“Gia tài của mẹ là nước Việt buồn”

Mấy ngày qua thấy bạn bè nhắc đến ca khúc “Gia tài của mẹ”, nhưng mãi đến hôm nay tôi mới biết nguồn cơn. Cái note này thuật lại một câu chuyện thú vị về số phận của ca khúc đó trước 1975. Theo tôi, cái chế độ kiểm duyệt văn nghệ kiểu Mao-ít ở Việt Nam đã quá xưa rồi, nên bỏ đi, để nhà cầm quyền có thể ngẩng cao đầu nói câu “hoà giải dân tộc”.

Ca khúc “Gia tài của mẹ” là một trong những ‘bài tủ’ của thế hệ tôi thời trước 1975. Ca khúc được viết chắc vào năm 1965 hay 1966 trong loạt “Ca Khúc Da Vàng”. Trong đó, có những ca khúc như Nước mắt cho quê hương, Đồng dao hoà bình, Ta thấy gì đêm nay, Chờ nhìn quê hương sáng chói, và đặc biệt là Gia tài của mẹ. Bởi vậy, khi đọc review thấy phim gì mới về Trịnh Công Sơn không có đề cập đến Ca Khúc Da Vàng làm nhiều người thế hệ tôi không mặn mà mấy.

Hồi đó (thập niên 1980) mà có được CD này là quí lắm. Đây là CD “Ca Khúc Da Vàng” được hoà âm, phối khí lại hiện đại hơn và phát hành ở hải ngoại.

Ca khúc Gia tài của mẹ rất dễ hát. Giai điệu đơn giản. Lời ca rất dễ nhớ, dễ thấm vào thanh niên có suy tư về hiện tình đất nước. Chính vì thế mà ca khúc này thường được trình diễn trong các buổi picnic và … biểu tình.

Nhưng Gia tài của mẹ còn là một ca khúc mà giới tâm lí chiến VNCH sử dụng để chiêu hồi lính Bắc Việt. Theo một sĩ quan tình báo VNCH, trước đây giới tâm lí chiến đã cho trực thăng phát thanh ca khúc Gia tài của mẹ với tiếng hát Khánh Ly nhắm thẳng vào lính Bắc Việt dọc đường mòn HCM.

Vẫn theo viên sĩ quan tình báo, Trịnh Công Sơn trong một lần phỏng vấn đã nói với ông rằng:

“Tôi không kêu gọi họ buông súng hay mang súng trở về như Bộ Chiêu hồi, nhưng tôi đã làm việc ấy một cách tế nhị và rất thâm trầm như bài ‘Lại cần với nhau’ với lời nhạc ‘… đừng bỏ tôi… đừng bỏ tôi… đi hai mươi năm qua… còn gì cho anh… còn gì cho tôi… không còn gì… không còn gì… còn lại chiến tranh… hai mươi năm chinh chiến mẹ ngủ không yên…’ Và còn nhiều nữa, tôi đã nói thẳng với họ hãy vượt mọi trấn áp, từ bỏ rừng núi… mà trở về cùng với dân tộc đang chịu quá nhiều đoạ đầy thống khổ như bài ‘Nối vòng tay lớn’ với câu kết luận ‘Vượt thác cheo leo… hay ta vượt đèo… từ quê nghèo lên phố lớn… nắm tay nối liền biển xanh sông gấm… nối vòng tay lớn…’ Tôi đã nói chuyện với họ như bằng hữu, như anh em chứ không phải như ông Bộ trưởng Chiêu hồi.

Phương cách của tôi theo tôi nghĩ có thể thích hợp và được họ vui vẻ chấp nhận và lĩnh hội hơn. Tôi thương yêu và kính trọng họ thật, với tình người thật, với tinh thần ruột thịt thật và muốn trải với họ chút tâm sự thật. Tôi có thể bị công an, bị chính ông kết tội nhưng đó là sự thật tôi không giấu giếm. Cũng bằng cách này, tôi đã gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh cho những giới chức chỉ đạo chiến tranh của bên này và cả bên kia.” (trích từ talawas [1]).

Nếu câu nói trên được thuật lại chính xác thì Trịnh Công Sơn viết Gia tài của mẹ hay những ca khúc khác trong Ca Khúc Da Vàng là có nghĩ đến mấy người bộ đội miền Bắc. Rất có thể vì thế mà mấy người nắm quyền kiểm duyệt văn hoá ngày nay cảm thấy ‘dị ứng’ với ca khúc nổi tiếng này?

Chế độ kiểm duyệt văn hoá, kể cả âm nhạc, theo cách chúng ta thấy ở Việt Nam ngày nay thật ra bắt nguồn từ bên Tàu sau khi Mao Trạch Đông cướp chánh quyền thành công. Quan điểm của Mao là đảng cộng sản China phải đóng vai trò vừa là người thầy, vừa là người kiểm soát đời sống văn hoá của người dân. Trong vai trò người thầy, đảng phải ‘giáo dục’ những gì họ xem là lẽ phải và những gì họ đánh giá là sai trái. Trong vai trò của kiểm soát viên, đảng giữ quyền cho phép cái gì được lưu hành và cái gì cần phải cấm đoán. Trước sự xâm nhập của nhạc phương Tây vào đời sống văn hoá của giới có học, Mao tuyên bố rằng cần phải ‘khoa học hoá’ âm nhạc truyền thống, và  đồng thời lọc bỏ những ‘cặn bã’ trong âm nhạc phương Tây hay chịu ảnh hưởng phương Tây. Nhà cầm quyền miền Bắc Việt Nam, không ngạc nhiên, cũng học theo cách làm đó.

Nhìn bao quát như vậy để chúng ta không ngạc nhiên trước sự kiểm duyệt âm nhạc sau 1975 ở miền Nam. Thoạt đầu, người ta rất ngạc nhiên là nhà cầm quyền mới có hẳn một danh sách những cuốn sách nào và những ca khúc nào hay những tác giả nào được lưu hành hay không được lưu hành. Mấy người từ miền ngoài mới vào và những người miền Nam mới từ trong rừng ra đánh giá rất thấp văn hoá – văn nghệ miền Nam. Họ xem nền văn nghệ miền Nam là quảng bá lối sống phương Tây, là sùng bái đồng tiền, là cổ suý cho lối sống truỵ lạc dâm ô, là phi nhân tính, v.v. (danh sách các tính từ rất dài). Một phong trào tiêu diệt ‘tàn dư văn hoá Mĩ nguỵ’ được phát động. Đó là chuyện của 4 thập niên trước.

Thời gian gần đây, hình như nhà cầm quyền văn hoá đã dần dần nhận thức được rằng những cáo buộc hấp tấp và hồ đồ trước đây là sai lầm. Việt Nam ngày nay đã dần dần ‘hội nhập’ quốc tế, và giới có học đã tiếp xúc được với những giá trị văn hoá và nhân văn mà miền Nam đã tiếp nhận 50 năm truóc. Người ta đã nhận ra rằng những Võ Phiến, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Du Tử Lê, Dương Nghiễm Mậu, Phạm Duy, Lam Phương, Trần Thiện Thanh, Vũ Thành An, Phạm Đình Chương, Từ Công Phụng, Chế Linh, v.v. (danh sách rất dài) không phải là ‘phản động’ mà là những tài năng đáng trân quí, những ‘tài sản quốc gia’ của Việt Nam. Vậy là người ta cho lưu hành một số ca khúc (và tác phẩm văn học nghệ thuật trước 1975), và giới trẻ đã bắt đầu tiếp xúc với những tác phẩm của các vị đó.

Ca khúc “Gia tài của mẹ” chỉ là một trong những di sản quí báu của nền văn nghệ miền Nam (làm ơn bỏ chữ ‘đô thị’ nghen) trước 1975. Đó là một ca khúc được viết ra trong một thời kì biến động lịch sử theo cái nhìn của Trịnh Công Sơn. Cái nhìn của ông ấy rằng cuộc xung đột võ trang Nam – Bắc là một cuộc ‘nội chiến’; rằng những tuyên truyền biện minh cho cuộc chiến là dối trá (nên mới có câu “Dạy cho con tiếng nói thật thà”); rằng sự du nhập của những chủ thuyết Tây – Tàu là “lai căn”, và những kẻ du nhập đó là “một bọn lai căn”; rằng bọn lai căn đó đã làm cho “ruộng đồng khô khan” và “nhà cháy từng ngàn”, hay nói chung là “một nước Việt buồn”. Nhà cầm quyền có thể đồng ý hay không đồng ý với cảm nhận của ông ấy, nhưng ông ấy có quyền viết ra những cảm nhận đó, và giới trẻ có quyền biết được thế hệ cha anh nghĩ gì về cuộc chiến.

Riêng cá nhân tôi thì đồng ý với Trịnh Công Sơn về những ý tưởng trong ca khúc “Gia tài của mẹ”. Hãy nhìn vào cái gia tài đó sau cuộc chiến: lòng người li tán; một nhóm thiểu số ăn trên ngồi trốc xem người dân chẳng ra gì; sự thật lịch sử bị biến dạng; công lí là một điều xa xỉ; tài nguyên để lại cho con cháu đời sau thì càng ngày càng cạn kiệt; và người Việt vẫn bỏ nước ra đi và chết thảm. Với hiện trạng đó, nếu không gọi một “nước Việt buồn” thì gọi là gì? Trịnh Công Sơn đã đúng.

_____

[1] http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12753&rb=0206#anm1

Dĩ nhiên ở đây tôi chỉ bàn về ca khúc “Gia tài của mẹ” thôi. Tôi biết rằng sau 1975, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tỏ ra thân thiện với nhà cầm quyền qua những bài viết và phát biểu. Chẳng hạn như vào ngày 30/4/1975, Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh Sài Gòn phát biểu những lời hơi khó nghe:

Hôm nay tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam, các bạn trẻ và Chính phủ Cách mạng lâm thời xem những kẻ ra đi là những kẻ phản bội đất nước. Chính phủ Cách mạng lâm thời đến đây với thái độ hòa giải, tốt đẹp. Chúng ta không có lý do gì để sợ hãi mà ra đi cả. Đây là cơ hội duy nhất và đẹp đẽ nhất để đất nước Việt Nam được thống nhất và độc lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước suốt mấy chục năm nay. Tôi xin tất cả các bạn, thân hữu và cũng như những người chưa quen của tôi xin ở lại và kết hợp chặt chẽ với Ủy ban Cách mạng lâm thời để góp tiếng nói xây dựng miền Nam Việt Nam này.

Câu nói đó của TCS đã làm cho những người vượt biển rất giận dữ và không tha thứ. Họ giận đến nổi những chương trình ca nhạc vinh danh ông ở Mĩ và Úc đều bị biểu tình phản đối (nhưng vẫn diễn ra).

Ngay cả nhiều bạn tôi, tuy không phải là trong quân đội VNCH, nhưng vẫn không chấp nhận thái độ của TCS. Thỉnh thoảng tôi cũng bị phiền phức hay gây ra tranh cãi trong nhóm bạn bè khi tôi tỏ ý hâm mộ TCS!

Trịnh Công Sơn viết về Hồ Chí Minh trên báo Tuổi Trẻ dịp 30/4 năm 1979.