Năm bài học ở đời

Tôi thỉnh thoảng nghĩ về những bài học ở đời, và dưới đây là 5 bài học tôi rút ra:

Bài học 1: đừng so sánh với ai.

Chúng ta thích so sánh. Mà, so sánh thì sẽ thấy mình kém hơn người ta, hay người ta kém hơn mình. Nhưng cả hai tình huống đều đem lại tác động xấu. Kém hơn người ta thì sanh ra mặc cảm tự ti. Nghĩ rằng mình hơn người ta thì sanh ra kiêu căng, ngạo mạn. Thành ra, so sánh có thể gây tác hại, bất kể ‘outcome’ so sánh ra sao..

Mỗi chúng ta là một người đặc biệt và hãy trân trọng sự thật đó. Mỗi người chúng ta là một cá nhân đặc thù (unique). Không có ai trong thế giới ~8 tỉ người này giống mình. Mình cũng chẳng giống ai. Tại sao? Tại vì mỗi chúng ta có một hoàn cảnh, khả năng, và lối sống riêng. Tôi có thể cùng tuổi, cùng chiều cao, cùng cân nặng, có cùng học vấn, cùng việc làm với một ai đó, nhưng tôi rất khác với người đó bởi vì tôi tóc đen, da vàng và sanh ra từ miền quê. Nói cách khác, tập hợp những đặc tính như gia đình, gen, cơ thể, tinh thần, lối sống, tri thức, sở thích, kĩ năng, trải nghiệm, v.v. làm cho mỗi chúng ta là đặc thù.

Tính đặc thù đó làm cho mọi so sánh về tài năng trở nên vô nghĩa. Nhiều người sợ rằng có nhiều người khác tài giỏi hơn họ. Họ hay so sánh ông A giỏi hơn bà B, hay bà C là người giỏi nhứt thế giới. Nhưng đó là so sánh vô nghĩa, bởi vì mỗi chúng ta là một cá nhân đặc thù thì đâu có ai để mà so sánh. Mỗi người tốt hơn mọi người khác, bởi không có bất cứ 2 người nào như nhau. Bạn là bạn, không ai tốt hơn bạn.

Nhận ra và tôn trọng sự đa dạng có nghĩa là làm nổi bậc những ưu điểm và các đặc điểm, cá tánh, kĩ năng và lối sống. Hãy nhìn vào kính và hỏi: ai có thể làm những gì bạn làm theo cách tốt nhứt trong điều kiện bạn có. Câu trả lời là: không có ai. Do đó, hãy khám phá ưu điểm của bạn, khám phá những gì bạn làm tốt nhứt. Không cần so sánh với ai cả.

Bài học 2: gia đình chúng ta rộng lớn hơn chúng ta nghĩ.

Chúng ta thường hiểu chữ ‘gia đình’ là quan hệ huyết thống, nhưng trong khoa học, gia đình còn có nghĩa là quan hệ chuyên môn. Gia đình của chúng ta là các thầy cô (mentors), đồng nghiệp, nghiên cứu sinh. Nói rộng hơn, gia đình của chúng ta là các hội đoàn khoa học. Nhận thức được điều này giúp cho chúng ta biết cách sống và tương tác với đồng nghiệp một cách tử tế.

Xin kể các bạn một chuyện cũ. Thuở đó tôi còn tương đối trẻ, mới bước vào ‘bộ lạc’ loãng xương, và rất hăng hái. Tôi đọc một bài báo và thấy có vài cái sai khá hiển nhiên, và thế là tôi viết một bài commentary (bình luận) chỉ ra những cái sai đó, rồi đưa cho thầy tôi xem. Ổng xem qua rồi mỉm cười và nói: những gì ngươi chỉ ra là ok, nhưng ngươi có nghĩ đến 20 năm sau không? Rồi ông nói cho biết rằng tác giả bài tôi phê bình là một ‘trưởng lão’ trong ‘bộ lạc’, rằng những chữ tôi dùng trong bài commentary là không thích hợp cho một người trẻ nói với người lớn, rằng tôi phải biết trước biết sau, v.v. Nói chung là một bài giảng morale. Nói xong, ổng nói thay vì gởi cho tập san, ổng sẽ biên tập lại bài commentary và gởi riêng cho tác giả.

Thật là một quyết định của bậc thầy! Tác giả (là ông cụ) viết thư (thời đó chưa có email) cám ơn tôi và còn mời tôi hợp tác. Sau này, chúng tôi viết chung 1 bài có ảnh hưởng khá. Sau này, chính ông cụ tác giả đó đã giúp cho tôi rất nhiều trong sự nghiệp, mỗi lần cần giới thiệu là tôi nhờ ổng. Tôi xem ổng như là một người trong đại gia đình vậy.

Thành ra, trong khoa học, ‘gia đình’ là cộng đồng bè bạn, đồng nghiệp, thầy cô và các hiệp hội chuyên môn mà chúng ta tương tác. Hiểu rõ như vậy để ứng xử tốt với đồng nghiệp. Đừng tỏ ra là ‘ta đây’ và đối xử với người cao và thấp hơn mình chẳng ra gì. Hãy là thành viên tốt trong gia đình đó!

Bài học 3: tìm hạnh phúc cho mình bằng cách đem hạnh phúc cho người khác.

‘Hạnh phúc’ là gì? Mỗi người có một định nghĩa riêng theo góc nhìn của họ, và khó có một đồng thuận về cách hiểu. Người thì nghĩ hạnh phúc là có nhiều tiền, con cái thành đạt; kẻ thì cho rằng hạnh phúc là có cuộc sống tiện nghi; lại có người nghĩ rằng hạnh phúc chẳng cần nhiều tiền mà là giàu trải nghiệm; vân vân.

Tôi thì nghĩ hạnh phúc là giúp cho người khác thành công. Nói cách khác, hạnh phúc của mình là mình đã đem lại hạnh phúc cho người khác. Những gì chúng ta cho đi cũng chính là những gì chúng ta nhận lại. Đó chính là lí do tại sao tôi thích giúp người mà có khi chưa bao giờ gặp người ta ngoài đời. Tôi có khi viết thư giới thiệu cho mấy nghiên cứu sinh gốc Tàu không phải trong labo tôi. Má tôi lúc sanh tiền hay nói đại khái là giúp người là một cách gieo hột lành cho tương lai, và tôi nghiệm ra câu này rất đúng.

Bài học 4: nghĩ tích cực, đừng bị ức chế bởi những chuyện đâu đâu.

Tôi nghĩ có lúc các bạn (cũng như tôi) từng bị người khác, kể cả bạn bè và đồng nghiệp, chỉ trích rằng mình bất tài, vô dụng, dở hơn họ, xấu hơn họ, ngu hơn họ, v.v. Có khi họ chính là bạn mình, hay người mình từng giúp đỡ. Mỗi chúng ta đều có trải nghiệm đó. Những người chỉ trích đó chắc chắn có cảm giác tốt khi họ bôi nhọ và đẩy chúng ta xuống bùn đen. Chúng ta trở thành miếng mồi cho cái tôi của họ.

Bạn đừng buồn và đừng chú ý đến những gì họ nghĩ gì về mình, mà hãy tập trung làm tốt công việc mình theo đuổi. Bạn cũng nên tránh xa những kẻ đó, vì họ không đem lại năng lượng tích cực cho đời sống của mình. Hãy kết bạn với người mới và tích cực và giữ một tinh thần lạc quan.

Viết đến đây tôi nhớ đến câu nói bất hủ của Richard Feynman (tôi dịch nôm na): “Bạn không có bổn phận phải sống đúng theo những gì người khác nghĩ về bạn phải như thế này hay như thế kia. Bạn không có bổn phận phải giống như những gì họ kì vọng; đó là sai lầm của họ, chứ không phải nhược điểm của bạn”.

Bài học 5: tình thương là thực tế duy nhứt.

Trong buổi lễ phong hàm đại tá cho một nữ quân nhân Mĩ gốc Việt, người ta cho người trong gia đình chị ấy gắn quân hàm một bên cầu vai, còn người đại diện của Chánh phủ / quân đội gắn một bên cầu vai. Tôi thấy nghi lễ đó rất hay vì nó nhắc nhở rằng không có tình thương của gia đình thì chị ấy đã không có ngày hôm nay.

Không có tình thương gia đình, chúng ta — bạn và tôi — không thể sống được. Có lần thầy cũ tôi lúc sắp vào bệnh viện để điều trị ổng nói đại khái rằng chỉ có tình thương là quan trọng trong đời. Lúc đó tôi chẳng hiểu sao ổng nói vậy, vì nó có vẻ quá hiển nhiên. Sau này nghĩ lại thì đúng như thế: chỉ có tình thuơng là thực tế, các thứ khác (như danh vọng, sự nghiệp, tiền tài) đều là ảo.

Mỗi chúng ta sanh ra trong tình thương của ba má, cùng sự bảo bọc của ông bà và anh em, bà con. Khi lớn lên, chúng ta hay muốn quay về cái thời điểm ấm cúng đó. Nếu chúng ta muốn như vậy thì người khác cũng vậy, và điều này hàm ý rằng chúng ta nên trao tình thương cho tha nhân. Trao bằng cách nào? Một ánh mắt, một cái sờ tay, một câu nói, một cử chỉ trìu mến đều có hiệu quả truyền tải tình thương. Chọn chữ mà nói/viết sao cho không làm cho người ta bị xúc phạm và tổn thương. Câu chuyện trên về thầy tôi là một bài học quí giá vậy.

Viết đến đây tôi nhớ đến Nhà văn Mai Thảo (một cây bút lừng danh trước 1975 ở trong Nam). Ông bị người ta chỉ trích và công kích, nhưng ông không bao giờ trả lời hay công kích lại. Ông giải thích:

“Đời tôi có một nguyên tắc: không bao giờ dùng văn chương để làm bất cứ điều gì xấu xa. Đâu phải tôi không biết người nào tốt người nào xấu với mình, nhưng tốt hay xấu mặc họ. Người nào tốt, đến gần, uống rượu chơi. Người nào xấu, lánh ra thật xa, đừng thèm đụng tới. Nhưng đừng bao giờ mang những điều đó lên trang giấy để bôi bẩn nhau. Văn chương là cái đẹp, là thế giới của cái đẹp, ở thế giới ấy có thứ tiền tệ riêng của nó: anh phải dùng thứ tiền ấy, anh phải đàng hoàng, phải lương thiện. Thứ tiền tệ ấy chính là cái đẹp.”

***

Cuộc đời là một hành trình khai phá và khám phá, và những bài học tôi rút ra trong hành trình đó là (i) chúng ta đừng nên quá quan tâm mình giỏi hay dở vì mỗi chúng ta là một cá nhân đặc thù; (ii) gia đình khoa học của chúng ta rộng hơn là gia đình huyết thống; (iii) làm việc vì phúc lợi của người khác tức là đem lại hạnh phúc cho mình; (iv) nghĩ tích cực và đừng sống vì kì vọng của người ta; và (v) là đem tình thương đến cho gia đình và tha nhân.

Ơn nặng, oán sâu

Ở Việt Nam có Ngày Nhà Giáo (mang màu sắc chánh trị) [1] nhưng có ý nghĩa ‘đền đáp công ơn dưỡng dục của thầy cô’. Rất nhiều quà cáp và những câu chữ bay bổng. Tuy nhiên, người xưa có câu ơn càng nặng thì oán càng sâu.

Hôm nọ đọc một bài luận rất hay trên một tạp chí ở hải ngoại, tôi mới biết nghĩa của chữ ‘Ân’ rất thâm thuý. Trong tiếng Hán ngữ Ân bao gồm 2 chữ ghép lại: chữ ở trên giống như một người bị bao bọc bởi 4 bức tường, còn chữ phía dưới là chữ Tâm (xem hình).

Cái hình đó có thể hiểu là khi người ta chịu ơn có nghĩa là chấp nhận có người ngồi trên mình, còn làm ơn là được ở trên người. Người chịu ơn cũng đồng nghĩa với việc cái tâm bị đè, hay nói cụ thể hơn là lòng tự ái bị tổn thương, bị nhục. Người ta sẽ rửa nỗi nhục bằng cách vong ơn, thậm chí phản bội.

Trong đời thường, tôi nghĩ chắc chắn ai trong chúng ta cũng từng bị phản bội. Mình làm ơn cho người, nhưng chính người đó phản bội lại mình. Cái kinh nghiệm phản bội cũng đau lắm, nhưng nếu mình hiểu nghĩa của chữ Ân thì sẽ không có gì ngạc nhiên, và chấp nhận sự phản bội như là một qui luật của cuộc sống.

Nói đến chuyện ơn và vong ơn là phải nói đến nhân vật Hàn Tín (sống vào thời Nhà Hán) mà tôi nghĩ nhiều người thuộc thế hệ tôi đã đọc qua. Lúc thiếu thời, Hàn Tín rất nghèo, cơm không đủ ăn, nay đây mai đó ngoài chợ để chờ sự bố thí của người hảo tâm. Một trong những người hảo tâm đó là Phiếu Mẫu, cũng nghèo rớt mồng tơi, thương Hàn Tín nên bà hay chia cơm cho chàng thanh niên nghèo. Cảm kích trước sự giúp đỡ, Hàn Tín hứa rằng một ngày nào đó ‘công thành danh toại’ thì sẽ đền ơn. Nhưng Phiếu Mẫu nói bà không cần đền ơn, chỉ mong Hàn Tín nuôi chí lớn và hành xử như một bậc trượng phu.

Sau này, Hàn Tín trở thành tướng lãnh tài ba dưới trướng Lưu Bang. Hàn Tín được xem là một khai quốc công thần cho Lưu Bang. Tuy vậy, Hàn Tín vẫn không quên thời hàn vi được Phiếu Mẫu giúp đỡ, nên ông đã đem nhiều vàng đến biếu tặng cho bà.

Phiếu Mẫu đúng mà người làm ơn mà không cần nhớ (Thi ân mạc niệm). Hàn Tín đúng là người chịu ơn mà không quên ân nhân (Thọ ân mạc vong).

Nhưng trong đời sẽ có người vong ơn, và một người tiêu biểu có lẽ là Lưu Bang, người sáng lập triều Hán lừng danh bên Tàu. Hàn Tín là người giúp Lưu Bang dựng cơ đồ, đánh đông dẹp bắc, đem lại những chiến công vang dội. Nhưng Lưu Bang là người cao ngạo, thậm chí được xem là ‘lưu manh vô lại’. Lưu Bang thọ ơn của Hàn Tín, và việc này làm cho ông cảm thấy nhục. Nhiều lần Lưu Bang tỏ ra không hài lòng với Hàn Tín, nhưng họ Hàn không biết.

Sau này, khi Lưu Bang xưng vương, thì ông lại giết ân nhân Hàn Tín. Chuyện kể rằng khi Hàn Tín bị đem đi chém, Lưu Bang vừa cười ha hả, vừa khóc thảm thiết. Hành vi của Lưu Bang là giả dối? Không. Lưu Bang cười là vì ông khôi phục được lòng tự ái của mình, còn khóc là vì tâm cang bị giày xé do cái sự phản bội của mình. Hành vi của Lưu Bang rất đúng với câu:

Ân càng thâm, oán càng sâu

Chợt nghĩ đến … ‘dân oan’.

Vậy nên các thầy cô đừng nghĩ mình làm ơn cho trò. Thật ra, tôi nghĩ thầy cô, bác sĩ, y tá, tiếp viên, v.v. tất cả chỉ làm nhiệm vụ của họ mà thôi. Nếu họ làm hơn và trên cái nhiệm vụ được trao thì họ nên được thưởng. Họ chẳng ban ơn cho ai, và cũng không nên nghĩ như vậy. Làm ơn cũng có nghĩa là chạm vào lòng tự ái của người khác, và sự va chạm đó có thể dẫn đến những hậu quả nguy hiểm.

___

[1] Ngày 20/11 có một ý nghĩa chánh trị thời Chiến Tranh Lạnh. Theo sách sử thì năm 1949, tại Warszawa (Ba Lan) diễn ra một hội nghị của Liên đoàn quốc tế các công đoàn giáo dục trong khối cộng sản ra bản “Hiến chương các nhà giáo”. Bản hiến chương đó có nội dung đấu tranh chống nền giáo dục tư sản và xây dựng nền giáo dục XHCN, đồng thời bảo vệ quyền lợi của nhà giáo XHCN. Năm 1957, cũng tại Warszawa, một hội nghị khác triển khai hiến chương đó, và họ đề nghị từ năm 1958 trở đi, khối XHCN sẽ lấy ngày 20/11 làm ngày “Quốc tế hiến chương các nhà giáo”. Việt Nam ở ngoài Bắc trước 1975 và toàn quốc từ 1982 cũng lấy ngày 20/11 làm “Ngày Nhà Giáo Việt Nam”. Như thấy, trong thực tế ngày 20/11 chẳng có dính dáng gì đến nhà giáo Việt Nam cả.

Trên thế giới, có những nước không có Ngày Nhà Giáo. Việt Nam Cộng Hòa trước đây không có ngày nhà giáo. Tuy nhiên, một số lớn nước thì có Ngày Nhà Giáo. Tuy rằng đa số chọn ngày 5/10 theo khuyến nghị của UNESCO làm Ngày Nhà Giáo, nhiều nước chọn ngày khác làm Ngày Nhà Giáo. Hungary lấy ngày Chủ Nhật đầu tiên của Tháng 6, Ukrainia lấy ngày Chủ Nhật đầu tiên của Tháng 10, Ba Lan (14/10), v.v. Một số nước chọn những ngày gắn liền với một nhân vật hay sự kiện mang tính lịch sử. Tôi nghĩ Việt Nam nên bỏ ngày 20/11 làm Ngày Nhà Giáo. Nếu cần phải có một Ngày Nhà Giáo, tôi đề nghị lấy ngày sanh của Chu Văn An (25/8/1292).

Bốn điều chúng ta học được khi luống tuổi

Hôm nọ, ngồi tán gẫu bên tách cà phê, một anh bạn vong niên đưa ra 4 điều chúng ta học được khi luống tuổi. Bốn điều liên quan đến: bạn bè; ứng xử; trực giác; và dung nạp. Tôi thấy rất hợp lí và hợp ý mình, nên bèn viết lại và diễn giải theo cách hiểu của tôi dưới đây.

Điều thứ nhứt: Khi đã luống tuổi, chúng ta không thể nào kết bạn với những người giả nhân giả nghĩa.

Trên đường đời và qua tương tác xã hội, chúng ta quen biết rất nhiều người trong nhiều tình huống khác nhau. Nhưng trong số đó, những người được xem là ‘bạn’ thì chắc chẳng bao nhiêu. ‘Bạn’ ở đây là người chúng ta quen, quí mến, và có thể tin tưởng được; đó là người không bỏ chúng ta trong cơn hoạn nạn; đó là người đứng bên ta đưa ra lời khuyên hợp lí, sẵn sàng ủng hộ việc làm vì lợi ích của tha nhân.

Thử đếm xem, những người bạn theo định nghĩa trên không nhiều đâu. Thành ra, khi đã luống tuổi, chúng ta mới nhận ra câu hỏi của Nhạc sĩ Vũ Thành An (‘Triệu người quen, có mấy người thân’) là … có lí, và tiết kiệm kết bạn hơn.

Điều thứ hai: Khi đã có tuổi, chúng ta nhìn thế sự một cách bình thản và nhận ra rằng không phải cái gì cũng cần phải phản ứng.

Lúc còn trẻ, chúng ta háo thắng, muốn vượt trội, và có khi tham lam trong danh vọng, tiền tài. Thấy cái gì ‘gai mắt’ là chúng ta phản ứng ngay. Thấy người ta có hành vi và hành động không hợp lí (với mình) và thế là có phản ứng gay gắt, thậm chí phê phán. Nhưng vì còn trẻ người non dạ, chúng ta không biết câu chuyện đằng sau của những hành động và hành vi đó, nên chúng ta đã phạm phải sai lầm và mang tội. Mấy dư luận viên và youtuber kền kền ngày nay là như vậy, họ không biết rằng họ đã gây tội ác vì cái tánh bồng bột và ngạo mạn của tuổi trẻ.

Nhưng khi đã luống tuổi, chúng ta tạm đạt được cái ‘tri thiên mệnh’, và do đó không vội vã phản ứng trước những điều trái tai gai mắt. Chúng ta cảm thấy bình thản hơn, suy nghiệm nhiều hơn trước khi phản ứng. Chúng ta nhận ra rằng trước nhiều sự việc, phán xét và đánh giá của chúng ta chỉ là những kẻ mù sờ voi. Hôm nọ, ngồi trong hội đồng đề bạt chức danh giáo sư, một anh chàng khoa trưởng kia phản bác ý kiến của tôi về công bố khoa học, nhưng tôi mỉm cười và không phản ứng. (Nếu là 20 năm trước thì tôi đã ‘đập bàn và chỉ tay’ rồi). Kì diệu thay, chỉ 2 giờ sau anh ta gởi lời xin lỗi (chắc đã ngộ ra vấn đề), nhưng tôi nói “Mày hãy xin lỗi lương tâm của mày kìa. Tao không cần lời xin lỗi đâu.”

Điều thứ ba: Khi đã luống tuổi, chúng ta nhận ra rằng trực giác có khi là chỗ dựa quan trọng, và các giá trị bảo thủ là cần thiết.

Khi còn trẻ chúng ta thường tỏ ra ‘cấp tiến’, muốn làm ‘cách mạng’. Thấy cái gì cũng muốn thay đổi. Thấy cái cũ là ngứa mắt, muốn dẹp qua một bên và thay vào cái mới. Thấy mái nhà tranh là lạc hậu và muốn hiện đại hoá nó bằng một mái tole!

Nhưng càng về già, chúng ta hình như càng … tự diễn biến. Tự diễn biến về các giá trị bảo thủ. Chúng ta nhận ra cái thời sôi nổi là bồng bột và tai hại. Chúng ta nhận ra mình từng có tội khi đánh đổ cái cũ và thay bằng cái mới tệ hại hơn.

Chúng ta cũng nhận ra rằng không phải cái gì cũng được quyết định dựa trên chứng cớ, và trực giác trở thành một chỗ dựa rất quan trọng trong điều kiện bất định. Nhìn vào một cái đơn xin đề bạt, trực giác cho chúng ta biết rằng kẻ viết ra nó là xạo, nhưng chứng cớ thì không có hay không thể xác minh. Nghe một kẻ thuộc phe ‘cấp tiến’ nói chúng ta thấy hắn ta xạo, ngoa ngôn, dù chưa có chứng cớ. Nhưng chúng ta đúng.

Nhìn ông cụ 92 tuổi bị một bộ máy nhà nước vùi dập chúng ta biết ổng là nạn nhân của cái bộ máy thiếu lương thiện, dù chúng ta chỉ nhìn mặt mũi và hành vi của ổng.

Hoá ra, trực giác đóng vai trò quan trọng và giúp chúng ta tồn tại trong những tình huống thiếu thông tin. Hoá ra, những giá trị thủ cựu và bảo thủ rất quan trọng để chúng ta không bị chìm đắm trong những ngôn từ quyến rũ và ma mị (kiểu như anh Bảy Đờn bên Mĩ.)

Điều thứ tư: Càng về già chúng ta càng thấy không có nhu cầu được dung nạp hay được công nhận.

Khi còn trẻ chúng ta muốn ‘thành công’, muốn được ghi nhận, muốn được visible, hay nói chung là … bon chen. Vì bon chen, chúng ta hay so sánh. Vì còn trẻ, so sánh của chúng ta ấu trĩ. Tại sao hắn được vào bộ lạc, còn mình với thành tích nổi trội hơn hắn lại không được? Bất công. Tại sao lúc nãy phát biểu, họ quên đề cập đến mình? Họ cố ý. Tại sao họ không bầu mình vào hội đồng? Họ ghét mình. Nói chung, khi còn trẻ, chúng ta muốn được dung nạp, và khi không được dung nạp thì chúng ta tức giận.

Nhưng khi luống tuổi, khi chúng ta đã qua những chặn đường đời, đã [nói theo tiếng Anh là] ‘been there, done that’, chúng ta thấy bình thản hơn. Bình thản khi người ta bỏ quên mình. Bình thản khi người ta loại mình ra khỏi bộ lạc — có lẽ họ cần ‘máu mới’. Chúng ta không có nhu cầu được thấy, được ghi nhận, hay được vượt trội gì cả. Chúng ta nhìn sự đời như một vở kịch và thấy tội nghiệp cho những diễn viên trong vở kịch.

Chúng ta càng nhận ra rằng tất cả sự vật — từ cây cỏ đến sinh vật và con người — đều là những kẻ ‘ở trọ’. Thậm chí thời gian và bóng tối cũng ở trọ, y như Trịnh Công Sơn viết:

Trăm năm ở đậu ngàn năm

Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn

Ơ hay là một vòng xinh

Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời

Những người luống tuổi nhìn lại quãng đường đời mình đi qua là một sự lênh đênh nội tâm. Con đường nội tâm là con đường phức tạp nhứt vì điểm đến gần như không tồn tại. Cái gọi là ‘thành công’, ‘thành đạt’ chỉ là ngoa ngữ cho một điểm đến không có thật, và nó làm cho con người chìm đấm và đau khổ trong đường đời. Thành ra, thay vì nhắm tới điểm đến, chúng ta nên quan tâm đến cách mà chúng ta đi và cùng đi với mọi người khác.