Lầm lẫn giữa ‘tổ quốc’ và thể chế

Đó là một trong những lầm lẫn rất tai hại và có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.

Người Việt chúng ta có khái niệm ‘Tổ quốc’ rất đáng học. Nó không hẳn có nghĩa đơn giản như ‘motherland’ hay ‘fatherland’ trong tiếng Anh. Tổ quốc, theo cách chúng ta hiểu, là đất nước do tổ tiên để lại. Nhưng không đơn giản là ‘đất nước’ mà còn là sự gắn bó tình cảm, một loại tình cảm thiêng liêng khó mô tả bằng lời (giống như cảm giác bước chân tới Phú Thọ, Đền Vua Hùng vậy). Tôi có thể nói quê hương thứ hai là Úc, nhưng tổ quốc là Việt Nam. Tôi có sự gắn bó tình cảm thiêng liêng với Việt Nam, nhưng loại tình cảm đó không có đối với Úc. Do đó, tổ quốc không chỉ là địa lí (physical) mà còn bao hàm ý nghĩa tinh thần (spiritual).

Chế độ chánh trị (political regime) là tập hợp những triết lí, qui tắc, chuẩn mực chánh trị đằng sau sự hoạt động của một chánh phủ. Ở Úc tôi, hai đảng Liberal và Lao động có những suy nghĩ khác nhau và theo đuổi những lí tưởng khác nhau. Một đảng là bảo thủ (không hẳn là xấu), một đảng là cấp tiến (không hẳn là tốt). Họ luân phiên lập chánh phủ điều hành đất nước Úc.

Nói ra cũng thừa, nhưng vẫn cần phải nói trong bối cảnh hiện nay: Chế độ chánh trị không phải là tổ quốc. Chế độ chánh trị đến rồi đi, tổ quốc là do tổ tiên để lại và vĩnh viễn. Việt Nam ta đã trải qua những triều đại Đinh, Lê, Lý Trần, Nguyễn. Đâu có ai nói mấy triều đại đó là ‘Tổ quốc’; họ chỉ là những chánh phủ điều hành đất nước. Như là một qui luật phổ quát, các triều đại đến rồi đi, không có triều đại nào tồn tại vĩnh viễn. Tổ quốc cao hơn chế độ chánh trị.

Một điều đáng quan tâm là nhiều người, kể cả quan chức, xem chế độ chánh trị là tổ quốc. Đó là sai lầm của người ít suy nghĩ thì còn hiểu được, nhưng sai lầm của quan chức cao cấp thì đáng ngạc nhiên. Lại có người biết phân biệt sự khác biệt giữa hai thực thể đó, nhưng họ vẫn cố tình lập lờ để cho giới trẻ đánh đồng chế độ chánh trị với tổ quốc là một. Đó là một sự nhồi sọ, và nạn nhân bị nhồi sọ lầm tưởng rằng chế độ là tổ quốc. Từ sự lầm lãn đó, họ có những phản ứng phi lí trí: hễ ai có suy nghĩ khác chánh phủ là họ chụp cái nón ‘phản bội tổ quốc’. Tuy cách chụp mũ rất thô thiển, nhưng nó đủ mạnh để huy động những đám đông cuồng nộ.

Lại nhớ chuyện cũ về hai vị Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm. Chuyện kể rằng ông HCM muốn mời ông NĐD tham chánh trong một chánh phủ liên hiệp, nhưng ông NĐD không chịu. Tại sao? Tại vì ông ấy “sẽ vẫn tiếp tục chống Pháp nhưng không thể đi với Việt Minh”. Khi viên đại sứ Ba Lan hỏi ông HCM về quan điểm đó, ông nói “Ông ấy yêu nước theo cách của ông ấy”. Đó là một thái độ dung nạp vậy. Đâu có ai nói ông NĐD ‘phản bội tổ quốc’.

Có thể nói mà không sợ sai rằng: người Việt Nam — bất kể theo thể chế nào — cũng yêu tổ quốc. Đó chính là lời giải thích tại sao mỗi khi Tàu đụng tới VN là bà con hải ngoại, bất kể trường phái chánh trị, đều đồng lòng đứng lên bảo vệ. Do đó, cáo buộc ‘phản quốc’ đối với những người không theo thể chế mình theo đuổi (hay tôn thờ) là thật sự vô tri vậy.

Tóm lại, dong dài một chút như trên chỉ để nói rằng thể chế, kể cả thể chế chánh trị, không phải là tổ quốc. Tổ quốc là vĩnh viễn, còn thể chế chỉ tạm thời. Tổ quốc cao hơn thể chế. Tổ quốc dung nạp những người có quan điểm khác nhau. Do đó, đánh đồng thể chế với tổ quốc là một điều rất sai lệch và cần phải chấm dứt.

“Lưỡi lê no máu rửa Tây Hồ”

Có khá nhiều bạn tin rằng đó là câu thơ trên là của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Nhưng sự thật thì có lẽ không phải vậy, mà chỉ là một sự ‘bịa đặt’ từ một cuốn tiểu thuyết.

Có lẽ nhiều bạn đã biết thi sĩ Vũ Hoàng Chương (1915 – 1976), nhưng thiết tưởng vài lời ngắn gọn về ông cũng cần thiết. Ông là một nhà thơ lớn và sáng chói nhứt trên văn đàn miền Nam trước 1975. Ông là người gốc Nam Định nhưng di cư vào Nam từ năm 1954, từng làm giáo viên (thời đó gọi là ‘giáo sư’) trường trung học Chu Văn An ở Sài Gòn. Ông có nhiều sáng tác để đời, được giới phê bình văn học đánh giá cao, và từng được xưng tụng là ‘Ngôi sao Bắc Đẩu’ của thi ca Việt Nam. Sau năm 1975, ông bị bắt đi tù ‘cải tạo’, và qua đời ngày 6/9/1976 tại TPHCM.

Vài ngày trước, báo Tuổi Trẻ loan một tin thú vị rằng thi sĩ Vũ Hoàng Chương (hình) từng được đề cử Giải Nobel Văn học năm 1972 [1]. Theo Hàn lâm viện Thuỵ Điển, người đề cử là “Thang Lang”, rất có thể là Linh mục Thanh Lãng (1924 – 1978), giáo sư thuộc Đại học Văn Khoa Sài Gòn (trước 1975).

Những người được đề cử giải Nobel Văn học năm 1972

Từ cái tin đó, người ta (đa số là tre trẻ) đi tìm hiểu về thi sĩ Vũ Hoàng Chương, mà chắc đa số họ họ mới nghe tới lần đầu. Người ta tìm thấy những câu thơ sau đây và cho rằng ông là tác giả viết vào năm 1957:

“Lò phiếu trưng cầu, một hiển linh

Đốt lò hương, gửi mộng bình sinh

Từ nay trăm họ câu an lạc

Đàn khúc đầm Dao, rượu chén Quỳnh!

Có một ngày ta trở lại cố đô

Lưỡi lê no máu rửa Tây Hồ

Trên tầng Chí Sĩ bàn tay vẫy

Đại định thăng Long, một bóng cờ”.

Nhiều người bình luận rằng thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng là người … sắt máu, chẳng kém gì thi sĩ Tố Hữu ngoài Bắc. Lại có người chỉ dựa vào một vài câu trên mà cho rằng thơ văn thời Việt Nam Cộng Hoà cũng máu me lắm chứ chẳng nhân văn gì đâu!  

Tuy nhiên, câu hỏi quan trọng là: thi sĩ Vũ Hoàng Chương có viết những vần thơ trên? Ông đã qua đời lâu rồi, nên không thể trả lời. Vậy thì những vần thơ ‘máu me’ trên xuất phát từ đâu, trong bài thơ nào? Đến đây thì vấn đề trở nên … lộn xộn. Lộn xộn vì mạng xã hội.

‘Lửa từ bi’?

Có người viết bài khẳng định rằng những vần thơ trên là trích từ bài thơ ‘Lửa từ bi‘ của Vũ Hoàng Chương. Tôi nghĩ nhận xét này hoàn toàn sai. Bất cứ ai sống trong Nam thuộc thế hệ tôi đều biết ‘Lửa từ bi’ là bài thơ nổi tiếng ông viết khi nghe tin Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu; bài thơ đó không có những câu thơ như trích dẫn trên. Thật khó tưởng tượng có người bịa đặt một cách trắng trợn như thế!

‘Hoa đăng’?

Hoa đăng‘ là tập thơ nổi tiếng của Vũ Hoàng Chương, được xuất bản vào năm 1959. Có người tỏ vẻ biết chuyện văn chương khẳng định rằng những câu thơ sắt máu trên là trích từ tập thơ Hoa Đăng.

Chuyện kể rằng thi sĩ Chế Lan Viên (lúc đó ở ngoài Bắc) sau khi đọc tập thơ Hoa đăng đã viết bài ‘chửi’ Vũ Hoàng Chương rất nặng nề. Bài chỉ trích của Chế Lan Viên đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số tháng 4/1960, trang 34-41. Trong bài viết đó, Chế Lan Viên có trích ba câu thơ từ bài thơ Từ đây trong tập thơ Hoa Đăng (Lá phiếu Trưng-cầu một hiển linh / Xé tan bạo lực dưới muôn hình / Từ đây nước Việt, Dân làm Chủ) và lên án Vũ Hoàng Chương rất tệ [2].  (Sau này thì chính ông Chế Lan Viên ân hận về những gì ông chỉ trích người khác).

Tuy nhiên, trong bài chỉ trích đó, hoàn toàn không có những câu thơ sắt máu trên.

Sự thật là Vũ Hoàng Chương viết trong bài Từ đây [3] có những câu sau đây:

Lá phiếu Trưng-cầu một hiển linh

Xé tan bạo lực dưới muôn hình

Từ đây nước Việt, Dân làm Chủ

Ôi nhạc nào say khúc tái sinh!

Như vậy, trong Hoa đăng không có những câu thơ sắt máu như Lưỡi lê no máu rửa Tây Hồ.

‘Ván bài lật ngửa’?

Thật ra, những câu thơ máu me mà các bạn trong cõi mạng lan truyền là … ‘phịa’. Trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng ‘Ván bài lật ngửa‘, tác giả Nguyễn Trương Thiên Lý (tức Trần Bạch Đằng) đã sáng tác ra những câu đó và đặt vào miệng của Vũ Hoàng Chương [4]. Trần Bạch Đằng mô tả buổi sáng của “Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc” (được tường thuật là diễn ra từ ngày 6/1 đến 15/1/1957), và viết như là tường thuật rằng Vũ Hoàng Chương đã đọc những câu sau đây trong Đại hội (sẽ nói thêm dưới đây):

Tôi làm bài này để cảm tác thời cuộc nhân có việc trưng cầu dân ý suy tôn Ngô chí sĩ…

(Nhà thờ đằng hắng lấy giọng)

Lá phiếu trưng cầu, một hiển linh.

Đốt lò hương gửi mộng bình sinh

Từ nay trăm họ câu hoan lạc

Đàn khúc đầm Dao, rượu chén Quỳnh

Có một ngày ta trở lại Cố Đô

Lưỡi lê no máu rửa Tây Hồ

Trên tầng chí sĩ ban tay vẫy

Đại định Thăng Long, một bóng cờ…

Đến đây thì các bạn đã biết rõ rằng những ‘vần thơ máu me’ mà người ta trích dẫn trên mạng và gán cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương là từ ông Trần Bạch Đằng, một cán bộ tuyên huấn hay cũng có thể xem là một nhà báo.

Từ đó, người ta trích dẫn và lan truyền rộng rãi làm cho người đọc tưởng là của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Điều đáng ngạc nhiên là nhiều người có vẻ có học miền ngoài mà cũng tin rằng đó là những câu thơ của Vũ Hoàng Chương. Mạng xã hội thật là tai hại!

Thật ra, chỉ một đoạn ngắn được trích dẫn trên, Trần Bạch Đằng sai vài chỗ. Chẳng hạn như Đại hội diễn ra từ ngày 7/1/1957 (chứ không phải 6/1/1957). Nhà thơ mà Trần Bạch Đằng đề cập là ‘Võ Huyền Đắc’ thật ra là Vi Huyền Đắc. Còn mấy chữ tiếng Anh thì đều sai hay phịa ra.

Đại hội Văn hoá Toàn quốc 1957

Những câu thơ được gán ghép cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương mà ông Trần Bạch Đằng viết ra trong cuốn tiểu thuyết Ván bài lật ngửa. Trong tiểu thuyết, ông Trần Bạch Đằng viết những câu đó theo phong cách tường thuật, nhưng dùng văn phong vừa châm biếm vừa miệt thị. Ông viết rằng Vũ Hoàng Chương đã phát biểu và đọc những câu thơ đó trong Đại hội Văn hoá Toàn quốc năm 1957.

Tuy nhiên, cuốn kỉ yếu của Đại hội Văn hoá Toàn quốc (có thể download toàn văn ở đây [5] không thấy đề cập đến Vũ Hoàng Chương. Thật ra, chương trình của Đại hội khá phong phú, chứ không phải chỉ văn hoá. Trong 9 ngày Đại hội, các diễn giả đã bàn về:

  • tư tưởng tự do;
  • vấn đề khoa học của con người;
  • quan niệm về văn hoá;
  • nghệ thuật nhiếp ảnh;
  • văn nghệ;
  • hội hoạ;
  • báo chí;
  • giáo dục;
  • luân lí xã hội;
  • luật học;
  • kĩ thuật;
  • y tế (trang 192 rất đáng đọc)

Không thấy của thi sĩ Vũ Hoàng Chương có vai trò gì trong Đại hội Văn Hóa Toàn Quốc 1957. Bạn nào muốn tìm hiểu Đại hội thì có thể download toàn văn 407 trang từ địa chỉ dưới đây:  

Click to access Dai%20Hoi%20Van%20Hoa%20Toan%20Quoc_.pdf

Tóm lại, điểm qua những sự thật trên, tôi nghĩ rằng thi sĩ Vũ Hoàng Chương không viết những ‘câu thơ máu me’ trên. Trong tập thơ Hoa Đăng và bài thơ Lửa Từ Bi hoàn toàn không có những câu thơ đó. Có thể xác định rằng những câu thơ máu me đó là do ông Trần Bạch Đằng ‘sáng tác’ trong cuốn tiểu thuyết mang tính chánh trị của ông, và đặt vào miệng của thi sĩ họ Vũ.

Nhưng điều đáng nói ở đây là nhiều người có học tin vào sự bịa đặt đó và gán cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương những câu chữ sắt máu đó! Lại có người tích cực lan truyền những thông tin sai lệch trên và chỉ trích thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Thật không hiểu nổi tại sao có những người làm những việc sai quấy như thế.

Câu chuyện này chẳng khác gì chuyện báo chí viết rằng sau chiến thắng Đống Đa, Nguyễn Huệ sai quân đem cành đào Nhật Tân về Phú Xuân cho công chúa Ngọc Hân báo tin chiến thắng. Thật ra, trong chánh sử không có chỗ nào viết như thế cả. Ấy vậy mà từ báo chí, ‘huyền thoại’ trên được xem như là một sự thật lịch sử và trở thành đề tài cho một vở kịch! Tương tự, những ‘vần thơ máu me’ được hư cấu trong một cuốn tiểu thuyết chánh trị, rồi được trích dẫn và gán ghép cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương như là một sự thật. Các nhà văn thường dùng hư cấu để tạo nên những nhân vật lịch sử hay gán cho họ những phát biểu, và qua đó mà gởi gắm những tâm tình, quan điểm, khát khao, thoá mạ của tác giả. Có lẽ thi sĩ Vũ Hoàng Chương là một nạn nhân của siêu hư cấu chánh trị.

______

[1] https://tuoitre.vn/vu-hoang-chuong-tung-duoc-de-cu-giai-nobel-van-hoc-20230211154512635.htm

[2] Trong bài viết chỉ trích Vũ thi sĩ rất rất nặng nề và qui chụp, Chế Lan Viên viết như sau:

“Tôi nhớ không có trật tự gì về cái xứ hỗn loạn ‘thế giới tự do’ mà anh ca tụng. Nhưng chỉ cần anh đọc báo Sài-gòn. Đúng hơn, chỉ cần anh đọc xong và suy nghĩ. Đối chiếu với thơ anh mà suy nghĩ. Tôi chắc anh sẽ hối hận vì những câu ca tụng một cuộc ‘trưng cầu dân ý’ mà ý dân được trưng bằng súng lục, nhà tù:

Lá phiếu trưng cầu một hiển linh

Xé tan bạo lực dưới muôn hình

Từ đây nước Việt dân làm chủ…”

Rồi ở đoạn cuối, Chế Lan Viên lên lớp:

“Chúng ta cùng ở một tầng lớp mà ra. Chúng ta cũng là những người ra từ một phong trào thơ mới. Chúng ta bắt đầu cùng có mặt trong cuộc Cách mạng tháng Tám. Ngày nay hầu hết những nhà thơ cũ thờ ấy đều đã sống lại, trưởng thành: Xuân Diệu, Tế Hanh, Huy Cận, Anh Thơ, Lưu trọng Lư, Nguyễn xuân Sanh, Huyền Kiêu. Ít nhiều chúng tôi đều có cái tự hào đã đóng góp gì cho thơ, cho dân tộc.

Còn anh? Và Đinh Hùng, bạn anh nữa, các anh đã làm gì? Đọc tập thơ Hoa Đăng, tôi rất giận anh, mà lại thương anh! Các anh ca tụng một bọn bán nước, bán máu người, đã làm tâm hồn và thơ ca anh xuống dốc. Các anh chửi một chính Đảng, một nền tư tưởng mà rồi đây cũng sẽ hết sức cứu lấy các anh.

Hãy làm lại cuộc đời mình đi Vũ hoàng Chương. Nghĩa là nếu không có thiện chí như Henri Heine thì cũng cần dè dặt như bà má.”

[3] Bài thơ ‘Từ đây’ trong tập thơ ‘Hoa đăng’:

https://baithohay.com/hoa-dang-1959-tap-tho-vu-hoang-chuong-hay-dac-sac-nhat-phan-3.html

[4] https://isach.info/mobile/story.php?story=van_bai_lat_ngua__nguyen_truong_thien_ly&chapter=0045

Đây là nguồn gốc của những ‘câu thơ máu me’. Trong tiểu thuyết chánh trị ‘Ván bài lật ngửa’, Trần Bạch Đằng viết:

“Phần cuối của buổi sáng khai mạc đại hội văn hóa dành cho những văn nhân, có tên tuổi phát biểu ý kiến. Sở nghiên cứu chính trị nhận xét từng người phát biểu như sau:

Phạm Việt Tuyền, chủ bút báo Tự Do: Quá hăng hái nên lạc đề.

Võ Huyền Đắc, Trần Tuấn Khải, Đông Hồ: Rất chung, không rõ lập trường.

Đinh Hùng: quan điểm chống Cộng nổi bật nhưng quá kiêu và nói về cá nhân mình hơi nhiều. Cử tọa xì xào.

Vũ Hoàng Chương:

– Xưa tôi làm “thơ say” nay tôi làm “thơ tỉnh”. Tại đại hội này tôi xin đọc một bài thơ…

(Có tiếng nói từ hàng quan khách: Thi vương dù say hay tỉnh vẫn: “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”.)

Tôi làm bài này để cảm tác thời cuộc nhân có việc trưng cầu dân ý suy tôn Ngô chí sĩ…

(Nhà thờ đằng hắng lấy giọng)

Lá phiếu trưng cầu, một hiển linh.

Đốt lò hương gửi mộng bình sinh

Từ nay trăm họ câu hoan lạc

Đàn khúc đầm Dao, rượu chén Quỳnh

Có một ngày ta trở lại Cố Đô

Lưỡi lê no máu rửa Tây Hồ

Trên tầng chí sĩ ban tay vẫy

Đại định Thăng Long, một bóng cờ…

Vỗ tay…

Fanfani dạm hỏi người bên cạnh các từ ‘đầm Dao’, ‘chén Quỳnh’ và le lưỡi khi cô dịch câu ‘Lưỡi lê no máu rửa Tây Hồ’. Ngô Đình Nhu cau mày. Rheinardt nửa như cười nửa như mím môi. Nguyễn Thành Luân lặng lẽ. Số khác, trong đó có Đông Hồ, Trần Tuấn Khải,… thở dài.”

[5] Kỉ yếu của Đại hội Văn hoá Toàn quốc năm 1957:

Click to access Dai%20Hoi%20Van%20Hoa%20Toan%20Quoc_.pdf

Năm bài học ở đời

Tôi thỉnh thoảng nghĩ về những bài học ở đời, và dưới đây là 5 bài học tôi rút ra:

Bài học 1: đừng so sánh với ai.

Chúng ta thích so sánh. Mà, so sánh thì sẽ thấy mình kém hơn người ta, hay người ta kém hơn mình. Nhưng cả hai tình huống đều đem lại tác động xấu. Kém hơn người ta thì sanh ra mặc cảm tự ti. Nghĩ rằng mình hơn người ta thì sanh ra kiêu căng, ngạo mạn. Thành ra, so sánh có thể gây tác hại, bất kể ‘outcome’ so sánh ra sao..

Mỗi chúng ta là một người đặc biệt và hãy trân trọng sự thật đó. Mỗi người chúng ta là một cá nhân đặc thù (unique). Không có ai trong thế giới ~8 tỉ người này giống mình. Mình cũng chẳng giống ai. Tại sao? Tại vì mỗi chúng ta có một hoàn cảnh, khả năng, và lối sống riêng. Tôi có thể cùng tuổi, cùng chiều cao, cùng cân nặng, có cùng học vấn, cùng việc làm với một ai đó, nhưng tôi rất khác với người đó bởi vì tôi tóc đen, da vàng và sanh ra từ miền quê. Nói cách khác, tập hợp những đặc tính như gia đình, gen, cơ thể, tinh thần, lối sống, tri thức, sở thích, kĩ năng, trải nghiệm, v.v. làm cho mỗi chúng ta là đặc thù.

Tính đặc thù đó làm cho mọi so sánh về tài năng trở nên vô nghĩa. Nhiều người sợ rằng có nhiều người khác tài giỏi hơn họ. Họ hay so sánh ông A giỏi hơn bà B, hay bà C là người giỏi nhứt thế giới. Nhưng đó là so sánh vô nghĩa, bởi vì mỗi chúng ta là một cá nhân đặc thù thì đâu có ai để mà so sánh. Mỗi người tốt hơn mọi người khác, bởi không có bất cứ 2 người nào như nhau. Bạn là bạn, không ai tốt hơn bạn.

Nhận ra và tôn trọng sự đa dạng có nghĩa là làm nổi bậc những ưu điểm và các đặc điểm, cá tánh, kĩ năng và lối sống. Hãy nhìn vào kính và hỏi: ai có thể làm những gì bạn làm theo cách tốt nhứt trong điều kiện bạn có. Câu trả lời là: không có ai. Do đó, hãy khám phá ưu điểm của bạn, khám phá những gì bạn làm tốt nhứt. Không cần so sánh với ai cả.

Bài học 2: gia đình chúng ta rộng lớn hơn chúng ta nghĩ.

Chúng ta thường hiểu chữ ‘gia đình’ là quan hệ huyết thống, nhưng trong khoa học, gia đình còn có nghĩa là quan hệ chuyên môn. Gia đình của chúng ta là các thầy cô (mentors), đồng nghiệp, nghiên cứu sinh. Nói rộng hơn, gia đình của chúng ta là các hội đoàn khoa học. Nhận thức được điều này giúp cho chúng ta biết cách sống và tương tác với đồng nghiệp một cách tử tế.

Xin kể các bạn một chuyện cũ. Thuở đó tôi còn tương đối trẻ, mới bước vào ‘bộ lạc’ loãng xương, và rất hăng hái. Tôi đọc một bài báo và thấy có vài cái sai khá hiển nhiên, và thế là tôi viết một bài commentary (bình luận) chỉ ra những cái sai đó, rồi đưa cho thầy tôi xem. Ổng xem qua rồi mỉm cười và nói: những gì ngươi chỉ ra là ok, nhưng ngươi có nghĩ đến 20 năm sau không? Rồi ông nói cho biết rằng tác giả bài tôi phê bình là một ‘trưởng lão’ trong ‘bộ lạc’, rằng những chữ tôi dùng trong bài commentary là không thích hợp cho một người trẻ nói với người lớn, rằng tôi phải biết trước biết sau, v.v. Nói chung là một bài giảng morale. Nói xong, ổng nói thay vì gởi cho tập san, ổng sẽ biên tập lại bài commentary và gởi riêng cho tác giả.

Thật là một quyết định của bậc thầy! Tác giả (là ông cụ) viết thư (thời đó chưa có email) cám ơn tôi và còn mời tôi hợp tác. Sau này, chúng tôi viết chung 1 bài có ảnh hưởng khá. Sau này, chính ông cụ tác giả đó đã giúp cho tôi rất nhiều trong sự nghiệp, mỗi lần cần giới thiệu là tôi nhờ ổng. Tôi xem ổng như là một người trong đại gia đình vậy.

Thành ra, trong khoa học, ‘gia đình’ là cộng đồng bè bạn, đồng nghiệp, thầy cô và các hiệp hội chuyên môn mà chúng ta tương tác. Hiểu rõ như vậy để ứng xử tốt với đồng nghiệp. Đừng tỏ ra là ‘ta đây’ và đối xử với người cao và thấp hơn mình chẳng ra gì. Hãy là thành viên tốt trong gia đình đó!

Bài học 3: tìm hạnh phúc cho mình bằng cách đem hạnh phúc cho người khác.

‘Hạnh phúc’ là gì? Mỗi người có một định nghĩa riêng theo góc nhìn của họ, và khó có một đồng thuận về cách hiểu. Người thì nghĩ hạnh phúc là có nhiều tiền, con cái thành đạt; kẻ thì cho rằng hạnh phúc là có cuộc sống tiện nghi; lại có người nghĩ rằng hạnh phúc chẳng cần nhiều tiền mà là giàu trải nghiệm; vân vân.

Tôi thì nghĩ hạnh phúc là giúp cho người khác thành công. Nói cách khác, hạnh phúc của mình là mình đã đem lại hạnh phúc cho người khác. Những gì chúng ta cho đi cũng chính là những gì chúng ta nhận lại. Đó chính là lí do tại sao tôi thích giúp người mà có khi chưa bao giờ gặp người ta ngoài đời. Tôi có khi viết thư giới thiệu cho mấy nghiên cứu sinh gốc Tàu không phải trong labo tôi. Má tôi lúc sanh tiền hay nói đại khái là giúp người là một cách gieo hột lành cho tương lai, và tôi nghiệm ra câu này rất đúng.

Bài học 4: nghĩ tích cực, đừng bị ức chế bởi những chuyện đâu đâu.

Tôi nghĩ có lúc các bạn (cũng như tôi) từng bị người khác, kể cả bạn bè và đồng nghiệp, chỉ trích rằng mình bất tài, vô dụng, dở hơn họ, xấu hơn họ, ngu hơn họ, v.v. Có khi họ chính là bạn mình, hay người mình từng giúp đỡ. Mỗi chúng ta đều có trải nghiệm đó. Những người chỉ trích đó chắc chắn có cảm giác tốt khi họ bôi nhọ và đẩy chúng ta xuống bùn đen. Chúng ta trở thành miếng mồi cho cái tôi của họ.

Bạn đừng buồn và đừng chú ý đến những gì họ nghĩ gì về mình, mà hãy tập trung làm tốt công việc mình theo đuổi. Bạn cũng nên tránh xa những kẻ đó, vì họ không đem lại năng lượng tích cực cho đời sống của mình. Hãy kết bạn với người mới và tích cực và giữ một tinh thần lạc quan.

Viết đến đây tôi nhớ đến câu nói bất hủ của Richard Feynman (tôi dịch nôm na): “Bạn không có bổn phận phải sống đúng theo những gì người khác nghĩ về bạn phải như thế này hay như thế kia. Bạn không có bổn phận phải giống như những gì họ kì vọng; đó là sai lầm của họ, chứ không phải nhược điểm của bạn”.

Bài học 5: tình thương là thực tế duy nhứt.

Trong buổi lễ phong hàm đại tá cho một nữ quân nhân Mĩ gốc Việt, người ta cho người trong gia đình chị ấy gắn quân hàm một bên cầu vai, còn người đại diện của Chánh phủ / quân đội gắn một bên cầu vai. Tôi thấy nghi lễ đó rất hay vì nó nhắc nhở rằng không có tình thương của gia đình thì chị ấy đã không có ngày hôm nay.

Không có tình thương gia đình, chúng ta — bạn và tôi — không thể sống được. Có lần thầy cũ tôi lúc sắp vào bệnh viện để điều trị ổng nói đại khái rằng chỉ có tình thương là quan trọng trong đời. Lúc đó tôi chẳng hiểu sao ổng nói vậy, vì nó có vẻ quá hiển nhiên. Sau này nghĩ lại thì đúng như thế: chỉ có tình thuơng là thực tế, các thứ khác (như danh vọng, sự nghiệp, tiền tài) đều là ảo.

Mỗi chúng ta sanh ra trong tình thương của ba má, cùng sự bảo bọc của ông bà và anh em, bà con. Khi lớn lên, chúng ta hay muốn quay về cái thời điểm ấm cúng đó. Nếu chúng ta muốn như vậy thì người khác cũng vậy, và điều này hàm ý rằng chúng ta nên trao tình thương cho tha nhân. Trao bằng cách nào? Một ánh mắt, một cái sờ tay, một câu nói, một cử chỉ trìu mến đều có hiệu quả truyền tải tình thương. Chọn chữ mà nói/viết sao cho không làm cho người ta bị xúc phạm và tổn thương. Câu chuyện trên về thầy tôi là một bài học quí giá vậy.

Viết đến đây tôi nhớ đến Nhà văn Mai Thảo (một cây bút lừng danh trước 1975 ở trong Nam). Ông bị người ta chỉ trích và công kích, nhưng ông không bao giờ trả lời hay công kích lại. Ông giải thích:

“Đời tôi có một nguyên tắc: không bao giờ dùng văn chương để làm bất cứ điều gì xấu xa. Đâu phải tôi không biết người nào tốt người nào xấu với mình, nhưng tốt hay xấu mặc họ. Người nào tốt, đến gần, uống rượu chơi. Người nào xấu, lánh ra thật xa, đừng thèm đụng tới. Nhưng đừng bao giờ mang những điều đó lên trang giấy để bôi bẩn nhau. Văn chương là cái đẹp, là thế giới của cái đẹp, ở thế giới ấy có thứ tiền tệ riêng của nó: anh phải dùng thứ tiền ấy, anh phải đàng hoàng, phải lương thiện. Thứ tiền tệ ấy chính là cái đẹp.”

***

Cuộc đời là một hành trình khai phá và khám phá, và những bài học tôi rút ra trong hành trình đó là (i) chúng ta đừng nên quá quan tâm mình giỏi hay dở vì mỗi chúng ta là một cá nhân đặc thù; (ii) gia đình khoa học của chúng ta rộng hơn là gia đình huyết thống; (iii) làm việc vì phúc lợi của người khác tức là đem lại hạnh phúc cho mình; (iv) nghĩ tích cực và đừng sống vì kì vọng của người ta; và (v) là đem tình thương đến cho gia đình và tha nhân.

Kĩ năng xin học bổng

Hôm kia, tôi nhận được một lá thư [1] làm mình mừng trong bụng. Em ấy bảo rằng nhờ những bài tôi hướng dẫn xin học bổng trên youtube mà em ấy đã thành công trong việc xin học bổng tiến sĩ ở bên Âu châu.

Thật ra, trong chuyến về VN vừa qua, có ít nhứt là 5 em đến gặp tôi (trong hội nghị) nói rằng nhờ mấy bài giảng đó mà các em xin được học bổng bên Mĩ, Âu châu và Úc. Còn số em gởi email chia vui thì nhiều hơn. Sự thành công của các em ấy làm cho tôi thấy vui vì ít ra mình giúp được cho họ, những người thế hệ sau, đạt được ước mơ có thể làm thay đổi cuộc đời họ.

Loạt bài giảng đó tôi đã tải lên youtube để các bạn có thể tham khảo và giới thiệu cho bất cứ ai có nhu cầu vào xem và download (tất cả đều dưới playlist ‘Giáo dục’):

Bài 1: Cách soạn lí lịch khoa học.

Bài 2: Cách soạn ‘Statement of Purpose’

Bài 3: Cách soạn đề cương nghiên cứu.

Bài 4: Cách trả lời phỏng vấn.

Trong tương lai gần tôi sẽ làm vài video chỉ cho các em ấy làm gì để thành công trong việc học/nghiên cứu cấp tiến sĩ.

Bình luận khoa học

Nhân đây, xin giới thiệu mục mới trên kênh youtube của tôi nhan đề ‘Bình luận khoa học’. Hiện nay, kênh của tôi đã có hơn 100 video giảng về các chủ đề dịch tễ khoa học, loãng xương, phân tích dữ liệu, kĩ năng mềm (như xin học bổng), và vài bài giảng kiểu ‘occasional lectures’. Nay tôi thấy nhu cầu ứng dụng càng cấp thiết nên mới cho ra đời mục ‘Bình luận khoa học’.

Trong mục này, tôi sẽ ‘đọc báo dùm bạn’, có nghĩa là điểm qua những nghiên cứu mới nhứt, thú vị và quan trọng. Thú vị là để chúng ta cùng học hỏi về phương pháp hay có ý tưởng mới. Tôi sẽ cố gắng điểm qua 1 bài mỗi tháng. Nhưng nếu có dịp và thì giờ tôi sẽ nâng cao số lần điểm báo.

Tôi cũng mời các bạn nào quan tâm làm video điểm báo, và tôi sẽ upload lên kênh này. Các bạn có thể làm mỗi video trong vòng 20 phút (không nên dài hơn — tại sao 20′ thì tôi sẽ giải thích sau). Các bạn làm theo công thức tôi làm trong bài đầu tiên về khẩu trang, tức là 3 phần thôi:

• Phần đầu là đặt vấn đề hết sức ngắn gọn;

• Phần hai là đi vào chi tiết của công trình nghiên cứu và những điểm hay đáng học;

• Phần ba là bài học rút ra hay thông điệp chánh.

Xin nói thêm rằng kênh này làm ra không nhằm mục tiêu thu tiền của youtube (do đó, các bạn sẽ không thấy quảng cáo). Kênh được tạo ra vì mục đích đóng góp cho cộng đồng. Mời các bạn theo dõi và subscribe kênh: https://www.youtube.com/@drnguyenvtuan.

Nửa thế kỷ cải tạo làm cạn kiệt tài nguyên một ĐBSCL đang chết dần

LGT: Là người được sanh ra và lớn lên ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tôi đã chứng kiến những thay đổi quá lớn và có ảnh hưởng tiêu cực đến môi sinh của 17 triệu dân thuộc vùng đất này. Ngày xưa, trẻ con tắm sông là bình thuờng; còn ngày nay chẳng ai dám tắm sông. Ngày xưa, mỗi lần có khách đến nhà, chỉ cần ra sau vườn vài phút là có cá và rau đãi khách; nhưng ngày nay thì đó chỉ là kí ức. Vài tuần trước tôi có dịp về thăm nhà và thấy sự xuống cấp của môi trường sống trong vùng đáng báo động. Cái cống sông Cái Lớn – Cái Bé, được xem là ‘công trình thế kỉ’, chưa thấy tác động tích cực ở đâu, nhưng nó đã gây tác hại tiêu cực đến nhiều con sông trong tỉnh. Trong bối cảnh đó, tôi hân hạnh giới thiệu bài viết mới nhứt của Nhà văn, Bác sĩ Ngô Thế Vinh về tình hình cạn kiệt tài nguyên ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Là người trăn trở với vùng đất này, Bs Vinh đã viết nhiều bài và sách, và những dự báo ông đưa ra hơn 25 năm trước nay đã thành hiện thực. Bài viết có nhiều ý kiến chân tình nhưng có lẽ hơi khó nghe đối với vài người. NVT

_____

NỬA THẾ KỶ CẢI TẠO LÀM CẠN KIỆT TÀI NGUYÊN MỘT ĐBSCL ĐANG CHẾT DẦN

Gửi ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL

không được quyền có tiếng nói

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

NGÔ THẾ VINH

順天者存,逆天者亡

Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong

Thuận với thiên nhiên thì còn.  

Nghịch với thiên nhiên thì mất. [Mạnh Tử]

“Kế hoạch phát triển nào cũng phải tính tới cái giá môi sinh phải trả – environmental costs – đối với sức khoẻ của người dân và cả trên nguồn tài nguyên lâu dài của đất nước.”  Ngô Thế Vinh

Lời Dẫn Nhập: Trong lịch sử cận đại, kể từ sau 1975, cụm từ “cải tạo” của người Cộng Sản Việt Nam, trong mọi lãnh vực, hàm chứa một nội dung tồi tệ nhất, chỉ có ý nghĩa độc ác, tha hoá con người, huỷ hoại môi sinh, làm cạn kiệt mọi nguồn tài nguyên, và để lại một đất nước không có tương lai. Đây là bài thứ 2 viết về 48 năm cải tạo Đồng Bằng Sông Cửu Long của nhà nước CS Việt Nam đã và đang phá huỷ cả một vùng châu thổ phì nhiêu nhất Châu Á và cũng là của thế giới, và làm nghèo cả một đất nước ra sao.

BÀI HỌC VỠ LÒNG: DÒNG CHẢY SINH THÁI (1)

Câu nói dân gian của ông bà từ các thế hệ khai phá đất phương Nam đã trối trăng lại cho con cháu là làm gì thì làm, nhưng nhứt định không được “ngăn sông cấm chợ” vì nó trái với tinh thần tự do phóng khoáng của người dân ĐBSCL. [TS Dương Văn Ni, ĐH Cần Thơ].

Ngay cả với giới khoa học môi trường, khái niệm về “Dòng Chảy Sinh Thái” không mới.

Trước thập niên 1950s, hầu như mọi mối quan tâm đều tập trung vào khai thác tiềm năng nguồn nước từ các dòng sông để phát triển, dẫn tới việc xây dựng ồ ạt các đập thuỷ điện và đổi dòng những con sông lớn nhỏ trên khắp hành tinh này.

Sang đến thập niên 1970s, người ta mới bắt đầu nhận ra những hậu quả tác hại  của những con đập trên các dòng sông do những bước phát triển không bền vững ấy – unsustainable development – đặc biệt là sự suy thoái phẩm chất nguồn nước và tác động tiêu cực tới hệ sinh thái nên đã quan tâm sửa chữa.

Tới thập niên 1990s, tầm quan trọng của chế độ thuỷ văn tự nhiên – dòng chảy (flow regime) rất được quan tâm, và được coi như một “chỉ dấu lành mạnh” của dòng sông với toàn thể hệ sinh thái nước ngọt (healthy freshwater ecosystems).

Tại những quốc gia tiên tiến, với sửa sai kịp thời, người ta đã đạt được một số cải thiện về phẩm chất nước, nhưng tính đa dạng sinh học của nguồn nước vẫn còn bị suy thoái. Vậy nguyên nhân chính của thiếu sót ấy là gì?Đó là: “dòng chảy – flow,  được coi là biến số chủ yếu – master variable” ảnh hưởng trên mọi biến số khác như: phẩm chất nước, chu kỳ năng lượng (energy cycle), môi trường sống (physical habitat), và những ảnh hưởng tương tác sinh học (biotic intereactions) – để cùng điều hoà các hệ sinh thái nước ngọt (freshwater ecological systems). [Karr 1991, Poff et al 1997]. (1)

Hình 1: Dòng chảy sinh thái được hiểu như dòng chảy với lượng nước và phẩm chất nước của con sông chảy thông suốt qua thời gian. Sự đo lường này được căn cứ trên toàn thể lượng và phẩm chất của dòng chảy nhằm duy trì một hệ sinh thái nước ngọt thiết yếu cho sự sống và con người phụ thuộc vào. Dòng chảy sinh thái với 5 yếu tố cần được quan tâm: (1) Thuỷ học; (2) Sinh học; (3) Phẩm chất nước; (4) Liên hệ với đất đai; (5) Cấu trúc địa hình. https://www.alberta.ca/about-environmental-flows.aspx(1)

Người ta đã bắt đầu nêu ra tiêu chuẩn về dòng chảy tối thiểu (minimum flows) để làm loãng ô nhiễm (pollution dilution), giữ cho dòng sông ít bị tổn thương để bảo vệ sinh hoạt dân cư và  các loài cá cùng những sinh vật sống dưới nước.

Nếu “biến số chủ yếu / master variable là dòng chảy” không được duy trì và chỉ điều chỉnh vài biến số khác là hoàn toàn không đủ để phục hồi một hệ sinh thái lành mạnh.

Những biến đổi do con người gây ra (anthropogenic alterations) trên “chế độ dòng chảy thiên nhiên” là nguyên nhân khủng khoảng tính đa dạng sinh học của hệ thống nước ngọt toàn cầu hiện nay, đó là: các cống ngăn chặn dòng chảy, các con đập, sự đổi dòng lấy nước, xả nước thải vào nguồn nước, khai thác đất đai và biến đổi khí hậu.

Duy trì dòng chảy sinh thái cần tới những phương thức nhất quán và giao thoa  (interdisciplinary) với nhiều lãnh vực. Tổ chức Bảo Tồn Thiên Nhiên / The Nature Conservancy khuyên nên dùng một “khung bậc – hierarchical framework” để phát hiện mẫu của dòng chảy nhằm mau chóng áp dụng các biện pháp quản trị thích nghi (adaptive management of flow). (1)

Một cách khái quát, có thể định nghĩa Dòng Chảy Sinh Thái của sông Mekong-Cửu Long dài 4.800 km chảy qua 7 quốc gia (Tây Tạng được kể là một quốc gia ) như sau:

“Mekong – Cửu Long là mạch sống, để bảo vệ mạch sống ấy là duy trì một “dòng chảy sinh thái  – environmental flow, cần thiết để bảo vệ lưu vực như một  toàn thể hệ sinh thái lành mạnhbền vững”, cụ thể hơn là duy trì một chế độ dòng chảy với nguồn nước sạch với phù sa, nuôi dưỡng một hệ thủy sinh (tôm cá, rong tảo và các vi sinh vật) và một nền canh nông phong phú (lúa gạo, cây trái), đó là nguồn lương thực thiết yếu, và cũng là bảo vệ những nền văn hóa ven sông của 70 triệu dân đang sống trong lưu vực.”

CHUỖI ĐẬP THUỶ ĐIỆN THƯỢNG NGUỒN SÔNG MEKONG

Hẳn mọi người không quên, là tuy đã bước sang cuối thập niên thứ hai của Thế Kỷ 21 (2017), mà TS Phạm Tuấn Phan, sinh quán Hà Nội, có bằng tiến sĩ vật lý và điện toán Đại học Belarus thuộc khối Liên Xô cũ, nguyên Giám đốc Điều hành Ban Thư ký Uỷ hội Sông Mekong (CEO / MRC Secretariat) nhiệm kỳ 2016-2018, là người bản địa đầu tiên trong lưu vực được vinh dự đảm trách chức vụ quan trọng và danh giá này, mang hai căn cước: một công dân Việt Nam và một công dân Mekong.

Tại Diễn đàn Khu vực họp tại Luang Prabang ngày 22/02/2017, liên quan tới Dự án thuỷ điện Pak Beng 912 MW, con đập dòng chính (mainstream dam) thứ ba của Lào, khi trao đổi với nhóm nhà báo – trong đó có phóng viên môi sinh Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị, TS Phạm Tuấn Phan đã mạnh mẽ phát biểu: “Thuỷ điện không khiến dòng Sông Mekong sẽ chết. Tôi nghĩ chúng ta nên hiểu rõ điều này trước đã“. Chắc chắn ông Phan sẽ không nói câu đó nếu ông hiểu được một điều rất cơ bản: thế nào là “Dòng chảy Sinh Thái” để giữ cho con sông Mekong không chết. [Hình 2] Phát biểu của ông Phạm Tuấn Phan trong vai trò lãnh đạo Uỷ Hội Sông Mekong / Mekong River Commission, một tổ chức liên quốc gia [Lào, Thái Lan, Cambodia, Việt Nam] không những lỗi thời, thiếu cơ sở khoa học, đi ngược lại quan điểm của bao nhiêu tổ chức bảo vệ môi sinh quốc tế và ngay trong lưu vực sông Mekong từ nhiều năm nay. Quan điểm sai trái của TS Phạm Tuấn Phan đã gây tác hại cho nỗ lực bảo vệ sông Mekong bấy lâu và cả rất thiếu trách nhiệm với các cộng đồng cư dân ven sông, trong đó có ngót 20 triệu cư dân trên chính vùng đất mẹ của ông, nơi mà “những người nông dân ĐBSCL đang khốn đốn muốn chết“, và một số không ít – ngót 2 triệu người, đã rời  bỏ quê hương đi tha phương cầu thực là điều rất dễ thấy. 

Hình 2:  phải, tại Diễn đàn Khu vực họp tại Luang Prabang ngày 22/02/2017 liên quan tới Dự án thuỷ điện Pak Beng – con đập thượng nguồn dòng chính thứ ba của Lào, khi trao đổi với nhóm nhà báo, trong đó có phóng viên môi sinh Lê Quỳnh (5), báo Người Đô Thị (người cầm máy ghi âm), ông Phạm Tuấn Phan Giám đốc Điều hành Ban Thư ký Uỷ hội sông Mekong đã mạnh mẽ phát biểu: “Thuỷ điện không khiến dòng sông Mekong sẽ chết. Tôi nghĩ chúng ta nên hiểu rõ điều này trước đã.” Chắc chắn ông Phạm Tuấn Phan sẽ không nói câu đó nếu ông hiểu thế nào là “Dòng chảy Sinh Thái” để giữ cho con sông Mekong không chết [Photo by Thiện Ý]; trái, phóng viên môi sinh Lê Quỳnh, trên khúc sông Mekong Bắc Lào. [nguồn: Earth Journalism Network, 2017]  

Từ ngót ba thập niên qua, người viết và Nhóm Bạn Cửu Long (5) đã không ngừng lên tiếng về mối nguy cơ từ những con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam (Lancang-Mekong  Cascades) của Trung Quốc, tiếp theo đó là chuỗi 9 con đập thuỷ điện dòng chính của Lào, rồi tới 2 dự án đập của Cambodia, tác hại trên toàn hệ sinh thái lưu vực Sông Mekong và ĐBSCL ra sao, như: làm nghẽn dòng chảy, mất lưu lượng nước, mất nguồn phù sa nơi các hồ chứa thượng nguồn, đã dẫn tới một tiến trình đảo ngược nơi ĐBSCL, thay vì được bồi đắp như bấy lâu thì nay đang dần dần tan rã, với các bờ sông và bờ biển bị sạt lở và mũi Cà Mau thì bị cắt lẹm mất đất 600 ha mỗi năm.

Kể từ ngày Ngoại trưởng nhà nước Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm phạm phải một sai lầm chiến lược khi đặt bút ký Hiệp định Uỷ hội sông Mekong / MRC / Mekong River Commission năm 1995 từ bỏ quyền phủ quyết [veto power] vốn đã có trong Hiệp ước Uỷ Ban Sông Mekong / Mekong River Committee từ năm 1957 thời Việt Nam Cộng Hoà.  

Thực tế cho thấy trong ngót nửa thế kỷ qua, Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn, đã hoàn toàn bất lực, không những không làm gì được để ngăn chặn  bất cứ một dự án thuỷ điện nào phía thượng lưu – còn phải kể thêm là chính các công ty quốc doanh Việt Nam – trên thực tế là các nhóm lợi ích, đã đồng loã góp tay góp vốn xây dựng một số đập thuỷ điện ở Lào và Cambodia, thúc đẩy thêm cho quá trình tự huỷ hoại ấy.

_ Tại Lào: Công ty quốc doanh Dầu khí Việt Nam (PVPC / PetroVietnam Power Co.) đã được chính nhà nước CS Việt Nam bật đèn xanh cho đem vốn sang làm chủ đầu tư cho con đập dòng chính Luang Prabang 1.460 MW lớn nhất trên lãnh thổ Lào, mà ai cũng biết con đập thượng nguồn ấy có tác dụng huỷ hoại mau chóng hơn cả một hệ sinh thái ĐBSCL vốn đã mong manh, với cái giá kinh tế và xã hội rất cao mà 20 triệu dân của 13 tỉnh Miền Tây sẽ phải gánh trả, với ảnh hưởng trực tiếp trên luống cày, trên từng ngụm nước uống, và cả trên chén cơm tô cá của họ. [KS Phạm Phan Long, Việt Ecology Foundation] (6) [Hình 3 a]

_ Tại Cambodia: Công ty Quốc doanh Điện Lực Việt Nam/ EVN (Electricity of Vietnam) đã góp 10% cổ phần trong số 816 triệu MK, để xây dựng con đập phụ lưu Hạ Sesan-2 (Lower Sesan 2) 400 MW lớn nhất của Cambodia, phần còn lại là của Nhóm Hoàng Gia Cam Bốt / Cambodia Royal Group và Công ty Năng lượng Lan Thương Trung Quốc/ Hydrolangcang International Energy Co., Ltd. Lại vẫn Trung Quốc, ngoài chuỗi đập bậc thềm Vân Nam, nay cánh tay TQ nối dài xuống xa tới cả những con đập phụ lưu hạ nguồn. [Hình 3 b]

Hình 3: Các công ty quốc doanh của nhà nước CSVN kết hợp với các nhóm lợi ích – bất kể đạo lý, đi tìm nguồn lợi nhuận bất cứ ở đâu – cho dù có hại cho đất nước mình ra sao. Trái, công ty quốc doanh Dầu khí PetroVietnam là chủ đầu tư con đập Luang Prabang 1.460 MW, con đập thuỷ điện dòng chính lớn nhất của Lào. (6) [nguồn: Michael Buckley]. Phải, công ty quốc doanh Điện lực Việt Nam / EVN góp vốn góp công vào dự án Hạ-Sesan-2 (LS2) 400 MW, đập thuỷ điện phụ lưu lớn nhất của Cambodia đã  ảnh hưởng tác hại trực tiếp tới ĐBSCL, Việt Nam. [nguồn: Decarboni]

Câu hỏi được đặt ra là tại sao nhà nước CS Việt Nam không thể không biết nhưng họ vẫn coi nhẹ những tổn thất môi sinh và xã hội như thế. Câu trả lời rõ ràng: khi mà giới lãnh đạo Hà Nội có toàn quyền quyết định, lại được các nhóm lợi ích chia chác cho hưởng lợi, trong khi người dân không được phép có tiếng nói và phải gánh chịu mọi tổn thất và cả di luỵ cho các thế hệ tương lai.

Hình 4: Cảnh khô hạn nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long. Và mọi người vẫn không quên sự kiện đau lòng, vào cuối tháng 3 năm 2016, nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng đã phải vô vọng kêu cứu Trung Quốc xả nước từ đập thuỷ điện Cảnh Hồng / Jinghong Dam để cứu hạn cho ĐBSCL, nhưng vô ích và đó cũng chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. [nguồn: VNExpress 03.11.2016]

Trước nguy cơ: mất dòng chảy, mất nguồn nước ngọt, mất phù sa, và cả một vùng châu thổ phì nhiêu là ĐBSCL đang bị lún dần và chìm trong biển mặn, hậu duệ của những thế hệ dũng mãnh tiên phong khai phá trong cuộc Nam Tiến cách đây mới hơn ba trăm năm, nay đang bị tê liệt, không được quyền cất tiếng nói và phải tủi nhục chấp nhận lùi bước trước thảm hoạ có thể bị xoá đi cả một nền Văn Minh Miệt Vườn và trong một tương lai không xa, có thể vào thế kỷ tới nếu không có được một giải pháp cứu nguy tức thời. Rồi ra sẽ có những đợt tỵ nạn môi sinh (ecological refugees) lớn hơn, trên tầm vóc quốc gia, vào giữa thế kỷ 21 này. 

LÃNH ĐẠO TỪ MIỀN BẮC

Cả ba miền Bắc Trung Nam đâu có thiếu nhân tài, nhưng do từ nhân cách và tính độc lập của họ, đã khiến những tài năng và nguồn chất xám ấy đã bị thể chế hy sinh một cách không thương tiếc.  

Từ ngày Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn [NN & PTNT] được chính thức thành lập từ 1995, trải qua 4 đời Bộ trưởng đều có gốc gác từ Miền Bắc:

_  Nguyễn Công Tạn, Thái Bình, Bắc phần 1995-1997

_  Lê Huy Ngọ, Thanh Hoá, Bắc phần, 1997-2004

_ Cao Đức Phát, Nam Định, Bắc phần,  2004-2016 

_ Nguyễn Xuân Cường, Hà Tây, Bắc phần, 2016-2021

Trong suốt khoảng thời gian đó, có thể nói ĐBSCL –  một hệ sinh thái mong manh có thể ví như  một cơ thể sống, đã bị các lãnh đạo từ ngoài Bắc vào không ngừng chặt chém bằng những con dao mổ trâu.  

Chỉ mới đây thôi, từ tháng 4 năm 2021, lần đầu tiên Việt Nam có một Bộ Trưởng Bộ NN & PTNT gốc gác từ Miền Nam: ThS Lê Minh Hoan, tốt nghiệp ĐH Kiến Trúc – ông là đứa con thứ sáu, sinh ra và lớn lên trên vùng Đất Sen Đồng Tháp, nên ông còn có một tên gọi khác là Chú “Sáu Sen – Six Lotus”.Chưa bao giờ như lúc này, ĐBSCL cần tới một khuôn mặt lãnh đạo mới, với ý tưởng mới để kịp thời vực dậy cả một vùng châu thổ đang chết dần.

GS Võ Tòng Xuân là người vui mừng trước tin này. Trao đổi với phóng viên Dân Việt 08/04/2021, Doctor Rice VTX đã nhận định: “Tân Bộ trưởng Bộ NN & PTNT là người tài, nhiệt tình, có cái nhìn sâu rộng, đặc biệt là rất thành thạo về lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở vùng ĐBSCL”, và GS Võ Tòng Xuân đã hiến kế cho BT Lê Minh Hoan nên thành lập nhóm tư vấn riêng cho mình. “Nhóm tư vấn này là những người có chuyên môn, nhà khoa học, có nhiệm vụ hỗ trợ, nghiên cứu, kiến nghị các vấn đề có liên quan, giúp BT Bộ NN & PTNT có quyết sách chính xác, rõ ràng, cụ thể đưa ngành nông nghiệp Việt Nam ngày càng phát triển.” Nói về một nhóm tư vấn, thì nguồn chất xám ấy không ở đâu xa, người viết nghĩ ngay tới Nhóm Nghiên Cứu Đại Học Cần Thơ với công trình “Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thuỷ Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé (06/9/2018), bao gồm những tên tuổi rất quen thuộc từ Đại Học Cần Thơ: TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến Đổi Khí Hậu, ThS Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái, TS Dương Văn Ni, chuyên gia môi trường và tài nguyên thiên nhiên, TS Nguyễn Hồng Tín, Trưởng Bộ môn Hệ thống Nông nghiệp Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL; TS Đặng Kiều Nhân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL.(2)

Hình 5: Nhóm Nghiên Cứu Đại Học Cần Thơ với công trình Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thuỷ Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé (06/9/2018), từ phải theo ngược kim đồng hồ: TS Lê Anh Tuấn, TS Đặng Kiều Nhân, ThS Nguyễn Hữu Thiện, anh Kiệt một nông dân vùng dự án CLCB, TS Dương Văn Ni, TS Nguyễn Hồng Tín. (2)

Họ là các nhà khoa học môi trường dày kinh nghiệm, đôi chân đã dính phèn, với nhiều năm trăn trở và lăn lộn với đồng bằng sông nước Cửu Long, và một số trong nhóm nghiên cứu này cũng đã tích cực tham gia vào bước hình thành Bản “Quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050”, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư / KH & ĐT chủ trì;(4) Công ty Royal Haskoning DHV đứng ra nghiên cứu và viết báo cáo; họ đã mời nhóm chuyên gia Hà Lan, Đức và Việt Nam cùng hợp tác. Do có quá nhiều vấn đề phức tạp, thời gian nghiên cứu Quy hoạch Tích hợp này đã kéo dài 3 năm. Theo TS Lê Anh Tuấn, người có tham gia trong nhóm nghiên cứu với chức danh là “chuyên gia môi trường và nông nghiệp”, “Tính thực tế và khả thi của báo cáo này – và cũng là nội dung NQ13/BCT hiện nay đang quá sớm để có được một đánh giá.” Và theo Luật Quy hoạch thì mỗi tỉnh ở ĐBSCL phải tự làm quy hoạch cho tỉnh mình trên cơ sở của Bản Quy hoạch Vùng ĐBSCL.  

Phải đương đầu và giải quyết bao nhiêu hệ luỵ tồn tại từ sau 1975, đứa con Đồng Tháp Lê  Minh Hoan có bản lãnh hay không là trong lúc này. Trước mắt, rất cần ông BT có chính kiến đánh giá khách quan và khoa học về các công trình cải tạo ĐBSCL bấy lâu trong 48 năm qua và gần đây nhất là Siêu Cống Cái Lớn.

MỘT CHUỖI CẢI TẠO THẤT BẠI: KHÔNG AI NHẬN TRÁCH NHIỆM

Những bước “cải tạo tự huỷ của nhà nước CS Việt Nam nơi ĐBSCL trong ngót nửa thế kỷ qua, với những công  trình “nghịch thiên – chống lại thiên nhiên”, đã để lại những di luỵ tác hại nghiêm trọng và tích luỹ trên nguồn tài nguyên và sự sống còn của cả một vùng châu thổ phì nhiêu nhất Châu Á và cũng là kho lương thực của Việt Nam.

Có thể kể một số “công trình cải tạo ĐBSCL” từ sau 1975:

_ Xây chuỗi đê bao chắn lũ để mở rộng khu làm lúa cao sản ba vụ, đã làm mất 2 túi nước thiên nhiên khổng lồ, là khu Tứ Giác Long Xuyên và vùng trũng Đồng Tháp Mười.

_ Xây trên sông những cống đập chắn mặn, ngăn chặn dòng chảy, phá vỡ nhịp đập thiên nhiên (Mekong Pulse) của toàn hệ sinh thái ĐBSCL điển hình là 3 dự án lớn: (1). Ngọt hoá Bán Đảo Cà Mau, (2) Công trình Cống đập Ba Lai, và gần đây nhất là, (3) Cống Đập Cái Lớn Cái Bé được mệnh danh là Công trình của Thế Kỷ. [sic]    

  •  Ngọt Hoá Bán Đảo Cà Mau: Một chuỗi những hối tiếc

Ba công trình khủng gồm: Ô Môn – Xà No và Ngọt Hóa Bán đảo Cà Mau “với kinh phí tính bằng đơn vị hàng ngàn tỷ đồng cho đến nay kết quả được-mất của các dự án này cũng chưa hề được đánh giá” [TS Dương Văn Ni, ĐHCT]. Trong suốt giai đoạn 1990 đến năm 2000, hàng trăm cống đập, đê biển, đê sông ngăn mặn, giữ ngọt đã được rộng rãi đầu tư xây dựng. Theo tínhtoán – chỉ trên lý thuyết của ngành thủy lợi thuộc Bộ NN & PTNT [dưới thời 2 Bộ Trưởng Nguyễn Công Tạn, 1995-1997; Lê Huy Ngọ, 1997-2004], hệ thống đưa nước ngọt từ sông Hậu về Bán đảo Cà Mau để cung cấp nước tưới, chủ yếu trồng lúa, cho 70.000 ha đất của tỉnh Bạc Liêu, 50.000 ha đất của Cà Mau và 66.000 ha đất của Kiên Giang.

Hình 6a: trái, Bản đồ Quy hoạch thủy lợi vùng Nam Bán Đảo Cà Mau. Hình 6b: phải, Âu thuyền Tắc Thủ do Cty CP Tư vấn XD Thủy lợi II thiết kế và xây dựng từ 2001 tại ngã ba sông Ông Đốc – Cái Tàu – sông Trẹm, Cà Mau, với kinh phí gần 80 tỷ đồng nhưng sau khi hoàn thành năm 2006, đã chứng tỏ không những là vô dụng, mà còn gây thêm cản trở giao thông. [photo by Nguyễn Kiến Quốc] (2)

Hình 7: những nơi dòng sông không chảy, ĐBSCL dày đặc ô nhiễm và sinh cảnh thì đang chết dần. [photo by Ngô Thế Vinh 12.2017]

Nhưng các dự án khủng ấy đã gây ra những hậu quả nhãn tiền là: 

_ Về khía cạnh hệ sinh thái, do dòng chảy sông rạch thường xuyên bị ngăn chặn bởi các cống, nên sự kết nối hữu cơ giữa “hệ sinh thái sông và biển” với thủy triều từ biển hoàn toàn bị triệt tiêu trong thời gian cống bị đóng. Và khi mở cống, do ô nhiễm tích luỹ lại theo dòng nước lan toả huỷ diệt sinh cảnh và nguồn thuỷ sản nơi cửa sông và vùng cận duyên.    

Phía trong cống không còn hiện tượng nước lớn, nước ròng mỗi ngày, hoặc nước rong nước kém cho chu kỳ rằm mỗi nửa tháng. Khi chưa có cống đập, thủy triều trong sông rạch vùng Bán đảo Cà Mau tuy không đều nhưng có khi biên độ cao đến gần 2 mét. Do các cống đóng suốt mùa khô, nên khúc sông bên trong trở thành hồ nước tù đọng khiến tình trạng ô nhiễm gia tăng trầm trọng. Rác rưởi từ nguồn phế thải gia cư, cộng thêm với các độc chất phục vụ trồng lúa như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân bón hoá học tràn xuống tích tụ dày đặc. [Hình 7]

_ Về khía cạnh công trình, do các cống ngăn mặn đã gây cản trở giao thông trên sông rạch nên phải tốn kém làm thêm những công trình khác như âu thuyền Tắc Thủ, được xây từ năm 2001 tại ngã ba sông Ông Đốc – Cái Tàu – sông Trẹm, thuộc hai huyện Thới Bình và U Minh, Cà Mau với kinh phí gần 80 tỷ đồng nữa. Công trình này do Cty CP Tư vấn XD Thủy lợi II thiết kế và xây dựng. Âu thuyền Tắc Thủ sau khi hoàn thành năm 2006, đã chứng tỏ không những là vô dụng, mà còn gây thêm cản trở giao thông. Cho đến nay, hầu như không ai chịu trách nhiệm về kế hoạch thất bại và đầu tư vô cùng lãng phí này. (2)

Hình 8: Người dân Bạc Liêu và rồi lan sang Cà Mau rủ nhau đi phá cống đập ngăn mặn. [nguồn: tư liệu VTV, Giữa đôi dòng mặn ngọt 1998] (2) 

 Kết quả là chỉ sau hơn 5 năm, công trình ngọt hóa Bán đảo Cà Mau đã bộc lộ những bất cập giữa lý thuyết và thực tế gây nhiều khó khăn cho đời sống cư dân trong vùng. Từ năm 1997-1998, đã có hàng trăm nông dân đòi phá các hệ thống cống đập này để lấy nước lợ vào nuôi tôm; tháng 7/1998 nông dân Bạc Liêu kéo nhau đi phá đập Láng Trâm và phong trào phá cống ngăn mặn lan sang tỉnh Cà Mau. [Hình 8] 

Cuối cùng, sau năm 2000 Chính quyền phải nhượng bộ để cho các tỉnh trong vùng chuyển đổi 450.000 ha đất trồng lúa sang vùng nuôi tôm, cũng có nghĩa là hy vọng đưa vùng đất này trở về điểm xuất phát, trả lại hệ sinh thái tự nhiên của hai mùa mặn ngọt.

Không chỉ có vậy, ngoài sự lãng phí 1.400 tỷ đồng, Dự án Ngọt hoá Bán đảo Cà Mau, cho dù có sửa sai nhưng vẫn còn để lại những tổn thất về môi trường tự nhiên và nguồn tài nguyên nên càng làm cho đất nước nghèo thêm. Các mục tiêu chính của dự án Ngọt hóa Bán đảo Cà Mau gần như hoàn toàn thất bại. 

(2) Cống Đập Ba Lai: Một hối tiếc lớn hơn nữa

Sau thất bại của các công trình “nghịch thiên” Ngọt Hoá Bán đảo Cà Mau, tưởng như đã là một bài học đắt giá, nhưng tiếp theo là công trình thuỷ lợi được coi là lớn nhất ĐBSCL: Cống đập Ba Lai, tại cửa sông Ba Lai, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre thêm “một bài học không học phát xuất từ Bộ NN & PTNT thời Bộ trưởng Cao Đức Phát, 2004-2016.

Công trình chắn ngang cửa sông Ba Lai được khởi công tháng 02/2000, từ xã Thạnh Trị kéo sang xã Tân Xuân. Kinh phí ban đầu lên tới hơn 66 tỷ đồng VN. Trên lý thuyết – như từ bao giờ vẫn trên lý thuyết, cống đập Ba Lai có chức năng: ngăn mặn, giữ ngọt cho 115.000 hecta đất, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600 ngàn dân cư Thành phố Bến Tre và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành; cùng kết hợp với phát triển giao thông thuỷ bộ và cải tạo môi trường sinh thái vùng dự án. [sic] 

Hai năm sau, từ tháng 04/2002 cống đập Ba Lai bắt đầu được đưa vào hoạt động, được vinh danh lúc đó là công trình thuỷ lợi lớn nhất ĐBSCL. Và từ đây, cửa sông Ba Lai, một trong 8 cửa của Cửu Long chính thức bị đóng lại. [Hình 9]

Hình 9: Cửu Long / Chín Cửa Hai Dòng; Sông Tiền 6 cửa: (1) cửa Tiểu, (2) cửa Đại, (3) cửa Ba Lai, (4) cửa Hàm Luông, (5) cửa Cổ Chiên, (6) cửa Cung Hầu. Sông Hậu 3 cửa: (7) cửa Định An, (8) cửa Ba Thắc (9) cửa Tranh Đề. Cửa Ba Thắc rất nhỏ đã bị thiên nhiên bồi lấp từ lâu; nay thêm cửa sông Ba Lai thì bị nhà nước CSVN xây đập chặn lấp 2002, khiến nay chỉ còn Thất Long / Bảy Cửa Hai Dòng. (2)

Hình 10: trái, Từ ngày có cống đập Ba Lai, cửa sông Ba Lai đã bị đóng lại. [Cửa Ba Thắc thì đã bị bồi lấp từ cả trăm năm nay], và Cửu Long Giang nay chỉ còn 7 nhánh: Thất Long; [photo by Lê Quỳnh]; phải, những giề lục bình phủ kín sông rạch do nước tù đọng phía trong các cống chắn khiến ghe tàu đi lại khó khăn, nhiều nơi người dân đã phải dùng thuốc diệt cỏ để khai quang lục bình nhằm tạo lối đi khiến nước sông lại càng thêm ô nhiễm. Lục bình còn ngăn cản ánh sáng và không khí rất cần thiết cho sự sống còn của các loài thuỷ sinh.  [photo by Ngô Thế Vinh 12/2017] 

Hình 11: Xây cống đập lớn đóng cửa sông, thay vì “ngọt hoá con sông Ba Lai” nhưng đã đưa toàn tỉnh Bến Tre tới tình trạng ngập mặn tệ hại hơn; trái, sáng ngày 10/01/2020, một buổi hội thảo Khoa học & Công nghệ Cấp Nhà Nước [sic] để giới thiệu túi nước ngọt có sức chứa từ 1 m3 tới 100 m3 do công ty nhựa Tân Đại Hưng sản xuất [SGGP Online 11/01/2020]; phải, để sống còn với hạn mặn bủa vây, người dân Bến Tre nay phải “mua nước ngọt” chứa trong những “túi nhựa đủ cỡ”. [báo điện tử Bộ TN & MT 12/01/2020]

Xây dựng cống đập Ba Lai không những đã rất tốn kém, nhưng khi phát hiện sai lầm thì việc phá bỏ, làm sạch môi trường còn bội phần tốn kém hơn và chuyển đổi sinh hoạt của cư dân cũng không phải là dễ dàng. 

Cho tới nay, cống đập Ba Lai với chi phí hơn 66 tỷ đồng, đã vận hành được hơn 21 năm [2002-2023], hiệu quả công trình cống đập Ba Lai ấy ra sao? Những cống ngăn mặn Ba Lai đã không đạt mục đích vì còn chằng chịt những cửa sông kinh rạch khác không có cống ngăn đã tập hậu chuyển nước mặn vào bên trong hệ thống cống đập đã xây. Dự trù còn phải chi thêm 900 tỷ đồng nữa để “nạo vét bồi lấp” cho những hệ luỵ từ một công trình 66 tỷ gây ra? Liệu có ai can đảm đứng ra nhận trách nhiệm cho những thất bại thảm hại của dự án này?

Chúng ta hãy nghe một tiếng nói trầm tĩnh và trí tuệ của đứa con sinh ra và lớn lên từ ĐBSCL, TS Dương Văn Ni, chuyên gia về đa dạng sinh học Đại Học Cần Thơ: “Với giải pháp công trình, muốn xây cống đắp đê ở đâu cần hỏi dân. Quan điểm của tôi, ngân sách chưa nên đầu tư quá lớn cho việc đắp đập ở các cửa sông lớn vì hiệu quả đến đâu chưa đánh giá được, mà gây hại thì lại rõ như cống đập Ba Lai”. [Tạp chí Thuỷ sản Việt Nam].

Địa bàn môi trường không phải như một bàn cờ để dễ dàng xoá đi bày lại. Một câu hỏi được đặt ra: với những tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai — Bộ NN & PTNT, hay Bộ TN & MT/ Tài Nguyên Môi trường hay chính phủ trung ương hay Bộ Chính Trị sẽ nhận trách nhiệm với phong cách “đem con bỏ chợ” như hiện nay?   

  • Cái Lớn Cái Bé: Thêm Một Sai Lầm Thế Kỷ

Với những công trình khủng trước đó gồm: Ngọt Hóa Bán đảo Cà Mau với kinh phí lên tới tính bằng đơn vị hàng ngàn tỷ đồng, rồi tới thất bại của cống đập Ba Lai cho đến nay kết quả được-mất của các dự án này cũng chưa hề được đánh giá cụ thể, thì chính phủ lại phê duyệt chủ trương đầu tư (498/QĐ/ TTg) một dự án khủng khiếp hơn tiếp theo là Dự án hệ thống thuỳ lợi  Cái Lớn – Cái Bé ! Vì vậy, người dân không khỏi băn khoăn là liệu tiền của bỏ ra nhưng các khuyết điểm trong dự án trước đó có tiếp tục bị lặp lại?  [TS Dương Văn Ni, ĐHCT].  

Dự án Thủy lợi Cái Lớn Cái Bé (CLCB) liên quan tới lãnh đạo của một ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng (từ 2011 tới nay), hai ông Thủ tướng: Nguyễn Tấn Dũng (2006-2016), Nguyễn Xuân Phúc (2016-2021), và một ông Bộ trưởng NN & PTNT Nguyễn Xuân Cường, (2016-2021).

Dự án CLCB được đề xuất từ năm 2011 với mục tiêu trên lý thuyết là một công trình nhằm ứng phó với nước biển dâng và biến đổi khí hậu và cũng để duy trì đất trồng lúa bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu, theo quy hoạch thuỷ lợi tổng thể cho ĐBSCL đã được nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt ngày 19.04.2016. 

Dự án Thủy lợi CLCB Giai đoạn 1 được nguyên TT Nguyễn Xuân Phúc* phê duyệt ngày 17.04.2017 dựa theo tờ trình của Bộ NN & PTNT. Toàn bộ công việc soạn thảo dự án, nghiên cứu khả thi cho đến lập báo cáo Đánh giá Tác động Môi trường (ĐTM) đều nằm trong một “chu trình khép kín” thuộc quyền kiểm soát của Bộ NN & PTNT mà không cho thấy có một tổ chức, cá nhân độc lập nào tham gia. Chủ đầu tư dự án là Ban Quản lý đầu tư và Xây dựng Thuỷ lợi 10 thuộc Bộ NN & PTNT. Từ đơn vị tư vấn lập báo cáo dự án là Liên danh Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam – Viện Quy hoạch Thuỷ lợi Miền Nam – Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Thuỷ lợi 2 rồi đến cơ quan lập báo cáo ĐTM là Viện Kỹ thuật Biển thuộc Quy hoạch Thuỷ lợi Việt Nam, tất cả đều là những đơn vị trực thuộc quản lý hành chính của Bộ NN & PTNT hoặc Bộ NN & PTNT có quyền ra chỉ đạo trực tiếp. Điều này có nghĩa các chuyên gia độc lập, tổ chức xã hội dân sự và cư dân không thực sự được tham vấn và có tiếng nói nào vào quyết định của dự án.     

Hình 12: trái, bản báo cáo Đánh giá Tác Động Môi trường (ĐTM)Dự án Hệ thống thuỷ lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé; phải, vùng dự án CLCB (màu hồng) trong lưu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. 

Theo báo cáo ĐTM thì mục tiêu (trên lý thuyết) của dự án Hệ Thống Thuỷ Lợi CLCB giai đoạn 1là: Kiểm soát mặn. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tạo nguồn nước ngọt. Tăng cường khả năng thoát lũ. Phát triển giao thông thủy, bộ trong vùng dự án. Với tổng vốn đầu tư cho dự án Giai đoạn 1 là 3.309,5 tỷ đồng (tương đương với 150 triệu MK).

Với một công trình xây dựng thuỷ lợi có thời gian vận hành tối thiểu 50 năm, có khi lâu hơn,  nhưng đánh giá tác động môi trường (ĐTM) chỉ tập trung chủ yếu vào phân tích tác động của giai đoạn chuẩn bị và xây dựng dự án mà lại thiếu sót về tác động của việc vận hành hệ thống thuỷ lợi CLCB sau khi xây dựng xong.

 Một điều đáng lưu ý là báo cáo ĐTM liên tục lặp đi lặp lại một ý quan trọng, được cho là ý kiến của 8 trên tổng số 39 UBND xã trong phần tham vấn cộng đồng: “đề nghị Chủ dự án thực hiện nghiêm túc biện pháp gây ô nhiễm. [sic]

Với một báo cáo ĐTM còn nhiều thiếu sót như thế thì không thể quyết định gì cảđể khởi công một “Công trình Thế kỷ”, chống lại thiên nhiên, có khả năng huỷ hoại cả một hệ sinh thái mong manh của ĐBSCL, ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản xuất sinh kế của hàng triệu cư dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao nhiêu vấn đề kỹ thuật chưa có biện pháp giải quyết.  Từ bài học thất bại của Công trình Ngọt hoá Bán đảo Cà Mau, tiếp theo là một thất bại khác của công trình Cống đậpChắn mặnBa Lai, và mới đây, là Công trình Thế Kỷ Siêu Cống Cái Lớn [Hình 13], đang gây ra những hậu quả nhãn tiền!Nhiều nhà khoa học và giới hoạt động môi trường đã không ngừng lên tiếng cảnh báo rằng: nếu không có một đánh giá môi trường chiến lược/ ĐTM [SEA / Strategic Environmental Assessment] cho toàn ĐBSCL mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình hình mặn-ngọt cho từng vùng, rồi lập ngay quy hoạch xây dựng một loạt hệ thống cống đập chỉ để ngăn mặn nơi các cửa sông lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái mong manh đã có đó từ ngàn năm và hậu quả sẽ khôn lường.  

Hình 13: Từ dự án (trái) tới hiện thực (phải); ngày 5/03/2022, TT Phạm Minh Chính (kế nhiệm TT Nguyễn Xuân Phúc) cùng Bộ trưởng Bộ NN & PTNT Lê Minh Hoan (kế nhiệm BT Nguyễn Xuân Cường) cùng đến khánh thành công trình Siêu Cống Cái Lớn Cái Bé giai đoạn 1. Chỉ  mới qua hơn một năm vận hành từ tháng 01/2022, “công trình thế kỷ và nghịch thiên” này đã bộc lộ những yếu kém, đang giết chết “Dòng Chảy Sinh Thái” của cả một hệ thống sông rạch, gây ra những tác động tiêu cực và ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống cư dân trong vùng. [nguồn: photo by TT Online 13/03/2022]

CẢI TẠO ĐBSCL VỚI NHỮNG SUY NGHĨ CHƯA TỚI                                              

Chỉ mới đây thôi, tháng 9, 2022, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, là một “thuyền nhân miệt vườn”, hơn 40 năm sau, từ Sydney Úc Châu, sau chuyến đi thỉnh giảng tại Đại Học Cần Thơ, trở lại thăm Kiên Giang quê cũ – (thuộc khu Tứ Giác Long Xuyên gồm 3 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Cần Thơ), nơi ông đã sống suốt những năm niên thiếu, đã phát biểu cảm nghĩ như sau:

Việt Nam có gì đáng ngạc nhiên? Nhiều lắm. Hiện tượng “triều cường” ngày nay không chỉ là đặc sản của Sài Gòn mà đã lan tràn sang Cần Thơ. So với 20 năm trước, đó là một ngạc nhiên đối với tôi. Nhưng với anh tài xế taxi thì ảnh không ngạc nhiên vì ảnh có cách giải thích. Anh ấy giải thích rằng vì mấy con rạch bị lấp và biến thành bất động sản, nhà cửa xây lên quá nhiều, không có quy hoạch nên dẫn đến tình trạng vừa lún vừa ngập nước triền miên.

Sông ngòi vùng quê ngày nay nó cứ lờ đờ, ô nhiễm. Nguyên nhân? Nông dân chỉ tay về cái cống khổng lồ ở sông Cái Lớn nó ngăn nước mặn, nhưng cũng làm thay đổi dòng chảy của tất cả các nhánh sông trong vùng. Con sông trước nhà tôi ở dưới quê bị ô nhiễm trầm trọng và khái niệm nước lớn nước ròng đang dần dần biến mất. Tôi tự hỏi tại sao mấy người chủ trương xây cái cống khổng lồ đó không tính toán lợi và hại trước, hay là họ có tính toán mà không đạt?Ai chịu trách nhiệm cho sự ảnh hưởng của cái cống đó đến hệ sinh thái và mùa vụ? Có vẻ chẳng ai chịu trách nhiệm.”  [Nguyễn Văn Tuấn, Diễn Đàn Thế Kỷ, 30/09/2022]

Vẫn GS Nguyễn Văn Tuấn viết trên facebook: Cái siêu cống này đã gây ra nhiều tác hại. Nó được thiết kế để ngăn mặn, nhưng ngay cả người nuôi tôm cũng đau khổ vì nó. Còn nông dân thì khỏi nói, và cụ thể là quê tôi ở Kiên Giang. Nếu có dịp đi sâu vào các con rạch, các bạn sẽ thấy những cái máy bơm nước chạy suốt đêm. Để làm gì? Để bơm nước từ ruộng ra sông. Lý do gần là ruộng bị ngập nước. Lý do xa hơn là cái cống ở sông Cái Lớn. Cái cống này, sau khi xây xong và được coi là một công trình của thế k, nó làm thay đổi dòng nước các con sông ở Kiên Giang. Thay đổi theo chiều hướng xấu hơn. Nước sông cứ lình bình, khái niệm nước lớn, nước ròng gần như không còn nữa. Nước tràn vào ruộng làm cho bà con vất vả kiểm soát nước nôi (vì nếu không thì lúa chết hết). Nói chuyện với dân địa phương mới biết là lúa chết đã xảy ra, nên nông dân phải dùng máy bơm nước từ ruộng đổ về sông. Một hậu quả khác của cái cống là tình trạng ô nhiễm ở các con sông đã trầm trọng thì giờ đây càng trầm trọng hơn. Cá tôm khó sống trong sông. Lục bình ‘trỗi dậy’ ở nhiều con rạch, đến nỗi ghe xuồng khó đi lại được. Trước khi xây cái cống này, chắc chắn người ta đã tính toán. Nhưng chẳng hiểu họ tính toán ra sao mà hậu quả như ngày nay. Tôi rất muốn xem cái báo cáo đánh giá môi trường để biết họ tính toán dựa vào giả định nào và phương pháp có đúng không. Cái cống gọi là công trình thế kỷ” cần phải được đánh giá lại về lợi và hại. Nếu không có những đánh giá độc lập, với cái đà xây thêm những cái cống như vầy – CLCB giai đoạn 2 thì hậu quả sẽ còn nghiêm trọng hơn rất nhiều.”

Có thể tin được không, sau một năm vận hành Siêu cống Cái Lớn với những hệ luỵ sai sót, nhưng theo báo chí nhà nước thì vẫn rêu rao: “Lợi ích khủng từ “Siêu cống” [báo Lao Động 17/01/2022] và cả trên Wikipedia* của các nhóm lợi ích, thì vẫn “nói lấy được” là Dự án CLCB đã tuân theo tinh thần “Nghị quyết 120 của Chính Phủ” – nhưng thực tế là một phá sản đối với Nghị quyết 120 CP và rồi “sau khi hoàn thành thử nghiệm giai đoạn 1 thành công [sic] thì một số địa phương trong vùng tây sông Hậu đã có kiến nghị chính phủ cho triển khai tiếp giai đoạn 2 của dự án nhằm ngăn xâm nhập mặn cho vùng ĐBSCL” [sic]

_ [Ghi chú của người viết: Wikipedia* bấy lâu vẫn được coi như bộ bách khoa toàn thư mở, dễ tiếp cận, cung cấp nhiều thông tin hữu ích được sử dụng như nguồn tham khảo và cả trích dẫn, nhưng các bạn trẻ cần thận trọng, đã có không ít những thông tin sai lạc từ các trang Wikipedia này, vì đó là sản phẩm trí tuệ trá hình của bộ máy tuyên truyền hùng hậu của nhà nước CSVN muốn hướng dẫn dư luận quần chúng cả tin theo ý họ].

GS Nguyễn Văn Tuấn đưa ra một nhận định có tính báo động: Tình trạng ô nhiễm nước, đất, không khí ở miệt quê đang là nguyên nhân của sự gia tăng chóng mặt về các căn bệnh không lây như ung thư, phổi, tiểu đường, và tim mạch. Nếu không kiểm soát được vấn đề ô nhiễm môi trường, tôi e rằng ngót 20 triệu dân miền Tây sẽ đứng trước một đe doạ rất lớn về sức khỏe.

Chỉ riêng câu hỏi này của GS Nguyễn Văn Tuấn, người viết muốn gửi tới ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng – người quyền lực nhất hiện nay, và ông Thủ tướng đương nhiệm Phạm Minh Chính, người kế thừa ông Nguyễn Xuân Phúc và trước đó là ông Nguyễn Tấn Dũng – để nhắc nhở với hai ông rằng:

… Giữa năm 2017, khi Dự án cống ngăn mặn Cái Lớn Cái Bé – được Bộ NN & PTNT dưới thời BT Nguyễn Xuân Cường đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi sôi nổi, nguyên do là đã có một chuỗi những  thất bại của các công trình ngăn mặn trước đó – điển hình là sự thất bại toàn tập của cống đập ngăn mặn Ba Lai, tỉnh Bến Tre.  Và gần như tuyệt đại đa số những tiếng nói trí tuệ độc lập từ các chuyên gia hàng đầu am hiểu hệ sinh thái ĐBSCL đều lên tiếng phản đối và can ngăn.

Nhưng khi, nguyên Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đặt bút Nghị Quyết 120 NQ-CP vào tháng 11/2017, một nghị quyết “thuận thiên” được coi như bước ngoặt lịch sử của nông nghiệp ĐBSCL, nhưng rồi – như từ bao giờ, các nhóm lợi ích với thế lực rất mạnh, vẫn bám mục tiêu đòi hỏi phải xây dựng hệ thống thủy lợi quy mô lớn, như dự án cống đập ngăn mặn Cái Lớn – Cái Bé (CLCB). Các nhóm lợi ích từ Nam ra Bắc luôn luôn có thế lực lũng đoạn chi phối mọi chính sách của nhà nước, những dự án do họ đưa ra phải được duyệt và thông qua thì họ và cả giới chức tham nhũng trong chính phủ mới có ăn, mặc kệ hậu quả ra sao và nông dân trồng lúa cứ nghèo. [GS Võ Tòng Xuân]

Ông nguyên Thủ tướng, với bàn tay phải đặt bút ký nghị quyết Nghị Quyết 120 NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL, nhưng rồi cũng chính bàn tay trái của ông bật đèn xanh cho các nhóm lợi ích –  có thế lực mạnh hơn, khởi công Dự án Cái Lớn Cái Bé, hơn 3 ngàn tỷ vẫn còn đầy rẫy những sai sót.(3) Thực chất Dự án CLCB là một phá sản của Nghị Quyết 120 NQ-CP, khiến nhà nghiên cứu môi trường độc lập Nguyễn Hữu Thiện đã phải thốt lên: Với dự án CLCB, Nghị Quyết 120 NQ-CP hoàn toàn rơi vào thế “thất thủ chiến lược” (3)

Ai cũng hiểu rằng, ngót nửa thế kỷ qua, những nghị quyết và những khẩu hiệu đến từ Bộ Chính Trị Ba Đình Hà Nội thì quá nhiều, nhưng khoảng cách giữa những Nghị Quyết và Thực Tế của đất nước trong 48 năm qua vẫn còn là cả một khoảng cách đại dương.

CHẤT XÁM VÀ TIẾNG NÓI BỊ LÃNG QUÊN

Đồng Bằng Sông Cửu Long, một vùng đất nước rất giàu tài nguyên, không hề thiếu chất xám và những tiếng nói trí tuệ. Nhưng do tính kiêu căng của đảng Cộng Sản cầm quyền, lại được kết nối với sự tham lam của các nhóm lợi ích, khiến nguồn chất xám ấy đã bị lãng phí và những tiếng nói trí tuệ độc lập ấy không những không được lắng nghe, mà còn cả bị đe doạ trấn áp. Người viết muốn nhắc tới một một “Think Tank của Đại Học Cần Thơ.”

Nhóm Nghiên Cứu Mekong Đại Học Cần Thơ (2), đã nêu rất rõ là: hệ thống các cống chặn mặn làm mất nguồn năng lượng dòng chảy nước ngọt từ phía thượng nguồn (mũi tên màu xanh) và năng lượng thuỷ triều đem dòng nước mặn từ biển vào (mũi tên màu đỏ) khiến môi trường tự nhiên của ĐBSCL không còn được tẩy rửa hàng ngày (con nước lớn- con nước ròng), hàng tháng (con nước rong- con nước kém), và hàng năm (mùa nước nổi- mùa nước cạn) như trước kia. Hệ quả là hàm lượng oxy hòa tan (DO) trong nước rất thấp khiến sông rạch mất cả khả năng tự làm sạch nguồn nước bằng cơ chế oxy hóa. [Hình 14]

 

Hình 14: Nhờ năng lượng dòng chảy nước ngọt từ phía thượng nguồn (mũi tên màu xanh) và năng lượng dòng nước mặn từ biển (mũi tên màu đỏ) mà môi trường tự nhiên của ĐBSCL được tẩy rửa hàng ngày (con nước lớn-ròng), hàng tháng (con nước rong-kém), và hàng năm (mùa nước nổi-cạn). Nguồn nước này cũng giúp cho nước chảy được trong các kênh rạch vì địa hình ĐBSCL quá bằng phẳng. (2) Những cống đập ngăn mặn của Bộ NN & PTNT đang “khai tử” dòng chảy và nhịp đập / Mekong Delta Pulse của hệ sinh thái ĐBSCL. [Nhóm Nghiên Cứu Mekong Đại Học Cần Thơ] (2)

Triệt tiêu Dòng Chảy Sinh Thái, với hậu quả là: gia tăng ô nhiễm nguồn nước trong các sông rạch, nước đổi sang màu đen, bốc mùi hôi thối do các chất hữu cơ bị phân hủy; và nguồn nước trong các vùng thủy lợi hoàn toàn không còn sử dụng được cho mục đích ăn uống, kể cả sinh hoạt tắm giặt hàng ngày.

Người dân nay phải sống bằng nước ngọt bơm từ những giếng ngầm, nguồn nước ngầm này cũng ngày một cạn kiệt và hạ thấp; có nơi cư dân đã phải khoan đến độ sâu 80 – 120 mét để tới được nguồn nước ngọt. Nhu cầu khai thác các tầng nước ngầm để lấy nước ngọt quá lớn – mà nguồn nước ngầm ấy không phải là vô hạn — hiện có hơn 2 triệu giếng khoan lấy nước ngọt từ các tầng nước ngầm, đang làm gia tăng tốc độ sụt lún đất nơi ĐBSCL, có nơi nhanh gấp 10 lần hơn mực nước biển dâng.

Về khía cạnh tài nguyên, nguồn thủy sản cũng là nguồn chất đạm/ protein quan trọng trong mỗi bữa ăn với tô cá chén cơm của cư dân ĐBSCL bị sút giảm nghiêm trọng: các loài cá trắng của nước chảy có nguy cơ bị tiêu diệt do dòng sông bị chặn bởi các cống đập, chỉ còn lại các loài cá đen nước tù của ao hồ  như cá lóc, cá trê, cá rô phi… Đây là hậu quả tất yếu khi mà hệ sinh thái sông ngòi (riverine environment) đã bị chuyển sang hệ sinh thái ao hồ (lacustrine environment) (Nguyễn Hữu Thiện, 2018).

Do môi trường nước cực kỳ ô nhiễm, lại thêm, lục bình phát triển tràn lan phủ kín cả mặt thoáng sông rạch khiến ghe tàu đi lại rất khó khăn nên nhiều nơi người dân đã phải phun thuốc diệt cỏ trên lớp lục bình nhằm khai quang thuỷ lộ khiến nước sông càng ô nhiễm thêm nữa; và do thiếu nguồn chất đạm từ tôm cá và các loài thuỷ sản khác đã ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng, trẻ em có nguy cơ bị suy dinh dưỡng. [Hình 10] 

Các loại cây quen sống ở vùng nước lợ, điển hình như cây dừa nước, hư hại và chết do vùng nước lợ bị ngọt hoá. Nói chung, toàn thể tính đa dạng của hệ sinh thái khu vực quy hoạch bị xuống cấp và bị huỷ hoại nghiêm trọng.

Về phương diện xã hộiở những nơi có cống đập ngăn chặn dòng chảy, việc canh tác trở nên khó khăn, chi phí cao mà lợi nhuận sút giảm, cộng thêm môi trường nước bị ô nhiễm, là một trong những lý do khiến tình trạng di dân – ecological migration ngày càng phổ biến và nhiều người đã bỏ đồng ruộng đi tìm kế mưu sinh ở các khu công nghiệp bên ngoài ĐBSCL hoặc trên thành phố. (2) Trong hai thập niên qua đã có ngót 2 triệu cư dân ĐBSCL phải rời bỏ quê hương vốn được coi là “vùng mật ngọt” với gạo trắng nước trong tôm cá đầy đồng thì nay phải ra đi tìm kế sinh nhai. Trong nghịch cảnh đó thì phụ nữ và trẻ em là bị nhiều tổn thương nhất.(2)

HƯỚNG TỚI NHỮNG BIỆN PHÁP PHI CÔNG TRÌNH 

Trong 48 năm qua, nhiều công trình cải tạo lớn đã được đem ra thử nghiệm trên khắp ĐBSCL như: đắp đê ngăn lũ, làm đê kè để giảm sóng hay chuyển hướng dòng chảy, xây dựng hàng loạt những cống chặn mặn… Có thể nói là các “chuyên gia quốc doanh” từ ngoài Bắc vào Nam không hiểu gì hệ sinh thái tinh vi của ĐBSCL, nên đã thô bạo dùng “dao mổ trâu” để thực hiện những cuộc giải phẫu thần kinh và đã để lại những hậu quả tác hại lâu dài, rất khó sửa chữa.

Trước những nan đề, mặn ngọt, thay đổi khí hậu, sử dụng đất đai, nước biển dâng, cũng như bao nhiêu khắc nghiệt của mẹ thiên nhiên từ thuở hoang sơ, bấy lâu con người đã biết thích nghi sống hài hoà với thiên nhiên, nếp sống ấy đã tạo ra một nền văn hoá sông nước. Giải pháp xây dựng những công trình thô bạo chống lại mẹ thiên nhiên vẫn là một chọn lựa thiếu khôn ngoan và là một đương đầu không cân sức, đã đến lúc các nhà khoa học môi trường thức thời đã đi tìm những “biện pháp phi công trình” chung sống và thích nghi với thiên nhiên là chủ yếu. 

Thế nào là các biện pháp thích nghi phi công trình / non-structural adaptation measures: đó là không chọn xây những công trình lớn cố định vĩnh cửu để đối phó với một hệ sinh thái không ngừng biến động: tính cố định của các công trình đã chứng tỏ lỗi thời trong một môi trường sống không ngừng đổi thay.

Và trong suốt dòng lịch sử phát triển hơn 300 năm của ĐBSCL, người nông dân và ngư dân đã luôn luôn biết sống hoà hợp với thiên nhiên, biết thích nghi để tồn tại mà không gây tổn hại cho môi trường và không vắt kiệt nguồn tài nguyên vốn không phải là vô hạn. 

Những ví dụ: 
_ trước
khi có nha khí tượng, người nông dân qua kinh nghiệm tích luỹ, đã biết dự báo thời tiết, nắng mưa khá chính xác và hiệu quả.

_ chưa có nha địa chất, nhưng họ đã biết đánh giá các vùng thổ nhưỡng, để chọn đúng loại cây trồng, không chỉ có cây lúa, họ biết đa canh để giữ màu cho đất.

_ chưa có nha thuỷ văn, họ đã biết chọn giống, nuôi trồng thuỷ sản phù hợp sinh cảnh: mặn-ngọt-lợ theo vùng. 

Với hiện trạng môi trường suy thoái trầm trọng như hiện nay – mà đa phần do chính con người gây ra, điều mà nhà nước cần quan tâm là:

_ giúp họ được sống trở lại với một môi trường không tù đọng không ô nhiễm đang đầu độc họ: mở cửa các cống đập cho các dòng sông được chảy.

_ với dòng chảy và thuỷ triều là những động lực làm thanh sạch và tẩy rửa môi trường bị tù đọng như hiện nay.

_ với các nhà máy xây dựng và hoạt động ven sông như nhà máy giấy Lee & Man, các nhà máy điện than đa phần từ TQ phải được giám sát chặt chẽ về xử lý ngay tại các nguồn xuất phát các nước thải và chất thải

_ nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ môi trường: tạo cho họ các tiện dụng gia cư tối thiểu như nhà vệ sinh, nơi thải rác thay vì đổ hết xuống sông rạch.

_ về tổng thể, nên có quy hoạch các khu cư dân hợp lý, thiết lập quỹ dự phòng như một hình thức bảo hiểm của nhà nước để tài trợ khi cư dân bị thiệt hại trong giai đoạn thay đổi khí hậu cực đoan như thời điểm 2016.

_ với một môi trường dần dà được tẩy rửa thanh sạch, nguồn nước lênh láng trở lại sử dụng được, giảm nhu cầu khai thác tầng nước ngầm, giảm độ sụt lún mười lần nhanh hơn nước biển dâng như hiện nay.

_ Ở một chừng mực nào đó, cần chủ động kiểm soát và cả chấp nhận phần nào tổn thất do biến đổi khí hậu nhưng phải biết nói không với những công trình tốn kém và mang tính tự huỷ hoại như hiện nay. 

TS Lê Anh Tuấn, nguyên Phó Giám đốc Viện Biến đối Khí hậu ĐH Cần Thơ đã nói tới “Giải pháp phi công trình” trong sử dụng đất đai và khai thác tài nguyên ĐBSCL với nhấn mạnh là cần linh hoạt: đó là những phương thức mềm” với chi phí rẻ, dễ thực hiện, thiên về bảo vệ duy trì, cải thiện môi trường, thuận thiên, bảo tồn tính đa dạng sinh học, với ý thức rằng phải cần thời gian mới thấy hiệu quả của nó. 

Một ví dụ: tìm ra các sinh kế phù hợp không gây tổn thương cho hệ sinh thái và điều kiện tự nhiên: ví dụ mùa mưa trồng lúa, mùa nắng nuôi tôm, nuôi cá nước mặn, nước lợ, tổ chức du lịch sinh thái – tìm hiểu văn hóa bản địa, phát triển khai thác, chế biến các lợi thế cây, con ở từng vùng miền (như trồng sen, chế biến sen, dệt lụa từ sợi sen, … hoặc một số loại cây ưu thế), phát triển nguồn năng lượng sạch (điện mặt trời, điện gió), dần dần thay thế cho nguồn nhiên liệu hoá thạch như than đá, dầu mỏ, làm tăng khí thải CO2 gây hiệu ứng nhà kính (green house effect) và cả gây thêm ô nhiễm…

Hình 15: một điển hình về đa dạng hoá sinh kế phát triển nông thôn “phi công trình” không gây tổn thương cho hệ sinh thái ĐBSCL. [nguồn: TS Lê Anh Tuấn, ĐH Cần Thơ]

Ưu tiên “phi công trình” không có nghĩa là bài bác mọi “công trình” mà cần có sự phối hợp hài hòa, chỉ xây dựng công trình khi nào thật sự cần thiết, nên bắt đầu các công trình nhỏ trước khi có những công trình lớn hơn. 

TS Lê Anh Tuấn thuộc ĐH Cần Thơ đã chọnkhu vực lúa-sen-cá-du lịchsinh tháiở Đồng Tháp như một điển hình về giải pháp “phi công trình, với minh họa rất dễ hiểu với người nông dân. 

VẪN NHỮNG DỰ ÁN SAI LẦM TỪ HỆ THỐNG

Suốt gần nửa thế kỷ – chính xác hơn là 48 năm sau 1975, như một chuỗi sai lầm từ hệ thống, nhà nước CSVN đã thiết lập vội vã nhiều dự án lớn – mà họ gọi là các “dự án trọng điểm” – rất tốn kém với tham vọng “cải tạo” ĐBSCL, mà đa phần là can thiệp rất thô bạo, gây tác hại trên một hệ sinh thái hết sức phức tạp và rất mong manh của cả một vùng châu thổ phì nhiêu của Châu Á.  

Do tính cục bộ, chạy theo lợi nhuận, chỉ với những “nghiên cứu mệnh danh là khoa học” nhưng theo phong cách: làm nhanh ăn nhanh; mà ngôn từ rất thời thượng trong nước hiện nay là “tư duy theo nhiệm kỳ” – chủ yếu bị chi phối bởi các nhóm lợi ích các chủ đầu tư, rồi đem chính mạng sống và kế sinh nhai người dân ra đánh bạc, bất chấp ý kiến của họ, đồng thời trấn áp các phản biện – tiếng nói phản biện của các nhà khoa học còn có thể bị gán cho cái tội chết người là “phản động” lợi dụng tự do dân chủ, hoặc nhẹ hơn là vào tù với tội danh “trốn thuế” và nhà nước CS đã gạt bỏ mọi khuyến cáo của các chuyên gia kinh nghiệm có thẩm quyền.

Tuy với những đe doạ trấn áp như vậy, nhưng vẫn không thiếu những nhà hoạt động môi sinh độc lập can đảm và bền bỉ cất lên tiếng nói của lương tri. Họ hướng tới mục tiêu tối hậu là bảo vệ cả một vùng châu thổ với ngót 20 triệu cư dân, nhằm giảm thiểu những tác hại lâu dài trên nguồn tài nguyên của đất nước và của các thế hệ tương lai. 

Nguyên lý bất di bất dịch là: Trước Hết là Không Gây Hại (Primum Non Nocere), vẫn cứ mãi là bài học vỡ lòng, là kim chỉ nam cho các bộ trưởng, vụ trưởng các ngành trước khi khởi công bất cứ một dự án nào trên ĐBSCL. Thế nhưng trong thực tế chưa có một chứng cớ nào cho thấy họ hành động theo nguyên lý căn bản trên. 

BIÊN NIÊN SỬ: CÁC CÔNG TRÌNH NGHỊCH THIÊN

Có thể liệt kê ngay một số những dự án chính đã và đang gây tác hại và tổn thương lâu dài cho toàn hệ sinh thái ĐBSCL như: 

_ Dự án đê bao chống lũ: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], với những đê bao ngăn lũ chỉ để có thêm đất làm lúa cao sản 3 vụ, vắt kiệt đất đai, lại không còn nguồn phù sa, nước thì tù đọng tích luỹ ô nhiễm đồng thời làm mất hai vùng trũng Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Xuyên như hai hồ dự trữ nước ngọt cho toàn ĐBSCL trong Mùa Khô, có tầm quan trọng chỉ đứng sau Biển Hồ – được ví như trái tim của hai vùng châu thổ Tonle Sap và ĐBSCL.    

_ Dự án các cống đập chặn mặn: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], ngăn chặn dòng chảy tự nhiên biến những con sông lành mạnh thành ao hồ tù đọng, xoá đi một nền văn hoá nước lợ / brackish water và gây rối loạn dây chuyền trên toàn nhịp đập / Mekong Pulse của hệ sinh thái ĐBSCL.

_ Dự án 14 nhà máy nhiệt điện than: [Bộ Công Thương], biến ĐBSCL là bãi tiếp nhận các nhà máy nhiệt điện chạy than phế thải từ Trung Quốc với hậu quả tàn phá môi trường đất đai, nguồn nước và không khí, với sức khoẻ của người dân không hề được quan tâm tới nếu không muốn nói là bị hy sinh.   

_ Dự án Nhà Máy Giấy Lee & Man: [Bộ Tài Nguyên & Môi Trường] gây ô nhiễm nghiêm trọng vì nguồn nước thải với đủ loại hoá chất cực độc nhưng vẫn được Bộ Tài Nguyên & Môi Trường cấp phép cho xả thải ra sông Hậu đang giết chết dòng sông, rồi còn phải kể tới bụi khói độc hại, mùi hôi thối, tiếng ồn từ nhà máy ngày đêm bào mòn sức khoẻ của người dân.   

_ Dự án Kênh Quan Chánh Bố: [Bộ Giao thông & Vận tải], với tốn kém hàng nhiều ngàn tỷ đồng chỉ để cho mấy tàu trọng tải lớn từ biển đi vào sông Hậu để tới giang cảng Cần Thơ gây bao khốn khổ cho người dân khi mà giá trị kinh tế của dự án kênh Quan Chánh Bố, cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời và vẫn đang gây rất nhiều tranh cãi gay gắt. 

Một danh sách chưa đầy đủ, trong thực tế còn nhiều dự án cấp địa phương đã được triển khai nhưng thiếu những nghiên cứu cơ sở và không có đánh giá tác hại môi trường từ các chuyên gia độc lập. 

Cũng GS Nguyễn Văn Tuấn, nhận định: “[…] còn quá sớm để quy những công trạng – nếu có – cho giới khoa học nhà nước. Tôi quan sát ở miền quê tôi thì thấy sự thật là những thành tựu về tăng năng suất trồng trọt và lúa là do người nông dân xoay xở. Nông dân tự thử nghiệm cho đến khi đạt được kết quả tốt (kiểu trial-and-error). Họ có thể không biết những nguyên tắc thí nghiệm hay ngẫu nhiên hoá, họ có thể không rành tính toán như các kỹ sư & tiến sĩ, nhưng qua trial-and-error, họ có thể lai giống và tạo giống mới, chế tạo máy gặt lúa, máy cấy lúa, máy hút lục bình, v.v... Giới khoa học chẳng giúp gì cho họ trong các sáng kiến đó. Người nông dân thiếu chữ để nói đó là công trạng của họ, và thay vào đó có những người mang mác ‘tiến sĩ’ giành công trạng cho mình. Ai cũng biết tác nhân làm nghèo làm khổ nông dân miền Tây là cái tập đoàn lương thực có tổng hành dinh nằm ngoài … Hà Nội.”

Ở Việt Nam, người ta có câu khuyên các nhà quản lý và khoa học quốc doanh: đừng làm gì hết, ngồi yên đó để dân nuôi, vì họ làm là hư hỏng. 

Theo KS Phạm Phan Long, Việt Ecology Foundation, thì vấn nạn lớn trên toàn đồng bằng hiện nay là ô nhiễm nguồn nước chính vì các công trình thủy lợi hoạch định phi lý đã gây ra. Ô nhiễm phải được xem là vấn nạn lớn mà mọi công trình phải bảo đảm không cho xảy ra. Công trình Cái Lớn Cái Bé đã đẩy ĐBSCL lao sâu hơn vào ao tù thảm trạng ô nhiễm không khác những công trình “thuỷ hại” trước đây nhưng với một quy mô lớn hơn.  

LỘ TRÌNH MỚI 2021-2030: QUY HOẠCH TÍCH HỢP

Quyết định số 1163 / QĐ-TTg ngày 31/7/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Nhiệm vụ lập quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050.

ThS Nguyễn Hữu Thiện, sinh ra (1968) và lớn lên ở một làng quê nông thôn sâu thuộc Hậu Giang, tốt nghiệp ngành thuỷ nông ĐH Cần Thơ, từ 1990 ở tuổi 22 đã là nhân viên đầu tiên của khu bảo tồn sếu đầu đỏ Tam Nông. Thông qua Hội Sếu Quốc tế (ICF / International Crane Foundation), năm 1992 ông giành được học bổng 4 năm của McArthur Foundation và tốt nghiệp MS về sinh học bảo tồn và phát triển bền vững tại ĐH Wisconsin-Madison, Hoa Kỳ năm 1996. Trở về Việt Nam, ông giảng dạy ngành sinh thái tại ĐH Cần Thơ trong 2 năm, sau đó đi làm việc cho các tổ chức quốc tế như Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN / International Union for Conservation of Nature), Quỹ Quốc tế về động vật hoang dã (WWF / World Wildlife Fund), Chương trình Đa dạng Sinh học Đất Ngập nước Mekong (MWBP /Mekong Wetlands Biodiversity Programme). Từ 2010, ông trở thành chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái ĐBSCL. Trong hơn 30 năm, Nguyễn Hữu Thiện đã cùng với các chuyên gia tâm huyết khác liên tục tham gia những công trình nghiên cứu sông Mekong và ĐBSCL.

Ông là người ủng hộ nhiệt thành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17 tháng 11 năm 2017 về phát triển ĐBSCL theo nguyên tắc “thuận thiên”, để phát triển bền vững và duy trì gía trị văn hoá sông nước của vùng ĐBSCL.

Từ 2018 đến 2022, ông làm chuyên gia cho Bộ Kế hoạch & Đầu tư, [với Bộ trưởng là Nguyễn Chí Dũng nhiệm kỳ từ 2016 tới nay], để hỗ trợ tư vấn quốc tế soạn thảo bản Quy hoạch Tích hợp ĐBSCL giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050. Bản quy hoạch này đã được Thủ tướng phê duyệt tháng 2/2022 và công bố tại Cần Thơ, và cũng là nội dung NQ13/TW của Bộ Chính Trị.

ThS Nguyễn Hữu Thiện cho rằng Quy hoạch Tích hợp lần này là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có được một bản quy hoạch tích hợp đa ngành cấp vùng, nhờ có Luật quy hoạch 2017. Trên lý thuyết nó cho phép đối xử với đồng bằng như là một cơ thể sống, thay vì cách quy hoạch đơn ngành, manh mún trước đây. Dù chưa thể gọi là hoàn hảo, nhưng nó cho thấy sự thay đổi lớn trong cách suy nghĩ ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững theo hướng thích ứng thay vì chống lại vắt kiệt thiên nhiên. Nó tạo ra một tiền lệ rất tốt cho những quy hoạch về sau. [hết trích dẫn] 

MÔI SINH VÀ DÂN CHỦ

Đồng Bằng Sông Cửu Long bấy lâu phải hứng chịu rất nhiều tổn thương do nhiều nguyên nhân: mất dòng chảy sinh thái vì chuỗi đập thuỷ điện thượng nguồn, những kế hoạch phát triển không bền vững nếu không muốn nói là tự huỷ ngay tại ĐBSCL của Việt Nam, và cả do biến đổi khí hậu.

Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu, câu văn trong Quốc văn Giáo khoa đã sống trong tâm khảm tuổi trẻ Việt Nam qua nhiều thế hệ, thì nay trong thực tế sự không còn nữa, và cũng đừng tiếp tục gieo vào đầu óc trẻ thơ câu châm ngôn lỗi thời nếu không muốn nói là lừa dối ấy. 

Kể từ sau 1975, đất nước “gọi là” thống nhất cũng là khởi đầu cho những khu rừng nguyên sinh bị tàn phá, đất đai (nhà máy bauxite), sông ngòi (nhà máy giấy sông Hậu), cả vùng duyên hải (nhà máy thép Formosa) cho thuê, khiến hệ sinh thái của cả nước bị suy thoái, đất bị sa mạc hoá, sông ngòi và biển bị nhiễm độc mất nguồn thuỷ sản, thiếu nước uống và cả cho tiện dụng gia cư.

Tài nguyên của đất nước đã bị đem bán rẻ, vì cái lợi trước mắt mà không tính tới cái giá môi sinh mà xã hội phải trả và người dân chỉ là thứ gia công, lắp ráp và làm thuê và cả nguồn nhân lực bị tận cùng  khai thác tới cạn kiệt.

Nhân danh “cải tạo”, nhà nước Cộng sản Việt Nam đã và đang chọn các bước đi liều lĩnh trên những tảng băng mỏng – walks on thin ice, với tiêu chuẩn nước đôi – double standards, chạy theo lợi nhuận với các phe nhóm lợi ích rất mạnh người dân thì hoàn toàn không có quyền cất tiếng nói — họ là nạn nhân và là đầy tớ ngay trên mảnh đất của chính tổ tiên mình.

Với tầm nhìn của thiên niên kỷ, để phục hồi và duy trì một hệ sinh thái phong phú của hành tinh này, cũng là bảo vệ các nền văn minh rất đa dạng và lâu đời của con sông Mekong, thì không có mối lợi lộc ngắn hạn nào có thể vội vàng đem ra đánh đổi.

Từ năm 2000, người viết cũng đã đưa ra nhận định: “Và hiển nhiên không có giải pháp đơn lẻ cho vấn đề môi sinh mà phải là bước chuyển hóa cơ bản và đồng bộ của các hệ thống xã hội từ “Toàn Trị” tiến lên “Dân Chủ”. Có dân chủ là có cơ hội mở mang dân trí và chính cư dân sống hai bên bờ sông Mekong sẽ có ý thức và tiếng nói bảo vệ dòng sông như là mạch sống của chính họ.

rồi ra người dân sẽ có cơ hội đồng đều, có quyền được uống một ngụm nước sạch, được hít thở một bầu không khí trong lành và có tự do, những điều cơ bản đó chính là “nhân quyền” chỉ có thểđược trong một đất nước dân chủ.”  Môi Sinh và Dân Chủ sẽ mãi mãi là một “Bộ Đôi Không Thể Tách Rời / Inseparable Duo.” Đây là một trận địa đấu tranh cam go mất còn, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác, giữa bộ đôi: “dân chủ và môi sinh” và phía kia là bộ đôi nguy hiểm / dangerous duo: “độc tài và tham nhũng.”

CHỮ TÂM VÀ TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ

Với cụm từ “trách nhiệm chính trị”, có thể nói đây là nét văn hoá mới 2023 trong lịch sử 97 năm của Đảng CSVN, qua việc từ chức của nhân vật số 2 là Chủ tịch nước ông Nguyễn Xuân Phúc.

Chỉ với hai vụ tham nhũng: bộ xét nghiệm Việt Á và tiếp theo là các chuyến bay giải cứu, người dân hiểu rõ rằng: thực chất đây chỉ là phần nổi rất nhỏ của một tảng băng chìm / tip of the iceberg. Vì còn phải kể bao nhiêu vụ tham ô tầy đình khác bị ém nhẹm trong suốt 48 năm qua thì sao? 

Gần đây, qua live stream người dân Việt Nam mới được biết ông TBT Nguyễn Phú Trọng rất quan tâm về văn hoá, mê Ức Trai Thi Tập của Nguyễn Trãi và thuộc tác phẩm Kiều của thi hào Nguyễn Du. Một lần trước Quốc Hội, trong sự khiêm cung ông Trọng đã lẩy hai câu Kiều để nói về thân phận mỏng manh và tài năng hữu hạn của mình: Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, khuôn xanh biết có vuông tròn hay không.Rồi mới đây, trong một hoàn cảnh khác, cũng chính ông TBT, lẩy thêm hai câu Kiều khác: Có tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần. Và cảm động hơn nữa, khi lần đầu tiên một người Cộng Sản thuần thành như ông TBT đã hai lần nhắc tới chữ “tâm” trong truyện Kiều: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài… Cũng mấy câu thơ ấy của Tố Như, nhưng nếu thay một chữ “tài” bằng chữ “quyền” thì sẽ rất trọn nghĩa.  

Ông TBT Nguyễn Phú Trọng sinh năm 1944, đã qua cái tuổi xưa nay là hiếm. Và cũng khởi đi từ “chữ tâm của Nguyễn Du”mà ông TBT nhắc đến, như từ một mẫu số chung về văn hoá, “người dân” có đôi điều muốn được trao đổi với ông:

_ Trên phạm vi ĐBSCL, với bao nhiêu những sai sót trong suốt 48 năm qua với các “công trình cải tạo trọng điểm”, mà cho tới nay không một ai nhận trách nhiệm, đề nghị với ông TBT cho lập ngay một “Toán Đặc Nhiệm – Task Force” gồm những nhà khoa học và chuyên gia môi trường độc lập, xét duyệt lại toàn bộ các công trình cải tạo đã được các bộ, các cơ quan thực hiện trong ngót nửa thế kỷ qua, với cả đánh giá những thành quả nếu có [?] để vinh danh và với một chuỗi những sai sót thì trách nhiệm về ai? Có những bài học nào được rút ra từ những bước sai sót vô cùng đắt giá ấy?

Mới đây với kết quả từ một công trình nghiên cứu của một công ty Hà Lan, một “Quy Hoạch Tích Hợp” đã hình thành cho giai đoạn 2021- 2030 với tầm nhìn tới 2050 đã được đưa vào Nghị Quyết 13-NQ/TW của Bộ Chính Trị mà ông TBT đã đọc trước Quốc hội ngày 22/04/2022, mở ra một “lộ trình / roadmap” cho tương lai phát triển ĐBSCL.

Từ “Khả năng tới hiện thực”, lộ trình ấy là một chặng đường dài. Sự thành công cần tới hai yếu tố: (1) Một cải thiện về thể chế, (2) Một nguồn nhân lực có  trình độ. Nếu không, thì cho dù một “quy hoạch tích hợp” có hay tới đâu thì rồi ra cũng chỉ là những khẩu hiệu.     

_ Trên quy mô của cả nước, cũng với chữ “tâm” của thi hào Nguyễn Du, có bao giờ ông TBT nghĩ rằng đã quá đủ với 93 năm lịch sử ĐCSVN và với 48 năm Đảng CSVN độc quyền sở hữu cai trị đất nước này, với một đội ngũ đảng viên rất nhiều quyền nhưng lại thiếu chữ tâm, thì “trách nhiệm chính trị” hay đúng hơn “trách nhiệm lịch sử” của ông TBT Nguyễn Phú Trọng bây giờ là rất lớn – và không phải là quá sớm để ông TBT và Bộ Chính Trị có đủ can đảm để khơi mào một “cuộc cách mạng xanh – green revolution” không đổ máu, với từng bước thực hiện tiến trình dân chủ hoá đất nước, từ hạ tầng cơ sở lên tới trung ương, để từng bước trả lại cho người dân quyền làm chủ đất nước – như bước chuyển tiếp tất yếu của lịch sử, và trên dòng luân lưu của lịch sử như một “dòng chảy sinh thái”  không hề có “đập chắn.”

NGÔ THẾ VINH

California, Tết Quý Mão 22/01/2023

Tham khảo:

1/ The Nature Conservancy. Environmental Flows Concepts.

About Environmental Flow. https://www.alberta.ca/about-environmental-flows.aspx

2/ Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thuỷ Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé  Nhóm nghiên cứu: Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Thiện, Dương Văn Ni, Nguyễn Hồng Tín, Đặng Kiều Nhân. (Bản thảo ngày 06/9/2018)

3/ Nói không với dự án Cái Lớn – Cái Bé. Đi tìm các giải pháp  phi công trình cho ĐBSCL. Ngô Thế Vinh. Viet Ecology Foundation 03.10.2018

4/ Quy hoạch vùng ĐBSCL, Thời kỳ 2021-2030, Tầm nhìn đến năm 2050. Báo cáo Quy hoạch. Quyển 1-2, 631 trang. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tháng 12/2021

5/ Vũ khí giải cứu sông Mekong Chất xám và tiếng nói. Lê Quỳnh phỏng vấn Bs Ngô Thế Vinh. Báo Người Đô Thị, Saigon 25/04/2016 

6/ Thư gửi 92 Đại Biểu Quốc Hội 13 tỉnh Miền Tây. Thuỷ điện Luang Prabang thêm một thảm học môi sinh cho ĐBSCL và Lưu Vực. Ngô Thế Vinh. VEF, Jan 14, 2020.

BS Ngô Thế Vinh: tốt nghiệp YKSG, chủ bút báo SV Tình thương, y sĩ Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, BS  thường trú các bệnh viện đại học New York, BS điều trị và giảng huấn tại một bệnh viện Nam California. Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng là một dữ kiện tiểu thuyết liên quan tới môi sinh và phát triển lưu vực sông Mekong và ĐBSCL. Nối tiếp là ký sự Mekong Dòng sông Nghẽn Mạch, với bản Anh ngữ đã thu hút sự quan tâm của giới khoa học, và các nhà hoạt động môi trường thế giới. Gần 30 năm tâm huyết với các vấn đề Sông Mekong và ĐBSCL, BS Ngô Thế Vinh không chỉ là một nhà văn, ông còn là một nhà hoạt động môi trường bền bỉ. Ông đã có những chuyến đi dọc dòng Mekong dài 4.800km, từ thượng nguồn đổ xuống Biển Đông. Bài viết đề cập tới các vấn đề nóng bỏng hiện nay trên dòng Mekong và ĐBSCL. [Tác giả 2002 bên chân con đập Mạn Loan, là đập thuỷ điện dòng chính đầu tiên trên sông Lancang-Mekong, Vân Nam TQ].

Mấy ý kiến về Thiền Am: thân phận của người ‘thấp cổ bé họng’

Tôi theo dõi vụ án Thiền Am 331 (cứ tạm gọi như vậy) đã hơn 1 năm nay, và thấy rất ‘bức xúc’. Không biết có nơi nào trên thế giới mà những người thấp cổ bé họng như họ bị bức hại một cách dã man. Cũng khó có nơi nào trên thế giới mà người ta đi tù vì câu nói ‘ngu như bò’ hay ‘bỏ sót tội phạm’. Bất cứ ai có lương tri cần phải lên tiếng trước sự bất công này, và trong cái note này tôi nói lên những suy nghĩ cá nhân về vụ án Thiền Am.

1

Tôi tin rằng ông cụ Lê Tùng Vân và các đệ tử của ông vô tội. Toà án Huyện Đức Hoà kết tội họ tổng cộng 23 năm 6 tháng tù họ theo điều luật 331 (“lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân”). Không có tội danh nào khác. Không có chuyện lừa đảo. Hoàn toàn không có chuyện ‘loa.n lua^.n’. Không. Không. Mặc dù vậy, tôi vẫn tin rằng họ vô tội, bởi vì những chứng cớ được trưng bày hoàn toàn không thuyết phục.

Toà án gì mà để cho một kẻ lưu manh mang danh tu sĩ cắt xén câu nói của người ta một cách trắng trợn và ác ý để làm thay đổi ý nghĩa 180 độ (từ tốt thành xấu)? Toà án gì mà dựa vào bằng chứng từ một kênh youtube mạo danh? Toà án gì mà dựa vào văn bản do một người kiến văn quá kém cỏi soạn thảo? Những phiên toà như đã diễn ra ở Huyện Đức Hoà chỉ củng cố thêm những lời đồn đại và giả thuyết về ‘án bỏ túi’ và ‘trả thù’ của nhà chức trách đối với họ mà thôi.

______

2

Tôi tin rằng nhà chức trách (công an và cơ quan tố tụng) Huyện Đức Hoà đã vi phạm quá nhiều thủ tục tố tụng. Đọc văn bản mà các luật sư gửi cho các lãnh đạo Nhà nước và Đảng chúng ta kinh ngạc về những sai phạm của cơ quan công an, Viện kiểm sát và các cơ quan chức năng của Huyện Đức Hoà và tỉnh Long An. Bản báo cáo dài 11 trang của các luật sư đại diện Thiền Am nêu vấn đề liên quan đến tính vô tư trong quá trình điều tra của công an huyện Đức Hoà. Công an huyện Đức Hoà vừa là người đi kiện nhưng lại được tham gia điều tra, tức là một cách vừa đá bóng vừa thổi còi!

Các luật sư nhận xét rằng kết luận điều tra của phía công an và cáo trạng của viện kiểm sát có nhiều sai phạm, thiếu khách quan, và chứa đựng các yếu tố oan sai. Nhưng khi các luật sư khiếu nại về thái độ của điều tra viên, về kết luận giám định tư pháp, về hành vi lạm quyền của cơ quan công an đều không được giải quyết thỏa đáng, theo bản báo cáo. Luật sư Đặng Đình Mạnh cho rằng với đầy rẫy những lỗ hổng và sai phạm như đã nêu, và nếu cứ đưa ra xét xử thì sẽ rất dễ có “một bản án oan ức”. Ông nói: “Chúng tôi nhận thấy việc khởi tố, truy tố đối với các thân chủ theo tội danh Điều 331 là hoàn toàn không chính đáng đến mức có thân chủ chỉ nói bốn từ trống không, không nêu danh tính, không nêu địa chỉ nào cũng bị truy tố ở khoản 2 điều 331.”

______

3

Tôi tin rằng Thiền Am đã và đang bị bức hại một cách có tổ chức. Những kẻ bức hại họ bao gồm nhà chức trách, báo chí của Nhà nước, một nhóm youtuber kền kền, và một nhóm Việt kiều ở hải ngoại. Trong trường hợp này, báo chí gần như không có khả năng tường thuật sự thật mà chỉ viết bài bôi nhọ Thiền Am. Cùng với báo chí là những kẻ kền kền suốt 3 năm qua ngày đêm thêu dệt và giả tạo thông tin để bôi nhọ và khủng bố tinh thần những thành viên trong Thiền Am nhưng những kẻ này không hề bị trừng trị, thậm chí chúng còn được sự hỗ trợ gián tiếp hay trực tiếp từ nhà chức trách.

Công an huyện Đức Hoà đã huy động một lực lượng công an hùng hậu được trang bị tận răng, cùng chó nghiệp vụ, flycam, xe đặc chủng, thiết bị phá sóng chỉ để uy hiếp những người tu tại gia. Họ dùng tài lực chống khủng bố để bức hại những người tu. Họ làm như vậy 2 lần và chẳng đem lại kết quả nào ngoài việc bắt giữ người thiện lành và lấy tài sản của mấy người này. Họ còn cho công an và có lẽ côn đồ canh gác Thiền Am hàng mấy tháng trời. Họ cấp camera cho Võ Văn Thắng lắp đặt để theo dõi mỗi bước đi của Thiền Am. Tôi tự hỏi họ có dùng những tài lực này cho kẻ thù ở phương Bắc nước ta đang hoành hành ngoài Biển Đông? Họ đã quá phí tiền bạc và nhân sự để uy hiếp người tu hành, và sự việc này có lẽ chỉ xảy ra ở “vương quốc Đức Hoà.”

Một trong những kẻ bức hại Thiền Am là Võ Văn Thắng, một doanh nhân ở TPHCM. Ông này từng dẫn một nhóm côn đồ khoảng 50 tên xâm nhập Thiền Am, đập phá tài sản, ăn cắp tài sản, và hành hung người trong Thiền Am. Họ xông vào nhà người ta như chỗ không người, và công an có mặt không hề can thiệp! Cho đến ngày hôm nay, Võ Văn Thắng và đồng bọn du côn này chưa hề bị xử lí!

Quả thật, khi người của Thiền Am gởi đơn yêu cầu xử lí bọn côn đồ, họ không giải quyết. Toà án cũng không muốn xem đoạn phim bọn côn đồ đập phá này. Đó không gọi bất công thì là gì? Có nơi nào trên đất nước này mà bọn lưu manh có thể ngang nhiên và xem luật pháp chẳng ra gì như vậy? Xin thưa: Huyện Đức Hoà ở Long An.

______

4

Tôi cho rằng việc cưỡng ép một người nữ tu trong Thiền Am đi khám phụ khoa là một sự kiện — phải nói là ‘sự kiện’ — kinh hoàng nhứt và man rợ. Không phải khám bình thường, mà là khám một cách thô bạo, cực kì thô bạo, làm cho nạn nhân la hét trong hoảng sợ. Khám phụ khoa một cách vô cớ. Đây là một hành động vi phạm quyền con người rất nghiêm trọng. Hành động đó còn thể hiện một sự vi phạm y đức. Thật khó hiểu nổi tại sao bác sĩ đã thực hiện việc khám phụ khoa trong điều kiện cưỡng ép!

Nhưng lá đơn tố cáo đến nhà chức trách cũng rơi vào không khí. Lạ lùng hơn là lá đơn tố cáo quay về chính viên công an trước đây đã cưỡng ép nạn nhân đi khám phụ khoa. Đúng là ‘ra vào cũng thằng cha khi nãy.’ Có lẽ họ cố tình hạ nhục và đe doạ nạn nhân chăng? Có nơi nào trên đất nước này mà mấy người trong hệ thống công quyền xem luật pháp chẳng ra gì như vậy? Xin thưa: Huyện Đức Hoà ở Long An.

______

5

Tôi tin rằng những người trong Thiền Am là người tử tế. Tánh tử tế của họ được thể hiện qua sắc diện, hành vi, lời nói, và tài năng. Họ dù là trẻ mồ côi nhưng ai cũng tươm tất trong bộ đồ nâu và khuôn mặt thiện lành. Thiện lành và cương nghị. Họ nói năng từ tốn và mạch lạc. Họ lễ độ trong hành vi. Họ đối xử với cây cỏ còn nhân văn hơn cả tu sĩ.

Họ còn là những tài năng của xã hội. Chúng ta đã biết các “sư thầy triệu view” qua những ca khúc tuyệt hay. Chúng ta đã thấy một Huyền Trân mới 12 tuổi mà đã thuyết phục khán giả với những ca khúc của Trịnh Công Sơn. Còn 5 chú tiểu thì đã gây ấn tượng đẹp về tài diễn xuất và thông minh cho hàng triệu khán giả.

Phải là những đứa lớn lên trong môi trường đầy yêu thương và giáo dục tốt mới đạt được những thành tựu như thế. Trong tình hình giáo dục xuống cấp thê thảm, nhóm Thiền Am minh chứng cho thấy nhân tài có thể đào tạo mà không cần quá nhiều tiền bạc và tổ chức cứng nhắc.

______

6

Tôi tin rằng cụ Lê Tùng Vân là một người có phẩm hạnh rất tốt. Ông xuất thân từ một gia đình nề nếp ở miền Tây. Thân phụ ông là thầy giáo Lê Văn Tất, cũng là một nhà thơ cùng thời và bạn thân của Hàn Mặc Tử. Ông Lê Tùng Vân từng tốt nghiệp cử nhân thời trước 1975. Cần nói rằng thời đó chỉ có một số ít (dưới 10%) tốt nghiệp tú tài, và chỉ một số ít trong số này được tuyển vào đại học. Văn bằng cử nhân thời trước 1975 rất khác với cử nhân ngày nay. Ông còn tốt nghiệp cử nhân Anh Văn năm 60 tuổi. Sự thật đó chứng tỏ ông là một người ham học, người của chữ nghĩa. Rất dễ thấy kiến văn của ông qua những lời ông dạy trẻ trong Thiền Am và những phát biểu đỉnh đạc trong phiên toà. Ngay cả nét chữ của ông cũng tiết lộ một người có học đàng hoàng. Ông là người yêu nhạc Trịnh Công Sơn và biết chơi đàn guitar thời còn trẻ.

Nhưng cái phước lớn nhứt của ông là cưu mang người cơ nhở. Có thể nói ông dành cả đời chỉ giúp người. Thoạt đầu ông lập trung tâm Thánh Đức để nuôi trẻ mồ côi và những người cơ nhở. Những người này sau đó trưởng thành và chung tay giúp ông nuôi trẻ mồ côi khác. Những đứa trẻ mồ côi còn rất nhỏ nhưng đều tỏ ra có tài năng đặc biệt và chiếm các giải thưởng danh giá. Chúng còn học giỏi trong trường học.

Cái công của ông Lê Tùng Vân rất lớn. Ông có khả năng giúp người sai đường lạc lối trở thành người có ích cho xã hội. Bởi vậy mà các đệ tử gọi ông là “Thầy ông nội.” Họ chẳng những coi ông là ông nội mà còn là một người Thầy. Và, ông xứng đáng với sự tôn vinh đó.

______

7

Tôi hoàn toàn không ủng hộ ông Thích Nhật Từ và Thích Minh Thiện kiện Thiền Am. Phật giáo lấy từ bi làm lẽ sống. Nếu Thiền Am thật sự làm gì sai quấy (mà tôi nghĩ là không) với hai ông này thì với tinh thần từ bi, hai ông không kiện họ ra toà.

Còn ở đây, hai ông, đặc biệt là ông Thích Nhật Từ, soi mói từng chữ, cắt xén câu văn của ông Lê Tùng Vân rồi kết tội họ. Đó là một hành vi tiểu tâm (như một tu sĩ Phật giáo nói). Nhưng tôi muốn thêm rằng hành vi của hai ông còn thể hiện một sự lưu manh tri thức, chớ không chỉ là kiến văn thấp. Chỉ có kẻ lưu manh mới cắt xén câu chữ của người ta để đưa người ta vào vòng lao lí.

______

8

Tôi tin rằng Thiền Am không lường gạt ai và không có quan hệ huyết thống. Việc dựng lên nhân vật ảo (?) Hồ Phước Lợi để kết tội lừa đảo không chỉ là một trò hãm hại mà còn thể hiện cái ‘tiểu tâm’ của những kẻ tác giả bản kịch. Ông Thích Nhật Từ và đồng bọn tung tin ‘loạn luân’ rõ ràng là dựa vào tài liệu giả tạo. Hành vi vu khống và bôi nhọ của ông và đồng bọn phải được xem là một tội ác. Một tội ác.

Báo đài làm cái loa cho ông ấy cho đến nay vẫn chưa có một lời xin lỗi Thiền Am. Ls Trần Văn Sỹ sau khi xem xét chứng cớ đã khẳng định và chẳng ai ngạc nhiên: “KẾT LUẬN GIÁM ĐỊNH ADN 100% KHÔNG CÓ LOẠN LUÂN; ĐỒNG THỜI, CỤ LÊ TÙNG VÂN KHÔNG CÓ QUAN HỆ HUYẾT THỐNG VỚI BẤT KỲ AI TRONG SỐ 27/28 NGƯỜI ĐÃ ĐƯỢC LẤY MẪU GIÁM ĐỊNH Ở THIỀN AM”. Ông chờ nhà chức trách ‘làm việc’ với ông về khẳng định trên nhưng chẳng ai đặt vấn đề.

______

9

Tóm lại, tôi tin rằng những người trong Thiền Am và cụ Lê Tùng Vân là những người hiền lành. Họ không phạm tội gì cả. (Nếu — xin nhấn mạnh là ‘nếu’ — vài lời nói của họ trong video là xúc phạm nhà chức trách thì đó cũng chỉ là vấn đề dân sự.)

Vụ án Thiền Am là một trong những vết đen của nền tư pháp. Dù phiên toà xảy ra ở một địa phương rất đặc thù, nó vẫn cộng thêm một đặc điểm trong danh sách những đặc điểm mà thế giới xếp Việt Nam vào nhóm các nước kém phát triển. Tôi tin rằng không có người Việt nào muốn thấy Việt Nam trong danh sách các nước đàn áp người thấp cổ bé họng một cách có tổ chức.