paleogenomics giúp cho chúng ta hiểu hơn về quá trình tiến hoá của nhân loại. Chẳng hạn như một biến thể của gen EPAS1 (tìm thấy ở người Denisovan) giúp cho người ta sống sót ở những vùng cao. Do đó, ngày nay biến thể EPAS1 thường hay thấy ở người Tây Tạng. 

Đại dịch COVID-19 đã tạo điều kiện cho một khám phá thú vị và giải thích tại sao một số bệnh nhân bị nhiễm SARS-Cov-2 nặng hơn người khác. Hoá ra, những người này (bị nhiễm nặng) mang trong người một mảng DNA trong Nhiễm sắc thể số 3 từ người Neandertals. Khoảng 50% người Nam Á (như Bangladesh và Ấn Độ) và 16% người Âu châu có biến thể gen này trong hệ DNA.

Giải Nobel Y sinh học thường được trao cho những công trình mang tính phương pháp (ví dụ như MRI, CT, PCR, Knock-out model, v.v.) chứ ít khi nào cho những công trình mang tính mô tả. Tuy nhiên, công trình giải mã hệ gen của người Neandertals cũng có thể xem là một phương pháp, bởi vì họ phải sử dụng công nghệ giải trình tự gen và sáng chế ra phương pháp ‘bioinformatic’ mới. Thật ra, giải Nobel năm nay cũng có thể xem là một sự ghi nhận đầu tiên về đóng góp rất quan trọng của phương pháp bioinformatic (tin sinh học).  Bioinformatic thực chất là sự ‘giao thoa’ giữa thống kê học và khoa học máy tính giúp chúng ta khai thác và hiểu các dữ liệu sinh học.

Phương pháp giải trình tự gen và bioinformatic đã giúp giải trình tự gen của các tông người cổ đại và giúp chúng ta biết mình là ai, xuất phát từ đâu, và tại sao chúng ta tồn tại và đau khổ như ngày hôm nay. Đó là một ‘ôn cố tri tân’ vậy.

Bài đã đăng trên báo Người Lao Động: https://nld.com.vn/danh-cho-ban-doc-vip/phan-tich-dac-biet-ve-giai-nobel-y-sinh-2022-20221004095940791.htm

___

[1] Vài dòng về Giáo sư Svante Pääbo

Ông sanh ra tại Stockholm vào ngày 20/4/1955 trong một gia đình trung lưu. Thân phụ ông là Sune Bergström (một nhà khoa học chuyên về sinh hoá) từng được trao giải Nobel Y sinh học năm 1982 vì có công khám phá prostaglandins, một hormone trong hệ nội tiết. Thân mẫu ông là Karin Pääbo, cũng là một nhà sinh hoá học. Ông tốt nghiệp tiến sĩ từ Đại học Uppsala vào năm 1986. Trong thời gian 1986–1987, ông làm nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ tại Viện Sinh học Phân tử II thuộc Đạo học Zürich (Thuỵ Sĩ). Từ năm 1987–1990, ông làm nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ sinh hoá tại Đại học California, Berkeley (Mĩ). Năm 1990 ông được Đại học Uppsala trao bằng Tiến sĩ Khoa học (Docent). Năm 1997, ông được bổ nhiệm làm giám đốc viện di truyền tiến hoá Max-Planck (Đức) và giáo sư danh dự của Đại học Leipzig.

Sự nghiệp khoa học của ông chỉ ‘khởi sắc’ trong những năm đầu thế kỉ 21, tức sau 15 năm tốt nghiệp tiến sĩ. Năm 2002, ông phát hiện một gen (có tên là FOXP2) có liên quan đến khả năng sử dụng ngôn ngữ. Năm 2006 là năm quan trọng khi nhóm nghiên cứu do ông lãnh đạo công bố hệ gen của tông người Neanderthals, và sau được tạp chí Time vinh danh là 1 trong 100 người có ảnh hưởng lớn nhứt trong năm. Những năm sau đó, ông tập trung vào lãnh vực nghiên cứu hệ gen của các tông người cổ đại và khám phá ra tông người được định danh là ‘Denisovan’ vào năm 2010 (Denisova là tên của một hang động ở Siberia).

Ông là tác giả và đồng tác giả của hơn 400 bài báo khoa học. Một số (20) bài báo quan trọng được công bố trên Nature, Science, Cell, và PNAS, và được trích dẫn hơn 1000 lần, có bài được trích dẫn hơn 4000 lần. Theo dữ liệu của Scopus, chỉ số H của ông là 133.  Ông được trao nhiều giải thưởng danh giá. Những giải thưởng quan trọng phải kể đến giải Gottfried Wilhelm Leibniz Prize (1992), một giải thưởng cao quí của Đức, vì những công trình liên quan đến chiết xuất DNA cổ đại. Năm 2000, ông được bầu làm viện sĩ Hàn lâm viện khoa học Thụy Điển. Năm 2008, ông được trao Huân chương “Pour le Mérite for Sciences and Arts” (Đức) vì những đóng góp quan trọng cho di truyền học. Năm 2016 ông trở thành viện sĩ Hoàng gia học viện của Anh. Ngoài ra, ông còn được trao nhiều giải thưởng khác từ Mĩ, Anh, Thuỵ Điển và Đức.

Trong một cuốn sách xuất bản vào năm 2014, Svante Pääbo cho biết ông là người ‘bisexual’ (có nghĩa là vừa là đồng tính luyến ái nhưng có gia đình). Ông thành hôn với Linda Vigilant, một nhà di truyền học, và có 2 con. Hai vợ chồng là đồng tác giả của nhiều bài báo đã được công bố trên những tập san quan trọng.

[2] https://www.nature.com/articles/s41586-020-2818-3