Lời giới thiệu: Có lẽ đa số người trong nước không biết rằng Chánh phủ mới công bố Qui hoach hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long. Theo Qui hoạch này, vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ được phân chia thành ba vùng kinh tế nông nghiệp: Ngọt, Lợ và Mặn. Nếu Qui hoạch này thành hiện thực thì rất nhiều người dân trong vùng sẽ phải chuyển kế sanh nhai. Câu hỏi là Qui hoạch này có khả thi không? Tôi hân hạnh giới thiệu bài viết này của Kĩ sư Phạm Phan Long bàn về câu hỏi trên. Theo anh Long thì Qui hoạch khó khả thi. Mời các bạn theo dõi bài viết.
______
Dẫn Nhập
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) mênh mông vẫn có rất nhiều nước với rất nhiều công trình thủy lợi, nhưng dân vẫn khao khát nước sạch, chìm ngập trong nước bẩn, đói phù sa, dư phèn, thừa muối và khổ sở với ô nhiễm. Các chất thải lỏng, rắn và rác rưới sinh hoạt cứ thế cho xả hết vào nguồn nước không thể kiểm soát và xử lý. Không có một xã hội văn minh nào có thể để tệ trạng (tiểu tiện, đại tiện vào miệng giếng) này kéo dài mãi như thế được. Do đó một quy hoạch (QH) với tầm chiến lược quốc gia như thế vô cùng khẩn thiết, không ai không ước mong QH này đạt mục đích đến thành công. Những phân tích khả thi và khả tín nêu ra trong bài này không có gì vui, người viết ước mong những lo ngại ấy không xảy ra, hay giảm bớt để mang thêm một bát nước trong lành giải khát cho con cháu và thế hệ tương lai.
Giới thiệu: Quy hoạch tổng hợp Lưu vực sông Cửu Long [1]
Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long (QH) hay Mekong Delta Master Plan vừa được ông Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Phó Thủ tương phê duyệt vào ngày 6 tháng 3 2023, qua Quyết định 174/QĐ-TTg mang tên Quy hoạch tổng hợp Lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Báo cáo và Quyết định phê duyệt QH-Nguồn tham khảo [1,2] (Hình: Gov.vn và chinhphu.vn)
Người viết rất trân trọng với nỗ lực các chuyên gia đã đóng góp trí tuệ vào QH này và nhìn nhận nhiệm vụ này rất khó khăn. Chuyển đổi lộ trình và lịch trình, cho một con tàu đang đi lạc đã khó, huống chi cho con tàu to lớn như ĐBSCL cưu mang vận mạng của 18 triệu người. Người viết sẵn sàng đón nhận những quan điểm phản hồi khác biệt nhưng vẫn khách quan mổ xẻ và rà soát QH này với khả năng khiêm tốn của mình và trình bày sau đây:
QH này có mục đích bảo đảm an ninh tài nguyên nước “tôn trọng quy luật tự nhiên” và “lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi”, đây là một văn bản pháp quy về quyết sách bảo vệ an ninh nguồn nước, xử lý nước thải, kiểm soát ô nhiễm, bảo đảm chất lượng nước cho ĐBSCL. QH này là một bản tuyên ngôn, một khế ước long trọng với 18 triệu dân là trong 7 năm QH này sẽ giải quyết được 100% nhiều tệ trạng bi thảm hiện có. Với sứ mạng đó, nếu thành công, QH này sẽ là một kỳ tích ngoạn mục của lịch sử dân tộc. Nếu QH thực hiện manh mún, bỏ dở và thất bại, niềm tin và sản nghiệp của người dân sẽ bị nhấn chìm dưới cả đáy vực.
Thật vậy, đây là một canh bạc chơi hết vốn, QH này phân loại ĐBSCL thành ba vùng kinh tế nông nghiệp: Ngọt, Lợ và Mặn theo hình sau; một số rất lớn dân cư hai bên đường biên phân vùng sẽ phải chuyển đổi sinh kế để thích hợp với nó. Dựa vào những văn bản chính thức và các nguồn tin công khai về QH này hiện có trên mạng, ta có thể để đánh giá độ khả thi và khả tín của QH này trước những thách đố tiềm tàng sau đây:
Bản đồ phân vùng nước theo QH [1] (Hình: Gov.vn)
1. Chỉ tiêu quá tham vọng [1]
Quyết Định QH cam kết thực hiện các chỉ tiêu cơ bản sau đây:
100% vị trí giám sát dòng chảy xuyên biên giới được giám sát tự động, trực tuyến;
100% nguồn nước liên tỉnh được công bố khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải;
100% công trình khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước được giám sát vận hành và kết nối hệ thống theo quy định;
50% nguồn nước thuộc đối tượng lập hành lang bảo vệ nguồn nước được cắm mốc theo quy định;
100% nước thải đô thị được xử lý đạt quy chuẩn quốc gia trước khi xả vào nguồn nước, hệ thống thoát nước chung.
Tất cả các chỉ tiêu trên của QH này đều phải đạt chỉ tiêu 100% trừ việc cắm mốc nguồn nước 50%. Ngay từ mục này, người từng làm quy hoạch phải thấy QH này là một ”phi vụ nhiều rủi ro rất khó thành”. Không thể là chuyện nói chơi rồi vì QH ghi rõ như thế trong văn bản pháp quy và công bố rầm rộ liên tục trên các nguồn truyền thông báo chí chính thức. Khi thấy những hứa hẹn quá sức như thế, người dân vốn đã ái ngại vì những thất bại từ các QH quá khứ vẫn chưa hồi phục, dân sẽ không khỏi ngờ vực tính khả thi của QH này.
2. Ngân sách kinh phí quá thấp
Câu hỏi đầu tiên người Việt đặt ra là tiền đâu? Tính khả thi của QH này rất mong manh vì kinh phí đầu tư dành cho QH rất thấp. Theo trang 309 của QH, tổng mức đầu tư thực hiện QH được phê duyệt sẽ là 510 tỉ đồng (22 triệu USD) trong hình trên [1].
Kinh phí và lịch trình QH [ 1] (Hình: Gov.vn)
Văn phòng Việt Đức Nghiên cứu về phát triển bền vững tại Việt Nam ghi nhận ngày 21 tháng 6 2022, Quy hoạch và Xúc tiến đầu tư ĐBSCL (Mekong Delta Regional Master Plan and Investment Promotion) có ngân sách tới năm 2025 là 20 tỉ USD hay 910 lần nhiều hơn [3].
Hôm sau ngày 22 tháng 6 2022, World Bank, nguồn cung cấp tài trợ vốn, cơ quan tài chính đáng tin cậy nhất, đã ước tính Quy hoạch trên cần kinh phí 57 tỉ USD hay 2590 lần nhiều hơn [4]; số vốn đầu tư kinh khủng này cao gần 10 lần ngân sách quốc phòng, và còn nhiều hơn cả ngân sách quốc gia. Dù phạm vi các quy hoach không giống nhau nhưng với ngân sách khác nhau cả ngàn lần dân phải hiểu làm sao?
Nếu lãnh đạo đã tin vào con số 22 triệu USD trong báo cáo QH mà phê duyệt tưởng sẽ đạt được 100% các chỉ tiêu phần 1 thì họ đã nuốt phải một cú lừa ngoạn mục. Nếu cho báo cáo QH này bị lỗi khi dịch hay viết sai, tổng mức đầu tư là con số khác lớn hơn khuất nấp ở nơi nào khác, giới giang hồ sẽ xem đây là một canh bạc bịp. Người dân không thể nào tin cậy vào số liệu kinh phí QH thấp như thế nó còn phải giãn nở hơn nhiều. Người viết tin chắc kinh phí QH này đã đưa ra là con toán QH sai, và sai chưa từng có. QH lần này lại do chính ông Trần Hồng Hà, với chức vụ Bộ trưởng BTNMT từ 2016 đã tự đề nghị cho chính ông với chức vụ Phó Thủ tướng phê duyệt, do đó ông phải hoàn toàn chịu trách nhiệm xem xét và trả lời một lần sòng phẳng với dân về QH này nếu không nói cho cả QH những năm trước.
3. Người dân đứng trước canh bạc hết vốn và cạn kiệt niềm tin
Ngay cả khi có đủ kinh phí, QH này chỉ thành công chi khi nào có một đội ngũ nhân sự chuyên môn tại tất cả địa phương từng giờ kiểm soát phẩm chất và phân bố lượng nguồn nước theo QH. Cho đến nay, qua nửa thế kỷ, sau bao nhiêu công trình QH thủy lợi, dân nhìn xuống dòng nước sinh hoạt khắp nơi, chỉ thấy ngày càng đen đậm, rác rưởi và hôi thối; đội ngũ tài nguyên môi trường và quy hoạch vẫn chưa thực hiện và duy trì được một dự án tầm vóc nào thanh lọc hết ô nhiễm và đảo ngược được suy thoái. Tính khả tín của QH này không nằm trong văn bản QH mà ở năng lực trình độ các cán bộ và quan chức hữu trách.
Trang 26 của QH là một bản tự kiểm thảo những công trình tai hại và đầu tư sai lầm không hề được phục hồi đã làm dân mất niềm tin:
“Vùng ven biển LVSCL đã xây dựng 450km đê biển, 1.290km đê sông và khoảng 7.000km bờ bao ven các kênh rạch nội đồng để ngăn mặn, triều cường và sóng bão cho vùng ven biển. Có thể nói do vốn và tiến độ không cho phép nên đầu tư còn thiếu tính đồng bộ, không tập trung, nên nhiều khu vực dự án chưa phát huy hiệu quả, thậm chí còn nảy sinh những tác động tiêu cực kéo dài, như hệ thống Bắc Bến Tre (trong đó có cống – đập Ba Lai), hệ thống Quản Lộ – Phụng Hiệp, hệ thống Nam Măng Thít.”
Lần này không thấy có biện pháp nào được mang vào QH để ngăn ngừa những bài học trên tái diễn. Do đó bước đầu QH phải chứng minh bằng các dự án thí điểm với thành quả thực tế để thuyết phục dân cư và gầy dựng lại niềm tin trước khi tiến hành toàn bộ QH. Đầu tư vào năng lực cán bộ và gây dựng niềm tin dân hiện là những yếu tố then chốt còn thiếu vắng trong QH này.
Thật vậy, hiện tượng trái ngược với QH đang diễn ra ngay trên đồng bằng sông Cửu Long đã được báo Tuổi Trẻ báo động và lan tỏa trên mạng xã hội [5].
“Bây giờ sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL rất quái lạ: ngành thuỷ lợi lấy hàng ngàn tỷ đồng để ráng làm các cống đập ngăn mặn vùng ven biển để… trồng lúa dù nước ngọt rất khan hiếm. Trong khi vùng Đồng Tháp Mười, nước ngọt quanh năm thì nông dân đào ao, hút nước mặn dưới đất lên để… nuôi tôm!
Ngành nông nghiệp và tài nguyên môi trường chỉ biết lập biên bản và xử phạt, rồi cứ để tình trạng tiếp tục mở rộng thôi sao?”
Vẫn cứ nuôi tôm giữa vùng nước ngọt [5] (Hình: TuoiTre.vn)
Không chỉ thế thôi, theo báo Nông Nghiệp VN [6], hiện giờ dân đã rơi vào đáy thung lũng tuyệt vọng và cạn kiệt niềm tin, họ cào vét luôn lớp đất màu mỡ có trên ruộng đem bán đi [6] để sống tạm hiện tại, bất kể tuyệt lộ chờ họ ngay trước mắt.
“Sau khi thu hoạch lúa đông xuân, nhiều nông dân ở tỉnh Vĩnh Long thuê máy xới, máy cày cào xới lớp đất mặt ruộng lúa để bán. Ghi nhận của Báo NNVN, thực trạng này diễn ra ở nhiều nơi như: xã Song Phú, Phú Lộc, Mỹ Lộc huyện Tam Bình; xã Phú Đức, huyện Long Hồ và xã Mỹ An, huyện Mang Thít…
Những ngày này, phong trào diễn ra rầm rộ hơn cả. Chạy theo con đường từ Khu đô thị mới Song Phú (huyện Tam Bình) về chọ Cái Ngang (xã Mỹ Lộc) huyện Tam Bình sẽ thấy nhiều núi đất khổng lồ do người dân thuê máy cày, máy xới cào xới và xe tải chở từ ruộng vào chất đống dự trữ. Còn riêng tại xã Mỹ An trên đường tỉnh 909 cũng có việc nhiều người cặm cụi xúc từng cục đất bỏ vào bao, sau đó sẽ có xe chở thu gom về điểm tập kết ven lộ.”
Cạo vét lớp đất trên mặt ruộng bán để sống [6] (Hình: nongnghiep.vn)
Sau nửa thế kỷ qua người dân ĐBSCL đã gánh chịu những tệ hại từ các công trình cải tạo thủy lợi thành thủy hại, việc đóng cổng ngăn sông để ô nhiễm tích tụ không xử lý và xả nước thải vào dòng không kiểm soát đã để cho tài nguyên và môi sinh ngày càng suy thoái. Thậm chí trẻ con lớn lên không biết bơi vì nước sông hồ quá dơ bẩn và làm chúng ngứa ngáy. Niềm tin vào các quy hoạch không còn mà thay vào là nỗi ngờ vực và tương lai bấp bênh.
Tại sao người dân phải có những hành động thách thức luật pháp và tự sát như thế. Chỉ có thể hiểu người dân không tin vào QH, không tin khi phân vùng xong thì nguồn nước các nơi sẽ ngoan ngoãn ngọt mặn mà hiện ra theo. Chưa kể QH này khiến người dân phải đem cả sản nghiệp và mồ hôi của họ phiêu lưu vào một canh bạc chuyển đổi sinh kế làm họ có thể mất tất cả và thêm gánh nợ nần không vực lại được. Nếu chuyển ruộng thành ao mà không có nước lợ tôm họ sẽ chết, nếu đổi tôm trồng lúa mà thiếu nước ngọt lúa họ sẽ lép. Không thể kéo dài tệ trạng để việc trở thành khó vạn lần rồi đem giao cho dân liệu. Giải pháp và quy định có cả rừng, nhưng khi cán bộ muốn làm còn phải nhìn quanh vì “lòng còn ngại núi e sông.” Hậu thuẫn pháp luật và quyết tâm chính trị phải được cơ chế hóa cho cán bộ thi hành QH.
4. Quỹ Bảo Hiểm Mekong cho người dân
Sự e ngại của người dân cần phải giải tỏa bằng một khế ước bảo hiểm. Một Quỹ Bảo hiểm Mekong song hành với QH, bảo đảm lợi nhuận tối thiểu và đền bù 100% thiệt hại cả vốn lẫn nợ cho dân ở những vùng QH không thành, mà không phải qua thủ tục xin cho; ví dụ như phẩm chất nước không đúng và lượng nước không đủ cho họ canh tác vì đó không phải lỗi của họ.
Kết luận
ĐBSCL mênh mông vẫn có rất nhiều nước với rất nhiều công trình thủy lợi, nhưng dân vẫn khao khát nước sạch, chìm ngập trong nước bẩn, đói phù sa, thừa muối và khổ sở với ô nhiễm. Các chất thải lỏng, rắn và rác rưới sinh hoạt cứ thế cho xả hết vào nguồn nước không thể kiểm soát và xử lý. Không có một xã hội văn minh nào có thể để tệ trạng (iả đái vào miệng giếng) này kéo dài mãi như thế được. Do đó một QH ở tầm chiến lược quốc gia vô cùng khẩn thiết, không ai không ước mong QH này đạt mục đích đến thành công. Những phân tích khả thi và khả tín nêu ra trong bài không có gì vui nhưng bất cứ lo ngại nào nêu ra trên đây nếu không xảy ra hay giảm bớt tránh né được, người viết ước mong chúng sẽ biến thành những con tôm, hạt gạo hay bát nước trong lành giải khát cho con cháu mình và thế hệ tương lai.
California 17 tháng 3 2023.
Về tác giả:
KS Phạm Phan Long, P.E. Chairman, Viet Ecology Foundation Principal, Moraes/Pham and Associates, Carlsbad, California Principal, Advanced Technologies Consultants, Inc. Air Quality Engineer, South Coast Air Quality Management District, California Thiết kế hệ thống giải nhiệt cho dự án hạ tầng Thế kỷ GWR Advanced Water Treatment Plant Cố vấn trưởng dự án công nghệ cao cho ASML, Abbot Lab, Genentech, ST Microelectronics, Kaiser Permanente, Solar Turbines, Hughes Research Laboratory, OCWD, UCSD, IVC, RCC, SBC Colleges. Highest Value Saving Award, Hughes Aircraft Company Engineer of the Year, AIPE, San Diego, California Industrial Water Conservation Award, San Diego County Water Authority Facilities Management Excellence Award, AIPE,USA
LGT: Là người được sanh ra và lớn lên ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tôi đã chứng kiến những thay đổi quá lớn và có ảnh hưởng tiêu cực đến môi sinh của 17 triệu dân thuộc vùng đất này. Ngày xưa, trẻ con tắm sông là bình thuờng; còn ngày nay chẳng ai dám tắm sông. Ngày xưa, mỗi lần có khách đến nhà, chỉ cần ra sau vườn vài phút là có cá và rau đãi khách; nhưng ngày nay thì đó chỉ là kí ức. Vài tuần trước tôi có dịp về thăm nhà và thấy sự xuống cấp của môi trường sống trong vùng đáng báo động. Cái cống sông Cái Lớn – Cái Bé, được xem là ‘công trình thế kỉ’, chưa thấy tác động tích cực ở đâu, nhưng nó đã gây tác hại tiêu cực đến nhiều con sông trong tỉnh. Trong bối cảnh đó, tôi hân hạnh giới thiệu bài viết mới nhứt của Nhà văn, Bác sĩ Ngô Thế Vinh về tình hình cạn kiệt tài nguyên ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Là người trăn trở với vùng đất này, Bs Vinh đã viết nhiều bài và sách, và những dự báo ông đưa ra hơn 25 năm trước nay đã thành hiện thực. Bài viết có nhiều ý kiến chân tình nhưng có lẽ hơi khó nghe đối với vài người. NVT
_____
NỬA THẾ KỶ CẢI TẠO LÀM CẠN KIỆT TÀI NGUYÊN MỘT ĐBSCL ĐANG CHẾT DẦN
Gửi ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL
không được quyền có tiếng nói
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
NGÔ THẾ VINH
順天者存,逆天者亡
Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong
Thuận với thiên nhiên thì còn.
Nghịch với thiên nhiên thì mất. [Mạnh Tử]
“Kế hoạch phát triển nào cũng phải tính tới cái giá môi sinh phải trả – environmental costs – đối với sức khoẻ của người dân và cả trên nguồn tài nguyên lâu dài của đất nước.” Ngô Thế Vinh
Lời Dẫn Nhập:Trong lịch sử cận đại, kể từ sau 1975, cụm từ “cải tạo” của người Cộng Sản Việt Nam, trong mọi lãnh vực, hàm chứa một nội dung tồi tệ nhất, chỉ có ý nghĩa độc ác, tha hoá con người, huỷ hoại môi sinh, làm cạn kiệt mọi nguồn tài nguyên, và để lại một đất nước không có tương lai. Đây là bài thứ 2 viết về 48 năm cải tạo Đồng Bằng Sông Cửu Long của nhà nước CS Việt Nam đã và đang phá huỷ cả một vùng châu thổ phì nhiêu nhất Châu Á và cũng là của thế giới, và làm nghèo cả một đất nước ra sao.
BÀI HỌC VỠ LÒNG: DÒNG CHẢY SINH THÁI (1)
Câu nói dân gian của ông bà từ các thế hệ khai phá đất phương Nam đã trối trăng lại cho con cháu là làm gì thì làm, nhưng nhứt định không được “ngăn sông cấm chợ” vì nó trái với tinh thần tự do phóng khoáng của người dân ĐBSCL. [TS Dương Văn Ni, ĐH Cần Thơ].
Ngay cả với giới khoa học môi trường, khái niệm về “Dòng Chảy Sinh Thái” không mới.
Trước thập niên 1950s, hầu như mọi mối quan tâm đều tập trung vào khai thác tiềm năng nguồn nước từ các dòng sông để phát triển, dẫn tới việc xây dựng ồ ạt các đập thuỷ điện và đổi dòng những con sông lớn nhỏ trên khắp hành tinh này.
Sang đến thập niên 1970s, người ta mới bắt đầu nhận ra những hậu quả tác hại của những con đập trên các dòng sông do những bước phát triển không bền vững ấy – unsustainable development – đặc biệt là sự suy thoái phẩm chất nguồn nước và tác động tiêu cực tới hệ sinh thái nên đã quan tâm sửa chữa.
Tới thập niên 1990s, tầm quan trọng của chế độ thuỷ văn tự nhiên – dòng chảy (flow regime) rất được quan tâm, và được coi như một “chỉ dấu lành mạnh” của dòng sông với toàn thể hệ sinh thái nước ngọt (healthy freshwater ecosystems).
Tại những quốc gia tiên tiến, với sửa sai kịp thời, người ta đã đạt được một số cải thiện về phẩm chất nước, nhưng tính đa dạng sinh học của nguồn nước vẫn còn bị suy thoái. Vậy nguyên nhân chính của thiếu sót ấy là gì?Đó là: “dòng chảy – flow, được coi là biến số chủ yếu – master variable” ảnh hưởng trên mọi biến số khác như: phẩm chất nước, chu kỳ năng lượng (energy cycle), môi trường sống (physical habitat), và những ảnh hưởng tương tác sinh học (biotic intereactions) – để cùng điều hoà các hệ sinh thái nước ngọt (freshwater ecological systems). [Karr 1991, Poff et al 1997]. (1)
Hình 1:Dòng chảy sinh thái được hiểu như dòng chảy với lượng nước và phẩm chất nước của con sông chảy thông suốt qua thời gian. Sự đo lường này được căn cứ trên toàn thể lượng và phẩm chất của dòng chảy nhằm duy trì một hệ sinh thái nước ngọt thiết yếu cho sự sống và con người phụ thuộc vào. Dòng chảy sinh thái với 5 yếu tố cần được quan tâm: (1) Thuỷ học; (2) Sinh học; (3) Phẩm chất nước; (4) Liên hệ với đất đai; (5) Cấu trúc địa hình. https://www.alberta.ca/about-environmental-flows.aspx(1)
Người ta đã bắt đầu nêu ra tiêu chuẩn về dòng chảy tối thiểu (minimum flows) để làm loãng ô nhiễm (pollution dilution), giữ cho dòng sông ít bị tổn thương để bảo vệ sinh hoạt dân cư và các loài cá cùng những sinh vật sống dưới nước.
Nếu “biến số chủ yếu / master variable là dòng chảy” không được duy trì và chỉ điều chỉnh vài biến số khác là hoàn toàn không đủ để phục hồi một hệ sinh thái lành mạnh.
Những biến đổi do con người gây ra (anthropogenic alterations) trên “chế độ dòng chảy thiên nhiên” là nguyên nhân khủng khoảng tính đa dạng sinh học của hệ thống nước ngọt toàn cầu hiện nay, đó là: các cống ngăn chặn dòng chảy, các con đập, sự đổi dòng lấy nước, xả nước thải vào nguồn nước, khai thác đất đai và biến đổi khí hậu.
Duy trì dòng chảy sinh thái cần tới những phương thức nhất quán và giao thoa (interdisciplinary) với nhiều lãnh vực. Tổ chức Bảo Tồn Thiên Nhiên / The Nature Conservancy khuyên nên dùng một “khung bậc – hierarchical framework” để phát hiện mẫu của dòng chảy nhằm mau chóng áp dụng các biện pháp quản trị thích nghi (adaptive management of flow).(1)
Một cách khái quát, có thể định nghĩa Dòng Chảy Sinh Thái của sông Mekong-Cửu Long dài 4.800 km chảy qua 7 quốc gia (Tây Tạng được kể là một quốc gia ) như sau:
“Mekong – Cửu Long là mạch sống, để bảo vệ mạch sống ấy là duy trì một “dòng chảy sinh thái – environmental flow, cần thiết để bảo vệlưu vực như một toàn thể hệ sinh thái lành mạnh và bền vững”, cụ thể hơn là duy trì một chế độ dòng chảy với nguồn nước sạch với phù sa, nuôi dưỡng một hệ thủy sinh (tôm cá, rong tảo và các vi sinh vật) và một nền canh nông phong phú (lúa gạo, cây trái), đó là nguồn lương thực thiết yếu, và cũng là bảo vệ những nền văn hóa ven sông của 70 triệu dân đang sống trong lưu vực.”
CHUỖI ĐẬP THUỶ ĐIỆN THƯỢNG NGUỒN SÔNG MEKONG
Hẳn mọi người không quên, là tuy đã bước sang cuối thập niên thứ hai của Thế Kỷ 21 (2017), mà TS Phạm Tuấn Phan, sinh quán Hà Nội, có bằng tiến sĩ vật lý và điện toán Đại học Belarus thuộc khối Liên Xô cũ, nguyên Giám đốc Điều hành Ban Thư ký Uỷ hội Sông Mekong (CEO / MRC Secretariat) nhiệm kỳ 2016-2018,là người bản địa đầu tiên trong lưu vực được vinh dự đảm trách chức vụ quan trọng và danh giá này, mang hai căn cước: một công dân Việt Nam và một công dân Mekong.
Tại Diễn đàn Khu vực họp tại Luang Prabang ngày 22/02/2017, liên quan tới Dự án thuỷ điện Pak Beng 912 MW, con đập dòng chính (mainstream dam) thứ ba của Lào, khi trao đổi với nhóm nhà báo – trong đó có phóng viên môi sinh Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị, TS Phạm Tuấn Phan đã mạnh mẽ phát biểu: “Thuỷ điện không khiến dòng Sông Mekong sẽ chết. Tôi nghĩ chúng ta nên hiểu rõ điều này trước đã“. Chắc chắn ông Phan sẽ không nói câu đó nếu ông hiểu được một điều rất cơ bản: thế nào là “Dòng chảy Sinh Thái” để giữ cho con sông Mekong không chết. [Hình 2] Phát biểu của ông Phạm Tuấn Phan trong vai trò lãnh đạo Uỷ Hội Sông Mekong / Mekong River Commission, một tổ chức liên quốc gia [Lào, Thái Lan, Cambodia, Việt Nam] không những lỗi thời, thiếu cơ sở khoa học, đi ngược lại quan điểm của bao nhiêu tổ chức bảo vệ môi sinh quốc tế và ngay trong lưu vực sông Mekong từ nhiều năm nay. Quan điểm sai trái của TS Phạm Tuấn Phan đã gây tác hại cho nỗ lực bảo vệ sông Mekong bấy lâu và cả rất thiếu trách nhiệm với các cộng đồng cư dân ven sông, trong đó có ngót 20 triệu cư dân trên chính vùng đất mẹ của ông, nơi mà “những người nông dân ĐBSCL đang khốn đốn muốn chết“, và một số không ít – ngót 2 triệu người, đã rời bỏ quê hương đi tha phương cầu thực là điều rất dễ thấy.
Hình 2: phải, tại Diễn đàn Khu vực họp tại Luang Prabang ngày 22/02/2017 liên quan tới Dự án thuỷ điện Pak Beng – con đập thượng nguồn dòng chính thứ ba của Lào, khi trao đổi với nhóm nhà báo, trong đó có phóng viên môi sinh Lê Quỳnh (5), báo Người Đô Thị (người cầm máy ghi âm), ông Phạm Tuấn Phan Giám đốc Điều hành Ban Thư ký Uỷ hội sông Mekong đã mạnh mẽ phát biểu: “Thuỷ điện không khiến dòng sông Mekong sẽ chết. Tôi nghĩ chúng ta nên hiểu rõ điều này trước đã.” Chắc chắn ông Phạm Tuấn Phan sẽ không nói câu đó nếu ông hiểu thế nào là “Dòng chảy Sinh Thái” để giữ cho con sông Mekong không chết [Photo by Thiện Ý]; trái, phóng viên môi sinh Lê Quỳnh, trên khúc sông Mekong Bắc Lào. [nguồn: Earth Journalism Network, 2017]
Từ ngót ba thập niên qua, người viết và Nhóm Bạn Cửu Long (5) đã không ngừng lên tiếng về mối nguy cơ từ những con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam (Lancang-Mekong Cascades) của Trung Quốc, tiếp theo đó là chuỗi 9 con đập thuỷ điện dòng chính của Lào, rồi tới 2 dự án đập của Cambodia, tác hại trên toàn hệ sinh thái lưu vực Sông Mekong và ĐBSCL ra sao, như: làm nghẽn dòng chảy, mất lưu lượng nước, mất nguồn phù sa nơi các hồ chứa thượng nguồn, đã dẫn tới một tiến trình đảo ngược nơi ĐBSCL, thay vì được bồi đắp như bấy lâu thì nay đang dần dần tan rã, với các bờ sông và bờ biển bị sạt lở và mũi Cà Mau thì bị cắt lẹm mất đất 600 ha mỗi năm.
Kể từ ngày Ngoại trưởng nhà nước Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm phạm phải một sai lầm chiến lược khi đặt bút ký Hiệp định Uỷ hội sông Mekong / MRC / Mekong River Commission năm 1995 từ bỏ quyền phủ quyết [veto power] vốn đã có trong Hiệp ước Uỷ Ban Sông Mekong / Mekong River Committee từ năm 1957 thời Việt Nam Cộng Hoà.
Thực tế cho thấy trong ngót nửa thế kỷ qua, Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn, đã hoàn toàn bất lực, không những không làm gì được để ngăn chặn bất cứ một dự án thuỷ điện nào phía thượng lưu – mà còn phải kể thêm là chính các công ty quốc doanh Việt Nam – trên thực tế là các nhóm lợi ích, đã đồng loã góp tay góp vốn xây dựng một số đập thuỷ điện ở Lào và Cambodia, thúc đẩy thêm cho quá trình tự huỷ hoại ấy.
_ Tại Lào: Công ty quốc doanh Dầu khí Việt Nam (PVPC / PetroVietnam Power Co.) đã được chính nhà nước CS Việt Nam bật đèn xanh cho đem vốn sang làm chủ đầu tư cho con đập dòng chính Luang Prabang 1.460 MW lớn nhất trên lãnh thổ Lào, mà ai cũng biết con đập thượng nguồn ấy có tác dụng huỷ hoại mau chóng hơn cả một hệ sinh thái ĐBSCL vốn đã mong manh, với cái giá kinh tế và xã hội rất cao mà 20 triệu dân của 13 tỉnh Miền Tây sẽ phải gánh trả, với ảnh hưởng trực tiếp trên luống cày, trên từng ngụm nước uống, và cả trên chén cơm tô cá của họ. [KS Phạm Phan Long, Việt Ecology Foundation] (6) [Hình 3 a]
_ Tại Cambodia: Công ty Quốc doanh Điện Lực Việt Nam/ EVN (Electricity of Vietnam) đã góp 10% cổ phần trong số 816 triệu MK, để xây dựng con đập phụ lưu Hạ Sesan-2 (Lower Sesan 2) 400 MW lớn nhất của Cambodia, phần còn lại là của Nhóm Hoàng Gia Cam Bốt / Cambodia Royal Group và Công ty Năng lượng Lan Thương Trung Quốc/ Hydrolangcang International Energy Co., Ltd. Lại vẫn Trung Quốc, ngoài chuỗi đập bậc thềm Vân Nam, nay cánh tay TQ nối dài xuống xa tới cả những con đập phụ lưu hạ nguồn.[Hình 3 b]
Hình 3: Các công ty quốc doanh của nhà nước CSVN kết hợp với các nhóm lợi ích – bất kể đạo lý, đi tìm nguồn lợi nhuận bất cứ ở đâu – cho dù có hại cho đất nước mình ra sao. Trái, công ty quốc doanh Dầu khí PetroVietnam là chủ đầu tư con đập Luang Prabang 1.460 MW, con đập thuỷ điện dòng chính lớn nhất của Lào. (6)[nguồn: Michael Buckley]. Phải, công ty quốc doanh Điện lực Việt Nam / EVN góp vốn góp công vào dự án Hạ-Sesan-2 (LS2) 400 MW, đập thuỷ điện phụ lưu lớn nhất của Cambodia đã ảnh hưởng tác hại trực tiếp tới ĐBSCL, Việt Nam. [nguồn: Decarboni]
Câu hỏi được đặt ra là tại sao nhà nước CS Việt Nam không thể không biết nhưng họ vẫn coi nhẹ những tổn thất môi sinh và xã hội như thế.Câu trả lời rõ ràng: khi mà giới lãnh đạo Hà Nội có toàn quyền quyết định, lại được các nhóm lợi ích chia chác cho hưởng lợi, trong khi người dân không được phép có tiếng nói và phải gánh chịu mọi tổn thất và cả di luỵ cho các thế hệ tương lai.
Hình 4: Cảnh khô hạn nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long. Và mọi người vẫn không quên sự kiện đau lòng, vào cuối tháng 3 năm 2016, nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng đã phải vô vọng kêu cứu Trung Quốc xả nước từ đập thuỷ điện Cảnh Hồng / Jinghong Dam để cứu hạn cho ĐBSCL, nhưng vô ích và đó cũng chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. [nguồn: VNExpress 03.11.2016]
Trước nguy cơ: mất dòng chảy, mất nguồn nước ngọt, mất phù sa, và cả một vùng châu thổ phì nhiêu là ĐBSCL đang bị lún dần và chìm trong biển mặn, hậu duệ của những thế hệ dũng mãnh tiên phong khai phá trong cuộc Nam Tiến cách đây mới hơn ba trăm năm, nay đang bị tê liệt, không được quyền cất tiếng nói và phải tủi nhục chấp nhận lùi bước trước thảm hoạ có thể bị xoá đi cả một nền Văn Minh Miệt Vườn và trong một tương lai không xa, có thể vào thế kỷ tới nếu không có được một giải pháp cứu nguy tức thời. Rồi ra sẽ có những đợt tỵ nạn môi sinh (ecological refugees)lớn hơn, trên tầm vóc quốc gia,vào giữa thế kỷ 21 này.
LÃNH ĐẠO TỪ MIỀN BẮC
Cả ba miền Bắc Trung Nam đâu có thiếu nhân tài, nhưng do từ nhân cách và tính độc lập của họ, đã khiến những tài năng và nguồn chất xám ấy đã bị thể chế hy sinh một cách không thương tiếc.
Từ ngày Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn [NN & PTNT] được chính thức thành lập từ 1995, trải qua 4 đời Bộ trưởng đều có gốc gác từ Miền Bắc:
_ Nguyễn Công Tạn, Thái Bình, Bắc phần 1995-1997
_ Lê Huy Ngọ, Thanh Hoá, Bắc phần, 1997-2004
_ Cao Đức Phát, Nam Định, Bắc phần, 2004-2016
_ Nguyễn Xuân Cường, Hà Tây, Bắc phần, 2016-2021
Trong suốt khoảng thời gian đó, có thể nói ĐBSCL – một hệ sinh thái mong manh có thể ví như một cơ thể sống, đã bị các lãnh đạo từ ngoài Bắc vào không ngừng chặt chém bằng những con dao mổ trâu.
Chỉ mới đây thôi, từ tháng 4 năm 2021, lần đầu tiên Việt Nam có một Bộ Trưởng Bộ NN & PTNT gốc gác từ Miền Nam: ThS Lê Minh Hoan, tốt nghiệp ĐH Kiến Trúc – ông là đứa con thứ sáu, sinh ra và lớn lên trên vùng Đất Sen Đồng Tháp, nên ông còn có một tên gọi khác là Chú “Sáu Sen – Six Lotus”.Chưa bao giờ như lúc này, ĐBSCL cần tới một khuôn mặt lãnh đạo mới, với ý tưởng mới để kịp thời vực dậy cả một vùng châu thổ đang chết dần.
GS Võ Tòng Xuân là người vui mừng trước tin này. Trao đổi với phóng viên Dân Việt 08/04/2021, Doctor Rice VTX đã nhận định: “Tân Bộ trưởng Bộ NN & PTNT là người tài, nhiệt tình, có cái nhìn sâu rộng, đặc biệt là rất thành thạo về lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở vùng ĐBSCL”, và GS Võ Tòng Xuân đã hiến kế cho BT Lê Minh Hoan nên thành lập nhóm tư vấn riêng cho mình. “Nhóm tư vấn này là những người có chuyên môn, nhà khoa học, có nhiệm vụ hỗ trợ, nghiên cứu, kiến nghị các vấn đề có liên quan, giúp BT Bộ NN & PTNT có quyết sách chính xác, rõ ràng, cụ thể đưa ngành nông nghiệp Việt Nam ngày càng phát triển.” Nói về một nhóm tư vấn, thì nguồn chất xám ấy không ở đâu xa, người viết nghĩ ngay tới Nhóm Nghiên Cứu Đại Học Cần Thơ với công trình “Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thuỷ Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé (06/9/2018), bao gồm những tên tuổi rất quen thuộc từ Đại Học Cần Thơ: TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến Đổi Khí Hậu, ThS Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái, TS Dương Văn Ni, chuyên gia môi trường và tài nguyên thiên nhiên, TS Nguyễn Hồng Tín, Trưởng Bộ môn Hệ thống Nông nghiệp Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL; TS Đặng Kiều Nhân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL.(2)
Hình 5:Nhóm Nghiên Cứu Đại Học Cần Thơ với công trình “Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thuỷ Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé(06/9/2018), từ phải theo ngược kim đồng hồ: TS Lê Anh Tuấn, TS Đặng Kiều Nhân, ThS Nguyễn Hữu Thiện, anh Kiệt một nông dân vùng dự án CLCB, TS Dương Văn Ni, TS Nguyễn Hồng Tín. (2)
Họ là các nhà khoa học môi trường dày kinh nghiệm, đôi chân đã dính phèn, với nhiều năm trăn trở và lăn lộn với đồng bằng sông nước Cửu Long, và một số trong nhóm nghiên cứu này cũng đã tích cực tham gia vào bước hình thành Bản “Quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050”, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư / KH & ĐT chủ trì;(4) Công ty Royal Haskoning DHV đứng ra nghiên cứu và viết báo cáo; họ đã mời nhóm chuyên gia Hà Lan, Đức và Việt Nam cùng hợp tác. Do có quá nhiều vấn đề phức tạp, thời gian nghiên cứu Quy hoạch Tích hợp này đã kéo dài 3 năm. Theo TS Lê Anh Tuấn, người có tham gia trong nhóm nghiên cứu với chức danh là “chuyên gia môi trường và nông nghiệp”, “Tính thực tế và khả thi của báo cáo này – và cũng là nội dung NQ13/BCT hiện nay đang quá sớm để có được một đánh giá.” Và theo Luật Quy hoạch thì mỗi tỉnh ở ĐBSCL phải tự làm quy hoạch cho tỉnh mình trên cơ sở của Bản Quy hoạch Vùng ĐBSCL.
Phải đương đầu và giải quyết bao nhiêu hệ luỵ tồn tại từ sau 1975, đứa con Đồng Tháp Lê Minh Hoan có bản lãnh hay không là trong lúc này. Trước mắt, rất cần ông BT có chính kiến đánh giá khách quan và khoa học về các công trình cải tạo ĐBSCL bấy lâu trong 48 năm qua và gần đây nhất là Siêu Cống Cái Lớn.
MỘT CHUỖI CẢI TẠO THẤT BẠI: KHÔNG AI NHẬN TRÁCH NHIỆM
Những bước“cải tạo tự huỷ”của nhà nước CS Việt Namnơi ĐBSCL trong ngót nửa thế kỷ qua, với những công trình “nghịch thiên – chống lại thiên nhiên”, đã để lại những di luỵ tác hại nghiêm trọng và tích luỹ trên nguồn tài nguyên và sự sống còn của cả một vùng châu thổ phì nhiêu nhất Châu Á và cũng là kho lương thực của Việt Nam.
Có thể kể một số “công trình cải tạo ĐBSCL” từ sau 1975:
_ Xây chuỗi đê baochắn lũđể mở rộng khu làm lúa cao sản ba vụ,đãlàm mất 2 túi nước thiên nhiên khổng lồ, làkhuTứ Giác Long Xuyên vàvùng trũngĐồng Tháp Mười.
_ Xây trên sông những cống đập chắn mặn, ngăn chặn dòng chảy, phá vỡ nhịp đập thiên nhiên(Mekong Pulse) của toànhệ sinh thái ĐBSCL điển hình là 3 dự án lớn:(1). Ngọt hoá Bán Đảo Cà Mau,(2) Công trình Cống đập Ba Lai, và gần đây nhất là, (3) Cống Đập Cái Lớn Cái Bé được mệnh danh là Công trình của Thế Kỷ. [sic]
Ngọt Hoá Bán Đảo Cà Mau: Một chuỗi những hối tiếc
Ba công trình khủng gồm: Ô Môn – Xà No và Ngọt Hóa Bán đảo Cà Mau “với kinh phí tính bằng đơn vị hàng ngàn tỷ đồng cho đến nay kết quả được-mất của các dự án này cũng chưa hề được đánh giá” [TS Dương Văn Ni, ĐHCT]. Trong suốt giai đoạn 1990 đến năm 2000, hàng trăm cống đập, đê biển, đê sông ngăn mặn, giữ ngọt đã được rộng rãi đầu tư xây dựng. Theo tínhtoán – chỉ trên lý thuyết của ngành thủy lợi thuộc Bộ NN & PTNT [dưới thời 2 Bộ Trưởng Nguyễn Công Tạn, 1995-1997; Lê Huy Ngọ, 1997-2004], hệ thống đưa nước ngọt từ sông Hậu về Bán đảo Cà Mau để cung cấp nước tưới, chủ yếu trồng lúa, cho 70.000 ha đất của tỉnh Bạc Liêu, 50.000 ha đất của Cà Mau và 66.000 ha đất của Kiên Giang.
Hình 6a: trái, Bản đồ Quy hoạch thủy lợi vùng Nam Bán Đảo Cà Mau. Hình 6b: phải, Âu thuyền Tắc Thủ do Cty CP Tư vấn XD Thủy lợi II thiết kế và xây dựng từ 2001 tại ngã ba sông Ông Đốc – Cái Tàu – sông Trẹm, Cà Mau, với kinh phí gần 80 tỷ đồng nhưng sau khi hoàn thành năm 2006, đã chứng tỏ không những là vô dụng, mà còn gây thêm cản trở giao thông. [photo by Nguyễn Kiến Quốc] (2)
Hình 7:Ở những nơi dòng sông không chảy, ĐBSCL dày đặc ô nhiễm và sinh cảnh thì đang chết dần. [photo by Ngô Thế Vinh 12.2017]
Nhưng các dự án khủng ấy đã gây ra những hậu quả nhãn tiền là:
_ Về khía cạnh hệ sinh thái, do dòng chảy sông rạch thường xuyên bị ngăn chặn bởi các cống, nên sự kết nối hữu cơ giữa “hệ sinh thái sông và biển” với thủy triều từ biển hoàn toàn bị triệt tiêu trong thời gian cống bị đóng. Và khi mở cống, do ô nhiễm tích luỹ lại theo dòng nước lan toả huỷ diệt sinh cảnh và nguồn thuỷ sản nơi cửa sông và vùng cận duyên.
Phía trong cống không còn hiện tượng nước lớn, nước ròng mỗi ngày, hoặc nước rong nước kém cho chu kỳ rằm mỗi nửa tháng. Khi chưa có cống đập, thủy triều trong sông rạch vùng Bán đảo Cà Mau tuy không đều nhưng có khi biên độ cao đến gần 2 mét. Do các cống đóng suốt mùa khô, nên khúc sông bên trong trở thành hồ nước tù đọng khiến tình trạng ô nhiễm gia tăng trầm trọng. Rác rưởi từ nguồn phế thải gia cư, cộng thêm với các độc chất phục vụ trồng lúa như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân bón hoá học tràn xuống tích tụ dày đặc. [Hình 7]
_ Về khía cạnh công trình, do các cống ngăn mặn đã gây cản trở giao thông trên sông rạch nên phải tốn kém làm thêm những công trình khác như âu thuyền Tắc Thủ, được xây từ năm 2001 tại ngã ba sông Ông Đốc – Cái Tàu – sông Trẹm, thuộc hai huyện Thới Bình và U Minh, Cà Mau với kinh phí gần 80 tỷ đồng nữa. Công trình này do Cty CP Tư vấn XD Thủy lợi II thiết kế và xây dựng. Âu thuyền Tắc Thủ sau khi hoàn thành năm 2006, đã chứng tỏ không những là vô dụng, mà còn gây thêm cản trở giao thông. Cho đến nay, hầu như không ai chịu trách nhiệm về kế hoạch thất bại và đầu tư vô cùng lãng phí này.(2)
Hình 8:Người dân Bạc Liêu và rồi lan sang Cà Mau rủ nhau đi phá cống đập ngăn mặn. [nguồn: tư liệu VTV, Giữa đôi dòng mặn ngọt 1998] (2)
Kết quả là chỉ sau hơn 5 năm, công trình ngọt hóa Bán đảo Cà Mau đã bộc lộ những bất cập giữa lý thuyết và thực tế gây nhiều khó khăn cho đời sống cư dân trong vùng. Từ năm 1997-1998, đã có hàng trăm nông dân đòi phá các hệ thống cống đập này để lấy nước lợ vào nuôi tôm; tháng 7/1998 nông dân Bạc Liêu kéo nhau đi phá đập Láng Trâm và phong trào phá cống ngăn mặn lan sang tỉnh Cà Mau. [Hình 8]
Cuối cùng, sau năm 2000 Chính quyền phải nhượng bộ để cho các tỉnh trong vùng chuyển đổi 450.000 ha đất trồng lúa sang vùng nuôi tôm, cũng có nghĩa là hy vọng đưa vùng đất này trở về điểm xuất phát, trả lại hệ sinh thái tự nhiên của hai mùa mặn ngọt.
Không chỉ có vậy, ngoài sự lãng phí 1.400 tỷ đồng, Dự án Ngọt hoá Bán đảo Cà Mau, cho dù có sửa sai nhưng vẫn còn để lại những tổn thất về môi trường tự nhiên và nguồn tài nguyên nên càng làm cho đất nước nghèo thêm. Các mục tiêu chính của dự án Ngọt hóa Bán đảo Cà Mau gần như hoàn toàn thất bại.
(2) Cống Đập Ba Lai:Một hối tiếc lớn hơn nữa
Sau thất bại của các công trình “nghịch thiên” Ngọt Hoá Bán đảo Cà Mau, tưởng như đã là một bài học đắt giá, nhưng tiếp theo là công trình thuỷ lợi được coi là lớn nhất ĐBSCL: Cống đập Ba Lai, tại cửa sông Ba Lai, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre thêm “một bài học không học” phát xuất từ Bộ NN & PTNT thời Bộ trưởng Cao Đức Phát, 2004-2016.
Công trình chắn ngang cửa sông Ba Lai được khởi công tháng 02/2000, từ xã Thạnh Trị kéo sang xã Tân Xuân. Kinh phí ban đầu lên tới hơn 66 tỷ đồng VN. Trên lý thuyết – như từ bao giờ vẫn trên lý thuyết, cống đập Ba Lai có chức năng: ngăn mặn, giữ ngọt cho 115.000 hecta đất, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600 ngàn dân cư Thành phố Bến Tre và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành; cùng kết hợp với phát triển giao thông thuỷ bộ và cải tạo môi trường sinh thái vùng dự án. [sic]
Hai năm sau, từ tháng 04/2002 cống đập Ba Lai bắt đầu được đưa vào hoạt động, được vinh danh lúc đó là công trình thuỷ lợi lớn nhất ĐBSCL. Và từ đây, cửa sông Ba Lai, một trong 8 cửa của Cửu Long chính thức bị đóng lại. [Hình 9]
Hình 9: Cửu Long / Chín Cửa Hai Dòng; Sông Tiền 6 cửa: (1) cửa Tiểu, (2) cửa Đại, (3) cửa Ba Lai, (4) cửa Hàm Luông, (5) cửa Cổ Chiên, (6) cửa Cung Hầu. Sông Hậu 3 cửa: (7) cửa Định An, (8) cửa Ba Thắc (9) cửa Tranh Đề. Cửa Ba Thắc rất nhỏ đã bị thiên nhiên bồi lấp từ lâu; nay thêm cửa sông Ba Lai thì bị nhà nước CSVN xây đập chặn lấp 2002, khiến nay chỉ còn Thất Long / Bảy Cửa Hai Dòng. (2)
Hình 10: trái, Từ ngày có cống đập Ba Lai, cửa sông Ba Lai đã bị đóng lại. [Cửa Ba Thắc thì đã bị bồi lấp từ cả trăm năm nay], và Cửu Long Giang nay chỉ còn 7 nhánh: Thất Long; [photo by Lê Quỳnh]; phải, những giề lục bình phủ kín sông rạch do nước tù đọng phía trong các cống chắn khiến ghe tàu đi lại khó khăn, nhiều nơi người dân đã phải dùng thuốc diệt cỏ để khai quang lục bình nhằm tạo lối đi khiến nước sông lại càng thêm ô nhiễm. Lục bình còn ngăn cản ánh sáng và không khí rất cần thiết cho sự sống còn của các loài thuỷ sinh. [photo by Ngô Thế Vinh 12/2017]
Hình 11: Xây cống đập lớn đóng cửa sông, thay vì “ngọt hoá con sông Ba Lai” nhưng đã đưa toàn tỉnh Bến Tre tới tình trạng ngập mặn tệ hại hơn; trái, sáng ngày 10/01/2020, một buổi hội thảo Khoa học & Công nghệ Cấp Nhà Nước [sic] để giới thiệu túi nước ngọt có sức chứa từ 1 m3 tới 100 m3 do công ty nhựa Tân Đại Hưng sản xuất [SGGP Online 11/01/2020]; phải, để sống còn với hạn mặn bủa vây, người dân Bến Tre nay phải “mua nước ngọt” chứa trong những “túi nhựa đủ cỡ”. [báo điện tử Bộ TN & MT 12/01/2020]
Xây dựng cống đập Ba Lai không những đã rất tốn kém, nhưng khi phát hiện sai lầm thì việc phá bỏ, làm sạch môi trường còn bội phần tốn kém hơn và chuyển đổi sinh hoạt của cư dân cũng không phải là dễ dàng.
Cho tới nay, cống đập Ba Lai với chi phí hơn 66 tỷ đồng, đã vận hành được hơn 21 năm [2002-2023], hiệu quả công trình cống đập Ba Lai ấy ra sao? Những cống ngăn mặn Ba Lai đã không đạt mục đích vì còn chằng chịt những cửa sông kinh rạch khác không có cống ngăn đã tập hậu chuyển nước mặn vào bên trong hệ thống cống đập đã xây. Dự trù còn phải chi thêm 900 tỷ đồng nữa để “nạo vét bồi lấp” cho những hệ luỵ từ một công trình 66 tỷ gây ra? Liệu có ai can đảm đứng ra nhận trách nhiệm cho những thất bại thảm hại của dự án này?
Chúng ta hãy nghe một tiếng nói trầm tĩnh và trí tuệ của đứa con sinh ra và lớn lên từ ĐBSCL, TS Dương Văn Ni, chuyên gia về đa dạng sinh học Đại Học Cần Thơ: “Với giải pháp công trình, muốn xây cống đắp đê ở đâu cần hỏi dân. Quan điểm của tôi, ngân sách chưa nên đầu tư quá lớn cho việc đắp đập ở các cửa sông lớn vì hiệu quả đến đâu chưa đánh giá được, mà gây hại thì lại rõ như cống đập Ba Lai”. [Tạp chí Thuỷ sản Việt Nam].
Địa bàn môi trường không phải như một bàn cờ để dễ dàng xoá đi bày lại. Một câu hỏi được đặt ra: với những tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai — Bộ NN & PTNT, hay Bộ TN & MT/ Tài Nguyên Môi trường hay chính phủ trung ương hay Bộ Chính Trị sẽ nhận trách nhiệm với phong cách “đem con bỏ chợ” như hiện nay?
Cái Lớn Cái Bé: Thêm Một Sai Lầm Thế Kỷ
Với những công trình khủng trước đó gồm: Ngọt Hóa Bán đảo Cà Mau với kinh phí lên tới tính bằng đơn vị hàng ngàn tỷ đồng, rồi tới thất bại của cống đập Ba Lai cho đến nay kết quả được-mất của các dự án này cũng chưa hề được đánh giá cụ thể, thì chính phủ lại phê duyệt chủ trương đầu tư (498/QĐ/ TTg) một dự án khủng khiếp hơn tiếp theo là Dự án hệ thống thuỳ lợi Cái Lớn – Cái Bé ! Vì vậy, người dân không khỏi băn khoăn là liệu tiền của bỏ ra nhưng các khuyết điểm trong dự án trước đó có tiếp tục bị lặp lại? [TS Dương Văn Ni, ĐHCT].
Dự án Thủy lợi Cái LớnCái Bé (CLCB) liên quan tới lãnh đạo của một ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng (từ 2011 tới nay), hai ông Thủ tướng: Nguyễn Tấn Dũng (2006-2016), Nguyễn Xuân Phúc (2016-2021), và một ông Bộ trưởng NN & PTNT Nguyễn Xuân Cường, (2016-2021).
Dự án CLCB được đề xuất từ năm 2011 với mục tiêu trên lý thuyết là một công trình nhằm ứng phó với nước biển dâng và biến đổi khí hậu và cũng để duy trì đất trồng lúa bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu, theo quy hoạch thuỷ lợi tổng thể cho ĐBSCL đã được nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt ngày 19.04.2016.
Dự án Thủy lợi CLCB Giai đoạn 1 được nguyên TT Nguyễn Xuân Phúc* phê duyệt ngày 17.04.2017 dựa theo tờ trình của Bộ NN & PTNT. Toàn bộ công việc soạn thảo dự án, nghiên cứu khả thi cho đến lập báo cáo Đánh giá Tác động Môi trường (ĐTM) đều nằm trong một “chu trình khép kín” thuộc quyền kiểm soát của Bộ NN & PTNT mà không cho thấy có một tổ chức, cá nhân độc lập nào tham gia. Chủ đầu tư dự án là Ban Quản lý đầu tư và Xây dựng Thuỷ lợi 10 thuộc Bộ NN & PTNT. Từ đơn vị tư vấn lập báo cáo dự án là Liên danh Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam – Viện Quy hoạch Thuỷ lợi Miền Nam – Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Thuỷ lợi 2 rồi đến cơ quan lập báo cáo ĐTM là Viện Kỹ thuật Biển thuộc Quy hoạch Thuỷ lợi Việt Nam, tất cả đều là những đơn vị trực thuộc quản lý hành chính của Bộ NN & PTNT hoặc Bộ NN & PTNT có quyền ra chỉ đạo trực tiếp. Điều này có nghĩa các chuyên gia độc lập, tổ chức xã hội dân sự và cư dân không thực sự được tham vấn và có tiếng nói nào vào quyết định của dự án.
Hình 12:trái, bản báo cáoĐánh giá Tác Động Môi trường (ĐTM), Dự án Hệ thống thuỷ lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé; phải, vùng dự án CLCB (màu hồng) trong lưu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Theo báo cáo ĐTM thì mục tiêu (trên lý thuyết) của dự án Hệ Thống Thuỷ Lợi CLCB giai đoạn 1là: Kiểm soát mặn. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tạo nguồn nước ngọt. Tăng cường khả năng thoát lũ. Phát triển giao thông thủy, bộ trong vùng dự án. Với tổng vốn đầu tư cho dự án Giai đoạn 1 là 3.309,5 tỷ đồng (tương đương với 150 triệu MK).
Với một công trình xây dựng thuỷ lợi có thời gian vận hành tối thiểu 50 năm, có khi lâu hơn, nhưng đánh giá tác động môi trường (ĐTM) chỉ tập trung chủ yếu vào phân tích tác động của giai đoạn chuẩn bị và xây dựng dự án mà lại thiếu sót về tác động của việc vận hành hệ thống thuỷ lợi CLCB sau khi xây dựng xong.
Một điều đáng lưu ý là báo cáo ĐTM liên tục lặp đi lặp lại một ý quan trọng, được cho là ý kiến của 8 trên tổng số 39 UBND xã trong phần tham vấn cộng đồng: “đề nghị Chủ dự án thực hiện nghiêm túc biện pháp gây ô nhiễm.” [sic]
Với một báo cáo ĐTM còn nhiều thiếu sót như thế thì khôngthể quyết định gì cảđể khởi công một “Công trình Thế kỷ”, chống lại thiên nhiên, có khả năng huỷ hoại cả một hệ sinh thái mong manh của ĐBSCL, ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản xuất sinh kế của hàng triệu cư dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao nhiêu vấn đề kỹ thuật chưa có biện pháp giải quyết. Từ bài học thất bại của Công trình Ngọt hoá Bán đảo Cà Mau, tiếp theo là một thất bại khác của công trình Cống đậpChắn mặnBa Lai, và mới đây, là Công trình Thế Kỷ Siêu Cống Cái Lớn [Hình 13], đang gây ra những hậu quả nhãn tiền!Nhiều nhà khoa học và giới hoạt động môi trường đã không ngừng lên tiếng cảnh báo rằng: nếu không có một đánh giá môi trường chiến lược/ ĐTM [SEA / Strategic Environmental Assessment] cho toàn ĐBSCL mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình hình mặn-ngọt cho từng vùng, rồi lập ngay quy hoạch xây dựng một loạt hệ thống cống đập chỉ để ngăn mặn nơi các cửa sông lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái mong manh đã có đó từ ngàn năm và hậu quả sẽ khôn lường.
Hình 13: Từ dự án (trái) tới hiện thực (phải); ngày 5/03/2022, TT Phạm Minh Chính (kế nhiệm TT Nguyễn Xuân Phúc) cùng Bộ trưởng Bộ NN & PTNT Lê Minh Hoan (kế nhiệm BT Nguyễn Xuân Cường) cùng đến khánh thành công trình Siêu Cống Cái Lớn Cái Bé giai đoạn 1. Chỉ mới qua hơn một năm vận hành từ tháng 01/2022, “công trình thế kỷ và nghịch thiên” này đã bộc lộ những yếu kém, đang giết chết “Dòng Chảy Sinh Thái” của cả một hệ thống sông rạch, gây ra những tác động tiêu cực và ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống cư dân trong vùng. [nguồn: photo by TT Online 13/03/2022]
CẢI TẠO ĐBSCL VỚI NHỮNG SUY NGHĨ CHƯA TỚI
Chỉ mới đây thôi, tháng 9, 2022, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, là một “thuyền nhân miệt vườn”, hơn 40 năm sau, từ Sydney Úc Châu, sau chuyến đi thỉnh giảng tại Đại Học Cần Thơ, trở lại thăm Kiên Giang quê cũ – (thuộc khu Tứ Giác Long Xuyên gồm 3 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Cần Thơ), nơi ông đã sống suốt những năm niên thiếu, đã phát biểu cảm nghĩ như sau:
“Việt Nam có gì đáng ngạc nhiên? Nhiều lắm. Hiện tượng “triều cường” ngày nay không chỉ là đặc sản của Sài Gòn mà đã lan tràn sang Cần Thơ. So với 20 năm trước, đó là một ngạc nhiên đối với tôi. Nhưng với anh tài xế taxi thì ảnh không ngạc nhiên vì ảnh có cách giải thích. Anh ấy giải thích rằng vì mấy con rạch bị lấp và biến thành bất động sản, nhà cửa xây lên quá nhiều, không có quy hoạch nên dẫn đến tình trạng vừa lún vừa ngập nước triền miên.
Sông ngòi vùng quê ngày nay nó cứ lờ đờ, ô nhiễm. Nguyên nhân? Nông dân chỉ tay về cái cống khổng lồ ở sông Cái Lớn nó ngăn nước mặn, nhưng cũng làm thay đổi dòng chảy của tất cả các nhánh sông trong vùng. Con sông trước nhà tôi ở dưới quê bị ô nhiễm trầm trọng và khái niệm nước lớn nước ròng đang dần dần biến mất. Tôi tự hỏi tại sao mấy người chủ trương xây cái cống khổng lồ đó không tính toán lợi và hại trước, hay là họ có tính toán mà không đạt?Ai chịu trách nhiệm cho sự ảnh hưởng của cái cống đó đến hệ sinh thái và mùa vụ? Có vẻ chẳng ai chịu trách nhiệm.” [Nguyễn Văn Tuấn, Diễn Đàn Thế Kỷ, 30/09/2022]
Vẫn GS Nguyễn Văn Tuấn viết trên facebook: Cái siêu cống này đã gây ra nhiều tác hại. Nó được thiết kế để ngăn mặn, nhưng ngay cả người nuôi tôm cũng đau khổ vì nó. Còn nông dân thì khỏi nói, và cụ thể là quê tôi ở Kiên Giang. Nếu có dịp đi sâu vào các con rạch, các bạn sẽ thấy những cái máy bơm nước chạy suốt đêm. Để làm gì? Để bơm nước từ ruộng ra sông. Lý do gần là ruộng bị ngập nước. Lý do xa hơn là cái cống ở sông Cái Lớn. Cái cống này, sau khi xây xong và được coi là một công trình của thế kỷ, nó làm thay đổi dòng nước các con sông ở Kiên Giang. Thay đổi theo chiều hướng xấu hơn. Nước sông cứ lình bình, khái niệm nước lớn, nước ròng gần như không còn nữa. Nước tràn vào ruộng làm cho bà con vất vả kiểm soát nước nôi (vì nếu không thì lúa chết hết). Nói chuyện với dân địa phương mới biết là lúa chết đã xảy ra, nên nông dân phải dùng máy bơm nước từ ruộng đổ về sông. Một hậu quả khác của cái cống là tình trạng ô nhiễm ở các con sông đã trầm trọng thì giờ đây càng trầm trọng hơn. Cá tôm khó sống trong sông. Lục bình ‘trỗi dậy’ ở nhiều con rạch, đến nỗi ghe xuồng khó đi lại được. Trước khi xây cái cống này, chắc chắn người ta đã tính toán. Nhưng chẳng hiểu họ tính toán ra sao mà hậu quả như ngày nay. Tôi rất muốn xem cái báo cáo đánh giá môi trường để biết họ tính toán dựa vào giả định nào và phương pháp có đúng không. Cái cống gọi là “công trình thế kỷ” cần phải được đánh giá lại về lợi và hại. Nếu không có những đánh giá độc lập, với cái đà xây thêm những cái cống như vầy – CLCB giai đoạn 2 thì hậu quả sẽ còn nghiêm trọng hơn rất nhiều.”
Có thể tin được không, sau một năm vận hành Siêu cống Cái Lớn với những hệ luỵ sai sót, nhưng theo báo chí nhà nước thì vẫn rêu rao: “Lợi ích khủng từ “Siêu cống”[báo Lao Động 17/01/2022] và cả trên Wikipedia* của các nhóm lợi ích, thì vẫn “nói lấy được” là Dự án CLCB đã tuân theo tinh thần “Nghị quyết 120 của Chính Phủ” – nhưng thực tế là một phá sản đối với Nghị quyết 120 CP và rồi “sau khi hoàn thành thử nghiệm giai đoạn 1 thành công [sic] thì một số địa phương trong vùng tây sông Hậu đã có kiến nghị chính phủ cho triển khai tiếp giai đoạn 2 của dự án nhằm ngăn xâm nhập mặn cho vùng ĐBSCL” [sic]
_ [Ghi chú của người viết: Wikipedia* bấy lâu vẫn được coi như bộ bách khoa toàn thư mở, dễ tiếp cận, cung cấp nhiều thông tin hữu ích được sử dụng như nguồn tham khảo và cả trích dẫn, nhưng các bạn trẻ cần thận trọng, đã có không ít những thông tin sai lạc từ các trang Wikipedia này, vì đó là sản phẩm trí tuệ trá hình của bộ máy tuyên truyền hùng hậu của nhà nước CSVN muốn hướng dẫn dư luận quần chúng cả tin theo ý họ].
GS Nguyễn Văn Tuấn đưa ra một nhận định có tính báo động: “Tình trạng ô nhiễm nước, đất, không khí ở miệt quêđanglà nguyên nhân của sự gia tăng chóng mặt về các căn bệnh không lây như ung thư, phổi, tiểu đường, và tim mạch. Nếu không kiểm soát được vấn đề ô nhiễm môi trường, tôi e rằng ngót 20 triệu dân miền Tây sẽ đứng trước một đe doạ rất lớn về sức khỏe.”
Chỉ riêng câu hỏi này của GS Nguyễn Văn Tuấn, người viết muốn gửi tới ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng – người quyền lực nhất hiện nay, và ông Thủ tướng đương nhiệm Phạm Minh Chính, người kế thừa ông Nguyễn Xuân Phúc và trước đó là ông Nguyễn Tấn Dũng – để nhắc nhở với hai ông rằng:
… Giữa năm 2017, khi Dự án cống ngăn mặn Cái Lớn Cái Bé – được Bộ NN & PTNT dưới thời BT Nguyễn Xuân Cường đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi sôi nổi, nguyên do là đã có một chuỗi những thất bại của các công trình ngăn mặn trước đó – điển hình là sự thất bại toàn tập của cống đập ngăn mặn Ba Lai, tỉnh Bến Tre. Và gần như tuyệt đại đa số những tiếng nói trí tuệ độc lập từ các chuyên gia hàng đầu am hiểu hệ sinh thái ĐBSCLđều lên tiếng phản đối và can ngăn.
Nhưng khi, nguyênThủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đặt bút Nghị Quyết 120 NQ-CP vào tháng 11/2017, một nghị quyết“thuận thiên” được coi như bước ngoặt lịch sử của nông nghiệp ĐBSCL, nhưng rồi – như từ bao giờ, các nhóm lợi ích với thế lực rất mạnh, vẫn bám mục tiêuđòi hỏi phải xây dựng hệ thống thủy lợi quy mô lớn, như dự áncống đập ngăn mặnCái Lớn – Cái Bé (CLCB). Các nhóm lợi ích từ Nam ra Bắc luôn luôn có thế lực lũng đoạn chi phối mọi chính sách của nhà nước, nhữngdự án do họ đưa ra phải được duyệt và thông qua thì họ và cả giới chức tham nhũng trong chính phủ mới có ăn, mặc kệ hậu quả ra sao và nông dân trồng lúa cứ nghèo.[GS Võ Tòng Xuân]
Ông nguyên Thủ tướng, với bàn tay phải đặt bút ký nghị quyết Nghị Quyết 120 NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL, nhưng rồi cũng chính bàn tay trái của ông bật đèn xanh cho các nhóm lợi ích – có thế lực mạnh hơn, khởi công Dự án Cái Lớn Cái Bé, hơn 3 ngàn tỷ vẫn còn đầy rẫy những sai sót.(3)Thực chất Dự án CLCB là một phá sản của Nghị Quyết 120 NQ-CP, khiến nhà nghiên cứu môi trường độc lập Nguyễn Hữu Thiện đã phải thốt lên:Với dự án CLCB, Nghị Quyết 120 NQ-CPhoàn toàn rơi vào thế “thất thủ chiến lược”(3)
Ai cũng hiểu rằng, ngót nửa thế kỷ qua, những nghị quyết và những khẩu hiệu đến từ Bộ Chính Trị Ba Đình Hà Nội thì quá nhiều, nhưng khoảng cách giữa những Nghị Quyết và Thực Tế của đất nước trong 48 năm qua vẫn còn là cả một khoảng cách đại dương.
CHẤT XÁM VÀ TIẾNG NÓI BỊ LÃNG QUÊN
Đồng Bằng Sông Cửu Long, một vùng đất nước rất giàu tài nguyên, không hề thiếu chất xám và những tiếng nói trí tuệ. Nhưng do tính kiêu căng của đảng Cộng Sản cầm quyền, lại được kết nối với sự tham lam của các nhóm lợi ích, khiến nguồn chất xám ấy đã bị lãng phí và những tiếng nói trí tuệ độc lập ấy không những không được lắng nghe, mà còn cả bị đe doạ trấn áp. Người viết muốn nhắc tới một một “Think Tank của Đại Học Cần Thơ.”
Nhóm Nghiên CứuMekong Đại Học Cần Thơ(2), đã nêu rất rõ là:hệ thống các cống chặn mặn làm mất nguồn năng lượng dòng chảy nước ngọt từ phía thượng nguồn (mũi tên màu xanh) và năng lượng thuỷ triều đem dòng nước mặn từ biển vào (mũi tên màu đỏ) khiến môi trường tự nhiên của ĐBSCL không còn được tẩy rửa hàng ngày (con nước lớn- con nước ròng), hàng tháng (con nước rong- con nước kém), và hàng năm (mùa nước nổi- mùa nước cạn) như trước kia. Hệ quả là hàm lượng oxy hòa tan (DO) trong nước rất thấp khiến sông rạch mất cả khả năng tự làm sạch nguồn nước bằng cơ chế oxy hóa. [Hình 14]
Hình 14:Nhờ năng lượng dòng chảy nước ngọt từ phía thượng nguồn (mũi tên màu xanh) và năng lượng dòng nước mặn từ biển (mũi tên màu đỏ) mà môi trường tự nhiên của ĐBSCL được tẩy rửa hàng ngày (con nước lớn-ròng), hàng tháng (con nước rong-kém), và hàng năm (mùa nước nổi-cạn). Nguồn nước này cũng giúp cho nước chảy được trong các kênh rạch vì địa hình ĐBSCL quá bằng phẳng.(2)Những cống đập ngăn mặn của Bộ NN & PTNT đang “khai tử”dòng chảy và nhịp đập / Mekong Delta Pulse của hệ sinh thái ĐBSCL.[Nhóm Nghiên CứuMekong ĐạiHọc Cần Thơ] (2)
Triệt tiêu Dòng Chảy Sinh Thái, với hậu quả là: gia tăng ô nhiễm nguồn nước trong các sông rạch, nước đổi sang màu đen, bốc mùi hôi thối do các chất hữu cơ bị phân hủy; và nguồn nước trong các vùng thủy lợi hoàn toàn không còn sử dụng được cho mục đích ăn uống, kể cả sinh hoạt tắm giặt hàng ngày.
Người dân nay phải sống bằng nước ngọt bơm từ những giếng ngầm, nguồn nước ngầm này cũng ngày một cạn kiệt và hạ thấp; có nơi cư dân đã phải khoan đến độ sâu 80 – 120 mét để tới được nguồn nước ngọt. Nhu cầu khai thác các tầng nước ngầm để lấy nước ngọt quá lớn – mà nguồn nước ngầm ấy không phải là vô hạn — hiện có hơn 2 triệu giếng khoan lấy nước ngọt từ các tầng nước ngầm, đang làm gia tăng tốc độ sụt lún đất nơi ĐBSCL, có nơi nhanh gấp 10 lần hơn mực nước biển dâng.
Về khía cạnh tài nguyên, nguồn thủy sản cũng là nguồn chất đạm/ protein quan trọng trong mỗi bữa ăn với tô cá chén cơm của cư dân ĐBSCL bị sút giảm nghiêm trọng: các loài cá trắng của nước chảy có nguy cơ bị tiêu diệt do dòng sông bị chặn bởi các cống đập, chỉ còn lại các loài cá đen nước tù của ao hồ như cá lóc, cá trê, cá rô phi… Đây là hậu quả tất yếu khi mà hệ sinh thái sông ngòi (riverine environment) đã bị chuyển sang hệ sinh thái ao hồ (lacustrine environment) (Nguyễn Hữu Thiện, 2018).
Do môi trường nước cực kỳ ô nhiễm, lại thêm, lục bình phát triển tràn lan phủ kín cả mặt thoáng sông rạch khiến ghe tàu đi lại rất khó khăn nên nhiều nơi người dân đã phải phun thuốc diệt cỏ trên lớp lục bình nhằm khai quang thuỷ lộ khiến nước sông càng ô nhiễm thêm nữa; và do thiếu nguồn chất đạm từ tôm cá và các loài thuỷ sản khác đã ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng, trẻ em có nguy cơ bị suy dinh dưỡng. [Hình 10]
Các loại cây quen sống ở vùng nước lợ, điển hình như cây dừa nước, hư hại và chết do vùng nước lợ bị ngọt hoá. Nói chung, toàn thể tính đa dạng của hệ sinh thái khu vực quy hoạch bị xuống cấp và bị huỷ hoại nghiêm trọng.
Về phương diện xã hội, ở những nơi có cống đập ngăn chặn dòng chảy, việc canh tác trở nên khó khăn, chi phí cao mà lợi nhuận sút giảm, cộng thêm môi trường nước bị ô nhiễm, là một trong những lý do khiến tình trạng di dân – ecological migration ngày càng phổ biến và nhiều người đã bỏ đồng ruộng đi tìm kế mưu sinh ở các khu công nghiệp bên ngoài ĐBSCL hoặc trên thành phố. (2) Trong hai thập niên qua đã có ngót 2 triệu cư dân ĐBSCL phải rời bỏ quê hương vốn được coi là “vùng mật ngọt” với gạo trắng nước trong tôm cá đầy đồng thì nay phải ra đi tìm kế sinh nhai. Trong nghịch cảnh đó thì phụ nữ và trẻ em là bị nhiều tổn thương nhất.(2)
HƯỚNG TỚI NHỮNG BIỆN PHÁP PHI CÔNG TRÌNH
Trong 48 năm qua, nhiều công trình cải tạolớn đã được đem ra thử nghiệm trên khắp ĐBSCL như: đắp đê ngăn lũ, làm đê kè để giảm sóng hay chuyển hướng dòng chảy, xây dựng hàng loạt những cống chặn mặn… Có thể nói là các “chuyên gia quốc doanh” từ ngoài Bắc vào Nam không hiểu gì hệ sinh thái tinh vi của ĐBSCL, nên đã thô bạo dùng “dao mổ trâu” để thực hiện những cuộc giải phẫu thần kinh và đã để lại những hậu quả tác hại lâu dài, rất khó sửa chữa.
Trước những nan đề, “mặn ngọt, thay đổi khí hậu,sử dụng đất đai, nước biển dâng”, cũng như bao nhiêu khắc nghiệt của mẹ thiên nhiên từ thuở hoang sơ, bấy lâu con người đã biết thích nghi sống hài hoà với thiên nhiên, nếp sống ấy đã tạo ra một nền văn hoá sông nước. Giải pháp xây dựng những công trình thô bạo chống lại mẹ thiên nhiên vẫn là một chọn lựa thiếu khôn ngoan và là một đương đầu không cân sức, đã đến lúc các nhà khoa học môi trường thức thời đã đi tìm những “biện pháp phi công trình” chung sống và thích nghi với thiên nhiên là chủ yếu.
Thế nào là các biệnpháp thích nghi phi công trình/ non-structural adaptation measures: đó là không chọn xây những công trình lớn cố định vĩnh cửu để đối phó với một hệ sinh thái không ngừng biến động: tính cố định của các công trình đã chứng tỏ lỗi thời trong một môi trường sống không ngừng đổi thay.
Và trong suốt dòng lịch sử phát triển hơn 300 năm của ĐBSCL, người nông dân và ngư dân đã luôn luôn biết sống hoà hợp với thiên nhiên,biếtthích nghi để tồn tạimà không gây tổn hại cho môi trườngvà khôngvắt kiệt nguồn tài nguyên vốn không phải là vô hạn.
Những ví dụ: _ trước khi có nha khí tượng,người nông dân qua kinh nghiệm tích luỹ, đã biếtdự báo thời tiết, nắng mưa khá chính xác và hiệu quả.
_ chưa có nha địa chất, nhưng họ đã biết đánh giá các vùng thổ nhưỡng, để chọn đúng loại cây trồng, không chỉ có cây lúa, họ biết đa canh để giữ màu cho đất.
_ chưa có nha thuỷ văn, họ đã biết chọn giống, nuôi trồng thuỷ sản phù hợp sinh cảnh: mặn-ngọt-lợ theo vùng.
Với hiện trạng môi trường suy thoái trầm trọng như hiện nay – mà đa phần do chính con người gây ra, điều mà nhà nước cần quan tâm là:
_ giúp họ được sống trở lại với một môi trường không tù đọng không ô nhiễm đang đầu độc họ: mở cửa các cống đập cho các dòng sông được chảy.
_ với dòng chảy và thuỷ triều là những động lực làm thanh sạch và tẩy rửa môi trường bị tù đọng như hiện nay.
_ với các nhà máy xây dựng và hoạt động ven sông như nhà máy giấy Lee & Man, các nhà máy điện than đa phần từ TQ phải được giám sát chặt chẽ về xử lý ngay tại các nguồn xuất phát các nước thải và chất thải
_ nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ môi trường: tạo cho họ các tiện dụng gia cư tối thiểu như nhà vệ sinh, nơi thải rác thay vì đổ hết xuống sông rạch.
_ về tổng thể, nên có quy hoạch các khu cư dân hợp lý, thiết lập quỹ dự phòng như một hình thức bảo hiểm của nhà nước để tài trợ khi cư dân bị thiệt hại trong giai đoạn thay đổi khí hậu cực đoan như thời điểm 2016.
_ với một môi trường dần dà được tẩy rửa thanh sạch, nguồn nước lênh láng trở lại sử dụng được, giảm nhu cầu khai thác tầng nước ngầm, giảm độ sụt lún mười lần nhanh hơn nước biển dâng như hiện nay.
_ Ở một chừng mực nào đó, cần chủ động kiểm soát và cả chấp nhận phần nào tổn thất do biến đổi khí hậu nhưng phải biết nói không với những công trình tốn kém và mang tính tự huỷ hoại như hiện nay.
TS Lê Anh Tuấn, nguyên Phó Giám đốc Viện Biến đối Khí hậu ĐH Cần Thơ đã nói tới “Giải pháp phi công trình” trong sử dụng đất đai và khai thác tài nguyên ĐBSCL với nhấn mạnh là cần linh hoạt: đó là những “phương thức mềm” với chi phí rẻ, dễ thực hiện, thiên về bảo vệ duy trì, cải thiện môi trường, thuận thiên, bảo tồn tính đa dạng sinh học, với ý thức rằng phải cầnthời gian mới thấy hiệu quả của nó.
Một ví dụ: tìm ra các sinh kế phù hợp không gây tổn thương cho hệ sinh thái và điều kiện tự nhiên: ví dụ mùa mưa trồng lúa, mùa nắng nuôi tôm, nuôi cá nước mặn, nước lợ, tổ chức du lịch sinh thái – tìm hiểu văn hóa bản địa, phát triển khai thác, chế biến các lợi thế cây, con ở từng vùng miền (như trồng sen, chế biến sen, dệt lụa từ sợi sen, … hoặc một số loại cây ưu thế), phát triển nguồn năng lượng sạch (điện mặt trời, điện gió), dần dần thay thế cho nguồn nhiên liệu hoá thạch như than đá, dầu mỏ, làm tăng khí thải CO2 gây hiệu ứng nhà kính (green house effect) và cả gây thêm ô nhiễm…
Hình 15: một điển hình về đa dạng hoá sinh kế phát triển nông thôn “phi công trình” không gây tổn thương cho hệ sinh thái ĐBSCL. [nguồn: TS Lê Anh Tuấn, ĐH Cần Thơ]
Ưu tiên “phi công trình” không có nghĩa là bài bác mọi “công trình” mà cần có sự phối hợp hài hòa, chỉ xây dựng công trình khi nào thật sự cần thiết, nên bắt đầu các công trình nhỏ trước khi có những công trình lớn hơn.
TS Lê Anh Tuấn thuộc ĐH Cần Thơ đã chọnkhu vực lúa-sen-cá-du lịchsinh tháiở Đồng Tháp như một điển hình về giải pháp “phi công trình,“ với minh họa rất dễ hiểu với người nông dân.
VẪN NHỮNG DỰ ÁN SAI LẦM TỪ HỆ THỐNG
Suốt gần nửa thế kỷ – chính xác hơn là 48 năm sau 1975, như một chuỗi sai lầm từ hệ thống, nhà nước CSVN đã thiết lập vội vã nhiều dự án lớn – mà họ gọi là các “dự án trọng điểm” – rất tốn kém với tham vọng “cải tạo” ĐBSCL, mà đa phần là can thiệp rất thô bạo, gây tác hại trên một hệ sinh thái hết sức phức tạp và rất mong manh của cả một vùng châu thổ phì nhiêu của Châu Á.
Do tính cục bộ, chạy theo lợi nhuận, chỉ với những “nghiên cứu mệnh danh là khoa học” nhưng theo phong cách: làm nhanh ăn nhanh; mà ngôn từ rất thời thượng trong nước hiện nay là “tư duy theo nhiệm kỳ” – chủ yếu bị chi phối bởi các nhóm lợi ích các chủ đầu tư, rồi đem chính mạng sống và kế sinh nhai người dân ra đánh bạc, bất chấp ý kiến của họ, đồng thời trấn áp các phản biện – tiếng nói phản biện của các nhà khoa học còn có thể bị gán cho cái tội chết người là “phản động” lợi dụng tự do dân chủ, hoặc nhẹ hơn là vào tù với tội danh “trốn thuế” và nhà nước CS đã gạt bỏ mọi khuyến cáo của các chuyên gia kinh nghiệm có thẩm quyền.
Tuy với những đe doạ trấn áp như vậy, nhưng vẫn không thiếu những nhà hoạt động môi sinh độc lập can đảm và bền bỉ cất lên tiếng nói của lương tri. Họ hướng tới mục tiêu tối hậu là bảo vệ cả một vùng châu thổ với ngót 20 triệu cư dân, nhằm giảm thiểu những tác hại lâu dài trên nguồn tài nguyên của đất nước và của các thế hệ tương lai.
Nguyên lý bất di bất dịch là: Trước Hết là Không Gây Hại (Primum Non Nocere), vẫn cứ mãi là bài học vỡ lòng, là kim chỉ nam cho các bộ trưởng, vụ trưởng các ngành trước khi khởi công bất cứ một dự án nào trên ĐBSCL. Thế nhưng trong thực tế chưa có một chứng cớ nào cho thấy họ hành động theo nguyên lý căn bản trên.
BIÊN NIÊN SỬ: CÁC CÔNG TRÌNH NGHỊCH THIÊN
Có thể liệt kê ngay một số những dự án chính đã và đang gây tác hại và tổn thương lâu dài cho toàn hệ sinh thái ĐBSCL như:
_ Dự án đê bao chống lũ: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], với những đê bao ngăn lũ chỉ để có thêm đất làm lúa cao sản 3 vụ, vắt kiệt đất đai, lại không còn nguồn phù sa, nước thì tù đọng tích luỹ ô nhiễm đồng thời làm mấthai vùng trũng Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Xuyên như hai hồ dự trữ nước ngọt cho toàn ĐBSCL trong Mùa Khô, có tầm quan trọng chỉ đứng sau Biển Hồ – được ví như trái tim của hai vùng châu thổ Tonle Sap và ĐBSCL.
_ Dự án các cống đập chặn mặn: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], ngăn chặn dòng chảy tự nhiên biến những con sông lành mạnh thành ao hồ tù đọng, xoá đi một nền văn hoá nước lợ / brackish water và gây rối loạn dây chuyền trên toàn nhịp đập / Mekong Pulse của hệ sinh thái ĐBSCL.
_ Dự án 14 nhà máy nhiệt điện than: [Bộ Công Thương], biến ĐBSCL là bãi tiếp nhận các nhà máy nhiệt điện chạy than phế thải từ Trung Quốc với hậu quả tàn phá môi trường đất đai, nguồn nước và không khí, với sức khoẻ của người dân không hề được quan tâm tới nếu không muốn nói là bị hy sinh.
_ Dự án Nhà Máy Giấy Lee & Man: [Bộ Tài Nguyên & Môi Trường] gây ô nhiễm nghiêm trọng vì nguồn nước thải với đủ loại hoá chất cực độc nhưng vẫn được Bộ TàiNguyên& MôiTrường cấp phép cho xả thải ra sông Hậu đang giết chết dòng sông, rồi còn phải kể tới bụi khói độc hại, mùi hôi thối, tiếng ồn từ nhà máy ngày đêm bào mòn sức khoẻ của người dân.
_ Dự án Kênh Quan Chánh Bố: [Bộ Giao thông & Vận tải], với tốn kém hàng nhiều ngàn tỷ đồng chỉ để cho mấy tàu trọng tải lớn từ biển đi vào sông Hậu để tới giang cảng Cần Thơ gây bao khốn khổ cho người dân khi mà giá trị kinh tế của dự án kênh Quan Chánh Bố, cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời và vẫn đang gây rất nhiều tranh cãi gay gắt.
Một danh sách chưa đầy đủ, trong thực tế còn nhiều dự án cấp địa phương đã được triển khai nhưng thiếu những nghiên cứu cơ sở và không có đánh giá tác hại môi trường từ các chuyên gia độc lập.
Cũng GS Nguyễn Văn Tuấn, nhận định: “[…] còn quá sớm để quy những công trạng – nếu có – cho giới khoa học nhà nước. Tôi quan sát ở miền quê tôi thì thấy sự thật là những thành tựu về tăng năng suất trồng trọt và lúa là do người nông dân xoay xở. Nông dân tự thử nghiệm cho đến khi đạt được kết quả tốt (kiểu trial-and-error). Họ có thể không biết những nguyên tắc thí nghiệm hay ngẫu nhiên hoá, họ có thể không rành tính toán như các kỹ sư & tiến sĩ, nhưng qua trial-and-error, họ có thể lai giống và tạo giống mới, chế tạo máy gặt lúa, máy cấy lúa, máy hút lục bình, v.v... Giới khoa học chẳng giúp gì cho họ trong các sáng kiến đó. Người nông dân thiếu chữ để nói đó là công trạng của họ, và thay vào đó có những người mang mác ‘tiến sĩ’ giành công trạng cho mình. Ai cũng biết tác nhân làm nghèo làm khổ nông dân miền Tây là cái tập đoàn lương thực có tổng hành dinh nằm ngoài … Hà Nội.”
Ở Việt Nam, người ta có câu khuyên các nhà quản lý và khoa học quốc doanh: đừng làm gì hết, ngồi yên đó để dân nuôi, vì họ làm là hư hỏng.
Theo KS Phạm Phan Long, Việt Ecology Foundation, thì vấn nạn lớn trên toàn đồng bằng hiện nay là ô nhiễm nguồn nước chính vì các công trình thủy lợi hoạch định phi lý đã gây ra. Ô nhiễm phải được xem là vấn nạn lớn mà mọi công trình phải bảo đảm không cho xảy ra. Công trình Cái Lớn Cái Bé đã đẩy ĐBSCL lao sâu hơn vào ao tù thảm trạng ô nhiễm không khác những công trình “thuỷ hại” trước đây nhưng với một quy mô lớn hơn.
LỘ TRÌNH MỚI 2021-2030: QUY HOẠCH TÍCH HỢP
Quyết định số 1163 / QĐ-TTg ngày 31/7/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Nhiệm vụ lập quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050.
ThS Nguyễn Hữu Thiện, sinh ra (1968) và lớn lên ở một làng quê nông thôn sâu thuộc Hậu Giang, tốt nghiệp ngành thuỷ nông ĐH Cần Thơ, từ 1990 ở tuổi 22 đã là nhân viên đầu tiên của khu bảo tồn sếu đầu đỏ Tam Nông. Thông qua Hội Sếu Quốc tế (ICF / International Crane Foundation), năm 1992 ông giành được học bổng 4 năm của McArthur Foundation và tốt nghiệp MS về sinh học bảo tồn và phát triển bền vững tại ĐH Wisconsin-Madison, Hoa Kỳ năm 1996. Trở về Việt Nam, ông giảng dạy ngành sinh thái tại ĐH Cần Thơ trong 2 năm, sau đó đi làm việc cho các tổ chức quốc tế như Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN / International Union for Conservation of Nature), Quỹ Quốc tế về động vật hoang dã (WWF / World Wildlife Fund), Chương trình Đa dạng Sinh học Đất Ngập nước Mekong (MWBP /Mekong Wetlands Biodiversity Programme). Từ 2010, ông trở thành chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái ĐBSCL. Trong hơn 30 năm, Nguyễn Hữu Thiện đã cùng với các chuyên gia tâm huyết khác liên tục tham gia những công trình nghiên cứu sông Mekong và ĐBSCL.
Ông là người ủng hộ nhiệt thành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17 tháng 11 năm 2017 về phát triển ĐBSCL theo nguyên tắc “thuận thiên”, để phát triển bền vững và duy trì gía trị văn hoá sông nước của vùng ĐBSCL.
Từ 2018 đến 2022, ông làm chuyên gia cho Bộ Kế hoạch & Đầu tư, [với Bộ trưởng là Nguyễn Chí Dũng nhiệm kỳ từ 2016 tới nay], để hỗ trợ tư vấn quốc tế soạn thảo bản Quy hoạch Tích hợp ĐBSCL giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050. Bản quy hoạch này đã được Thủ tướng phê duyệt tháng 2/2022 và công bố tại Cần Thơ, và cũng là nội dung NQ13/TW của Bộ Chính Trị.
ThS Nguyễn Hữu Thiện cho rằng Quy hoạch Tích hợp lần này là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có được một bản quy hoạch tích hợp đa ngành cấp vùng, nhờ có Luật quy hoạch 2017. Trên lý thuyết nó cho phép đối xử với đồng bằng như là một cơ thể sống, thay vì cách quy hoạch đơn ngành, manh mún trước đây. Dù chưa thể gọi là hoàn hảo, nhưng nó cho thấy sự thay đổi lớn trong cách suy nghĩ ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững theo hướng thích ứng thay vì chống lại vắt kiệt thiên nhiên. Nó tạo ra một tiền lệ rất tốt cho những quy hoạch về sau. [hết trích dẫn]
MÔI SINH VÀ DÂN CHỦ
Đồng Bằng Sông Cửu Long bấy lâu phải hứng chịu rất nhiều tổn thương do nhiều nguyên nhân: mất dòng chảy sinh thái vì chuỗi đập thuỷ điện thượng nguồn, những kế hoạch phát triển không bền vững nếu không muốn nói là tự huỷ ngay tại ĐBSCL của Việt Nam, và cả do biến đổi khí hậu.
Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu, câu văn trong Quốc văn Giáo khoa đã sống trong tâm khảm tuổi trẻ Việt Nam qua nhiều thế hệ, thì nay trong thực tế sự không còn nữa, và cũng đừng tiếp tục gieo vào đầu óc trẻ thơ câu châm ngôn lỗi thời nếu không muốn nói là lừa dối ấy.
Kể từ sau 1975, đất nước “gọi là” thống nhất cũng là khởi đầu cho những khu rừng nguyên sinh bị tàn phá, đất đai (nhà máy bauxite), sông ngòi (nhà máy giấy sông Hậu), cả vùng duyên hải (nhà máy thép Formosa) cho thuê, khiến hệ sinh thái của cả nước bị suy thoái, đất bị sa mạc hoá, sông ngòi và biển bị nhiễm độc mất nguồn thuỷ sản, thiếu nước uống và cả cho tiện dụng gia cư.
Tài nguyên của đất nước đã bị đem bán rẻ, vì cái lợi trước mắt mà không tính tới cái giá môi sinh mà xã hội phải trả và người dân chỉ là thứ gia công, lắp ráp và làm thuê– và cả nguồn nhân lực bị tận cùng khai thác tới cạn kiệt.
Nhân danh “cải tạo”, nhà nước Cộng sản Việt Nam đã và đang chọn các bước đi liều lĩnh trên những tảng băng mỏng –walks on thin ice, với tiêu chuẩn nước đôi – double standards, chạy theo lợi nhuận với các phe nhóm lợi ích rất mạnh và người dân thì hoàn toàn không có quyền cất tiếng nói — họ là nạn nhân và là đầy tớ ngay trên mảnh đất của chính tổ tiên mình.
Với tầm nhìn của thiên niên kỷ, để phục hồi và duy trì một hệ sinh thái phong phú của hành tinh này, cũng là bảo vệ các nền văn minh rất đa dạng và lâu đời của con sông Mekong, thì không có mối lợi lộc ngắn hạn nào có thể vội vàng đem ra đánh đổi.
Từ năm 2000, người viết cũng đã đưa ra nhận định: “Và hiển nhiên không có giải pháp đơn lẻ cho vấn đề môi sinh mà phải là bước chuyển hóa cơ bản và đồng bộ của các hệ thống xã hội từ “Toàn Trị” tiến lên “Dân Chủ”. Có dân chủ là có cơ hội mở mang dân trí và chính cư dân sống hai bên bờ sông Mekong sẽ có ý thức và tiếng nói bảo vệ dòng sông như là mạch sống của chính họ.
Và rồi rangười dânsẽ có cơ hội đồng đều, có quyền được uống một ngụm nước sạch, được hít thở một bầu không khí trong lành và có tự do, những điều cơ bản đó chính là “nhân quyền” chỉ có thể có được trong một đất nước dân chủ.”Môi Sinh và Dân Chủ sẽ mãi mãi là một “Bộ Đôi Không Thể Tách Rời / Inseparable Duo.”Đây là một trận địa đấu tranh cam go mất còn, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác, giữa bộ đôi: “dân chủ và môi sinh” và phía kia là bộ đôi nguy hiểm / dangerous duo: “độc tài và tham nhũng.”
CHỮ TÂM VÀ TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ
Với cụm từ “trách nhiệm chính trị”, có thể nói đây là nét văn hoá mới 2023 trong lịch sử 97 năm của Đảng CSVN, qua việc từ chức của nhân vật số 2 là Chủ tịch nước ông Nguyễn Xuân Phúc.
Chỉ với hai vụ tham nhũng: bộ xét nghiệm Việt Á và tiếp theo là các chuyến bay giải cứu, người dân hiểu rõ rằng: thực chất đây chỉ là phần nổi rất nhỏ của một tảng băng chìm / tip of the iceberg. Vì còn phải kể bao nhiêu vụ tham ô tầy đình khác bị ém nhẹm trong suốt 48 năm qua thì sao?
Gần đây, qua live stream người dân Việt Nam mới được biết ông TBT Nguyễn Phú Trọng rất quan tâm về văn hoá, mê Ức Trai Thi Tập của Nguyễn Trãi và thuộc tác phẩm Kiều của thi hào Nguyễn Du. Một lần trước Quốc Hội, trong sự khiêm cung ông Trọng đã lẩy hai câu Kiều để nói về thân phận mỏng manh và tài năng hữu hạn của mình: Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, khuôn xanh biết có vuông tròn hay không.Rồi mới đây, trong một hoàn cảnh khác, cũng chính ông TBT, lẩy thêm hai câu Kiều khác: Có tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần. Và cảm động hơn nữa, khi lần đầu tiên một người Cộng Sản thuần thành như ông TBT đã hai lần nhắc tới chữ “tâm” trong truyện Kiều:Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài… Cũng mấy câu thơ ấy của Tố Như, nhưng nếu thay một chữ “tài” bằng chữ “quyền” thì sẽ rất trọn nghĩa.
Ông TBT Nguyễn Phú Trọng sinh năm 1944, đã qua cái tuổi xưa nay là hiếm. Và cũng khởi đi từ “chữ tâm của Nguyễn Du”mà ông TBT nhắc đến, như từ một mẫu số chung về văn hoá, “người dân” có đôi điều muốn được trao đổi với ông:
_ Trên phạm vi ĐBSCL, với bao nhiêu những sai sót trong suốt 48 năm qua với các “công trình cải tạo trọng điểm”, mà cho tới nay không một ai nhận trách nhiệm, đề nghị với ông TBT cho lập ngay một “Toán Đặc Nhiệm – Task Force” gồm những nhà khoa học và chuyên gia môi trường độc lập, xét duyệt lại toàn bộ các công trình cải tạo đã được các bộ, các cơ quan thực hiện trong ngót nửa thế kỷ qua, với cả đánh giá những thành quả nếu có [?] để vinh danh và với một chuỗi những sai sót thì trách nhiệm về ai? Có những bài học nào được rút ra từ những bước sai sót vô cùng đắt giá ấy?
Mới đây với kết quả từ một công trình nghiên cứu của một công ty Hà Lan, một “Quy Hoạch Tích Hợp” đã hình thành cho giai đoạn 2021- 2030 với tầm nhìn tới 2050 đã được đưa vào Nghị Quyết 13-NQ/TW của Bộ Chính Trị mà ông TBT đã đọc trước Quốc hội ngày 22/04/2022, mở ra một “lộ trình / roadmap” cho tương lai phát triển ĐBSCL.
Từ “Khả năng tới hiện thực”, lộ trình ấy là một chặng đường dài. Sự thành công cần tới hai yếu tố: (1) Một cải thiện về thể chế, (2) Một nguồn nhân lực có trình độ. Nếu không, thì cho dù một “quy hoạch tích hợp” có hay tới đâu thì rồi ra cũng chỉ là những khẩu hiệu.
_ Trên quy mô của cả nước, cũng với chữ “tâm” của thi hào Nguyễn Du, có bao giờ ông TBT nghĩ rằng đã quá đủ với 93 năm lịch sử ĐCSVN và với 48 năm Đảng CSVN độc quyền sở hữu cai trị đất nước này, với một đội ngũ đảng viên rất nhiều quyền nhưng lại thiếu chữ tâm, thì “trách nhiệm chính trị” hay đúng hơn “trách nhiệm lịch sử” của ông TBT Nguyễn Phú Trọng bây giờ là rất lớn – và không phải là quá sớm để ông TBT và Bộ Chính Trị có đủ can đảm để khơi mào một “cuộc cách mạng xanh – green revolution” không đổ máu, với từng bước thực hiện tiến trình dân chủ hoá đất nước, từ hạ tầng cơ sở lên tới trung ương, để từng bước trả lại cho người dân quyền làm chủ đất nước – như bước chuyển tiếp tất yếu của lịch sử, và trên dòng luân lưu của lịch sử như một “dòng chảy sinh thái” không hề có “đập chắn.”
NGÔ THẾ VINH
California, Tết Quý Mão 22/01/2023
Tham khảo:
1/ The Nature Conservancy. Environmental Flows Concepts.
2/ Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thuỷ Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé Nhóm nghiên cứu:Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Thiện, Dương Văn Ni, Nguyễn Hồng Tín, Đặng Kiều Nhân. (Bản thảo ngày 06/9/2018)
3/ Nói không với dự án Cái Lớn – Cái Bé. Đi tìm các giải pháp phi công trình cho ĐBSCL. Ngô Thế Vinh. Viet Ecology Foundation 03.10.2018
4/ Quy hoạch vùng ĐBSCL, Thời kỳ 2021-2030, Tầm nhìn đến năm 2050. Báo cáo Quy hoạch. Quyển 1-2, 631 trang. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tháng 12/2021
5/ Vũ khí giải cứu sông Mekong Chất xám và tiếng nói. Lê Quỳnh phỏng vấn Bs Ngô Thế Vinh. Báo Người Đô Thị, Saigon 25/04/2016
6/ Thư gửi 92 Đại Biểu Quốc Hội 13 tỉnh Miền Tây. Thuỷ điện Luang Prabang thêm một thảm học môi sinh cho ĐBSCL và Lưu Vực. Ngô Thế Vinh. VEF, Jan 14, 2020.
BS Ngô Thế Vinh: tốt nghiệp YKSG, chủ bút báo SV Tình thương, y sĩ Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, BS thường trú các bệnh viện đại học New York, BS điều trị và giảng huấn tại một bệnh viện Nam California. Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng là một dữ kiện tiểu thuyết liên quan tới môi sinh và phát triển lưu vực sông Mekong và ĐBSCL. Nối tiếp là ký sự Mekong Dòng sông Nghẽn Mạch, với bản Anh ngữ đã thu hút sự quan tâm của giới khoa học, và các nhà hoạt động môi trường thế giới. Gần 30 năm tâm huyết với các vấn đề Sông Mekong và ĐBSCL, BS Ngô Thế Vinh không chỉ là một nhà văn, ông còn là một nhà hoạt động môi trường bền bỉ. Ông đã có những chuyến đi dọc dòng Mekong dài 4.800km, từ thượng nguồn đổ xuống Biển Đông. Bài viết đề cập tới các vấn đề nóng bỏng hiện nay trên dòng Mekong và ĐBSCL. [Tác giả 2002 bên chân con đập Mạn Loan, là đập thuỷ điện dòng chính đầu tiên trên sông Lancang-Mekong, Vân Nam TQ].
LGT: Ngày 22/3 hàng năm được Liên Hợp Quốc qui định là Ngày Nước Thế Giới (World Water Day) nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của nước — không chỉ trong sự sống — mà còn liên quan đến văn hóa. Chúng ta là dân tộc thuộc văn hóa sông nước. Văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một ca tiêu biểu của văn hóa sông nước. Sống trong môi trường sông nước có khi chúng ta không thấy nước là quan trọng. Nhưng mấy năm gần đây, cư dân ở ĐBSCL bắt đầu nhận ra rằng hình như khu vực đồng bằng này có vấn đề về nước. Nhận ra như vậy, nhưng ít người dân biết được cội nguồn của tình trạng thiếu nước (và xâm nhập mặn) từ đâu. Bài viết dưới đây của Bs Ngô Thế Vinh sẽ giải thích tại sao, và có lẽ chúng ta sẽ không ngạc nhiên về thủ phạm: các con đập ở thượng nguồn thuộc Tàu. Có lẽ sau khi đọc xong bài này, một vài người lại than rằng cách nhìn của Bs Ngô Thế Vinh là ‘cực đoan’, nhưng sự thật thì vẫn là sự thật: Những con đập của Tàu là nguyên nhân số 1 làm cho người dân ĐBSCL khốn đốn. NVT
****
Water, water, everywhere, Nor any drop to drink Nước, nước, khắp nơi, Không có giọt nước uống [Samuel Taylor Coleridge 1772-1834]
Gửi 20 triệu cư dân ĐBSCL Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
HẠN MẶN VÀ Ô NHIỄM 13 TỈNH MIỀN TÂY Trên một chuyến phà lớn từ Đại Ngãi qua Cù lao Dung, sóng đánh tung toé, khách như cảm thấy được vị mặn bám đọng trên môi. Thấy nước khắp nơi nhưng là nước mặn đã xâm nhập vào khắp các ngả sông rạch và người dân thì đang lao đao lùng kiếm tìm mua từng lu nước ngọt để uống. Rồi còn phải kể tới những cánh đồng lúa cháy và các vườn cây trái thối rễ do đất bị nhiễm mặn khiến nhiều nông gia mất trắng tay.
Người bạn đồng hành đứng bên, anh dạy Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên Đại học Cần Thơ, nói với tôi: “Kể cả có lũ ngọt đổ về, nước hết mặn cũng không uống được vì dòng sông quá ô nhiễm”. Do chất thải kỹ nghệ từ các nhà máy ven sông, do phân bón hoá học từ đồng ruộng tràn ra, và tệ hại hơn nữa là rác rưởi từ các khu gia cư.
Đó là tình cảnh của ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL, phải sống chung với những dòng sông ô nhiễm, và nay họ đang nhận thêm được những tín hiệu báo nguy về hạn mặn sẽ trầm trọng hơn năm 2016 và tới sớm hơn ngay từ hai tháng đầu năm 2020. Do đó, cho dù có thấy “nước, nước, khắp mọi nơi, vậy mà không có giọt nào để uống”. Cho dù ĐBSCL vẫn là nơi nhận nguồn nước cao nhất Việt Nam tính theo dân số. Tuy nước vây bủa xung quanh nhưng là nước bẩn hay nước mặn. Thách đố lớn nhất là làm sao thanh lọc được nguồn nước tạp ấy để có nước sạch đưa vào sử dụng.
Với tầm nhìnqua lăng kính vệ tinh và biến đổi khí hậu, vùng châu thổ Mekong là hình ảnh khúc phim quay chậm / slow motion của một con tàu đang đắm. Một cái chết rất chậm nhưng chắc chắn của một dòng sông Mekong dũng mãnh – lớn thứ 11 trên thế giới với hệ sinh thái phong phú chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon và cả một vùng châu thổ ĐBSCL đang từ từ bị nhấn chìm.
NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI 2020 Không thể tách rời vấn đề Nước vàBiến đổi Khí hậu toàn cầu. Đó cũng là quan điểm của Liên Hiệp Quốc, khi chọn chủ đề “Nước và Biến đổi Khí hậu” cho Ngày Nước Thế giới 22/ 03/ 2020 năm nay. Trước những tình huống cực đoan và biến đổi bất thường về khí hậu có thể làm gia tăng biến thiên chu kỳ nước – water cycle, khiến rất khó mà tiên đoán được về nguồn nước có thể sử dụng – water availability, với những ảnh hưởng trên phẩm chất nước, cả trên tính đa dạng sinh học / biodiversity, và đe doạ sự phát triển bền vững trên nhiều lưu vực của các con sông.
Dân số toàn cầu từ 7.2 tỷ năm 2015 đến nay 2020 – theo số liệu của Liên Hiệp Quốc, đã vượt qua con số 7.7 tỷ người. Tăng dân số cũng có nghĩa là gia tăng nhu cầu nước, kéo theo gia tăng nhu cầu năng lượng để bơm nước, vận chuyển và xử lý nước – water treatment. Tận dụng nguồn nước cũng dẫn tới sự suy thoái các hồ chứa carbon thiên nhiên – carbon sinks từ các vùng đất đầm lầy.
Tăng cường mối quan tâm về nước để đáp ứng nhu cầu nước ngày một gia tăng trong tương lai; điều ấy đòi hỏi phải có những quyết định mạnh mẽ, làm cách nào để phân chia các nguồn tài nguyên nước – allocate water resources, thích nghi với biến đổi khí hậu giữa những tranh chấp sử dụng nguồn nước giữa các địa phương và các quốc gia.
Một ví dụ điển hình: con sông Mekong dài hơn 4800 km chảy qua 7 quốc gia [Tây Tạng*, Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam] giữa mùa khô hạn, đang bị tận lực khai thác bởi chuỗi những con đập thủy điện thượng nguồn, và làm cách nào để chia sẻ và sử dụng công bằng nguồn nước từ con sông Mekong đang là một “tranh chấp nóng” diễn ra hiện nay. Khi mà Cambodia và Việt Nam là hai quốc gia cuối nguồn đang chịu những hậu quả tích luỹ nặng nề nhất: một Biển Hồ như trái tim của Cambodia đang thiếu nước, một ĐBSCL chịu hạn mặn chưa bao giờ khốc liệt như thế. Chưa kể tới khả năng nước lớn Trung Quốc sử dụng con sông Lancang-Mekong như một thứ vũ khí trong cuộc chiến tranh môi sinh – ecological warfare trừng phạt Việt Nam và các nước hạ lưu khác.
[* Tây Tạng nơi phát nguồn con sông Mekong, về phương diện địa dư chính trị, bấy lâu người viết vẫn ghi nhận như một quốc gia cho dù đang bị Trung Quốc xâm chiếm.] Chính sách đối phó với biến đổi khí hậu không chỉ trên quy mô quốc gia mà cho toàn lưu vực với mọi hoạch định cần theo một phương cách tích hợp – integrated approach, đối với nhu cầu sử dụng và quản lý nguồn nước.
Để phát triển và xây dựng một tương lai bền vững, cách làm ăn cũ bấy lâu với những quy hoạch thuỷ lợi không hiệu quả; do đó từ nay mọi phương cách quản lý nước cần được phân tích kỹ lưỡng qua lăng kính biến đổi khí hậu – through a climate change lens. Chúng ta cần đầu tư nhiều hơn nữa để cải tiến và cập nhật những dữ liệu thuỷ học – hydrological data, qua các học viện, qua các chính phủ, qua giáo dục, cùng nhau chia sẻ mọi kiến thức, để có được khả năng tiên lượng và đối phó với những rủi ro khan hiếm nước như hiện nay và chắc chắn sẽ trầm trọng hơn nhiều trong tương lai.
Mọi chính sách cần bảo đảm tính đại diện rộng rãi các thành phần tham gia, với thay đổi tác phong ứng xử, tạo được sự tin cậy giữa nhà nước, các tổ chức xã hội dân sự và lãnh vực tư nhân. Những kế hoạch thích ứng cần có chiến lược nêu rõ mục tiêu – targeted strategies, ưu tiên trợ giúp các cộng đồng cư dân lợi tức thấp – họ là nhóm người chịu tác động, dễ bị tổn thương và thiệt hại nhiều nhất do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. (1) GIỚI THIỆU DRAGON MEKONG DRAGON là chữ viết tắt của Delta* ResearchAnd Global Observation Network / Mạng lưới Nghiên cứu Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu. DRAGON nhằm mục đích thiết lập một hệ thống thông tin toàn cầu, tăng cường quan hệ hợp tác và cùng chia sẻ kinh nghiệm lâu dài giữa các vùng châu thổ trên thế giới.
[Ghi chú: Delta* thay vì quen gọi là đồng bằng, nay được gọi là châu thổ do được hình thành từ phù sa của các con sông bồi đắp.] Ủy ban Liên Chính Phủ về Biến đổi Khí hậu /Intergovernmental Panel on Climate Change (IPCC)do Tổ chức Khí tượng Thế giới (World Meteorological) và Chương trình Môi sinh Liên Hiệp Quốc (United Nations Environment Programme), bao gồm 195 quốc gia thành viên. Theo IPCC hiện có khoảng 300 triệu cư dân sống trong 40 vùng châu thổ / Deltas trên toàn cầu. Các vùng châu thổ là nơi được phù sa các con sông bồi đắp và IPCC đã đưa ra nhận định: “Những vùng châu thổ đó rất dễ bị tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu, do nước biển dâng, do biến đổi dòng chảy, đồng thời với những chấn động qua quá trình sử dụng đất đai, do chính con người gây ra trong lưu vực / catchment area.” Từ năm 2007, IPCC đưa ra cảnh báo thêm: 13 vùng châu thổ lớn trên thế giới sẽ bị ảnh hưởng do hậu quả của Biến đổi Khí hậu và nước biển dâng, trong đó có hai vùngchâu thổ sông Mekong Việt Nam và châu thổ sông Mississippi Hoa Kỳ được xếp là vùngdễ bị tổn thương ở mức độ rất cao. Do tính tương đồng và tầm quan trọng về an ninh lương thực, kinh tế, xã hội và văn hóa của hai vùng châu thổ Mekong và Mississippi, ngày 21 tháng 11 năm 2008, Đại học Cần Thơ kết hợp với Cơ Quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ – US Geographical Survey (USGS) và Trung tâm nghiên cứu Đất ngập nước quốc gia – National Wetlands Research Center Hoa Kỳ (NWRC) đã tổ chức lễ thành lập Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu Mekong với tên viết tắt tiếng Anh là DRAGON InstituteMekong, thuộc Mạng DRAGON toàn cầu, có cơ sở tại Đại học Cần Thơ, ĐBSCL. (4)
Hình 1_ Logo Viện Nghiên Cứu Biến Đổi Khí Hậu Mekong – Đại học Cần Thơ. DRAGON là chữ viết tắt của Delta Research And Global Observation Network – Mạng lưới Nghiên cứu Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu, được thiết lập từ 2008, đến nay là 12 năm, có thể xem như một Viện Nghiên cứu của Đại học Cần Thơ. (4)
Hình 2_ Đoàn khảo sát môi sinh ĐBSCL chụp hình trước cơ sở đầu tiên của Viện Nghiên Cứu Biến đổi Khí hậu/ DRAGON – Mekong Institute, từ trái: TS Dương Văn Ni (Khoa Môi trường vàTài Nguyên Thiên nhiên ĐHCT), TS Lê Phát Quới (Viện Tài Nguyên Môi Trường ĐHQG Tp. HCM), Ngô Thế Vinh, TS Lê Anh Tuấn (Viện Nghiên cứu Biến Đổi Khí hậu ĐHCT), KS Phạm Phan Long (Hội Sinh Thái Việt), Th.S Nguyễn Hữu Thiện (Chuyên gia Đất Ngập nước / Wetlands), BS Nguyễn Văn Hưng. [tư liệu Ngô Thế Vinh 2017] Xem ra, ngoài nét tương đồng giữa 2 vùng: châu thổ Louisiana sông Mississippi – Vịnh Mexico và châu thổ Mekong sông Mekong – Biển Đông trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, thì riêng ĐBSCL hiện đang phải đương đầu với những thử thách khó khăn hơn nhiều. Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây sự khác biệt quan trọng giữa hai dòng sông: (1) Độ dốc thượng nguồn sông Mekong cao hơn gấp 12 lần sông Mississippi, nên có một tiềm năng thuỷ điện vô cùng hấp dẫn mà sông Mississippi không có được; (2) Với 40 con đập cũ trên sông Mississippi phần lớn được xây từ thập niên 1930, không sao có thể sánh được với chuỗi đập khổng lồ trên sông Lancang-Mekong Vân Nam và các con đập dòng chính ở Lào; (3) Sông Mississippi chỉ chảy trong lãnh thổ Hoa Kỳ, trong khi sông Mekong chảy qua 7 quốc gia: Tây Tạng, Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam với những mâu thuẫn về quyền lợi rất gay gắt. (3)
Hình 3_ Hình chụp cơ sở mới của DRAGON Mekong Institute, với các thành viên tham dự Khoá Tập huấn Báo chí về “Biến đổi Khí hậu và Năng lượng Bền vững” tổ chức từ ngày 22 tới 24 tháng 8, 2019, trong Dự án Mạng lưới Báo chí Địa cầu / Earth Journalism Network. [nguồn: CRUS.Vietnam, Aug 2019] DRAGON Institute-Mekong-CTU sẽ là điểm nối kết các hoạt động nghiên cứu, giáo dục và chuyển giao kiến thức khoa học đến các nhà lãnh đạo, quản lý và cộng đồng các cấp từ địa phương, quốc gia tới các vùng châu thổ khác trên thế giới nhằm mục đích nâng cao năng lực thích nghi của cư dân đối với thiên tai; phát triển bền vững kinh tế và xã hội, đồng thời bảo tồn các hệ sinh thái thiên nhiên.
Từ khi được thành lập, Viện Biến đổi Khí hậu DRAGON-Mekong đã được nhiều tổ chức trong và ngoài nước đến trao đổi, đề xuất các hướng hợp tác. Với vai trò là một trung tâm dẫn đầu của ĐBSCL, Đại học Cần Thơ và Viện DRAGON-Mekong đang có các bước đi tiên phong trong nghiên cứu các vấn đề liên quan tới Biến đổi Khí hậu với một kế hoạch hành động trước mặt và lâu dài. (4)
DỰ BÁO MEKONG / FORECAST MEKONG Qua Sáng kiến Hạ lưu Sông Mekong – Lower Mekong Initiative 2020 được khởi xướng từ 2009 do ngoại trưởng Mỹ Hillary Rodham Clinton cùng với các ngoại trưởng 4 quốc gia Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam nhằm tăng cường cam kết của Mỹ đối với các quốc gia hạ lưu sông Mekong trong các lãnh vực môi trường, y tế, giáo dục và hạ tầng cơ sở.
Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS chuyên nghiên cứu các vùng châu thổ, đã liên kết / partnership với Viện DRAGON – Mạng lưới Nghiên cứu Đồng bằng Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu áp dụng kinh nghiệm từ sông Mississippi với chuyên môn về Mô hình Khoa học-Trái đất[Earth-science modeling] sẽ hỗ trợ cho các quốc gia Mekong phương cách lượng giá biến đổi khí hậu và hoạt động của con người có thể ảnh hưởng trên hệ sinh thái và an ninh lương thực trong lưu vực sông Mekong.
KHOÁ TẬP HUẤN DỰ BÁO MEKONG Trong ba ngày 9-10-11 tháng 12 năm 2009 cùng với viện DRAGON Đại học Cần Thơ, Việt Nam, Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS và Bộ Ngoại Giao Mỹ, đã cùng bảo trợ cho một khoá tập huấn / workshop nhan đề: “Tìm hiểu mối hiểm nguy / risk và đặc tính dễ tổn thương/ vulnerability của các hệ sinh thái nước ngập / Wetlands Ecosystems nơi hai vùng châu thổ Mekong và Mississippi do Biến đổi Khí hậu và Nước biển dâng.”
Hình 4_ Cho dù cách nhau 12 múi giờ, hai vùng châu thổ Mekong (trái) và Mississippi (phải), có những điểm tương đồng về sinh cảnh môi trường, kinh tế xã hội và văn hoá. [Mô hình chụp từ vệ tinh của Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS ] (2) Chương trình Dự báo Mekong được USGS thực hiện, không chỉ với ĐH Cần Thơ mà là một kết hợp mở rộng với các chính phủ địa phương và các Đại học trong lưu vực sông Mekong. Khoá tập huấn này là một phần của dự án có tên “Dự báo Mekong – Forecast Mekong,” một kết hợp dữ kiện hỗ tương, tạo mô hình / modeling, và hệ thống biểu đồ / visualization system nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý tài nguyên / resources managers, và công chúng am hiểu và tiên liệu được các tác động do biến đổi khí hậu và triển khai những dự án phát triển trong lưu vực sông Mekong. (2)
Khoá tập huấn quy tụ được hơn 75 thành viên tham dự, đã cùng xác định những thiếu sót về thông tin liên hệ tới vùng châu thổ Mekong / ĐBSCL và Biến đổi Khí hậu. Những thành viên tham dự bao gồm các nhà khoa học, các viên chức chính phủ từ các quốc gia Cambodia, Lào, Việt Nam, Thái Lan và cả Trung Quốc; đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ và các tổ chức NGOs phi chính phủ và dĩ nhiên với các chuyên gia USGS. Nhiều vấn đề khoa học quan trọng được đặt ra, bao gồm phẩm chất nước, lượng phù sa / sedimentation, những ảnh hưởng của các đập thuỷ điện trên sự đa dạng sinh học / biodiversity, an ninh lương thực, sự thích nghi với biến đổi khí hậu qua thời gian và mức nghiêm trọng của các mùa lũ lụt / seasonal floods, và ảnh hưởng trên sản lượng cá.
Những bước tiếp theo sẽ là các cuộc nghiên cứu phối hợp của USGS với các nhà khoa học trong lưu vực Mekong, nhằm cung cấp chuyên môn kỹ thuật để tạo thuận các bước thu thập phân tích và tích hợp dữ kiện / data analysis & integration, theo dõi môi trường / environmental monitoring, với các dụng cụ biểu đồ khoa học / science-visualization tools. Các thành viên tham dự cũng đã xác định nhu cầu được huấn luyện và chuyển giao kỹ thuật, cùng với ước muốn thiết lập mối quan hệ hợp tác dài hạn và chặt chẽ hơn với USGS.
Dự án Dự Báo Mekong / The Forecast Mekong project cũng sẽ giúp xây dựng nền móng cho các hoạt động trong tương lai qua tăng cường mối liên hệ giữa các nhà khoa học, các tổ chức trong lưu vực Mekong qua các cuộc nghiên cứu chung.
DRAGON đã xây dựng được một cộng đồng quốc tế giữa các nhà khoa học và quản lý tài nguyên nhằm chia sẻ những dữ kiện giữa các vùng châu thổ lớn và những con sông thế giới. Những cuộc nghiên cứu đối chiếu / comparative studies là cần thiết để hiểu biết và tiên liệu được hậu quả của biến đổi khí hậu trên các dự án xây dựng, sử dụng đất đai, biến đổi về thuỷ học và những ảnh hưởng khác do con người gây ra trên các hệ sinh thái vốn mong manh và dễ bị tổn thương.
Bằng triển khai những mô hình đối chiếu / comparative models và với các dụng cụ biểu đồ / visualization tools, mục đích của mạng lưới DRAGON là trợ giúp thông tin cho những quyết định chính sách công / public policy decisions có ảnh hưởng tới hệ sinh thái và các cộng đồng cư dân sống trong các vùng châu thổ.
Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ [USGS] đem tới những hiểu biết khoa học rộng rãi từ châu thổ sông Mississippi tới một vùng châu thổ tương đồng, cách xa nửa vòng trái đất đó là châu thổ sông Mekong [ĐBSCL].
Khoá tập huấn này là một phần của dự án có tên “Dự báo Mekong – Forecast Mekong,” một kết hợp dữ kiện hỗ tương, tạo mô hình / modeling, và hệ thống biểu đồ / visualization system nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách / policy makers, các nhà quản lý tài nguyên / resources managers, và công chúng am hiểu và tiên liệu được các tác động do biến đổi khí hậu và triển khai những dự án trong lưu vực sông Mekong. (2)
Chương trình này được thực hiện bởi USGS kết hợp với các chính phủ địa phương và các Đại học trong lưu vực Mekong, Chương trình Dự Báo Mekong / Mekong Forecast sẽ cung cấp một dụng cụ rất giá trị để nhận rõ những hậu quả của Biến đối Khí hậu và cách quản lý dòng sông / river management.
Những bước tiếp theo sẽ là các cuộc nghiên cứu phối hợp của USGS với các nhà khoa học trong lưu vực Mekong, nhằm cung cấp chuyên môn kỹ thuật / technical expertise để tạo thuận các bước phân tích và tích hợp dữ kiện / data analysis & integration, hướng dẫn theo dõi môi trường / environmental monitoring, với những dụng cụ biểu đồ khoa học / science-visualization tools. Các thành viên tham dự cũng đã xác định nhu cầu được huấn luyện / training và chuyển giao kỹ thuật / technological transfer, cùng với ước muốn thiết lập mối quan hệ hợp tác dài hạn và chặt chẽ hơn với USGS.
Dự án Dự Báo Mekong / The Forecast Mekong project cũng sẽ giúp xây dựng nền móng cho các hoạt động trong tương lai qua tăng cường mối liên hệ giữa các nhà khoa học, các tổ chức trong lưu vực Mekong qua các cuộc nghiên cứu chung và chia sẻ các dữ kiện / data sharing.
Hình 5_ Một ĐBSCL đã và đang bị tổn thương do những nguyên nhân: (1) do các con đập thượng nguồn, (2) do nạo vét cát dưới lòng sông, (3) do nước biển dâng, (4) do ô nhiễm sông rạch, (5) còn phải kể tới những dự án sai lầm ngăn mặn phá huỷ sự cân bằng hệ sinh thái mong manh của vùng châu thổ sông Mekong. Tính tới 2020, đã có 11 con đập dòng chính khổng lồ của Trung Quốc trên khúc sông Lancang-Mekong thượng nguồn; có thêm 2 con đập dòng chính của Lào (Xayaburi và Don Sahong) đã hoạt động từ 2019. Dự án Luang Prabang 1460 MW, sẽ là con đập dòng chính lớn nhất trên sông Mekong của Lào và điều rất nghịch lý là do Việt Nam làm chủ đầu tư, dự trù có thể được khởi công sớm trong năm nay. [International River 2004, do Ngô Thế Vinh cập nhật 2020]. Một ví dụ điển hình, USGS với kinh nghiệm về Trận Bão nhiệt đới Katrina 2005 của thế kỷ trên vùng châu thổ Mississippivới tổn thất 1800 nhân mạng, đã để lại những hậu quả tàn phá lớn nhất trong lịch sử thiên tai của Hoa Kỳ thiệt hại vật chất lên tới 125 tỷ USD, đã cho thấy nhu cầu cấp thiết chia sẻ thông tin và các dữ kiện với các vùng châu thổ trên toàn cầu.
DRAGON đã tạo ra một cộng đồng quốc tế giữa các nhà khoa học và quản lý tài nguyên nhằm chia sẻ những dữ kiện giữa các vùng châu thổ lớn và những con sông thế giới. Những cuộc nghiên cứu đối chiếu comparative studies là cần thiết để hiểu biết và tiên liệu được hậu quả của biến đổi khí hậu trên các dự án xây dựng, sử dụng đất đai, biến đổi về thuỷ học và những ảnh hưởng khác do con người gây ra trên các hệ sinh thái vốn mong manh và rất dễ bị tổn thương.
Bằng triển khai những mô hình đối chiếu / comparative models cùng với các dụng cụ biểu đồ / visualization tools, mục đích của mạng lưới DRAGON là trợ giúp thông tin cho những hoạch định chính sách / public policy decisions có ảnh hưởng tới hệ sinh thái và các cộng đồng cư dân sống trong các vùng châu thổ trên hành tinh này.
Hình 6_ĐBSCL với những cánh đồng bị khô nứt – sa mạc hoá / desertification, do trận hạn hán khốc liệt năm 2016. (trên) [VN Express 3/11/2016]; Dự báo Mekong: trận hạn hán và nhiễm mặn 2020 sẽ trầm trọng hơn năm 2016. Mekong Delta barbecue / ĐBSCL bị nướng do khô hạn. (dưới) [tranh biếm hoạ của Babui, tặng Ngô Thế Vinh] NƯỚC QUANH TA: GIẢI PHÁP DO THÁI Khan hiếm nước là một thực trạng đang diễn ra ở những mức độ khác nhau trên toàn hành tinh này. Từ tiểu bang Vàng California giàu có tới các nước nghèo khó của lục địa Phi châu. Khủng hoảng thiếu nước sạch nơi châu thổ Mekong cũng nằm trong bối cảnh toàn cầu ấy.
Đất lún, mặt bằng châu thổ Mekong thấp hơn mặt biển, có bài học từ một đất nước Hoà Lan Vùng Đất Thấp vẫn cứ tồn tại và phát triển qua nhiều thế kỷ.
Thiếu nước ngọt: nước uống và nước tưới cho hoa màu, có bài học từ một đất nước Do Thái mọc lên giữa sa mạc với đủ loại hoa màu xanh tươi.
Nước được khai thác từ nhiều nguồn, (1) từ giếng tới tầng nước ngầm, (2) từ nước biển khử mặn, (3) từ nguồn nước thải được thanh lọc tái sinh, (4) chiết xuất nước từ độ ẩm trong không khí…
Ưu tiên giải quyết vấn đề nước là một quốc sách của Do Thái ngay từ ngày lập quốc. Bằng trí tuệ sáng tạo và khoa học kỹ thuật từ một sa mạc khô hạn, ngày nay Do Thái đã có đủ nước cho mọi nhu cầu gia dụng, canh nông và kỹ nghệ. Nhưng trên hết, vẫn là ý thức tiết kiệm nước của toàn dân – được giáo dục ngay từ bậc tiểu học qua mọi cấp trong mọi lãnh vực sinh hoạt.
Không chỉ như vậy, họ còn biết sử dụng tối ưu các nguồn nước có được, tới mức còn dư nước viện trợ cho các quốc gia láng giềng thù nghịch và cả chuyển giao kỹ thuật giải quyết vấn đề thiếu nước ra thế giới như một quyền lực mềm trong ngoại giao. Kinh nghiệm Do Thái đã giúp nhiều quốc gia, trong đó có Trung Quốc, kể cả quốc gia tiên tiến như Mỹ để giải quyết vấn nạn thiếu nước.
Hình 7_ Nông gia Do Thái đã tiết kiệm được rất nhiều nước trong canh tác; một ví dụ nhỏ, bằng cách tưới nhỏ giọt / drip irrigation thay cho kỹ thuật tưới cổ điển tưới bằng vòi phun hay nước ngập đồng. Tưới ngay gốc giảm được lượng nước bốc hơi, cây lớn mạnh hơn và năng suất cũng cao hơn, thêm vào đó cách bón cây nhỏ giọt còn tránh được lượng nitrogen tràn vào các nguồn nước và cả giảm thiểu được lượng hoá chất trên vùng canh tác. [Let There Be Water. Seth M. Siegel 2017] (9) ĐBSCL SẼ VẪN MÃI XANH TƯƠI Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu, câu thuộc nằm lòng ấy đã có từ một nền giáo dục Quốc văn Giáo khoa thư từ buổi thiếu thời qua nhiều thế hệ. Và nay thì thực sự không còn nữa và cũng đừng tiếp tục gieo vào đầu óc trẻ thơ châu châm ngôn lỗi thời ấy.
Kể từ sau 1975, những khu rừng nguyên sinh bị tàn phá. Biển bị đầu độc không còn cá. Đất bị sa mạc hoá và xói mòn. Mọi nguồn tài nguyên bị tận lực khai thác tới cạn kiệt. Cho đến cả một ngụm nước sạch để uống và một bầu không khí trong lành để thở rồi cũng trở thành điều mơ ước. Những điều cơ bản ấy cũng chính là quyền con người / human rights.
Với những công trình phát triển tự huỷ, và sắp tới đây, con đập thuỷ điện Luang Prabang lớn nhất của Lào do Việt Nam đầu tư, rõ ràng Việt Nam đang chọn những bước đi liều lĩnh trên những tảng băng mỏng – walks on thin ice, với tiêu chuẩn nước đôi – double standards, và cũng từ nay Việt Nam sẽ chẳng thể còn một tiếng nói chính nghĩa và thuyết phục nào đối với cộng đồng 70 triệu cư dân sống trong lưu vực sông Mekong và trước cả thế giới. Với tầm nhìn của thiên niên kỷ thứ ba, duy trì từng hệ sinh thái phong phú của hành tinh này cũng là bảo vệ một nền văn minh rất đa dạng và lâu đời của con sông Mekong, mà không có mối lợi lộc ngắn hạn nào có thể vội vàng đem ra đánh đổi. Và cũng đã hơn một lần, trong hơn hai thập niên qua, người viết luôn luôn nhắc tới một vấn đề rất cốt lõi: “Môi sinh và Dân chủ” sẽ mãi mãi là bộ đôi không thể tách rời / Inseparable Duo. THAY CHO LỜI KẾT Nhân Ngày Nước Thế Giới 22 tháng 3 năm nay 2020, với chủ đề “Nước và Biến đổi Khí hậu”, trước tình cảnh một ĐBSCL đang ngày một suy thoái, người viết gửi tới các bạn trẻ cùng với 20 triệu cư dân 13 tỉnh Miền Tây trích dẫn câu nói của Oded Distel, một chuyên gia về nước của Do Thái: “Không có kỹ nghệ không gian các quốc gia vẫn sống được, nhưng không thể sống nếu không có nước”. (9) Nước theo cái nghĩa là “nguồn nước sạch” có thể sử dụng được. Oded Distel muốn nhấn mạnh tới sự chọn lựa đâu là bước ưu tiên trong phát triển.
NGÔ THẾ VINH California 21.02.2020 [Miền Tây, Cù Lao Dung 2017]
LGT: Chuyến về quê vừa qua, tôi nghe bà con than phiền về tình trạng nước mặn xâm nhập vào các con sông (làng tôi cách biển chừng 25 km). Điều đáng nói là người dân gần như chấp nhận đó là một thực tế và ‘sống chung với mặn’, vì họ không có khả năng nào khác. Nếu có một nhà máy khử nước mặn thì hay biết mấy. Xin giới thiệu đến các bạn một bài viết mới của Bs Ngô Thế Vinh về nhà máy khử nước mặn Carlsbad ở Mĩ. NVT
====
Từ một ĐBSCL đang ngập mặn đi thăm nhà máy khử mặn Carlsbad lớn nhất nước Mỹ
NGÔ THẾ VINH
Gửi 20 triệu cư dân ĐBSCL
sống trong cảnh hạn mặn
và thiếu nguồn nước ngọt
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
Hình 1_TỪ NGUỒN NƯỚC BIỂN. Poseidon Water / Carlsbad Desalination Plant, nhà máy khử mặn từ nguồn nước biển qua kỹ thuật thẩm thấu đảo nghịch / reverse osmosis mỗi ngày sản xuất / cung cấp 50 triệu gallons nước/ ngày (190,000 mét khối), là nguồn nước uống tinh khiết cho 400,000 ngàn cư dân Quận San Diego. Nhóm Bạn Cửu Long đi thăm khu nhà máy khử mặn Carlsbad lớn nhất nước Mỹ; từ phải: Ngô Thế Vinh, Jessica H. Jones Director of Communications, Phạm Phan Long. [photo by Ngô Minh Triết] (1)
Hình 2_ TỪ NGUỒN NƯỚC THẢI. Thăm 2 khu Nhà máy: (1) Xử lý Nước Thải / Waste Water Treatment Plant thanh lọc từ nguồn nước thải và mỗi ngày sản xuất / cung cấp 100 triệu gallons / ngày (378,000 mét khối) nước sạch cho cư dân Quận Cam; (2) Hệ thống Bổ sung Tầng Nước ngầm / Ground Water Replenishement System (GWRS). Ms. Becky Mudd (giữa) đặc trách giao tế cộng đồng, KS Phạm Phan Long (phải), Ngô Thế Vinh (trái). [photo by Nguyễn Đăng Anh Thi] (4)
NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI 2020
Cách đây 27 năm, kể từ 1993, Liên Hiệp Quốc đã chọn ngày 22 tháng 3 mỗi năm là Ngày Nước Thế Giới / World Water Day, do sáng kiến từ Hội nghị Môi Sinh và Phát Triển/ United Nations Conference on Environment and Development/ UNCED tại Rio de Janeiro, Brazil [1992].
Và mỗi năm Liên Hiệp Quốc đều chọn ra một “chủ đề” cho Ngày Nước Thế Giới để tập trung vận động qua những cuộc hội thảo, qua các phương tiện truyền thông và giáo dục xoay quanh chủ đề này.
Có thể nói, nước là biểu hiện của sự sống, vì thế mỗi khi tìm ra tín hiệu có nước trên một vì tinh tú xa xôi thì các nhà khoa học thiên văn đã lạc quan cho rằng có thể có sự sống và sinh vật ở trên đó. Trái đất này sẽ là một hành tinh chết nếu không có nước. Trong lịch sử nhân loại, đã có những nền văn minh cổ đại bị tiêu vong không chỉ vì dịch bệnh mà do thiếu nước.
Nhưng trước mắt, thiếu nước đang là một vấn nạn ngày càng trầm trọng của thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Ngày Nước Thế Giới, như cơ hội để mọi người quan tâm tới tầm quan trọng của nguồn nước ngọt / freshwater và cùng nhau vận động hỗ trợ cho những phương cách quản lý bền vững các nguồn nước ấy.
Khan hiếm nguồn nước có thể ảnh hưởng trên an toàn lương thực thế giới, gây bất ổn về chính trị và là nguyên nhân đưa tới những cuộc tỵ nạn môi sinh ồ ạt. Với các đặc tính của Biến đổi Khí hậu – climate change, bao gồm những tình huống cực đoan về nguồn nước trong tương lai: hoặc là hạn hán khốc liệt hay là thiên tai bão lụt xảy ra nhiều hơn và tàn phá hơn.
Từ 2019, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guteres đã chủ toạ một Hội nghị Thượng đỉnh về Khí hậu – a Climate Summit để khẩn trương có những hành động thực thi Thoả ước Paris – Paris Agreement. Năm 2020 để chuẩn bị cho Ngày Nước Thế Giới – World Water Day, mỗi quốc gia đều nêu rõ chương trình hành động nhằm đối phó với vấn đề nước với chủ đề nước và trong tình trạng biến đổi khí hậu.
Và như truyền thống hàng năm, Ngày Nước Thế Giới 2020 sẽ diễn ra vào ngày 22 tháng 03 với chủ đề về Nước và Biến Đổi Khí Hậu; cuộc vận động sẽ được điều hợp bởi toán chuyên gia của LHQ. (2)
Với biến đổi khí hậu, ĐBSCL được đánh giá là một trong những vùng châu thổ dễ bị tổn thương nhất, với nghịch lý: dư thừa nước mặn, nước bẩn nhưng rất thiếu nước sạch và nguồn nước ngọt phù sa.
NHÀ MÁY KHỬ MẶN CARLSBAD
Được khánh thành ngày 14 tháng 12 năm 2015 tại thị trấn Carlsbsd, California nằm cận phía bắc nhà máy điện Encina Power Station. Địa chỉ 4600 Carlsbad Bld.
Carlsbad, CA 92008. Dự án US$ 784 triệu USD được thực hiện với tiền cổ phiếu – bond. Và sau đó bán lại cho tư nhân với giá 1 tỷ USD. Nhà máy mỗi ngày sản xuất 50 triệu gallons nước ngọt [tương đương với 190,000 mét khối nước], từ nguồn nước biển, đủ cung cấp nước cho 400,000 ngàn cư dân Quận hạt San Diego; với giá thành ½ xu [half a penny] cho một gallon. The San Diego County Water Authhority – SDCWA đã gọi nơi đây là “nhà máy khử mặn nước biển lớn nhất nước, với kỹ thuật tiên tiến nhất, và sử dụng năng lượng hiệu quả nhất – energy efficient.”
Dự án xây nhà máy khử mặn tại quận hạt San Diego bắt đầu từ 1993 sau 5 năm tiểu bang California bị khô hạn – drought. Kỹ thuật màng – membrane technology cho nhà máy đã được General Atomics La Jolla tiên phong áp dụng trước đó.
Hình 3_ Nhà máy Khử mặn Carlsbad trên một diện tích 4 mẫu Anh – four-acre site, địa chỉ 4600 Carlsbad Bld. Carlsbad, CA 92008. Được khánh thành ngày 14 tháng 12 năm 2015, kế cận nhà máy điện không còn hoạt động Encina Power Station, sát bên vịnh Agua Hedionda Lagoon Thái Bình Dương. Vận hành nhà máy không cần nhiều công nhân do kỹ thuật tự động hoá – automation. (1,2)
Với viễn kiến, đây sẽ là nơi sản xuất nguồn nước ngọt bổ sung cho nguồn nước nhập từ sông Colorado, từ vùng châu thổ Sacramento bắc California, cùng với nguồn nước mưa và từ tầng nước ngầm / groundwater…
Ban đầu các nhà hoạt động hoạt động môi sinh – environmentalists đã mạnh mẽ chống đối dự án này, nêu ra những lý do: tiêu phí năng lượng – energy consumption, nước thải quá mặn – brine discharge, và cả lấy nguồn nước biển có thể làm chết cá. Đã có năm vụ kiện lớn chống dự án xây dựng nhà máy khử mặn nhưng đều không thành công.
Nhà máy được khởi công xây dựng từ tháng 12 năm 2012 – tức là 19 năm sau từ ngày hình thành dự án (1993- 2012), dự trù hoàn tất sau 4 năm 2016, nhưng đã được hoàn tất sớm hơn một năm do tình trạng hạn hán liên tục của California. Cho dù đã xây cất xong, nhà máy được chạy thử nghiệm 6 tháng trước khi bắt đầu cung cấp nguồn nước cho San Diego.
Nhà máy được tập đoàn Poseidon Water điều hành, và xây dựng công trình bao gồm một số công ty kỹ thuật chính như: GHD Group, IDE Americas Inc. – chi nhánh của một công ty Do Thái: Israel-based IDE Technology.
Nước ngọt từ nhà máy được chuyển xuống San Diego bằng một đường ống dài 16 km đường kính 1.4 m, để đưa nước về SDCWA tại San Marcos là trung tâm phân phối nước cho toàn vùng San Diego.
NHÀ MÁY CARLSBAD HOẠT ĐỘNG RA SAO?
Nhà máy lọc nước biển Carlsbad được cho xây ngay bên cạnh nhà máy nhiệt điện không còn hoạt động và nhờ đó được sử dụng đầm nước/ lagoon và máy bơm nước biển và hệ thống thải nước ra biển chung với nhà máy điện mà không cần xây thêm.
Lấy 380,000 mét khối nước biển/ ngày từ nguồn nước làm mát máy điện / cooling water từ nhà máy nhiệt điện Encina Power Plant ngay kế cận, bước đầu được lọc qua các tầng đá vụn – gravel, cát và than đá cứng nhằm làm loại bỏ các hạt tạp chất và những hạt lơ lửng.
Sau đó được khử mặn qua hệ thống lọc theo kỹ thuật “thẩm thấu đảo nghịch / hay thẩm nghịch – reverse osmosis.” Nửa nguồn nước mặn này: 190,000 mét khối được chuyển thành nguồn nước uống tinh khiết, nửa còn lại được với độ mặn cao mà từ chuyên môn gọi là concentrated brine; do có độ mặn cao hơn 20% so với nước biển, nên lượng nước mặn đậm đặc này cần được pha loãng trước khi được đổ ra biển. Do nhà máy điện Encina Power Station đã ngưng hoạt động từ 2017, Poseidon Water đã thay thế đảm trách giai đoạn pha loãng này.
Hình 4_ Jessica H. Jones giải thích: nước biển được bơm vào nhà máy; trước hết phải qua giai đoạn gạn lọc các tạp chất và những hạt lơ lửng – suspended particles qua các tầng đá vụn, cát và tầng than đá cứng anthracite – hard coal, trước khi bước sang giai đoạn 2 thanh lọc khử mặn. (1,2)
Hình 5_ Tiếp theo đó, nước biển được lọc khử mặn với kỹ thuật “thẩm thấu đảo nghịch – reverse osmosis qua các tấm màng lọc”. Các lỗ của màng lọc có kích thước cực nhỏ chỉ bằng 1 phần triệu đường kính của sợi tóc. (1,2)
Tuy đi vào hoạt động đã 5 năm nhưng ban kỹ thuật vẫn luôn luôn quan tâm theo dõi ảnh hưởng của nhà máy trên môi trường. Ví dụ, một cuộc khảo sát tháng Giêng, 2019 ghi nhận nước thải từ nhà máy đã tăng độ mặn nước biển vùng cận duyên – offshore nhưng không quá 10% không gây ảnh hưởng đáng kể tới các giống loài thuỷ sinh trong vùng.
Hình 6_ Jessica đang giới thiệu mẫu màng lọc – reverse osmosis membranes dùng trong giai đoạn khử mặn từ nước biển. Khi được hỏi về độ bền của màng lọc là bao lâu? Câu trả lời của Jessica là “10 năm”, tuổi thọ ấy đối với chúng tôi là điều khá ngạc nhiên. Từ phải: Jessica, Ngô Thế Vinh, KS Ngô Minh Triết, và khách tham quan. [photo by Phạm Phan Long]
KHÔNG HOÀN TOÀN THUẬN BUỒM XUÔI GIÓ
Để cân bằng tác động trên môi trường – to offset environment impact, 27 mẫu đất (hectare) sình lầy – wetlands, được quy hoạch trong vịnh San Diego, hệ thống pin mặt trời – solar panels sẽ được lắp ráp trên nóc nhà máy, và lượng khí thải carbon – carbon emission sẽ được mua lại.
Nhóm Bảo vệ Bờ biển San Diego – San Diego Coastkeeper (2015) cũng đã kiện nhà máy nước SDCWA do những mối quan tâm về môi sinh, cho rằng nhà máy đã vi phạm California Environmental Quality Act do xử dụng nhiều năng lượng và gây hậu quả nhà kính – greenhouse effect từ nhà máy này. Họ không chống dự án khử mặn Carlsbad nhưng đòi hỏi nhà máy phải có những nỗ lực giảm thiểu thích đáng các hậu quả tiêu cực trên môi trường – proper mitigation, và yêu cầu trên đã được SDCWA quan tâm và đáp ứng.
Do tiêu chuẩn về môi trường của California được coi là khắt khe nhất nước Mỹ, nói chung chi phí của họ còn cao vì ngoài tổn phí nhà máy như bơm nước từ khoảng cách xa 16 km tới các thành phố tiêu dùng; còn phải kể tới các công trình vét nạo đáy biển, trồng rừng, Net Zero carbon footprint, nuôi trồng / farming hải sản tại trong đầm – lagoon, chuyển dịch hải sinh vật / cấy lại sang vùng biển khác gần San Diego, và cả chi phí cho PR Campaign liên tục để vận động ủng hộ của dân chúng.
PHẨM CHẤT NƯỚC VÀ GIÁ THÀNH
Nhà máy Khử Mặn Carlsbad đã hoạt động được 5 năm, tạo được uy tín do chất lượng nguồn nước cung cấp từ nhà máy này. Hiện nay, nhà máy mỗi ngày sản xuất 50 triệu gallons nước ngọt [190,000 mét khối nước], từ nước biển, đủ cung cấp nước cho 400,000 ngàn cư dân Quận hạt San Diego; với giá thành ½ xu [half a penny] cố định trong 30 năm cho một gallon. [So với giá mua nước từ sông Colorado là ¾ xu/ gallon và có thể sẽ còn tăng thêm trong tương lai].
The San Diego County Water Authhority – SDCWA đã gọi nơi đây là “nhà máy khử mặn nước biển lớn nhất nước, với kỹ thuật tiên tiến nhất, và sử dụng năng lượng hiệu quả nhất – energy efficient.”
Được biết chuyến đi thăm của chúng tôi là mấy tours cuối cùng trong năm nay. Sau đó nhà máy khử mặn Carlsbad không còn chương trình tham quan nào khác, do Poseidon Water sẽ sớm khởi động một kế hoạch xây dựng giai đoạn 2 mở rộng và tăng công xuất nhà máy.
*
Hình 7_ Với nguồn nước mặn gần như vô tận từ Thái Bình Dương, qua các công đoạn khử cặn rồi khử mặn, cuối cùng là nguồn nước uống tinh khiết. Poseidon Water sản xuất 50 triệu gallon – 190,000 mét khối nước ngọt /ngày, giá thành 1/2 xu/ gallon và các thành phố mua nước qua SDCWA và trả tiền theo công tơ. [photo by Phạm Phan Long]
ĐBSCL MỘT CÁI TẾT NGÃ MẶN VÀ BƯỚC CÔNG NGHIỆP HOÁ
Những ngày trước Tết, Anh Dohamide/ Đỗ Hải Minh gốc người Chăm, sinh trưởng ở Châu Đốc báo tin: Bến Tre đang ngập mặn nặng. Tuy sống ở hải ngoại, ở tuổi 86 không còn khoẻ nữa mà anh vẫn luôn luôn nặng lòng với quê nhà.
TS Phạm Đỗ Chí gửi cho tôi mấy dòng Tản mạn cuối năm của Lưu Trọng Văn:
Hôm nay 29 tết rồi.Sóc Trăng nước ngọt không về, nước mặn tràn bờ, nước giếng khoan sâu lòng đất không đủ cho người dùng, đâu đến lượt cây…
Dự án 14 nhà nhiệt máy điện ở ĐBSCL, tuy chỉ mới 3 nhà máy hoạt động, mà đã gây tình trạng ô nhiễm đất đai với tràn ngập than sỉ, ô nhiễm không khí với khói và bụi mịn… Ưu tư với thảm trạng môi trường ấy, KS Phạm Phan Long, Hội Sinh Thái Việt / VEF cho rằng: với nguồn Năng Lượng tái Tạo – NLTT từ mặt trời, từ gió sẽ quá rẻ bắt buộc các nhà máy nhiệt điện rồi ra sẽ phải đóng cửa và qua điển hình Nhà máy Khử Mặn Carlsbad được xây dựng trên nền của nhà máy điện than Encina Power Station, thì sau này các khu nhà máy nhiệt điện nơi ĐBSCL sẽ là những địa điểm rất thuận lợi để xây dựng nhà máy lọc nước biển, nước thải.
Bước vào Thế kỷ 21, nhân loại không thiếu giải pháp kỹ thuật bền vững và khả thi kinh tế cho NLTT và nguồn nước, chỉ thiếu chính sách, quy hoạch và lãnh đạo có bản lãnh có tầm nhìn chiến lược.
Hình 8_ Trước nạn ngập mặn nặng toàn tỉnh Bến Tre, sáng 10.01.2020 một buổi hội thảo giới thiệu túi trữ nước ngọt (có sức chứa từ 1 tới 100 mét khối) theo Chương trình Khoa Học & Công Nghệ Cấp Nhà Nước [sic] do công ty nhựa Tân Đại Hưng sản xuất [trên, SGGP Online 11.01.2020]. Người dân Bến Tre có dịp tìm hiểu thêm “giải pháp hữu hiệu” để ứng phó với tình trạng hạn mặn địa phương [dưới: báo điện tử Bộ TN & MT 12.01.2020].
Một nước Mỹ giàu mạnh như hiện nay có phần công lao rất lớn từ sáng kiến đầu tư của tư nhân. Họ biết tìm nguồn lợi nhuận cho cả mục đích công ích. Đứng trong khu nhà máy Khử Mặn Carlsbad lớn nhất nước Mỹ, được hình thành với 100% vốn từ tư nhân; không thể không trạnh nghĩ nhìn về Việt Nam, về ĐBSCL, nghĩ đến những đại gia của Việt Nam hiện nay. Đa số khởi nghiệp bằng đầu tư bất động sản từ đất đai của dân chúng, hoặc họ có đặc quyền khai thác nguồn tài nguyên nào đó của đất nước và rồi trở thành tỷ phú USD. Và có bao giờ họ nghĩ được rằng, sẽ trả ơn phần nào cho đất nước và người dân đã nuôi dưỡng họ bằng đất đai có thấm đẫm mồ hôi và nước mắt để họ có được ngày hôm nay.
Rồi nhìn về phía Nhà nước, với bao nhiêu công trình xây cất lãng phí hàng tỷ USD, điển hình như cống đập Cửa Ba Lai và các hệ thống ngăn mặn cùng khắp ĐBSCL, có thể nói là một thất bại toàn diện. Sau bài học thất bại của cống đập Ba Lai, và rồi sắp tới đây, là một công trình khác lớn hơn thế nữa: Cái Lớn Cái Bé.
Nhà nước nên có sáng kiến thực tiễn hơn: dùng số tiền tỷ USD ấy để xây dựng những dự án thật sự công ích. Khởi đầu là một tỷ USD cho xây một nhà máy khử mặn / Desalination Plant, một tỷ đồng khác xây dựng một nhà máy thanh lọc nước thải / Waste Water Treatment Plant, đó là những gì khẩn cấp nhất mà 20 triệu cư dân ĐBSCL đang thiếu nước ngọt giữa cơn hạn ngập mặn và nguồn nước ô nhiễm trầm trọng như hiện nay.
Đó mới thực sự là bước công nghiệp hoá chứ không phải với những túi nhựa chứa nước ngọt đang bán ra cho nông dân mà vẫn được gán cho danh hiệu Công trình Khoa Học & Công Nghệ Cấp Nhà Nước. [sic]
Nếu điều ấy là hiện thực, thì Việt Nam sẽ là quốc gia tiên phong trong vùng Đông Nam Á ứng dụng các bước công nghiệp hiện đại đối phó với biến đổi khí hậu và các bước khai thác huỷ hoại và từ những con đập Mekong thượng nguồn.
Nhóm Bạn Cửu Long gửi bài viết này tới 20 triệu cư dân 13 tỉnh Miền Tây đang sống những ngày thiếu nước, kể cả nước uống. Và cũng để thấy rằng vẫn có đó những giải pháp để sống còn nếu có được một cấp lãnh đạo biết lo cho dân và cả có một tầm nhìn chiến lược.
4/ Ngày Nước Thế giới 2017 với chủ đề Nước Thải. Đi Thăm Khu nhà máy xử lý Nước thải và Hệ thống bổ sung tầng nước ngầm tại Quận Cam. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 23.03.2017http://vietecology.org/Article/Article/266
Với chính phủ Lào thì Biên bản Ghi nhớ – Memorandum of Understanding – năm 2007 về dự án thủy điện Luang Prabang với Việt Nam không thuần chỉ là một “quid pro quo – trao đổi dịch vụ giữa hai bên” nhưng có một ý nghĩa chiến lược lớn lao hơn một con đập rất nhiều: đó là Việt Nam đã bật tín hiệu đèn xanh đối với toàn chuỗi 9 con đập dòng chính trên sông Mekong của Lào. Chính phủ Lào đã rất khôn ngoan hiểu rõ rằng từ nay 2007, trên thực tế – de facto, mọi phản đối của Việt Nam nếu có cũng chỉ là chiếu lệ; và giới am hiểu tình hình lưu vực sông Mekong đã thấy rõ một Hà Nội bị chi phối bởi các nhóm lợi ích, và đã bị khuất phục và quy hàng trước chiến lược thủy điện của Lào. Ngô Thế Vinh
Gửi tới 20 triệu cư dân ĐBSCL không được quyền có tiếng nói
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
CON DOMINO THỨ NĂM
Ngày 31/07/2019 chính phủ Lào chính thức gửi hồ sơ tới Ủy Hội Sông Mekong / MRC về dự án xây con đập dòng chính Luang Prabang với yêu cầu tiến hành thủ tục PNPCA ba giai đoạn: (1) Thủ tục Thông báo / Procedures for Notification, (2) Tham vấn trước / Prior Consultation, (3) Chuẩn thuận / Agreement. Thay vì ra thông báo ngay, MRC đã trì hoãn 7 tuần lễ sau mới đưa ra thông cáo báo chí về sự kiện này. Đến ngày 25/09/2019, MRC đã bào chữa cho quyết định im lặng 7 tuần lễ với lý do: “Thông báo của Lào gửi tới chưa đầy đủ để có thể tiếp cận với phần tổng quan của dự án / project overview và lộ trình tham khảo / roadmap for consultation, giúp quần chúng hiểu tốt hơn về dự án và tiến trình tham vấn”.
Cũng vẫn ban Thư ký MRC giải thích tiếp, “Học được từ kinh nghiệm, lần này chúng tôi có kế hoạch thông báo chính thức khi có đủ những tài liệu cần thiết để quần chúng và các bên liên quan / stakeholders có thể khảo sát và đóng góp ý kiến cho tiến trình tham vấn thêm ý nghĩa. Chúng tôi sẽ duy trì cùng mức độ cởi mở và minh bạch / transparency trong suốt tiến trình tham vấn.” (2)
Hình 1: Luang Prabang, con Domino thứ 5, cũng là con đập dòng chính sông Mekong lớn nhất của Lào và điều rất nghịch lý: do công ty quốc doanh PetroVietnam Power Corporation của Việt Nam là chủ đầu tư. Với 11 con đập dòng chính trên sông Lancang-Mekong thượng nguồn, Trung Quốc đã lưu trữ 40 tỉ mét khối nước, sản xuất 21300 MW điện; riêng Lào cũng lưu trữ 30 tỉ mét khối nước hàng năm và đang thực hiện giấc mơ trở thành “Bình điện Đông Nam Á / S.E. Asia’s Battery” bất chấp hậu quả môi sinh xuyên biên giới ra sao với hai quốc gia hạ nguồn là Cambodia và Việt Nam. Nguồn: Michael Buckley, cập nhật 2019 do Ngô Thế Vinh bổ sung.
TRAO ĐỔI GIỮA TOM FAWTHROP VÀ NGÔ THẾ VINH
Tom Fawthrop là một nhà báo Anh và nhà làm phim, từ năm 1979 đã từng sống lăn lộn 30 năm trong vùng Đông Nam Á, có tiếng nói bền bỉ chống lại các con đập thủy điện nhằm bảo vệ hệ sinh thái sông Mekong qua rất nhiều bài báo và các bộ phim phóng sự. Bài báo gần đây nhất trên báo Diplomat 26/8/2019 của Tom Fawthrop là: Something Is Very Wrong on the Mekong River, cho rằng hạn hán như năm nay sẽ trầm trọng hơn nữa nếu như các chính phủ trong lưu vực Mekong không thay đổi chính sách.
Và trong một email trao đổi với tiêu đề: Có mâu thuẫn khi Việt Nam đầu tư vào đập thủy điện mới ở Lào, Tom Fawthrop viết: “như anh Vinh đã biết, chính phủ Lào vừa thông báo cho MRC ý định tiến hành dự án đập Luang Prabang mà Hà Nội là nhà đầu tư chính, qua công ty quốc doanh PetroVietnam Power Corporation, một quyết định sẽ làm cho cuộc sống của 20 triệu cư dân nơi ĐBSCL thê thảm hơn. Và anh nghĩ sao về nghịch lý này của Hà Nội?”
…
Và phần trả lời của người viết cho nhà báo Tom Fawthrop là: “Với một Việt Nam vừa thỏa hiệp vừa bị động từ sau 1975 cho tới nay. Việt Nam trước đó cũng đã xây những đập thủy điện với hồ chứa nơi các phụ lưu sông Mekong trên cao nguyên Trung phần, đi xa hơn nữa qua EVN Công ty quốc doanh Điện lực VN đã đầu tư vào đập thủy điện Hạ Sesan-2 của Cambodia… Hồ chứa những con đập phụ lưu của Việt Nam, Cambodia chẳng phải là vô can trong tình trạng thiếu nước khô hạn nơi ĐBSCL. Và nay, thêm một bước khổng lồ tiến xa hơn nữa, PetroVietnam Power Corporation, một công ty quốc doanh đã hợp tác với chính phủ Lào như một nhà đầu tư chính để tiến hành xây con đập Luang Prabang 1410 MW, với hồ chứa diện tích 90 km2 sản xuất 7380 Gwh và là con đập dòng chính thứ 5 lớn nhất của Lào. Ai cũng biết PetroVietnam Power Corporation vốn là một công ty của nhà nước với một lịch sử dài tai tiếng về tham nhũng đưa tới nhiều vụ bắt bớ tù tội của các viên chức cao cấp của công ty (5). Và Nhà nước Việt Nam luôn luôn bị chi phối bởi các nhóm lợi ích, mà PetroVietnam Power Corporation là một điển hình. Và một câu hỏi khác được đặt ra là: Ủy ban Mekong Việt Nam sẽ phải ứng xử ra sao với tiến trình PNPCA về con đập Luang Prabang khi mà chính công ty quốc doanh PetroVietnam Power Corporation lại là kẻ đầu tư chính? Một “chiến lược không chiến lược” lại có chính sách “nước đôi / double standard”, trước những tác hại hiển nhiên của các con đập trên sông Mekong và ĐBSCL: biến đổi dòng chảy, mất nguồn nước, mất nguồn phù sa và cá… không những Việt Nam đã không có tiếng nói quyết liệt ngăn chặn mà còn góp vốn đầu tư thực hiện dự án tai hại ấy, có thể ví như một hành động cầm súng tự bắn vào chân mình / shoot oneself in the foot. Nói cho rõ hơn, thì đây là một hành động phản bội đối với đời sống của 20 triệu cư dân nơi ĐBSCL và cả với sự bất chấp vô cảm đối với quyền lợi của hơn 10 triệu cư dân Cambodia sống quanh Biển Hồ, cũng là trái tim của Cambodia. [Hết trích dẫn]
[BS Ngô Thế Vinh, tác giả cuốn CLCD BĐDS xuất bản từ năm 2000, cùng với nhóm Bạn Cửu Long, từng theo dõi và lên tiếng báo động liên tục về một Lưu Vực Sông Mekong và ĐBSCL trước nguy cơ. Và một bài viết cập nhật vào tháng 8/2019, với một nhận định khá bi đát là: Việt Nam đã bị thất thủ chiến lược trên địa bàn sông Mekong – và ĐBSCL đang đứng trước nguy cơ bị tan rã.] Viet Ecology Foundation
Bài viết dưới đây là một khai triển phần phát biểu của người viết với Tom Fawthrop về sự kiện Luang Prabang, đang được xem như một trái bom tấn nổ chậm / time-bomb mà Hà Nội ném trên đầu 20 triệu cư dân đang sống ngất ngư nơi ĐBSCL.
NHỮNG GÌ HÀ NỘI NÓI
Bấy lâu chính phủ Việt Nam đã từng bày tỏ mối quan tâm trong các tiến trình Tham vấn trước đối với những con đập dòng chính trên sông Mekong, do những tác động tiêu cực xuyên biên giới đối với các quốc gia hạ nguồn nhất là đối với ĐBSCL. Đối với con đập Xayaburi, là con đập dòng chính đầu tiên của Lào, chính phủ Việt Nam đã từng kêu gọi Lào “hoãn lại 10 năm” con đập Xayaburi và các con đập dòng chính khác.
Và gần đây nhất, chính Việt Nam kêu gọi sự quan tâm khai thác các nguồn năng lương tái tạo để thay thế cho thủy điện trong lưu vực sông Mekong, điều ấy có thể giúp “bảo vệ và khai thác bền vững nguồn tài nguyên nước sông Mekong, đồng thời tránh được những ảnh hưởng tác hại tiêu cực trên đời sống các cộng đồng cư dân ven sông.”
NHỮNG GÌ HÀ NỘI LÀM
Việt Nam sau khi đã xây tràn lan những con đập thủy điện lớn nhỏ thiếu tiêu chuẩn an toàn môi trường trên khắp lãnh thổ Việt Nam, phá hủy cả một hệ thống sông ngòi và cũng là cơn ác mộng của bao nhiêu triệu cư dân sống quanh các con đập.
Do Việt Nam, còn rất ít tiềm năng thủy điện ở các con sông trong nước nên Hà Nội đã hướng sang nước láng giềng Lào. Từ năm 2007, theo VOA [25/12/2007] có thể là sớm hơn, Việt Nam đã lập kế hoạch xây nhiều đập thủy điện trên lãnh thổ Lào; (4) trong đó có cả dự án đập thủy điện Luang Prabang lớn nhất trong số 9 con đập dòng chính trên sông Mekong của Lào với kinh phí lên đến trên 2 tỉ đôla, ước tính theo thời giá lúc bấy giờ.
Hình 2: Khu vực dự kiến xây đập Luang Prabang 1410 MW trên dòng chính sông Mekong, chỉ cách thị trấn Luang Prabang 25 km.; hình chụp khúc sông Mekong chảy qua địa phận cố đô Luang Prabang, đã được UNESCO công nhận là Khu Di sản Thế giới / World Heritage Site từ năm 1995, vốn được ca ngợi như một trong những thành phố cổ đẹp nhất Đông Nam Á thì nay Luang Prabang đang bị thương mại hóa và cả Hán hóa. Nguồn: Photo 2000 by Ngô Thế Vinh
Với một Biên bản Ghi nhớ / Memorandum of Understanding (MoU) về Dự án đập thủy điện Luang Prabang đã được ký kết từ 2007 giữa công ty quốc doanh PetroVietnam Power Corporation và chính phủ Lào, theo hãng thông tấn AFP trích đăng các nguồn tin từ Việt Nam cho biết công ty PetroVietnam Power Corporation đang hoàn thành luận chứng về kinh tế kỹ thuật cho dự án xây dựng đập thủy điện Luang Prabang gần cố đô của Lào. (4)
Lào, vốn được xem là một trong những nước nghèo Châu Á, đang xông xáo đi tìm các nguồn đầu tư nhằm tận dụng khai thác tiềm năng thủy điện từ các con sông chảy qua địa hình rất nhiều đồi núi của đất nước này. Từ ước mơ giàu có và trở thành một “nhà máy cung cấp điện của khu vực” với khách hàng láng giềng chính là Việt Nam và Thái Lan, là hai quốc gia đang có nhu cầu năng lượng điện có nền công nghiệp đang phát triển.
Cho dù đã được các nhà bảo vệ môi trường cảnh báo rằng xây dựng các đập thủy điện lớn sẽ tàn phá sinh cảnh của các con sông, cưỡng bách bao nhiêu chục ngàn cư dân địa phương phải di dời, gây tác hại nghiêm trọng đối với hệ sinh thái, làm mất nguồn cá, cả đe dọa diệt chủng một số loại cá hiếm quý như cá Pla Beuk, và cá heo Irrawaddy, nghiêm trọng hơn nữa là đe dọa an ninh lương thực trong toàn lưu vực.
Và hơn ai hết, Hà Nội biết rất rõ ĐBSCL, một vựa lúa của cả nước và Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn, sẽ gánh chịu tất cả hậu quả tác hại tích lũy xuyên biên giới từ những con đập thượng nguồn ra sao đối với nguồn nước, nguồn phù sa, nguồn cá, và thảm họa nước biển dâng càng trầm trọng hơn nữa khi thiếu nguồn nước ngọt đổ xuống từ khúc sông Mekong thượng nguồn. Xa hơn nữa, không còn nguồn phù sa, ĐBSCL sẽ theo một tiến trình đảo ngược thay vì được bồi đắp thì sẽ dần dần tan rã.
VỚI MoU LUANG PRABANG 2007, VIỆT NAM ĐÃ QUY HÀNG CHIẾN LƯỢC THỦY ĐIỆN CỦA LÀO
Hơn một lần người viết đã nhắc tới bước sai lầm chiến lược thứ nhất của Việt Nam khi ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đặt bút ký Hiệp định Ủy Hội Sông Mekong 1995 với 4 nước Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam chấp nhận từ bỏ quyền phủ quyết / veto power [có nghĩa là mỗi dự án phải có sự đồng thuận tuyệt đối / unanimous agreement], một điều cơ bản đã có trong quy định của Ủy Ban Sông Mekong 1957 / Mekong River Committee [hay còn có tên gọi: Statute of the Committee for Coordination of Investigations of the Lower Mekong, Basin Statute]. Và ai cũng biết Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn, sẽ gánh chịu tất cả những hậu quả tích lũy từ các con đập thượng nguồn.
Đến tháng 10/2007, tức 12 năm sau Việt Nam lại phạm vào bước sai lầm chiến lược thứ hai khi để cho công ty quốc doanh PetroVietnam Power Corporation ký kết một Biên bản Ghi nhớ / A Memorandum of Understanding (MoU) với chính phủ Lào về Dự án đập thủy điện Luang Prabang. Lúc đó những dự án chuỗi 9 con đập dòng chính của Lào mới chỉ có trên giấy: chưa có Xayaburi, Don Sahong, Pak Beng, Pak Lay…
Kể từ đầu năm 2006, các công ty Trung Quốc, Thái Lan, và Mã Lai được phép tiếp tục thực hiện những cuộc khảo sát về tính khả thi / feasibility của những con “đập dòng chảy / run-of-river” thuộc Lưu Vực Dưới sông Mekong; thứ tự những dự án đập ấy từ bắc xuống nam: [Hình 1]
1. Đập Pak Beng, Lào 1320 MW; bảo trợ dự án: công ty “Trung Quốc” Datang International Power Generation Co. và chánh phủ Lào.
2. Đập Luang Prabang, Lào 1410 MW; bảo trợ bởi PetroVietnam Power Corporation và chánh phủ Lào.
3. Đập Xayaburi, 1260 MW, tỉnh Xayaburi, Lào; bảo trợ bởi công ty Thái Lan Ch. Karnchang và chánh phủ Lào.
4. Đập Pak Lay, Lào, 1320 MW tỉnh Xayaburi; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc” Sinohydro Co. tháng 6, 2007 để khảo sát của dự án.
5. Đập Xanakham, Lào, 1000MW; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc” Datang International Power Generation Co.
6. Đập Pak Chom, biên giới Lào Thái, 1079 MW
7. Đập Ban Koum, biên giới Lào Thái, 2230 MW, tỉnh Ubon Ratchathani; bảo trợ bởi Italian-Thai Development Co., Ltd và Asia Corp Holdings Ltd. và chánh phủ Lào.
8. Đập Lat Sua, Lào, 800 MW; bảo trợ bởi Charoen Energy and Water Asia Co. Ltd. /Thái Lan và chánh phủ Lào.
9. Đập Don Sahong 360 MW, tỉnh Champasak, Lào: được bảo trợ bởi công ty Mã Lai Mega First Berhad Co. thực chất phía sau là một công ty “Trung Quốc”.
10. Đập Stung Treng, Cam Bốt, 980 MW; bảo trợ bởi chánh phủ Nga
11. Đập Sambor, Cam Bốt; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc”/ China Southern Power Grid Co./ CSG.
Với chính phủ Lào thì Biên bản Ghi nhớ – Memorandum of Understanding – ký kết năm 2007 về dự án thủy điện Luang Prabang với Việt Nam không thuần chỉ là một “quid pro quo – trao đổi dịch vụ giữa hai bên” nhưng có một ý nghĩa chiến lược lớn lao hơn một con đập rất nhiều, đó là: Việt Nam đã bật tín hiệu đèn xanh đối với toàn chuỗi 9 con đập dòng chính trên sông Mekong của Lào. Chính phủ Lào đã rất khôn ngoan hiểu rõ rằng từ nay 2007, trên thực tế – de facto, mọi phản đối của Việt Nam nếu có cũng chỉ là chiếu lệ; và giới am hiểu tình hình lưu vực sông Mekong đã thấy rõ một Hà Nội bị chi phối bởi các nhóm lợi ích, và đã bị khuất phục và quy hàng trước chiến lược thủy điện của Lào.
ĐẬP LUANG PRABANG VÀ MỐI QUAN TÂM VỀ MÔI SINH
KS Phạm Phan Long, sáng lập Hội Sinh Thái Việt / Viet Ecology Foundation có trụ sở tại California Hoa Kỳ hoạt động từ hơn 20 năm qua, phát biểu:
“Lào ngang nhiên tuyên bố sẽ xúc tiến dự án thủy điện Luang Prabang. Việt Nam tham gia làm đối tác, góp phần vốn nhiều nhất trong dự án. VN mất hết cơ sở pháp lý để phản đối Lào về bất cứ dự án thủy điện khác. Lào và nhóm kỹ sư cố vấn cổ võ cho thủy điện thường tuyên truyền trấn an dân cư là các thang cá / fish ladder sẽ bảo tồn các đoàn di ngư, nhưng trên 40 năm kinh nghiệm thủy điện Hoa Kỳ với cá hồi, loài di ngư lừng danh nhất đang trên đà suy thoái dần đến tuyệt chủng, các chuyên gia cho rằng sẽ phải phá gỡ cả bốn đập trên sông Columbia để cứu chúng. Lào xem thủy điện như là ân sủng thiên nhiên, là nguồn kinh tế “vạn đại dung thân”, cũng đã mướn chuyên gia làm thang cá, nhưng cá Mekong không biết nhảy qua thang cá, với kinh nghiệm thang cá đập Pak Mun trên một phụ lưu sông Mekong của Thái Lan. [Hình 3] Kinh nghiệm đắt giá thủy điện Columbia đang rơi vào bế tắc, dù trải qua mấy thập niên huy hoàng, nhưng nay không thể ngờ lại sắp bị tê liệt vì hệ quả sinh thái tiềm ẩn, chi phí ngày càng tăng, thu nhập giảm vì công nghệ cổ điển, lỗi thời. https://www.eenews.net/stories/1061110823
Hình 3: Mẫu thang cá / fish ladder vô dụng của đập Pak Mun; nay lại được đưa vào thiết kế cho con đập dòng chính Xayaburi. Nguồn: International River
Đây là bài học lớn cho Lào và Việt Nam để kịp nghĩ kỹ lại, trước khi để Thái Lan mang trang bị máy móc vào xây đập Luang Prabang. VN cần thức tỉnh.” Thêm nữa, thủy điện đang bị thách thức bởi năng lượng tái tạo từ gió và mặt trời, sạch và vô tận, trẻ trung hiện đại và chỉ cần 1 năm sinh ra là chúng trưởng thành hoạt động, và rất rẻ.”
Đặng Thùy Trang thuộc tổ chức Quỹ Động Vật Hoang Dã / WWF trong chương trình phát triển thủy điện bền vững ở Lào khi nói về “thang cá” đã phát biểu: “Chúng ta không nên dùng sông Mekong như phòng thí nghiệm để trắc nghiệm kỹ thuật này.” Nay cũng vẫn mẫu thang cá vô dụng ấy, được đưa vào thiết kế cho con đập dòng chính Xayaburi như một trang trí thay vì là một đáp số cho những đoàn di ngư ở một quy mô lớn lao hơn rất nhiều.
TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu về Biến đổi khí hậu (Dragon Institute – Mekong), Đại học Cần Thơ, phát biểu:
“Điều rất tệ hại nếu một công ty Quốc doanh Việt Nam tham gia đầu tư bất kỳ dự án thủy điện nào ở dòng chính sông Mekong. Sự kiện này phải được xem là một hành động cực kỳ nghiêm trọng, dẫn nhanh đến sự hủy hoại hệ sinh thái và cuộc sống ở Hạ lưu Đồng bằng Sông Cửu Long. Các quan chức Việt Nam đồng lõa với quyết định hợp tác xây dựng dự án thủy điện Luang Prabang phải chịu trách nhiệm lịch sử và chính trị với nhân dân Việt Nam.”
Maureen Harris, hiện là giám đốc chương trình Đông Nam Á của International River nhận định:
“Tôi bất bình về quyết định của Lào, đồng thời cũng chỉ trích nước này đã không hợp tác trong những kế hoạch phát triển mang tính chất vùng – more regional approach. Bằng chứng khoa học về những tác động tích lũy của những dự án đập này rất rõ ràng. Các tác hại bao gồm: hủy hoại nguồn cá, mất phù sa và làm biến đổi dòng chảy – đưa tới đe dọa an toàn lương thực và sinh cảnh sống của các cộng đồng cư dân trong lưu vực.”
Harris đã trả lời ký giả Andrew Nachemson, thuộc hãng thông tấn Al Jazeera như trên qua một email. Cô cũng nêu ra câu hỏi về hiệu quả của tiến trình tham vấn trước (Prior Consultation) có dám đối đầu với những nan đề đặt ra không: “Không đáp ứng mối quan tâm của quần chúng là một thực trạng đang diễn ra, đã đưa tới sự tẩy chay – boycott, đối với giai đoạn tham khảo trước của con đập Pak Lay”. Harris tiếp (1)
Brian Eyler, Giám đốc chương trình Đông Nam Á của Trung tâm Stimson, tác giả cuốn sách Last Days of the Mighty Mekong 2019, cũng bày tỏ mối quan tâm về dự án Luang Prabang, Eyler đặt ra câu hỏi: “Liệu con đập Luang Prabang này có là một dự án con voi trắng / bạch tượng / white elephant project của chính phủ Lào?” (ghi chú của người viết: con voi trắng / bạch tượng được xem là biểu tượng của sự may mắn, giàu có, và sự thịnh vượng).
Cũng Brian Eyler tiếp: “Tại sao lại đồng ý với con đập dòng chính Luang Prabang này khi mà rõ ràng con đập dòng chính Xayaburi đầu tiên đã gây tình trạng hạn hán gia tăng nơi hạ nguồn?”
Toàn lưu vực sông Mekong đã trải qua một Mùa Khô kéo dài lẽ ra được kết thúc với Mùa Mưa năm nay. Nhưng do những con đập thượng nguồn giữ nước đã khiến cho tình trạng hạn hán thêm tệ hại hơn.
Ngày 23/09/2019 rất sớm các tổ chức NGOs xã hội dân sự của Thái Lan cũng đồng loạt lên tiếng chống lại dự án thủy điện Luang Prabang của Lào. (6)
Ngày 8/10/2019 Liên Minh Cứu Sông Mekong / Save The Mekong Coalition mạnh mẽ lên tiếng kêu gọi Hủy dự án Luang Prabang và các con đập dòng chính trên sông Mekong của Lào. (7)
Ngày 10/10/2019 Mạng Lưới Sông Việt Nam / Vietnam River Network cũng có một Thông cáo báo chí nhưng chỉ với đề nghị yếu ớt hơn: yêu cầu Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PV Power) và các cơ quan chức năng xem xét lại việc đầu tư vào dự án Thủy điện Luang Prabang tại Lào. (8)
Còn với 20 triệu cư dân nơi ĐBSCL thì sao? Như từ bấy lâu, họ vẫn bị thiếu thốn thông tin và không được quyền có tiếng nói cho dù đó là “lẽ sống còn” của họ.
THAY LỜI KẾT: MÔI SINH VÀ DÂN CHỦ
Không phải bây giờ mà từ tháng 10/2007, cách đây 12 năm khi Hà Nội cho phép công ty quốc doanh PetroVietnam Power Corporation ký bản Biên bản Ghi nhớ MoU với chính phủ Lào đầu tư xây con đập Luang Prabang, con đập dòng chính lớn nhất của Lào, cũng có nghĩa là Việt Nam đã gửi đi một tín hiệu “bật đèn xanh” cho toàn 9 dự án đập dòng chính của Lào.
Sự kiện này có thể ví như Hà Nội quyết định ném lên đầu 20 triệu cư dân đang sống ngất ngư nơi ĐBSCL những chuỗi bom tấn nổ chậm / time bomb, phá hoại không chỉ cuộc sống hiện tại của họ mà cả những thế hệ tương lai.
Việt Nam khi đặt bút ký trên vào Hiệp Ước Hợp Tác Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông Mekong 1995: “Các quốc gia thành viên ký kết cùng đồng ý là bằng mọi cố gắng phòng tránh, làm nhẹ hay giảm thiểu những hậu quả tác hại trên môi trường… do phát triển và sử dụng Lưu vực Sông Mekong.” Nhưng điều cơ bản ấy chưa hề được các quốc gia Mekong tôn trọng, trong đó phải kể cả quốc gia Lào nhỏ bé nhưng hung hãn do được chống lưng bởi nước lớn Trung Quốc.
Trong một tương lai không xa, con sông Mekong – con sông Danube của Châu Á ấy, sẽ chỉ còn là một con sông chết, chỉ để sản xuất thủy điện, dùng làm thủy lộ giao thông.
Rồi nhìn về Việt Nam với hình ảnh ước lệ của hơn nửa thế kỷ trước về một Đồng Bằng Sông Cửu Long, với ruộng vườn thẳng cánh cò bay, tôm cá đầy đồng – thì rồi ra tất cả đã đi vào quá khứ. Chỉ mới đây thôi có dịp trở lại viếng thăm, để chỉ thấy trên toàn cảnh là một ĐBSCL đang rất nhanh trên đà suy thoái và cứ nghèo dần đi. Và không biết một trăm năm sau, liệu có còn không một Đồng Bằng Sông Cửu Long và một Nền Văn Minh Miệt Vườn?
Rồi nhìn vào toàn cảnh các quốc gia trong lưu vực Sông Mekong từ Trung Quốc xuống tới Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam cho dù mang những tên gọi khác nhau nhưng đó vẫn là những đất nước chưa có dân chủ, vẫn là những “xã hội hình tháp – social pyramid”, nói theo ngôn từ của nhà xã hội học Miến Kyaw Nyein, với đỉnh tháp là thiểu số thống trị và dưới đáy vẫn là đa số những người dân nghèo khổ bị khai thác và bóc lột.
Từ năm 2000, người viết cũng đã đưa ra nhận định: “Và hiển nhiên không có giải pháp đơn lẻ cho vấn đề môi sinh mà phải là bước chuyển hóa cơ bản và đồng bộ của các hệ thống xã hội từ “Toàn Trị” tiến lên “Dân Chủ”. Có dân chủ là có cơ hội mở mang dân trí và chính cư dân sống hai bên bờ sông Mekong sẽ có ý thức và tiếng nói bảo vệ dòng sông như là mạch sống của chính họ. Và người dân sẽ có cơ hội đồng đều, có quyền được uống một ngụm nước trong lành, được hít thở một bầu không khí tinh khiết và có tự do, đó chính là “nhân quyền” chỉ có được trong một đất nước dân chủ.”
Vấn đề cốt lõi: Môi Sinh và Dân Chủ sẽ mãi mãi là một “Bộ Đôi Không Thể Tách Rời / Inseparable Duo.”
NGÔ THẾ VINH
Columbus Day, 14.10.2019
____________
THAM KHẢO:
1/ Laos to go ahead with Luang Prabang dam project despite warnings, by Andrew Nachemson, 24 Sept 2019
Nói đến vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) thì có nhiều cái nhìn và quan điểm trái chiều. Nhìn từ ngoài và nhìn bao quát thì vùng đất này có phát triển, nổi bật nhất là tăng lượng xuất khẩu nông thuỷ sản do làm lúa nhiều vụ mùa. Mỗi năm vùng ĐBSCL xuất khẩu trị giá hơn 12 tỉ USD, tương đương số tiền “Việt kiều” gửi về VN hàng năm. Nhiều người trong giới kĩ thuật thì xem thuỷ lợi là một phát triển ngoạn mục, đóng góp vào việc tăng mùa vụ và sản lượng lúa. Những phát triển đó đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân. Đó là một ‘bức tranh’ mà nhà nước và những quan chức kĩ thuật muốn tô vẽ cho vùng ĐBSCL. Ngay cả nhạc sĩ Lam Phương, tác giả “Khúc ca ngày mùa”, cũng khó có thể miêu tả một bức tranh đẹp hơn.
Thế nhưng nhìn chi tiết hơn và quan sát cuộc sống của người dân tại miền quê (thay vì qua con số) lại cho ra một bức tranh khác: người dân vẫn nghèo. Nghèo nhất nhì nước. Không chỉ nghèo mà còn “thiếu chữ”, kém học. Thanh niên bỏ ruộng đồng đi tha hương làm công nhân trong các khu kĩ nghệ; thanh nữ thì bỏ nước làm dâu xứ người, gây mất cân bằng cơ cấu dân số trong miền quê. Tại sao? Tại vì những thu nhập bạc tỉ USD từ xuất khẩu lúa gạo không về đến người nông dân mà về tay những con buôn — những con buôn ngồi trong phòng máy lạnh, những con buôn dưới danh nghĩa tập đoàn không hẳn vì lợi ích của nông dân. Tại vì nguồn sống ở vùng đất này càng ngày càng cạn kiệt. Sông ngòi ô nhiễm nghiêm trọng và là mối đe doạ lớn nhất đến sức khoẻ trong tất cả các mối đe doạ. Nước mặn xâm nhập gây xáo trộn mùa vụ. Đường xá và hệ thống giao thông tồi tệ nhất nhì trên cả nước. Những cảnh thanh bình Lam Phương miêu tả không còn nữa, vì đồng xanh không còn “vui khúc ca ngày mùa”. Những thực trạng đó là một sự mỉa mai cho hai chữ “phát triển”.
Thành ra, khái niệm “phát triển bền vững” là rất liên quan đối với ĐBSCL. Trong bối cảnh đó, tôi hân hạnh giới thiệu bài thứ 5 trong loạt bài về Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) của Nhà văn Ngô Thế Vinh. Bài này chỉ ra những ‘phát triển’ mà tác giả dùng chữ ‘tự huỷ hoại’ ở vùng đất vựa lúa của cả nước và thế giới.
——
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ NHỮNG BƯỚC PHÁT TRIỂN TỰ HUỶ HOẠI 1975 – 2018
NGÔ THẾ VINH
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
Để tưởng nhớ Mai Chửng
điêu khắc gia tượng đài Bông Lúa 1970
Primum Non Nocere / Trước hết không gây hại.
Hình 1: tới Cửa Trần Đề mút cuối con Sông Hậu, từ trái: Ngô Thế Vinh trên bãi biển Trần Đề; giữa & phải: ĐBSCL với bờ biển ngày đêm bị sạt lở và sói mòn. [photo by Phạm Phan Long & Ngô Thế Vinh]
TỚI CỬA TRẦN ĐỀ MÚT CUỐI SÔNG HẬU
Từ con Kênh Vĩnh Tế biên giới Việt Miên tới Cửa Trần Đề, có thể nói chúng tôi đã đi gần suốt chiều dài con Sông Hậu.
Nguy cơ rối loạn dòng chảy hạ lưu là có thật và có thể nhìn tử thượng nguồn. Nhìn về Phương Bắc, từ hơn hai thập niên qua, người viết không ngừng báo động về những mối nguy cơ tích luỹ không thể đảo ngược từ phía thượng nguồn do nạn phá trắng những khu rừng mưa nhiệt đới (rainforest), rồi những khu rừng lũ (flooded forest) quanh Biển Hồ, tới kế hoạch phá đá phá các ghềnh thác (Mekong rapids blasting project) khai thông mở rộng dòng sông Mekong để cho tàu bè của Trung Quốc vận chuyển hàng hoá tràn xuống các quốc gia hạ lưu, cùng với ảnh hưởng lâu dài là những con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam, tiếp đến là chuỗi 12 dự án đập dòng chính hạ lưu ở Lào và Cam Bốt với hậu quả gây rối loạn dòng chảy, mất nguồn cát nguồn phù sa nơi các hồ chứa, với thời gian có thể đưa tới một tiến trình đảo ngược, một Đồng Bằng Sông Cửu Long / ĐBSCL còn non trẻ có thể từ từ tan rã.
Hình 2: 16 năm trước thời điểm tháng 9.2002, tác giả đứng bên chân con đập Mạn Loan / Manwan 1,500 MW, con đập lịch sử, con đập dòng chính / mainstream dam đầu tiên trên thượng nguồn Sông Lancang-Mekong Vân Nam, Trung Quốc. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Trung Quốc đang khống chế không chỉ Biển Đông mà còn trên toàn Lưu Vực Sông Mekong, Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn, giới cầm quyền VN thì lệ thuộc về chính trị vào Trung Quốc và do đó hoàn toàn bị động. Cho dù Việt Nam thỉnh thoảng có lên tiếng phản đối yếu ớt nhưng thực tế không có chiến lược gì cụ thể và hầu như không làm được gì để bảo vệ sự sống còn của hơn 17 triệu cư dân ĐBSCL và cũng là vựa lúa của cả nước. Đó là một sự thật.
Quá trình tự huỷ xảy ra ngay tại ĐBSCL. Lòng sông không ngừng bị nạo vét để lấy cát. Diện tích rừng tràm rừng đước tiếp tục bị phá và thu hẹp. Khai thác vô hạn các tầng nước ngầm. Thêm vào đó là những dự án trọng điểm của nhà nước được cổ xuý là để “cải tạo” ĐBSCL từ sau 1975, nhưng đã gây tác hại nhiều hơn. Đó là những huỷ hoại mang tính tích luỹ.
Hậu quả nhãn tiền là bờ sông, bờ biển không ngừng bị sạt lở, đất lún nhanh hơn biển dâng, nạn nhiễm mặn trầm trọng hơn và rõ ràng là nguồn tài nguyên thiên nhiên của cả một vùng đất mới vốn được ưu đãi thì nay cứ nghèo dần đi. Kết luận dễ dàng nhất để rũ bỏ mọi trách nhiệm là đổ lỗi cho Mẹ Thiên nhiên, cho Biến đổi Khí hậu nhưng không thể không kể tới một chuỗi hậu quả tích luỹ của những yếu tố nhân tai, do chính con người gây ra với sự thụ động của giới cầm quyền.
Hình 3: 600 km bờ sông các tỉnh Miền Tây đang bị sạt lở; hình trái, Sông Hậu tỉnh An Giang với nhiều khúc bờ sông bị sạt lở do nhiều yếu tố nhân tai: mất lượng phù sa do hồ chứa nơi những con đập thuỷ điện thượng nguồn, nạn phá rừng, nạo vét lòng sông khắp nơi để khai thác cát. [photo by AX, VN Express 15.05.2017]; hình phải, bờ Sông Hậu sạt lở nơi huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp. [photo by PanNature VN 2009]
Hình 4: Dọc bờ biển ĐBSCL cũng ngày đêm âm thầm bị xói mòn / beach erosion; so với sạt lở ven sông, tình trạng sạt lở ven biển trầm trọng hơn nhiều. Một dãy nhà bị đổ sụp xuống sông được báo chí và dân chúng quan tâm nhiều hơn nhưng sạt lở ven biển là một cái chết chậm và rất âm thầm; hình trái, là cây bần bật gốc bị cuốn trôi rạt nơi Cửa sông Trần Đề. [photo by Ngô Thế Vinh 2017]; hình phải, sạt lở rừng ven biển gây mất đất đai tại huyện Phú Tân tỉnh Kiên Giang. [photo by PanNature VN 2012]
QUA CÙ LAO DUNG
Gần tới Biển Đông, gặp Cù Lao Dung, Sông Hậu chia làm hai nhánh: hữu ngạn chảy ra cửa Trần Đề (trước đây còn có tên gọi là Trấn Di) thuộc tỉnh Sóc Trăng; tả ngạn chảy ra cửa Định An thuộc tỉnh Trà Vinh. Ở giữa hai cửa Trần Đề và Định An là cửa Ba Thắc rất nhỏ đã bị phù sa vùi lấp từ trăm năm trước. Cửu Long chín cửa: 9, thực tế chỉ có Bát Long: 8, nay thêm cửa Ba Lai của Sông Tiền bị bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn xây cống đập chặn mặn bít kín, chỉ còn là Thất Long: 7. [Hình 5a]
Hình 5a: Cửu Long Chín Cửa Hai Dòng, nay chỉ còn Bảy Cửa: Sông Hậu ba cửa nay còn hai: (1) cửa Trần Đề, (2) cửa Định An, (cửa Ba Thắc / Bassac đã bị lấp). Sông Tiền sáu cửa nay còn năm: (3) cửa Cung Hầu, (4) cửa Cổ Chiên, (5) cửa Hàm Luông, (cửa Ba Lai đã bị đắp đập làm cống chặn mặn từ năm 2000), (6) cửa Đại, (7) cửa Tiểu. [nguồn: bản đồ Dragon/ CTU; với ghi chú của Ngô Thế Vinh, CLCD BĐDS p.360]
Hình 5b: Cù lao Dung chia Sông Hậu ra làm hai nhánh: nhánh hữu ngạn chảy ra cửa Trần Đề, nhánh tả ngạn chảy ra cửa Định An. [nguồn: Wikipedia, thêm ghi chú của người viết].
Cù Lao Dung là một trong những cù lao lớn trên Sông Hậu, nằm giữa 2 tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh. Cù Lao Dung là một huyện thuộc tỉnh Sóc Trăng, diện tích 24.944 hecta với dân số khoảng 63,000 người [62,931 người theo thống kê 2009]. Phía Đông và Bắc giáp tỉnh Trà Vinh; phía Tây giáp huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng; phía Nam giáp Biển Đông. [Hình 5b]
Nếu từ bản đồ Google bung ra, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều cù lao lớn nhỏ trên hai con Sông Tiền và Sông Hậu. Nói chung, đất cù lao là do phù sa bồi đắp nên phì nhiêu, rất thích hợp cho các loại cây trái. Cư dân sống trên đất cù lao, qua nhiều thế hệ, được thiên nhiên ưu đãi phải nói sung túc nếu không muốn nói là giàu có.
Do là một cù lao rất lớn và trải dài trên Sông Hậu, nửa cuối Cù lao Dung tiếp cận với Biển Đông nên được hưởng cả hai chế độ thuỷ văn và thuỷ sản nước mặn và nước ngọt theo mùa.
Hình 6: tới cuối năm 2017, vẫn còn một nền văn-hoá-phà, hoạt động rất hiệu quả trên nhiều vùng sông nước Cửu Long; các chuyến phà Đại Ngãi trên nhánh Sông Hậu qua lại Cù lao Dung. [photo by Ngô Thế Vinh]
Hình 7: trái, túi trữ nước ngọt lấy từ giếng bơm; 100% nước tưới ruộng hành, kể cả nước dùng cho tiện dụng gia cư đều lấy từ các giếng bơm từ các tầng nước ngầm, là nguyên nhân khiến nền đất ĐBSCL lún nhanh hơn mực nước biển dâng. [photo by Phạm Phan Long]; phải, cảnh vẫn thường thấy ngày đêm là những chuyến xà lan chở đầy cát được nạo vét từ hai con Sông Tiền và Sông Hậu, cũng là một trong những nguyên nhân gây sạt lở trầm trọng ven sông. [photo by Ngô Thế Vinh]
QUA KÊNH QUAN CHÁNH BỐ
Kênh Quan Chánh Bố nguyên là một kênh đào thuộc huyện Duyên Hải tỉnh Trà Vinh. Một đầu kênh nối với Sông Hậu ở xã Định An (Trà Cú). Con kênh chạy dọc theo ranh giới huyện Duyên Hải và Trà Cú phía bắc Quốc lộ 53, và đổ ra Biển Đông. Nguyên thuỷ, con Kênh Quan Chánh Bố được đào từ thế kỷ 19 [thời gian 1837 – 1838] để dẫn nước từ Sông Hậu vào rửa mặn vùng đồng lầy Láng Sắt, công trình đào kênh thời đó do Quan Chánh Bố Trần Trung Tiên đảm trách.
Sang thập niên đầu của thế kỷ 21, [năm 2009], Bộ Giao thông Vận tải [GTVT] dưới thời bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng, người Đà Nẵng [nhiệm kỳ 06.2006 – 08.2011] triển khai một dự án nạo vét con Kênh Quan Chánh Bố nhằm tạo một thuỷ lộ từ biển đi vào Sông Hậu tới giang cảng Cần Thơ thay cho luồng đi qua cửa Định An, viện lý do cửa Định An bị nhiều phù sa bồi đắp khiến các con tàu trọng tải lớn có nguy cơ mắc cạn khi đi vào Sông Hậu.[sic]
Hình 8: Dự án Luồng Kênh Quan Chánh Bố với mức đầu tư ban đầu lên tới 9,781 tỷ đồng, từ ngày đi vào giai đoạn vận hành thử nghiệm đang là nguồn cơn thống khổ của cư dân đang sống hai bên bờ con kênh. [nguồn: tài liệu của Bộ Giao Thông Vận Tải]
Với kế hoạch mở rộng và vét sâu theo suốt chiều dài 19.2 km con Kênh Quan Chánh Bố tính từ chỗ nối với Sông Hậu đến xã Long Khánh; đồng thời, khai mở thêm một khúc kênh mới có tên gọi là Kênh Tắt dài 8.2 km được nối phần cuối đoạn mở rộng con Kênh Quan Chánh Bố qua xã Đông Hải thông ra tới biển và thêm đoạn kênh biển dài 7 km. Nếu kể cả đoạn Sông Hậu dài 12.1 km Luồng Kênh Quan Chánh Bố có tổng chiều dài là 46.5 km. [Hình 8]
Dự án Luồng Kênh Quan Chánh Bố với mức đầu tư ban đầu lên tới 9,781 tỷ đồng, được khoe đây là “con kênh đào Panama của Việt Nam“, một so sánh rất khiên cưỡng. Kênh Panama có tầm vóc thế giới và là một con kênh chiến lược cắt ngang eo đất Panama Trung Mỹ nối liền hai biển lớn là Đại Tây Dương với Thái Bình Dương, thay vì phải vòng qua Mũi Sừng / Cape Horn điểm cực nam của Nam Mỹ, với rút ngắn hơn nửa khoảng cách đường biển, như tàu bè đi từ New York chỉ phải vượt qua 9,500 km để tới San Francisco thay vì 22,500 km nếu không qua kênh đào Panama.
Cũng giống như các dự án trọng điểm khác nơi ĐBSCL, phải nói là dự án Luồng Kênh Quan Chánh Bố được hình thành khá vội vã, cả với những ý kiến bất đồng (4) nhưng vẫn cho khởi công từ cuối năm 2009. Như từ bao giờ, đa số các dự án chưa có đủ thời gian nghiên cứu để có được cơ sở khoa học, thảo luận và đánh giá một cách khách quan, và nhất là thiếu minh bạch; đã thế khi đi vào thực hiện dự án Luồng Kênh Quan Chánh Bố lại không có được hình thức đấu thầu công khai theo luật định, mà là chỉ định nhà thầu thuộc các nhóm lợi ích. Tiêu tốn ngân sách hàng nhiều ngàn tỷ đồng chỉ với mục tiêu đơn giản và cuối cùng là tìm được một đường tàu biển trọng tải lớn ra vào ĐBSCL mà không quan tâm gì tới tính bền vững về môi trường, đến hiệu quả kinh tế, và nhất là sự an toàn cho người dân. Nạn nhân không ai khác hơn vẫn những người “dân đen” được đưa ra làm thử nghiệm. Và, những cuộc thử nghiệm cứ nối tiếp nhau, dù hiệu quả thì chưa thấy rõ nhưng hậu quả thì hầu như ai cũng thấy.
Tưởng cũng nên có một ghi chú bên lề, bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng sau nhiệm kỳ 5 năm ở Bộ Giao Thông Vận Tải cho tới lúc nghỉ hưu vào tháng 8.2011 khi đó công trình con Kênh Quan Chánh Bố còn dở dang và cũng theo báo chí lề phải trong nước, để chuẩn bị trước về hưu, khi còn tại nhiệm chính ông Hồ Nghĩa Dũng cũng đã chỉ định một nhà đầu tư cho một Dự án lớn khác: Xây đường hầm Đèo Cả để rồi sau đó không ai khác hơn là chính ông tham gia vào Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần đầu tư Đèo Cả. Bước chuẩn bị này đã từng gây tai tiếng, bị chính báo chí trong nước gọi đây là “hành động lót ổ” đồng thời là “một tiền lệ xấu”. Ông bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng còn được nhớ tới với thành tích đề xuất xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam dài 1570 km với kinh phí 55 tỉ USD, may mà sau đó dự án đã bị Quốc hội khoá XII biểu quyết bác bỏ.
Công trình Kênh Quan Chánh Bố sau đó được tiếp tục qua thời Bộ trưởng kế nhiệm Đinh La Thăng, người Nam Định, [nhiệm kỳ 03.2011 – 08.2016] với một tiểu sử rất dày: trước khi về bộ Giao thông Vận tải, ông đã là Chủ tịch Hội đồng Dầu khí Quốc gia VN (2008-2011), Chủ tịch Hội đồng Quản trị Dầu khí Quốc gia VN (2005-2008), Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tổng Công ty Sông Đà (2001-2003); và nay 2018 thì đang bị dính vào vòng lao lý do “cố ý làm sai trái quy định nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng khi ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng Dầu khí Quốc gia VN”.
Và rồi sau 7 năm khởi công [2009 – 2016], công trình Luồng Kênh Quan Chánh Bố được hoàn thành vào đầu năm 2016; với thành tích là những con số: Kênh Quan Chánh Bố nay có thể tiếp nhận các tàu biển lớn 20.000 tấn giảm tải và 10.000 tấn đầy tải vào Sông Hậu. WIKIPEDIA
Và chỉ một năm đi vào hoạt động với không ít hệ luỵ, theo báo Đất Việt [ngày 10.04.2017], Bộ Giao Thông Vận Tải / GTVT lại tính thay thế Phà Kênh Tắt bằng một Đường hầm chui qua Kênh Tắt, khiến dư luận hết sức băn khoăn.
Hình 9: Kênh Tắt là đoạn kênh đào mới nối đoạn cuối con Kênh Quan Chánh Bố thông ra biển. Để nối hai bờ Kênh Tắt trên QL 53 dự tính ban đầu là Cầu Kênh Tắt; sau đó cầu được thay thế bằng Phà Kênh Tắt, chỉ mới một năm Phà Kênh Tắt đi vào hoạt động, Bộ GTVT lại tính thay thế bằng Đường Hầm Chui qua Kênh Tắt với dự tính tổn phí lên tới 10,319.2 tỷ đồng… khiến GS Nguyễn Ngọc Trân, người theo dõi dự án Luồng Kênh Quan Chánh Bố từ giai đoạn đầu tiên đã phải vô cùng ngạc nhiên vì chủ đầu tư thay đổi phương án như thay áo cho dù phải chi hàng ngàn tỷ đồng ngân sách nhà nước. (2) [photo by Ngô Thế Vinh]
GS Nguyễn Ngọc Trân, [người gốc người Miền Tây, sinh ra trên một cù lao giữa Sông Tiền, huyện Chợ Mới tỉnh An Giang, là thành viên lâu năm Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia, cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ từ 1992 phải lên tiếng:
“Điều gây ngạc nhiên đến khó có thể tưởng tượng là thông báo trong Trang địa phương của vị Thứ trưởng, nguyên Cục Trưởng Cục Hàng hải, rằng Thủ tướng Chính phủ có chủ trương giao cho Bộ GTVT nghiên cứu làm hầm qua Kênh Tắt để tránh cho người dân không phải qua phà đồng thời đảm bảo an toàn cho luồng tàu biển. Để làm việc này, Trang địa phương cho thông tin sẽ cần thêm 50 ha đất, và trên 3,000 tỷ đồng. Dự kiến sẽ triển khai vào cuối năm nay.
Gây ngạc nhiên vì phương án đầu tiên nối hai bờ Kênh Tắt trên QL 53 là Cầu Kênh Tắt. Qua quá trình triển khai dự án, phương án cầu đã được thay thế bằng Phà Kênh Tắt. Phà này mới được đưa vào hoạt động từ ngày 20.01.2016, ngày thông luồng Kênh Tắt. Như vậy, chỉ sau một năm đi vào hoạt động, Bộ GTVT lại tính thay thế Phà Kênh Tắt bằng một Hầm Chui qua Kênh Tắt. Và thay đổi này không phải là duy nhất.
Khi được cho triển khai (công văn số 123/TTg-CN ngày 22.01.2007) tổng mức đầu tư của dự án là 3,148.5 tỷ đồng. Mười tháng sau, tổng mức đầu tư của dự án được Bộ GTVT duyệt tại Quyết định số 3744/QĐ-BGTVT ngày 30.11.2007 tăng từ 3,148.5 lên 10,319.2 tỷ đồng, nghĩa là gấp 3.28 lần. Bởi vì khối lượng nạo vét luồng từ 22 triệu m3 tăng lên 28.1 triệu m3; kè dọc tuyến luồng 35.94 km thay vì 27.57 km; giải phóng mặt bằng 1406.47 ha thay vì 300 ha; thay đổi mái dốc nạo vét do nền đất yếu; thay đổi đê chắn cát thành đê chắn sóng; kết hợp đê chắn sóng của dự án luồng với dự án cảng biển Trà Vinh…
Ngạc nhiên vì chủ đầu tư thay đổi phương án… giống như thay áo, cho dù phải chi hàng ngàn tỷ đồng ngân sách nhà nước cho những thay đổi đó. Cử tri, những người đóng thuế cho ngân sách, có quyền đặt câu hỏi về tính nghiêm túc của dự án! Khó có thể tưởng tượng vì chi ngân sách hàng ngàn tỷ đồng sao mà dễ dàng đến thế! Đó là chưa nói đến hiệu quả kinh tế, tác động lên môi trường tự nhiên và xã hội. Liệu lần này với phương án hầm chui rồi cũng sẽ làm như các lần trước?” [sic] hết trích dẫn (2)
Không lâu sau đó, theo VTV.VN [16.11.2017] cơ quan truyền hình nhà nước đã lại phải lên tiếng báo động (3):
Tàu biển hàng chục nghìn tấn lưu thông qua Kênh Quan Chánh Bố, tỉnh Trà Vinh gây sóng lớn đe dọa tính mạng, làm thiệt hại tài sản khiến người dân nơi đây vô cùng lo sợ. Tháng 1/2016, luồng tàu biển vào Sông Hậu chính thức được thông luồng, đáp ứng cho tàu biển có tải trọng 10,000 tấn chở đầy hàng và 20,000 tấn vơi hàng lưu thông. Luồng tàu vào Sông Hậu có đoạn đi qua Kênh Quan Chánh Bố của các huyện Trà Cú và Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Từ ngày thông luồng đến nay, hàng trăm hộ dân ở hai xã Long Vĩnh và Đôn Xuân sống ven Kênh Quan Chánh Bố luôn sống trong cảnh thấp thỏm, lo lắng. Nguyên nhân là do tàu biển đã nhiều lần gây sóng lớn, làm thiệt hại tài sản và đe dọa đến tính mạng người dân. Người dân cho biết, hiện tượng sóng tràn vào nhà xảy ra rất nhiều lần. Theo bà Đặng Thị Cúc (huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh), cháu ngoại của bà đã từng bị sóng lớn do tàu biển gây ra cuốn trôi xuống con lạch trước nhà, rất may cháu được phát hiện và cứu kịp thời. Sau tai nạn kinh hoàng đó, để bảo vệ các cháu, gia đình bà đã phải làm hàng rào lưới trước nhà. Vết sẹo trên chân bà Kim Thị Tiến vẫn chưa lành hẳn, hậu quả sau một lần bà bảo vệ chiếc ghe của gia đình tránh bị sóng đánh vỡ. Đến nay, bà Dương Thị Phượng vẫn chưa hết bị ám ảnh khi nhắc lại câu chuyện tàu biển gây sóng lớn đánh nát một chiếc xuồng và ghe cào. Ngoài ra, một lượng hải sản lớn đã bị thất thoát khiến gia đình bà bị thất thoát khoảng 100 triệu đồng. Người dân cho biết, các tàu này hoạt động không thường xuyên mà cách 1 – 2 ngày. Tuy nhiên, điều nguy hiểm là các tàu biển gây sóng cao từ 3-4 m nhưng ít khi bấm còi khi qua khu vực đông dân cư và có thể chạy vào bất cứ giờ nào trong ngày, kể cả ban đêm… [sic]
Rồi tới báo Đại Đoàn Kết [04.07.2017], cho biết có tình trạng sạt lở hai bên bờ con kênh, đòi hỏi thêm kinh phí ứng phó được đề xuất lên đến 1,600 tỷ đồng nữa. (1)
Nhưng theo nguồn tin từ công ty Hải Vận Ship, thì dù đang trong giai đoạn thử nghiệm [sic] nhưng đến nay đã có 14 chuyến tàu từ biển đi qua Kênh Tắt đến Kênh Quan Chánh Bố để vào Sông Hậu.
Sau khi chuyến tàu Đông Thiên Phú Diamond tải trọng hơn 4,000 tấn đi vào ngày 7/7, có nhiều tàu tải trọng lớn khác như tàu Tân Cảng Glory chở container tải trọng gần 9,000 tấn vào Sông Hậu một chuyến/ tuần. Cuối tháng 11, chuyến tàu Vinalines Unity tải trọng trên 20 nghìn tấn chở hàng nhẹ cũng hai lần vào Kênh Tắt an toàn để cập cảng trên Sông Hậu.
Ông Võ Minh Tiến, Giám đốc Cảng vụ Hàng hải Cần Thơ cho biết, do đang trong quá trình khai thác thử nghiệm [sic] nên đơn vị phải phối hợp với lực lượng biên phòng, chính quyền địa phương thường xuyên tổ chức tuần tra, thanh thải luồng lạch để đảm bảo cho các chuyến tàu ra vào an toàn. Đến thời điểm này, dự án Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào Sông Hậu đã đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật, đảm bảo an toàn cho tàu thuyền tải trọng lớn ra vào. HẢI VẬN SHIP
Điều đang lưu ý là ông Giám đốc Cảng vụ Hàng hải Cần Thơ chỉ quan tâm tới bảo đảm an toàn cho tàu biển trọng tải lớn ra vào Sông Hậu, mà lại không đề cập gì tới an toàn và sinh mạng của chính những người dân ngày đêm sống lo âu thấp thỏm ven kênh.
Với những hệ lụy nổi cộm từ khi Luồng Kênh Quan Chánh Bố từ khi đi vào vận hành, cũng vẫn GS Nguyễn Ngọc Trân đã phải kiến nghị thẳng thắn đối với Dự án luồng Sông Hậu qua Kênh Tắt và Kênh Quan Chánh Bố cần được Quốc hội giám sát, đặc biệt là việc thực hiện giám sát những vấn đề liên quan đến Luồng Quan Chánh Bố. Bởi vì, các luồng tự nhiên như Định An thì ngày càng nông trong khi luồng qua Kênh Quan Chánh Bố còn phải nạo vét nhiều và chưa biết độ ổn định ra sao.
Còn TS Lê Kế Lâm mong muốn, Bộ Giao thông Vận Tải / GTVT trong quá trình thực hiện Dự án cần có cơ sở cho các nhà khoa học nghiên cứu, thảo luận và đánh giá một cách khách quan chính xác. Và, Bộ GTVT nên tổ chức phản biện đối với Dự án này, nhất là phản biện của các tổ chức tư vấn, của các hội. Ngay cả khi lựa chọn tổ chức tư vấn phản biện theo hình thức đấu thầu công khai theo luật định, chứ không thể chỉ định thầu. Mục tiêu cuối cùng là tìm được một luồng tàu biển ra vào ĐBSCL một cách kinh tế, an toàn, bền vững về môi trường, không phụ lòng mong mỏi của người dân.
[Tưởng cũng nên nói thêm, TS Lê Kế Lâm nguyên Thiếu tướng Hải quân tương đương Phó Đô đốc, hiện là chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật và Kinh tế Biển TP. HCM nhiệm kỳ 2014-2019, TS Lê Kế Lâm được nhiều người biết đến qua sự kiện Hội KHKT mà ông là Chủ tịch đã can đảm công khai lên tiếng phản đối mạnh mẽ Trung Quốc trong vụ giàn khoan Hải Dương981].
Đại Đoàn Kết [04.07.2017], Lê Anh.
Hình 10: tàu 7,000 tấn lưu thông từ biển qua Kênh Quan Chánh Bố vào Sông Hậu. [nguồn: báo Đại Đoàn Kết 04.07.2017], nói về giá trị kinh tế của dự án Kênh Quan Chánh Bố cho tàu trong tải lớn từ Biển Đông đi vào Sông Hậu để tới giang cảng Cần Thơ, cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời và vẫn đang gây rất nhiều tranh cãi. Hiệu quả kinh tế của Luồng Kênh Quan Chánh Bố chưa thấy đâu nhưng đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực.
NHỮNG DỰ ÁN SAI LẦM TỪ HỆ THỐNG
Từ sau 1975, như một chuỗi sai lầm từ hệ thống, nhà nước đã thiết lập vội vã nhiều dự án trọng điểm nhằm “cải tạo” ĐBSCL, đa phần là can thiệp thô bạo gây tác hại trên hệ sinh thái mong manh của cả một vùng châu thổ, do thiếu sót trong Đánh giá Chiến lược Tác động Môi trường ĐTM [SEA hay Strategic Environment Assessment], với những “nghiên cứu mệnh danh là khoa học” nhưng theo phong cách: làm nhanh ăn nhanh; rồi đem chính mạng sống và kế sinh nhai người dân ra thử nghiệm, khi mà người dân đã bị tước đoạt tự do và quyền tự vệ. Đây hẳn là điều không thể nào được chấp nhận trong một quốc gia có dân chủ.
Có thể nói đa số các quy trình SEA là nguỵ tạo do thiếu minh bạch và trách nhiệm khi mà:
1. Mâu thuẫn lợi ích. Báo cáo SEA do chính chủ đầu tư chọn nhóm tư vấn, trả chi phí cho họ và đương nhiên toán tư vấn phải viết báo cáo biện hộ tối đa cho dự án và che đậy tối đa các tác động xấu cho chủ đầu tư. Những cố vấn có lương tâm trách nhiệm sẽ từ chối không tham dự vào những hợp đồng có hại cho uy tín lâu dài của họ. Hệ quả là các báo cáo SEA cho các dự án Việt Nam sẽ không thể tin cậy để đưa tới quyết định.
2. Thiếu minh bạch khoa học. Báo cáo SEA không được công bố rộng rãi trên truyền thông báo chí, mà là đặc ân dành cho những viên chức trong bộ máy cầm quyền tham vấn với nhau và người dân muốn tìm hiểu thì phải mò mẫm trong bóng tối và khi có ý kiến phản đối thì họ và cả gia đình có thể bị hăm doạ và cả đàn áp tù đầy.
3. Hội đồng thẩm định báo cáo SEA không có sự tham sự của các chuyên gia khoa học độc lập và xã hội dân sự. Đôi khi các nhà khoa học ấy còn bị mạo danh là tác giả của bản báo cáo để che chắn cho chủ thầu, lừa cả nhà cầm quyền và không ai phải chịu một sự chế tài hay trừng phạt nào. Hệ thống SEA bị ô nhiễm ở cả hai phía chủ thầu và uỷ ban duyệt xét.
4. Những cơ quan quản lý phát triển cơ sở hạ tầng như VN Food, EVN, PVN, Vinacomin… là những tập đoàn chịu sự chi phối và khống chế bởi các nhóm lợi ích. Họ liên kết nhau đề ra những công trình quy mô để tạo cơ hội sinh lợi, một thứ văn hoá tham nhũng đã thành nề nếp cả nước đều biết mà vẫn phải im lặng chịu đựng.
5. Sau khi dự án đi vào vận hành, hệ thống quan trắc vi phạm ô nhiễm hoạt động không hiệu quả và không có báo cáo rộng rãi. Như một ví dụ, theo điều tra riêng của Hội Sinh Thái Việt / Việt Ecology Foundation, thì ngay cả thông tin chỉ số chất lượng không khí / Air Quality Index cũng bị chính cơ quan cầm quyền cố ý tự sửa đổi để né tránh trách nhiệm, tạo những thông tin sai lạc và đánh lạc hướng dư luận.
6. Một thể chế tạo ra và dung dưỡng các nhóm lợi ích như thế sẽ không có chỗ cho nhân tài tham gia nếu họ không chấp nhận từ bỏ ý thức trách nhiệm và tiếng nói của lương tri. Vẫn có những trí thức chân chính trong nước từ chối tham gia vào guồng máy nhưng khi cần họ vẫn can đảm lên tiếng phản biện cả với cái giá phải trả nhằm giảm thiểu những tác hại lâu dài trên nguồn tài nguyên đất nước của các thế hệ tương lai.
Nguyên lý bất di bất dịch là: Trước Hết là Không Gây Hại (Primum Non Nocere), vẫn cứ mãi là bài học vỡ lòng, là kim chỉ nam cho các bộ trưởng, vụ trưởng các ngành trước khi khởi công bất cứ một dự án nào trên ĐBSCL. Thế nhưng trong thực tế chưa có một chứng cớ nào cho thấy các vị ấy hành động theo nguyên lý căn bản trên.
Có thể liệt kê ngay những dự án chính đã và đang gây tác hại và tổn thương lâu dài cho ĐBSCL như:
_ Dự án đê bao chống lũ: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], với những đê bao ngăn lũ chỉ để có thêm đất làm lúa cao sản 3 vụ, vắt kiệt đất đai, lại không có nguồn phù sa, nước tù đọng tích luỹ ô nhiễm đồng thời làm giảm lượng nước vào hai vùng trũng Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Xuyên như nguồn dự trữ cho toàn ĐBSCL trong Mùa Khô.
_ Dự án cống đập chặn mặn: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], ngăn chặn dòng chảy tự nhiên biến những con sông khoẻ mạnh thành ao hồ tù đọng, xoá đi một nền văn hoá nước lợ / brackish water và gây rối loạn dây chuyền trên toàn nhịp đập / Mekong Pulse của hệ sinh thái ĐBSCL.
_ Dự án 14 nhà máy nhiệt điện than: [Bộ Công Thương], biến ĐBSCL là bãi tiếp nhận các nhà máy nhiệt điện chạy than phế thải từ Trung Quốc với hậu quả tàn phá môi trường đất đai, nguồn nước và không khí với sức khoẻ của người dân không hề được quan tâm tới nếu không muốn nói là bị hy sinh.
_ Dự án Nhà Máy Giấy Lee & Man: [Bộ Tài Nguyên & Môi Trường] gây ô nhiễm nghiêm trọng vì nguồn nước thải với đủ loại hoá chất được chính Bộ TNMT cấp phép cho xả thải ra Sông Hậu đang giết chết dòng sông, rồi còn phải kể tới bụi khói độc hại, mùi hôi thối, tiếng ồn từ nhà máy ngày đêm bào mòn sức khoẻ của người dân.
_ Dự án Kênh Quan Chánh Bố: [Bộ Giao thông & Vận tải], với tốn kém hàng nhiều ngàn tỷ đồng chỉ để cho mấy tàu trọng tải lớn từ Biển đi vào Sông Hậu để tới giang cảng Cần Thơ gây bao khốn khổ cho người dân khi mà giá trị kinh tế của dự án kênh Quan Chánh Bố, cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời và vẫn đang gây rất nhiều tranh cãi gay gắt.
Danh sách trên vẫn chưa đầy đủ. Trong thực tế còn nhiều dự án nhỏ cấp địa phương đã và đang được triển khai nhưng không có những nghiên cứu làm cơ sở và cũng chẳng có đánh giá tác hại môi trường từ các chuyên gia độc lập.
Ấy vậy mà cho đến nay vẫn có những người trong giới cầm quyền và giới khoa học thuộc quản lý của nhà cầm quyền cho rằng họ đã thành công trong việc nâng cao sản lượng nông nghiệp qua các công trình thuỷ lợi và “ém phèn” được xem là “thành công ngoạn mục”. Thật ngạc nhiên, một thành tựu lớn như vậy mà không hề có bất cứ một công bố khoa học nào trên các diễn đàn khoa học quốc tế! Tuy nhiên, đối với những người sống và làm việc ở ĐBSCL thì những thành tựu đó chỉ là trên giấy. Những “ngôi sao” khoa học hình như xuất hiện nhiều trên hệ thống truyền thông của Nhà nước hơn là trên diễn đàn khoa học nghiêm chỉnh.
GS Nguyễn Văn Tuấn, một nhà khoa học có nhiều trải nghiệm ở trong nước và qua nhiều năm quan sát miền quê ĐBSCL cho rằng: “Sự thật là một số không nhỏ trong giới khoa học Việt Nam làm nghiên cứu không theo chuẩn mực quốc tế, kết quả không được công bố, nên chẳng ai biết thực hư ra sao. Báo chí trong nước và ngay cả Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cũng thừa nhận rằng nhiều ‘công trình’ của họ thường nằm trong hộc tủ, chứ ít khi nào được công bố. Ngay cả khi được công bố thì dấu hỏi lớn vẫn lơ lửng trên những số liệu họ báo cáo.”
Cũng GS Nguyễn Văn Tuấn, nhận định: “[…] còn quá sớm để quy những công trạng – nếu có – cho giới khoa học. Tôi quan sát ở miền quê tôi thì thấy sự thật là những thành tựu về tăng năng suất trồng trọt và lúa là do người nông dân xoay xở. Nông dân tự thử nghiệm cho đến khi đạt được kết quả tốt (kiểu trial-and-error). Họ có thể không biết những nguyên tắc thí nghiệm hay ngẫu nhiên hoá, họ có thể không rành tính toán như các kỹ sư & tiến sĩ, nhưng qua trial-and-error, họ có thể lai giống và tạo giống mới, chế tạo máy gặt lúa, máy cấy lúa, máy hút lục bình, v.v. Giới khoa học chẳng giúp gì cho họ trong các sáng kiến đó. Người nông dân thiếu chữ để nói đó là công trạng của họ, và thay vào đó có những người mang mác ‘tiến sĩ’ giành công trạng cho mình. Ai cũng biết tác nhân làm nghèo làm khổ nông dân miền Tây là cái tập đoàn lương thực có tổng hành dinh nằm ngoài … Hà Nội.”
Ở Việt Nam, người ta có câu khuyên các nhà quản lý và khoa học quốc doanh: đừng làm gì hết, ngồi yên đó để dân nuôi, vì họ làm là hư hỏng.
Trong thực tế miền nào (Nam, Trung, Bắc đều) có những hiền tài với cả nhân cách, họ như những cánh sen giữa bùn lầy và nhà cầm quyền đã không có một chính sách chiêu hiền đãi sĩ khiến nguồn chất xám ấy không được trọng dụng; để rồi những tài năng ấy hoặc bị mai một hoặc họ phải chọn con đường bỏ đất nước ra đi.
Và cũng không phải là quá khắt khe khi dân gian nhắc tới khái niệm “giới khoa học quốc doanh” theo cái nghĩa xấu nhất: đó là một tập đoàn đội lốt khoa bảng bị mua chuộc, chèn ép những người có thực tài, họ cấu kết với nhau, mai phục trong các bộ các ngành ở Việt Nam và nghiễm nghiên trở thành công cụ, tệ hơn nữa họ trở thành một dàn kèn dư luận viên bênh vực vô điều kiện cả những sai trái cho một guồng máy chuyên chính chỉ biết vơ vét và chia chác quyền lợi. Và nạn nhân không ai khác hơn chính là đám dân đen câm nín và tiếng kêu than của họ nếu có cũng không được lắng nghe.
THAY LỜI KẾT: CON ĐƯỜNG VÒNG 43 NĂM
Bây giờ, chúng tôi đang đứng ở mút cuối con Sông Hậu, nhìn từng đợt sóng vỗ vẫn còn màu nâu nhạt của phù sa nơi cửa sông trải rộng để chan hoà vào biển cả; bao nhiêu cảm xúc tràn về, như một flashback, chợt nhớ lại hơn một lần qua Long Xuyên, nơi có tượng đài Bông Lúa Con Gái của Mai Chửng, [Hình 11] một cố tri và cũng là một tên tuổi lớn trong lãnh vực điêu khắc của Miền Nam.
Sau 1975, cùng với chiến dịch đốt sách, Tượng đài Bông Lúa ấy cũng đã bị phá sập, quả không phải là một “điềm lành” cho tương lai nền Văn Minh Lúa Gạo và cả hậu vận của toàn vùng Sông Nước Cửu Long.
Hình 11a: Tượng đài Bông Lúa Con Gái 1970 bằng đồng lá, một tác phẩm nghệ thuật lớn của điêu khắc gia Mai Chửng Hội Hoạ Sĩ Trẻ VN, [nguồn: tư liệu Hội Hoạ Sĩ Trẻ 1966-1975].
Hình 11b: trái, điêu khắc gia Mai Chửng đứng bên công trình tượng đài Bông Lúa thực hiện bằng đồng lá, cao hơn 16 m đang xây cất tại tỉnh Long Xuyên ĐBSCL; toàn cảnh pho tượng Bông Lúa tại Công viên Trưng Vương tỉnh Long Xuyên 1970; nhưng chỉ 5 năm sau, sau 30 tháng 4, 1975 tượng đài Bông Lúa ấy đã bị phá sập, quả không phải là một “điềm lành”. [nguồn: sưu tập Dương Văn Chung, Thatsonchaudoc.com]
Người dân Việt Nam, và hơn 17 triệu cư dân ĐBSCL nói riêng đang thầm mơ ước gì? Mơ được trở lại với một nền giáo dục nhân bản đã có từ 43 năm trước. Mơ được sống trở lại với một Miền Tây trù phú với gạo trắng nước trong, cây trái trĩu cành và tôm cá đầy đồng. Thời hoàng kim ấy đã qua rồi, sau 43 năm “cải tạo”, một ĐBSCL với nguồn tài nguyên thiên nhiên không những đã nghèo đi, người dân còn phải chứng kiến những dòng sông đang chết, phẩm chất cuộc sống / quality of life của họ sa sút, họ phải sống ngày đêm trong nỗi bất an với đất, nước, không khí ngày càng thêm ô nhiễm. Và cũng dễ hiểu tại sao đã có ngót 2 triệu cư dân ĐBSCL bỏ làng xóm ra đi. Cuộc tỵ nạn môi sinh ấy không có dấu hiệu suy giảm.
Và cũng đã hơn một lần, trong các bài viết, người viết đã nêu rõ quan điểm: “môi sinh và dân chủ phải là một bộ đôi không thể tách rời“.