Giấc mơ châu thổ: Ngày Nước Việt Nam 10/3/2023, Ngày Nước Thế giới 22/3/2023

Lời giới thiệu: Hôm nay (22/3) được Liên hiệp quốc chọn làm Ngày Nước Thế Giới (World Water Day). Đó là dịp để nhắc nhở công chúng về tầm quan trọng của nước trong cuộc sống hàng ngày. Thế nhưng trong thực tế, gần 800 triệu người trên thế giới, kể cả 39 triệu người ở Việt Nam, không có nguồn nước sạch. Đó là một sự khủng hoảng. Trong bối cảnh đó, tôi trân trọng giới thiệu bài viết dưới đây của Bs Ngô Thế Vinh. NVT

Gửi những trẻ em ĐBSCL không biết bơi, và cả không có ngụm nước sạch để uốngGửi ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL không được quyền có tiếng nóiGửi Nhóm Bạn Cửu LongChẳng thể cứ tự hào Việt Nam nay là đất nước phát triển nếu như dân cư của cả nước vẫn phải sống với nguồn nước bẩn và một môi trường đầy ô nhiễm.“Không có kỹ nghệ không gian các quốc gia vẫn sống được, nhưng không thể sống nếu không có nước” — Oded Distel [Chuyên gia về nước của Do Thái]Đề nghị chọn Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 là Ngày Nước Việt Nam / Vietnam Water Day. [Nhóm Bạn Cửu Long]

Hình 1: Logo Ngày Nước Thế Giới 22/3/2023, với chủ đề: “Bạn cần thay đổi nếu như bạn muốn thấy thế giới đổi thay”. (1) Và đề nghị một châm ngôn cho Ngày Nước Việt Nam 10/3/2023: “Bạn cần can đảm và có tiếng nói nếu như bạn muốn thấy một Việt Nam đổi thay”.

Có một câu chuyện cổ tích về con chim Hummingbird – người Nhật gọi là chim ong – hachidori, người Việt có một tên gọi bình dân hơn là chim ruồi – gửi tới các nhi đồng Việt Nam [tuổi từ 7 cho tới 77 – lứa tuổi nào thì cũng đã có một thời niên thiếu].

Một ngày kia, trong khu rừng có bộc phát một đám cháy. Mọi thú rừng đều tán loạn bỏ chạy sao cho thoát thân. Chúng dừng lại ở bìa rừng nhìn đám cháy vừa kinh hãi vừa buồn bã. Nhưng rồi chúng vẫn thấy trên đầu có một con chim Hummingbird bay tới đám cháy rồi bay đi nhiều lần như thế. Đám thú rừng lớn mới hỏi con chim ong đang làm gì vậy? Chim ong đáp: “Tôi ra hồ hút nước để tới đây dập tắt đám cháy”. Cả bầy thú cười lớn chế nhạo con chim ong và nói: “Chú mày chẳng thể nào dập tắt được ngọn lửa đâu!” Con chim Hummingbird trả lời: “Tôi đang làm điều mà tôi có thể làm được”. Nguồn: UN / WWD 2023

Đây bài học mà các em nhi đồng nơi ĐBSCL nói riêng và Việt Nam nói chung – có thể nghiệm ra là: con chim Hummingbird nhỏ bé kia đang giúp giải quyết vấn đề, với từng giọt nước mỗi lần. Con chim ong bé nhỏ ấy chính là sự thay đổi mà nó muốn thấy ở trên Đất Mẹ và cả trên hành tinh này. Các em có thể là một con chim Hummingbird bé nhỏ ấy! Hành động từ các em, cho dù là bé nhỏ tới đâu, cũng sẽ giúp giải quyết vấn nạn khủng khoảng nước – water crisis, không chỉ nơi ĐBSCL mà cả trên thế giới.

Hình 2: Sông nước đẫm phù sa, chưa bị ô nhiễm là thiên đường giải trí cho những đứa trẻ trong lưu vực sông Mekong – ảnh chụp trên khúc sông Mekong Vientiane, bên cây cầu Hữu nghị Mittaphap (1994), là cây cầu đầu tiên bắc ngang dòng chính sông Mekong từ thủ đô Vạn Tượng, Lào qua tỉnh Nong Khai đông bắc Thái Lan. Photo by Ngô Thế Vinh, tháng 12/ 2000

Hình 3: Ảnh chụp những đứa trẻ vui đùa với dòng nước sạch trên khúc sông Mekong – Siem Reap, Cambodia. Nguồn: photo by Kenji Aoyagi, Mekong the Last River, NTT Publishing Co, Ltd. Tokyo 1995

Hình 4: Cầu khỉ có khắp trên sông rạch ĐBSCL, trước đây khi nước sông còn sạch, cầu khỉ cũng là cầu nhảy của đám trẻ thơ, thuở ấy đứa nào cũng biết bơi lội vẫy vùng như những con ráy cánay thì đa số trẻ em nơi ĐBSCL không còn biết bơi vì nước sông rạch tù đọng và ô nhiễm quá mức. Nguồn: photo by Erik Sampers, Le Mekong, Fleuves & Civilizations, 2000

NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI

Cách đây 30 năm, kể từ 1993, Liên Hiệp Quốc đã chọn ngày 22 tháng 3 mỗi năm là Ngày nước Thế giới / World Water Day, do sáng kiến từ Hội nghị Môi sinh và Phát triển/ United Nations Conference on Environment and Development/ UNCED tại Rio de Janeiro, Brazil [1992].

Có thể nói, nước là biểu hiện của sự sống, vì thế mỗi khi tìm ra tín hiệu có nước trên một vì tinh tú xa xôi thì các nhà khoa học thiên văn đã lạc quan cho rằng có thể có sự sống và những sinh vật ở trên đó. Trái đất này sẽ là một hành tinh chết nếu không có nước. Nhưng trước mắt, thiếu nước – nhất là thiếu nước sạch đang là một vấn đề của thế giới và cũng là vấn nạn trầm trọng nhất của Việt Nam hiện nay.

Ngày nước Thế giới, như cơ hội để mọi người quan tâm tới tầm quan trọng của nguồn nước ngọt / freshwater và cùng nhau vận động hỗ trợ cho những phương cách quản lý bền vững các nguồn nước ấy.

Mỗi năm Liên Hiệp Quốc đều chọn ra một “chủ đề” cho Ngày nước Thế giới để tập trung vận động qua các phương tiện truyền thôngqua những cuộc hội thảo, và giáo dục học đường xoay quanh chủ đề này.

Chủ đề của mỗi năm cho Ngày nước Thế giới không phải chỉ là “khẩu hiệu” mà là một lộ trình / roadmap sinh hoạt và phấn đấu trên toàn cầu sao cho có một nguồn nước sạch. Chủ đề mỗi năm do Liên Hiệp Quốc đã chọn, theo thứ tự thời gian trong suốt 30 năm qua cho Ngày nước Thế giới 22 tháng 3 là:

1994: Chăm sóc nguồn Nước là công việc của mọi người; 1995Nước và Phụ nữ; 1996: Nước cho các đô thị khát; 1997: Nước trên Thế giới, có đủ không; 1998: Nước ngầm, nguồn tài nguyên không thấy; 1999: Mọi người đều sống dưới nguồn; 2000: Nước cho thế kỷ 21; 2001: Nước cho sức khỏe, hành động trách nhiệm; 2002: Nước cho phát triển; 2003: Nước cho tương lai; 2004: Nước và những thảm họa; 2005: Nước cho đời sống; 2006: Nước và văn hóa; 2007: Khan hiếm Nước; 2008: Năm Quốc tế cho vệ sinh; 2009: Nước xuyên biên giới; 2010: Phẩm chất Nước; 2011: Nước cho các đô thị; 2012: Nước và an ninh lương thực; 2013: Nước và hợp tác; 2014: Nước và năng lượng; 2015: Nước và phát triển bền vững; 2016: Nước và việc làm; 2017: Nước và nước thải; 2018: Thiên nhiên và nguồn Nước; 2019: Nước không bỏ lại ai phía sau; 2020: Nước và biến đổi khí hậu; 2021: Đánh giá nguồn Nước; 2022: Nước ngầm, làm rõ điều không thấy; 2023:Bạn cần thay đổi nếu như bạn muốn nhìn thế giới đổi thay.

NHÌN LẠI NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI 2017:

Với chủ đề: Chuyển nước thải thành nguồn nước trù phú.

Hình 5: Ngày nước Thế giới 2017 với slogan, Chuyển Nước thải thành một nguồn Nước Trù phú. Nguồn: UN / WWD 2023

Vào thời điểm đó (2017), cách đây chỉ mới 6 năm, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra những nhận định:

1) Trên toàn cầu, hơn 80% nước thải xả ra môi trường thiên nhiên mà không qua xử lý và không được tái sử dụng.

2) Hiện có 1,8 tỷ người sử dụng nguồn nước uống bị ô nhiễm gây ra các bệnh như tiêu chảy, kiết lỵ, thương hàn và sốt bại liệt / polio… khiến cho 842.000 người chết mỗi năm.

3) Thống kê cũng cho thấy, hiện có 663 triệu người chưa được tiếp cận với các nguồn nước uống hợp vệ sinh.

4) Đến năm 2050, sẽ có 70% dân số thế giới rời vùng thôn quê lên sống trong các đô thị. Con số này hiện nay là 50%.

5) Có nhiều cơ hội để khai thác tài nguyên nước thải. Nước thải được thanh lọc và quản lý hiệu quả sẽ là nguồn nước hữu dụng, với chi phí đầu tư hợp lý và đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững.

6) Nhận định rằng, chi phí cho thanh lọc nguồn nước thải là một đầu tư xứng đáng nếu so với các lợi ích lớn lao về sức khỏe, phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, đồng thời mang lại cơ hội tạo ra nhiều việc làm “xanh” cho xã hội.

Rồi không thể không nhìn về Việt Nam, là một quốc gia đang phát triển, dù không có đủ cơ sở hạ tầng tối thiểu nhưng các nguồn tài nguyên, nhân lực và vật lực vẫn bị vung vãi phân phối không hợp lý – nếu không muốn nói là lãng phí cho những công trình chỉ với mục đích tuyên truyền vô bổ.

*Một ví dụ điển hình là, trong khi người dân không có nước sạch để uống thì nhà nước bật đèn xanh cho các địa phương xuyên suốt từ Bắc vô Nam, thi nhau xây dựng những tượng đài tốn kém hàng ngàn tỉ đồng. Thảm trạng ấy đã khiến nhà toán học trẻ tuổi Ngô Bảo Châu, sau khi được biết chính phủ CSVN vừa ký quyết định chấp thuận cho UBND thành phố Sơn La – vốn là một tỉnh biên giới nghèo phía Bắc, dùng kinh phí 1.400 tỷ đồng – là tiền thuế của người dân, để xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh, phải thốt lên lời cay đắng trên Facebook: “Trẻ con ăn không đủ no, áo không đủ ấm, sinh hoạt như lũ thú hoang, mà bỏ ra 1.400 tỉ để xây dựng tượng đài thì hoặc là khốn nạn hoặc là thần kinh”. Những lãng phí cho những công trình vô bổ như vậy vẫn cứ diễn ra ở khắp Việt Nam như “chuyện thường ngày ở  huyện”.  

Hình 6: trái, Cổng vào n máy X lý Nước thải (Waste Water Treatment Plant) tại Quận Cam, Nam California, mỗi ngày có thể cung cấp 100 triệu gallons – 378 ngàn mét khối nước tinh khiết cho cư dân Quận Cam; từ phải Phạm Phan Long, Becky Mudd, Ngô Thế Vinh; phải, Phạm Phan Long, Ngô Thế Vinh, và Nguyễn Đăng Anh Thi từ Vancouver, trong cơn khát đã cùng uống những ly nước mát tinh khiết được thanh lọc trực tiếp từ nguồn nước thải của cư dân Quận Cam. Nguồn: photo by Becky Mudd

NHÌN LẠI NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI 2020:

Nước và Biến đổi Khí hậu là chủ đề cho Ngày nước Thế giới 22/ 03/ 2020. Trước những tình huống cực đoan của biến đổi khí hậu, với hậu quả là có thể làm rối loạn chu kỳ nước – water cycle, khiến rất khó tiên đoán được về nguồn nước có thể sử dụng – water availability, cùng với những ảnh hưởng trên phẩm chất nước, cả trên tính đa dạng sinh học / biodiversity, đe dọa sự phát triển bền vững trên nhiều lưu vực của các dòng sông trên khắp thế giới.

Dân số toàn cầu từ 7,2 tỷ năm 2015 đến 2020 – theo số liệu của Liên Hiệp Quốc, đã vượt qua con số 7,8 tỷ ngườiDân số Việt Nam từ 92 triệu năm 2015 đến tháng 4 năm 2023 sẽ vượt qua con số 100 triệu trong năm nay. [Việt Nam xếp hàng thứ 15 trong số những nước đông dân nhất thế giới, và đứng hàng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, chỉ sau Indonesia 218 triệu và Philippines 113 triệu].

Tăng dân số cũng có nghĩa là tăng lượng nước sử dụng, kéo theo gia tăng nhu cầu năng lượng để bơm nước, vận chuyển và xử lý thanh lọc nước – water treatment.

Hình 7: trái, bấy lâu, Nhà nước CS Việt Nam, Ủy Ban Sông Mekong Việt Nam nơi 23 Phố Hàng Tre Hà Nội, đã làm gì để tranh đấu cho sự chia sẻ công bằng nguồn nước từ con sông Mekong? Nguồn: biếm họa của Babui75 Mamburao]; phải, thảm cảnh hạn hán nơi ĐBSCL tháng 3 năm 2016, đã khiến nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng phải kêu cứu Trung Quốc cho xả nước từ con đập thủy điện Cảnh Hồng / Jinghong Dam, để cứu hạn cho ĐBSCL nhưng đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Nguồn: VNExpress 3/11/2016

Với Việt Nam, khi dân số tiếp tục tăng theo cấp số nhân (geometric progression) trong khi nguồn nước sạch đáp ứng cho các nhu cầu gia dụng sút giảm, ai cũng có thể thấy đại đa số người dân nghèo trên đất nước này – đặc biệt là phụ nữ và trẻ em – là nạn nhân và dễ bị tổn thương nhất.

Tăng cường mối quan tâm về nước để đáp ứng nhu cầu nước ngày một gia tăng trong tương lai; điều ấy đòi hỏi phải có những quyết định mạnh mẽ, làm cách nào để phân chia các nguồn tài nguyên nước – allocate water resources, thích nghi với biến đổi khí hậu giữa những tranh chấp sử dụng nguồn nước trong các địa phương và các quốc gia lân bang.

Hình 8: trái, Lưu vực sông Mekong – Mekong River Basin or Watershed [MRC 2000]; phải, ĐBSCL là một vùng châu thổ hay tam giác châu (Delta), lớn thứ 3 của thế giới, với lịch sử hình thành do phù sa từ thượng nguồn đổ xuống, lắng đọng lại nơi 9 cửa sông từ suốt bao nhiêu ngàn năm qua. Việc nhà nước CSVN tùy tiện đổi tên thành Lưu vực sông Cửu Long (6) là sai, cả về phương diện địa chất và thủy văn. ĐBSCL hiện nay đang từ từ bị tan rã do “nước đói – hungry water” không còn phù sa, nước đói trở lại  “ăn đất”, gây sạt lở hai bên bờ sông và ven bờ duyên hải; chỉ riêng mũi Cà Mau mỗi năm đã mất hơn 600 mẫu đất và tốc độ lẹm đất ấy ngày một gia tăngGhi chú của Ngô Thế Vinh

Ví dụ điển hình: con sông Mekong dài hơn 4800 km chảy qua 7 quốc gia đang bị tận lực khai thác bởi chuỗi những con đập thủy điện thượng nguồn, và cả bị đổi dòng lấy nước từ con sông Mekong. Làm cách nào để chia sẻ và sử dụng công bằng nguồn nước từ con sông Mekong đang là một “tranh chấp nóng” diễn ra hiện nay.

Cambodia và Việt Nam là hai quốc gia cuối nguồn đang chịu những hậu quả nặng nề nhất: một Biển Hồ như trái tim của Cambodia và của cả Việt Nam đang bị cạn nước cạn cá, một ĐBSCL không chỉ thiếu nguồn nước ngọt từ thượng nguồn mà còn chịu hạn mặn chưa bao giờ khốc liệt như thế. Chưa kể tới khả năng Trung Quốc sử dụng con sông Lancang-Mekong như một thứ vũ khí trong cuộc chiến tranh môi sinh – ecological warfare trừng phạt Việt Nam và các nước hạ lưu khác.  

Đối phó với biến đổi khí hậu không chỉ trên quy mô quốc gia mà cho toàn lưu vực, mọi hoạch định cần theo một phương pháp tích hợp – integrated approach, đối với nhu cầu sử dụng và quản lý nguồn nước.

Cách làm ăn cũ, với vô số những dự án thủy lợi lớn nhỏ bấy lâu của nhà nước CSVN đã chứng tỏ là không hiệu quả – nếu không muốn nói là có hại, điển hình là các cống đập ngăn mặn cùng khắp nơi ĐBSCL trong ngót nửa thế kỷ qua và gần đây nhất là Dự án “được mệnh danh là thế kỷ” Cái Lớn Cái Bé – cũng là một sai lầm “nghịch thiên thế kỷ”.(3)

Từ nay, mọi phương cách quản lý nước cần được phân tích kỹ lưỡng qua lăng kính biến đổi khí hậu – through a climate change lens. Chúng ta cần đầu tư nhiều hơn nữa để cải tiến và cập nhật những dữ liệu thủy học – hydrological data, qua các học viện [như Viện Biến đổi Khí hậu DRAGONS Đại học Cần Thơ], qua các chính phủ, qua giáo dục, và cùng nhau chia sẻ mọi kiến thức, để có được khả năng tiên lượng và đối phó với những rủi ro khan hiếm nước như hiện nay và chắc chắn sẽ trầm trọng hơn trong tương lai.

Những kế hoạch thích ứng cần  tầm nhắm chiến lược – targeted strategies, ưu tiên trợ giúp cho những cộng đồng cư dân lợi tức thấp – nhất là phụ nữ và trẻ em, họ là nhóm người chịu tác động, dễ bị tổn thương và thiệt hại nhiều nhất do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.(1)

NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI 2023:

Ngày Nước Thế Giới 22/3 năm nay với chủ đề: “Bạn cần thay đổi nếu như bạn muốn nhìn thế giới đổi thay”.

Có lẽ không quốc gia nào trên thế giới, chữ “nước” có cả hai nghĩa như tiếng Việt: nước vừa để chỉ quốc gia (nation), vừa để chỉ phân tử H2O, kết hợp từ một nguyên tử oxy và hai nguyên tử hydro, để hình thành nguồn tài nguyên nước (water) quý giá cho nguồn sống trên trái đất. Trong văn hóa của Việt Nam, nước đã gắn bó trong mạch sống của từng con người. Người Việt dùng các cụm từ “giữ nước” khi chống ngoại xâm phương Bắc và “đi mở nước”, thay vì đi mở đất, khi đi về phương Nam.

Người dân vùng ĐBSCL đã có rất nhiều tên để gọi đặc điểm của dòng nước: nước lớn, nước ròng, nước rong, nước kém, nước nổi, nước lụt, nước trầm, nước bạc, nước son, nước đục, nước nhảy, nước tràn, nước chụp, nước đứng, nước ngược, nước xuôi, giáp nước, nhồi nước, xiết nước, rải nước… Về nguồn cung cấp và chất lượng nước thì có những từ: nước trời, nước mưa, nước sông, nước cây, nước ngầm, nước lung, nước đìa, nước mặn, nước ngọt, nước lợ, nước phèn, nước bùn… [Tản mạn về chữ Nước, TS Lê Anh Tuấn]

Nguyên chủ nhiệm tạp chí Đi Tới bên Canada, cảm xúc khi đọc những dòng tản mạn về Nước của TS Lê Anh Tuấn, anh Đoàn Minh Hóa viết: “Nơi ĐBSCL ngày trước, các ghe chở nước uống tới các nơi không có nước ngọt để uống; thời đó người ta không ai nói dịch vụ đó là ”Bán Nước” mà được gọi là ”Đổi Nước” do chính bà con mình cung cấp nước uống cho nhau.

Ô NHIỄM SÔNG RẠCH KHẮP 13 TỈNH MIỀN TÂY

Nước, nước, khắp nơi, không có giọt nước để uống(Water, water, everywhere, Nor any drop to drink)[Samuel Taylor Coleridge 1772-1834]

Cho dù ĐBSCL vẫn là nơi nhận nguồn nước cao nhất Việt Nam tính theo dân số, nhưng từ ngót nửa thế kỷ trở lại đây, tuy có nước vây bủa xung quanh nhưng là nước bẩn hay nước mặn. Thách đố lớn nhất là làm sao thanh lọc được nguồn nước tạp ấy để có nước sạch đưa vào sử dụng. Đó là tình cảnh của ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL, phải sống chung với cả một mạng lưới kinh rạch dòng ngòi sông ô nhiễm, và  hạn mặn đang trầm trọng hơn như hiện nay.

Trên một chuyến phà lớn từ Đại Ngãi qua Cù lao Dung, sóng đánh tung tóe, khách như cảm thấy được vị mặn bám đọng trên môi. Thấy nước khắp nơi nhưng là nước mặn đã xâm nhập vào các ngả sông rạch và người dân thì đang lao đao lùng kiếm tìm mua từng lu nước ngọt để uống. Rồi còn phải kể tới những cánh đồng lúa cháy và các vườn cây trái thối rễ do đất bị nhiễm mặn khiến nhiều nông gia mất trắng tay.

Người bạn đồng hành đứng bên, TS Dương Văn Ni, nhiều năm giảng dạy Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên Đại học Cần Thơ, nói với tôi: Kể cả khi có lũ ngọt đổ về, nước hết mặn cũng không uống được vì dòng sông quá ô nhiễm”. Do chất thải kỹ nghệ từ các nhà máy* ven sông, do phân bón hóa học từ đồng ruộng tràn ra, và cả rác rưởi đổ xuống từ các khu gia cư.

Hình 9: trái, cảnh tượng phổ biến ở các vị trí cống ngăn mặn – mệnh danh là công trình thủy lợi: rác tích tụ và nước có màu tối đen, bốc mùi hôi thối do các chất ô nhiễm phân hủyhình chụp nơi cống ngăn mặn Bãi Giá, Sóc Trăng. Photo by Lê Anh Tuấn 11/12/2017 (4)phải, hậu quả sau nửa thế kỷ cải tạo tự hủy của nhà nước CSVN, toàn thể hệ thống sông rạch, không khí và đất đai nơi ĐBSCL đã trở thành một môi trường cực kỳ ô nhiễm, đang tàn phá sức khỏe của người dân. Nguồn: biếm họa của Babui75 Mamburao

Một ví dụ điển hình là đang có một nhà máy giấy Lee & Man bên bờ sông Hậu đã và đang gây ô nhiễm nghiêm trọng cho dòng sông như mạch sống của ngót 20 triệu dân nơi ĐBSCL do nguồn nước thải với đủ loại hóa chất cực độc nhưng vẫn được Bộ Tài Nguyên & Môi Trường [thời ông Bộ Trưởng TN & MT Trần Hồng Hà 2016-2023, nay là đương kim Phó Thủ tướng của chính phủ Phạm Minh Chính] cấp phép xây nhà máy ven sông, không chỉ cho xả thải ra sông rồi còn phải kể tới bụi khói độc hại, mùi hôi thối, tiếng ồn từ nhà máy ngày đêm bào mòn sức khỏe của người dân trong vùng. Câu hỏi được đặt ra là: Được bao nhiêu lợi nhuận, số tiền ấy đi về đâu, để phải hy sinh sức khỏe của người dân và chấp nhận cái giá đắt môi sinh lâu dài phải trả (environmental costs) di hại tới các thế hệ tương lai như vậy? 

KS Phạm Phan Long, VEF viết: “Việt Nam không phải là vùng đất vô chủ, hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài chỉ để chia chác lợi nhuận với dã tâm bức hại dân mình. Sông Hậu là mạch máu của dân cư ĐBSCL, là quả tim nuôi sống cả nước, là di sản bất khả xâm phạm của dân tộc. Việc cứu lấy dân cư và môi sinh sông Hậu khỏi bị hủy hoại dưới khói bụi và ô nhiễm của Lee & Man là nghĩa vụ thiêng liêng chính quyền không thể tránh né”. (2)

Hình 10: Nhà máy giấy bên bờ sông Hậu, con khủng long Lee & Man đang phun chất độc giết chết sinh cảnh dòng sông Hậu, là một nhánh của Cửu Long Chín Cửa Hai Dòng. Dân kêu cứu vì ô nhiễm từ nhà máy giấy Lee & Man [nguồn: photo by T. Trinh Tuổi Trẻ Online 30/3/2017]

NHÀ NƯỚC CSVN QUY HOẠCH GÌ?

Trong khi trên giấy tờ, trên chính sách về “môi trường nước” thì vẫn không thiếu những khẩu hiệu như Quyết định 22.12.2016 của Thủ tướng Chính phủ: “Định hướng Phát triển cấp nước đô thị tới năm 2020”.

Chỉ mới đây thôi, ngày 6/3/2023, cách đây 2 tuần, ông Trần Hồng Hà, Bộ Trưởng Bộ TN & MT kiêm Phó Thủ tướng đã ký Quyết định 174/QĐ-TTg mang tên Quy hoạch Tổng hợp Lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (5), với khẩu hiệu “tôn trọng quy luật tự nhiên” và “lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi” rồi tự đặt ra những chỉ tiêu đầy tham vọng như:

– 100% vị trí giám sát dòng chảy xuyên biên giới được giám sát tự động, trực tuyến;

– 100% nguồn nước liên tỉnh được công bố khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải;

– 100% công trình khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước được giám sát vận hành và kết nối hệ thống theo quy định;

– 50% nguồn nước thuộc đối tượng lập hành lang bảo vệ nguồn nước được cắm mốc theo quy định;

– 100% nước thải đô thị được xử lý đạt quy chuẩn quốc gia trước khi xả vào nguồn nước, hệ thống thoát nước chung.

Các chỉ tiêu của Quy hoạch – như một cam kết, là tất cảphải đạt mức 100% (trừ việc cắm mốc nguồn nước 50%), trong khi ngân sách đầu tư thì quá thấp (510 tỉ đồng / khoảng 22 triệu USD), trong khoảng thời gian ngắn ngủi chỉ có 7 năm (2023 – 2030), chưa kể làm sao đào tạo được một đội ngũ nhân sự có khả năng và một bộ máy lãnh đạo trong sạch và không chỉ tư duy theo nhiệm kỳ để rồi sau đó là “Sống chết mặc bay / Après moi, le déluge! Điều ấy khiến KS Phạm Phan Long, người từng thực hiện các quy hoạch lớn tại Hoa Kỳ, đã phải hoài nghi và đặt ngay câu hỏi về tính khả thi và độ tin cậy của Quy Hoạch vĩ mô này! (6)

Như từ bao giờ, giữa nói và làm của nhà nước CS Việt Nam, vẫn còn là khoảng cách của một đại dương. Mọi chính sách cần bảo đảm tính đại diện rộng rãi các thành phần tham gia, tạo được sự tin cậy giữa nhà nước, các tổ chức xã hội dân sự và lãnh vực tư nhân. KHỦNG KHOẢNG LÒNG TIN của người dân – như ở Việt Nam hiện nay với mọi chính sách của nhà nước là một “chỉ dấu cho tiên lượng thất bại” của mọi kế hoạch phát triển đất nước.

Nếu nói lãnh đạo là tiên liệu, thì ngay từ quy mô rất nhỏ như Quận Cam, từ mấy thập niên trước họ đã tiên liệu và có mối quan tâm rất sớm về nguy cơ thiếu nước, khai thác quá mức làm suy sụp trữ lượng tầng nước ngầm, để rồi ngày nay GWRS (Groundwater Replenishment System) / Hệ thống Bổ sung Nguồn Nước ngầm đã trở thành một hiện thực, bảo đảm cung cấp một nguồn nước sạch bền vững cho 3 triệu cư dân địa phương.

Khi mà tình trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam đã vượt mức báo động đỏ, mơ ước đơn giản của người dân được uống ly nước sạch, thở bầu không khí trong lành, bữa ăn với chén cơm tô cá và mớ rau xanh không bị nhiễm độc, có vẻ như ngày càng xa vời.

LÀM GÌ ĐỂ TẨY RỬA NHỮNG DÒNG SÔNG?

Phải tẩy rửa cứu lấy những dòng sông đang hấp hối ấy là ưu tiên hàng đầu, và phải làm cho bằng được trong một thời gian ngắn nhất bằng mọi giá. Đây là một công trình khó khăn nhưng không phải không thể vượt qua được với sự hiểu biết và những kỹ thuật hiện đại.

Biện pháp hiệu quả nhất đòi hỏi các điều kiện:

1/ Xác định các nguồn gây ô nhiễm để ngăn chặn và phòng tránh:

– Ô nhiễm từ “điểm nguồn / point source” như từ các khu nhà máy xây dựng ven sông, đổ các chất thải kỹ nghệ / industrial sewage không được thanh lọc / treated xuống các dòng sông: nhà máy giấy Lee & Man, các nhà máy điện than ven sông,

chuỗi nhà máy chế biến thủy sản…

– Ô nhiễm từ “phi-điểm nguồn / non-point source” như do phân bón nông nghiệp, thuốc trừ sâu rầy, thuốc diệt cỏ… đổ tràn xuống suốt chiều dài sông rạch từ những ruộng đồng hay các nông trang. Hoặc từ nước thải và rác rưởi từ các khu gia cư không được xử lý hàng ngày đổ xuống các sông rạch, do không có những phương tiện sinh hoạt vệ sinh tối thiểu: như nhà vệ sinh, nơi xử lý nguồn rác và thiếu cả ý thức về bảo vệ môi trường sống.

Bấy nhiêu ô nhiễm đang bị tích lũy nơi vùng nước tù đọng do bị ngăn chặn bởi hàng ngàn cống đập, với những con sông con rạch không chảy, biến cả một hệ sinh thái sông ngòi / riverine environment thành một hệ sinh thái ao hồ / lacustrine environment đưa tới hậu quả tất yếu là những dòng sông sinh thái đang chết dần.

2/ Trả lại dòng chảy thiên nhiên cho mạng lưới sông rạch, bằng cách mở cửa và dần dà tháo dỡ tất cả các cống đập chắn mặn đã có bấy lâu.

– Hiện trạng ô nhiễm sẽ dần dà được tự tẩy rửa bằng chính lực đẩy của dòng chảy từ phía thượng nguồn và năng lượng dòng nước mặn của thủy triều từ biển. Năng lượng từ hai dòng chảy mặn ngọt sẽ giúp cho con nước chảy vào được trong các kênh rạch vì địa hình ĐBSCL quá bằng phẳng. (4)

Hình 11: Nhờ năng lượng dòng chảy nước ngọt từ phía thượng nguồn (mũi tên màu xanh) và năng lượng dòng nước mặn từ biển (mũi tên màu đỏ) mà môi trường tự nhiên của ĐBSCL được tẩy rửa hàng ngày (con nước lớn-ròng), hàng tháng (con nước rong-kém), và hàng năm (mùa nước nổi-cạn). Những cống đập ngăn mặn của Bộ NN & PTNT đang “khai tử” dòng chảy và nhịp đập / Mekong Delta Pulse của hệ sinh thái ĐBSCL. (4)

3/ Thiết lập các nhà máy xử lý thanh lọc nguồn nước thải, thay vì đổ hết xuống sông xuống rạch và gây thêm ô nhiễm, cũng là tạo thêm nguồn nước sạch cho nhu cầu gia dụng và kỹ nghệ.

4/ Thiết lập các nhà máy lọc nước mặn từ nguồn nước biển vô tận, để cùng với các nhà máy xử lý nước thải, tạo thêm nguồn nước sạch cho nhu cầu gia dụng và kỹ nghệ.

Những đầu tư xây dựng các nhà máy 3 & 4 tưởng như tốn kém nhưng rất xứng đáng vì những lợi ích lâu dài cho một môi trường thanh sạch và sức khỏe người dân thì vô giá.

5/ Năng lượng ở đâu?

Ưu tiên triển khai nguồn năng lượng sạch / tái tạo: năng lượng gió, năng lượng mặt trời, với tiềm năng của Việt Nam được biết là vô cùng lớn lao, để từng bước giải thể nhà máy giấy Lee & Man, các nhà máy điện than thuộc thế hệ phế thải từ Trung Quốc, … đang gây ô nhiễm trầm trọng không khí, đất và nước.

6/ Nguồn tiền ở đâu?

Ngưng ngay xây dựng những chuỗi tượng đài vô bổ, ngưng những dự án manh mún chỉ có tính cách cục bộ và theo tư duy nhiệm kỳ, để có thể đưa vào sử dụng con số hàng ngàn tỉ tiền thuế mồ hôi nước mắt thu của người dân, cả số tiền tham nhũng khổng lồ thu hồi lại được từ giới quan chức tham ô, nay đem đầu tư cho các dự án ích quốc lợi dân. 

10 THÁNG 3: NGÀY NƯỚC VIỆT NAM

Giỗ tổ Hùng Vương, luôn luôn là một lễ hội lớn của cả nước từ hàng ngàn năm nay, để tưởng nhớ công ơn dựng nước của những vị vua đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba

Khắp miền truyền mãi câu ca

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”

Lễ hội Đền Hùng diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm tại Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ. Ngày Giỗ Tổ ấy đã in sâu trong tâm thức của người Việt. Tổ chức UNESCO – Cơ quan Văn hóa Liên Hiệp Quốc, đã thấy được ý nghĩa tâm linh ấy nên vào ngày 6/12/2012, đã chính thức công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể / Intangible Cultural Heritage của nhân loại”.

Là người Việt Nam, không ai là không biết ngày 10 tháng 3 Âm lịch là ngày Giỗ Tổ, và ngày ấy thay đổi hàng năm theo Dương lịch. Việt Nam ngày nay đã hòa nhịp với thế giới, mọi sinh hoạt đất nước đều theo Dương lịch – nên Nhóm Bạn Cửu Long đề nghị sẽ chọn ngày 10 tháng 3 Dương lịch hàng năm là Ngày nước Việt Nam[Vietnam Water Day].

Yêu nước, tìm về quá khứ cội nguồn nhưng không quên hướng tới tương lai. Nước không chỉ là đất nước hay tổ quốc Việt Nam, nước còn có một ý nghĩa cụ thể của những phân tử nước H2O, thiết yếu cho sự sống.

Ngày nước Việt Nam 10/3 sẽ đi trước Ngày nước Thế Giới 22/3 hai tuần lễ, đó cũng là hai tuần sinh hoạt của cả nước quan tâm tới nguồn nước sạch – và nhân lực mũi nhọn của Ngày Nước Việt Nam ấy là tuổi trẻ thanh niên sinh viên học sinh với chủ đề về nước thay đổi hàng năm sao cho phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Chủ đề “Nước Sạch và Sức khỏe” sẽ là mục tiêu phấn đấu cho ít ra trong một thập niên tới.

Ngày nước Việt Nam 10/3 cũng sẽ được coi là Ngày Nhân quyền / Human Rights Day cho 100 triệu dân Việt Nam.  Rồi trở lại với ý kiến từ một bài viết khá lâu trước đây từ năm 2000 trên Việt Ecology Foundation, người viết đã đưa ra một nhận định: sự lành mạnh của “môi sinh và dân chủ” phải là một “bộ đôi / duo” không thể tách rời.

N.T.V.

California, 10/03/2023 – 22/03/2023

Tham khảo:

1/ Hướng tới Ngày Nước Thế giới 2023, 20202017Đi thăm khu nhà máy xử lý nước thải và hệ thống bổ sung tầng nước ngầm tại Quận Cam, 8/12/2017. Từ một ĐBSCL đang ngập mặn, đi thăm nhà máy Khử Mặn Carlsbad, San Diego. Ngô Thế Vinh, VEF 1/29/2020

2/ Hãy cứu dân cư và Hậu giang khỏi bị hủy hoại vì khói bụi và ô nhiễm của xí nghiệp Lee & Man. Phạm Phan Long, VEF Apr 28, 2017

3/ Nói không với dự án Cái Lớn – Cái Bé. Đi tìm các giải pháp  phi công trình cho ĐBSCL. Ngô Thế Vinh. Viet Ecology Foundation 03.10.2018

4/ Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thủy Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé.  Nhóm nghiên cứu: Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Thiện, Dương Văn Ni, Nguyễn Hồng Tín, Đặng Kiều Nhân. TheSaigontimes 14/09/2018

5/ Quy hoạch Tổng hợp Lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050: Khai thác hiệu quả gắn với phát triển nguồn nước. Quyết định 174QĐ-Ttg 6/3/2023

6/ Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long: Có khả thi và tin cậy được không? Phạm Phan Long. Diễn Đàn VOA 17/3/2023

BS Ngô Thế Vinhtốt nghiệp YKSG, chủ bút báo SV Tình thương, y sĩ Liên đoàn 81 Biệt Cách , BS thường trú các bệnh viện đại học New York, BS điều trị và giảng huấn tại một bệnh viện Nam California. Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng là một dữ kiện tiểu thuyết liên quan tới môi sinh và phát triển lưu vực sông Mekong và ĐBSCL. Nối tiếp  ký sự Mekong Dòng sông nghẽn mạch, với bản Anh ngữ đã thu hút sự quan tâm của giới khoa học, và các nhà hoạt động môi trường thế giới. Gần 30 năm tâm huyết với các vấn đề Sông Mekong và ĐBSCL, BS Ngô Thế Vinh không chỉ là một nhà văn, ông còn là một nhà hoạt động môi trường bền bỉ. Bài viết đề cập tới vấn nạn ô nhiễm nước trầm trọng trên khắp mạng lưới sông rạch nơi ĐBSCL hiện nay. Ảnh tác giả chụp năm 2001, trên chiếc ghe máy từ Chong Kneas, Siem Reap băng qua Biển Hồ, đi tới khu Bảo tồn Sinh thái Prek Toal.

Hướng tới Ngày Nước Thế Giới 2020 với chủ đề nước và biến đổi khí hậu một ĐBSCL ô nhiễm giữa mùa hạn mặn

LGT: Ngày 22/3 hàng năm được Liên Hợp Quốc qui định là Ngày Nước Thế Giới (World Water Day) nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của nước — không chỉ trong sự sống — mà còn liên quan đến văn hóa. Chúng ta là dân tộc thuộc văn hóa sông nước. Văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một ca tiêu biểu của văn hóa sông nước. Sống trong môi trường sông nước có khi chúng ta không thấy nước là quan trọng. Nhưng mấy năm gần đây, cư dân ở ĐBSCL bắt đầu nhận ra rằng hình như khu vực đồng bằng này có vấn đề về nước. Nhận ra như vậy, nhưng ít người dân biết được cội nguồn của tình trạng thiếu nước (và xâm nhập mặn) từ đâu. Bài viết dưới đây của Bs Ngô Thế Vinh sẽ giải thích tại sao, và có lẽ chúng ta sẽ không ngạc nhiên về thủ phạm: các con đập ở thượng nguồn thuộc Tàu. Có lẽ sau khi đọc xong bài này, một vài người lại than rằng cách nhìn của Bs Ngô Thế Vinh là ‘cực đoan’, nhưng sự thật thì vẫn là sự thật: Những con đập của Tàu là nguyên nhân số 1 làm cho người dân ĐBSCL khốn đốn. NVT

****

Water, water, everywhere,
Nor any drop to drink
Nước, nước, khắp nơi,
Không có giọt nước uống
[Samuel Taylor Coleridge 1772-1834]

Gửi 20 triệu cư dân ĐBSCL
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

HẠN MẶN VÀ Ô NHIỄM 13 TỈNH MIỀN TÂY

Trên một chuyến phà lớn từ Đại Ngãi qua Cù lao Dung, sóng đánh tung toé, khách như cảm thấy được vị mặn bám đọng trên môi. Thấy nước khắp nơi nhưng là nước mặn đã xâm nhập vào khắp các ngả sông rạch và người dân thì đang lao đao lùng kiếm tìm mua từng lu nước ngọt để uống. Rồi còn phải kể tới những cánh đồng lúa cháy và các vườn cây trái thối rễ do đất bị nhiễm mặn khiến nhiều nông gia mất trắng tay.

Người bạn đồng hành đứng bên, anh dạy Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên Đại học Cần Thơ, nói với tôi: “Kể cả có lũ ngọt đổ về, nước hết mặn cũng không uống được vì dòng sông quá ô nhiễm”. Do chất thải kỹ nghệ từ các nhà máy ven sông, do phân bón hoá học từ đồng ruộng tràn ra, và tệ hại hơn nữa là rác rưởi từ các khu gia cư.

Đó là tình cảnh của ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL, phải sống chung với những dòng sông ô nhiễm, và nay họ đang nhận thêm được những tín hiệu báo nguy về hạn mặn sẽ trầm trọng hơn năm 2016 và tới sớm hơn ngay từ hai tháng đầu năm 2020. Do đó, cho dù có thấy “nước, nước, khắp mọi nơi, vậy mà không có giọt nào để uống”. Cho dù ĐBSCL vẫn là nơi nhận nguồn nước cao nhất Việt Nam tính theo dân số. Tuy nước vây bủa xung quanh nhưng là nước bẩn hay nước mặn. Thách đố lớn nhất là làm sao thanh lọc được nguồn nước tạp ấy để có nước sạch đưa vào sử dụng.

Với tầm nhìnqua lăng kính vệ tinh và biến đổi khí hậu, vùng châu thổ Mekong là hình ảnh khúc phim quay chậm / slow motion của một con tàu đang  đắm. Một cái chết rất chậm nhưng chắc chắn của một dòng sông Mekong dũng mãnh – lớn thứ 11 trên thế giới với hệ sinh thái phong phú chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon và cả một vùng châu thổ ĐBSCL đang từ từ bị nhấn chìm.


NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI 2020

Không thể tách rời vấn đề Nước và Biến đổi Khí hậu toàn cầuĐó cũng là quan điểm của Liên Hiệp Quốc, khi chọn chủ đề “Nước và Biến đổi Khí hậu” cho Ngày Nước Thế giới 22/ 03/ 2020 năm nay.

Trước những tình huống cực đoan và biến đổi bất thường về khí hậu có thể làm gia tăng biến thiên chu kỳ nước – water cycle, khiến rất khó mà tiên đoán được về nguồn nước có thể sử dụng – water availability, với những ảnh hưởng trên phẩm chất nước, cả trên tính đa dạng sinh học / biodiversity, và đe doạ sự phát triển bền vững trên nhiều lưu vực của các con sông.

Dân số toàn cầu từ 7.2 tỷ năm 2015 đến nay 2020 – theo số liệu của Liên Hiệp Quốc, đã vượt qua con số 7.7 tỷ người. Tăng dân số cũng có nghĩa là gia tăng nhu cầu nước,  kéo theo gia tăng nhu cầu năng lượng để bơm nước, vận chuyển và xử lý nước – water treatment. Tận dụng nguồn nước cũng dẫn tới sự suy thoái các hồ chứa carbon thiên nhiên – carbon sinks từ các vùng đất đầm lầy.

Tăng cường mối quan tâm về nước để đáp ứng nhu cầu nước ngày một gia tăng trong tương lai; điều ấy đòi hỏi phải có những quyết định mạnh mẽ, làm cách nào để phân chia các nguồn tài nguyên nước – allocate water resources, thích nghi với biến đổi khí hậu giữa những tranh chấp sử dụng nguồn nước giữa các địa phương và các quốc gia.

Một ví dụ điển hình: con sông Mekong dài hơn 4800 km chảy qua 7 quốc gia [Tây Tạng*, Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam] giữa mùa khô hạn, đang bị tận lực khai thác bởi chuỗi những con đập thủy điện thượng nguồn, và làm cách nào để  chia sẻ và sử dụng công bằng nguồn nước từ con sông Mekong đang là một “tranh chấp nóng” diễn ra hiện nay. Khi mà Cambodia và Việt Nam là hai quốc gia cuối nguồn đang chịu những hậu quả tích luỹ nặng nề nhất: một Biển Hồ như trái tim của Cambodia đang thiếu nước, một ĐBSCL chịu hạn mặn chưa bao giờ khốc liệt như thế. Chưa kể tới khả năng nước lớn Trung Quốc sử dụng con sông Lancang-Mekong như một thứ vũ khí trong cuộc chiến tranh môi sinh – ecological warfare trừng phạt Việt Nam và các nước hạ lưu  khác.  

[* Tây Tạng nơi phát nguồn con sông Mekong, về phương diện địa dư chính trị, bấy lâu người viết vẫn ghi nhận như một quốc gia cho dù đang bị Trung Quốc xâm chiếm.]   

Chính sách đối phó với biến đổi khí hậu không chỉ trên quy mô quốc gia mà cho toàn lưu vực với mọi hoạch định cần theo một phương cách tích hợp – integrated approach, đối với nhu cầu sử dụng và quản lý nguồn nước.

Để phát triển và xây dựng một tương lai bền vững, cách làm ăn cũ bấy lâu với những quy hoạch thuỷ lợi không hiệu quả; do đó từ nay mọi phương cách quản lý nước cần được phân tích kỹ lưỡng qua lăng kính biến đổi khí hậu – through a climate change lens. Chúng ta cần đầu tư nhiều hơn nữa để cải tiến và cập nhật những dữ liệu thuỷ học – hydrological data, qua các học viện, qua các chính phủ, qua giáo dục, cùng nhau chia sẻ mọi kiến thức, để có được khả năng tiên lượng và đối phó với những rủi ro khan hiếm nước như hiện nay và chắc chắn sẽ trầm trọng hơn nhiều trong tương lai.

Mọi chính sách cần bảo đảm tính đại diện rộng rãi các thành phần tham gia, với thay đổi tác phong ứng xử, tạo được sự tin cậy giữa nhà nước, các tổ chức xã hội dân sự và lãnh vực tư nhân.
Những kế hoạch thích ứng cần có chiến lược nêu rõ mục tiêu – targeted strategies, ưu tiên trợ giúp các cộng đồng cư dân lợi tức thấp – họ là nhóm người chịu tác động, dễ bị tổn thương và thiệt hại nhiều nhất do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. (1)

GIỚI THIỆU DRAGON MEKONG

DRAGON là chữ viết tắt của Delta* Research And Global Observation Network / Mạng lưới Nghiên cứu Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu. DRAGON nhằm mục đích thiết lập một hệ thống thông tin toàn cầu, tăng cường quan hệ hợp tác và cùng chia sẻ kinh nghiệm lâu dài giữa các vùng châu thổ trên thế giới.

[Ghi chú: Delta* thay vì quen gọi là đồng bằng, nay được gọi là châu thổ do được hình thành từ phù sa của các con sông bồi đắp.]
Ủy ban Liên Chính Phủ về Biến đổi Khí hậu /Intergovernmental Panel on Climate Change (IPCC) do Tổ chức Khí tượng Thế giới (World Meteorological) và Chương trình Môi sinh Liên Hiệp Quốc (United Nations Environment Programme), bao gồm 195 quốc gia thành viên. Theo IPCC hiện có khoảng 300 triệu cư dân sống trong 40 vùng châu thổ / Deltas trên toàn cầu. Các vùng châu thổ là nơi được phù sa các con sông bồi đắp và IPCC đã đưa ra nhận định: “Những vùng châu thổ đó rất dễ bị tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu, do nước biển dâng, do biến đổi dòng chảy, đồng thời với những chấn động qua quá trình sử dụng đất đai, do chính con người gây ra trong lưu vực / catchment area.” 

Từ năm 2007, IPCC đưa ra cảnh báo thêm: 13 vùng châu thổ lớn trên thế giới sẽ bị ảnh hưởng do hậu quả của Biến đổi Khí hậu và nước biển dâng, trong đó có hai vùng châu thổ sông Mekong Việt Nam và châu thổ sông Mississippi Hoa Kỳ được xếp là vùng dễ bị tổn thương ở mức độ rất cao.

Do tính tương đồng và tầm quan trọng về an ninh lương thực, kinh tế, xã hội và văn hóa của hai vùng châu thổ Mekong và Mississippi, ngày 21 tháng 11 năm 2008, Đại học Cần Thơ kết hợp với Cơ Quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ – US Geographical Survey (USGS) và Trung tâm nghiên cứu Đất ngập nước quốc gia – National Wetlands Research Center Hoa Kỳ (NWRC) đã tổ chức lễ thành lập Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu Mekong với tên viết tắt tiếng Anh là DRAGON Institute Mekong, thuộc Mạng DRAGON toàn cầu, có cơ sở tại Đại học Cần Thơ, ĐBSCL. (4)

Hình 1_ Logo Viện Nghiên Cứu Biến Đổi Khí Hậu Mekong – Đại học Cần Thơ. DRAGON là chữ viết tắt của Delta Research And Global Observation Network – Mạng lưới Nghiên cứu Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu, được thiết lập từ 2008, đến nay là 12 năm, có thể xem như một Viện Nghiên cứu của Đại học Cần Thơ. (4)

Hình 2_ Đoàn khảo sát môi sinh ĐBSCL chụp hình trước cơ sở đầu tiên của Viện Nghiên Cứu Biến đổi Khí hậu/ DRAGON – Mekong Institute, từ trái: TS Dương Văn Ni (Khoa Môi trường vàTài Nguyên Thiên nhiên ĐHCT), TS Lê Phát Quới (Viện Tài Nguyên Môi Trường ĐHQG Tp. HCM), Ngô Thế Vinh, TS Lê Anh Tuấn (Viện Nghiên cứu Biến Đổi Khí hậu ĐHCT), KS Phạm Phan Long (Hội Sinh Thái Việt), Th.S Nguyễn Hữu Thiện (Chuyên gia Đất Ngập nước / Wetlands), BS Nguyễn Văn Hưng. [tư liệu Ngô Thế Vinh 2017]

Xem ra, ngoài nét tương đồng giữa 2 vùng:  châu thổ Louisiana sông Mississippi – Vịnh Mexico và châu thổ Mekong sông Mekong – Biển Đông trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, thì riêng ĐBSCL hiện đang phải đương đầu với những thử thách khó khăn hơn nhiều. Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây sự khác biệt quan trọng giữa hai dòng sông: (1) Độ dốc thượng nguồn sông Mekong cao hơn gấp 12 lần sông Mississippi, nên có một tiềm năng thuỷ điện vô cùng hấp dẫn mà sông Mississippi không có được; (2) Với 40 con đập cũ trên sông Mississippi phần lớn được xây từ thập niên 1930, không sao có thể sánh được với chuỗi đập khổng lồ trên sông Lancang-Mekong Vân Nam và các con đập dòng chính ở Lào;  (3) Sông Mississippi chỉ chảy trong lãnh thổ Hoa Kỳ, trong khi sông Mekong chảy qua 7 quốc gia: Tây Tạng, Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam với những mâu thuẫn về quyền lợi rất gay gắt. (3)

Hình 3_ Hình chụp cơ sở mới của DRAGON Mekong Institute, với các thành viên tham dự Khoá Tập huấn Báo chí về “Biến đổi Khí hậu và Năng lượng Bền vững” tổ chức từ ngày 22 tới 24 tháng 8, 2019, trong Dự án Mạng lưới Báo chí Địa cầu / Earth Journalism Network. [nguồn: CRUS.Vietnam, Aug 2019]

DRAGON Institute-Mekong-CTU sẽ là điểm nối kết các hoạt động nghiên cứu, giáo dục và chuyển giao kiến thức khoa học đến các nhà lãnh đạo, quản lý và cộng đồng các cấp từ địa phương, quốc gia tới các vùng châu thổ khác trên thế giới nhằm mục đích nâng cao năng lực thích nghi của cư dân đối với thiên tai; phát triển bền vững kinh tế và xã hội, đồng thời bảo tồn các hệ sinh thái thiên nhiên.

Từ khi được thành lập, Viện Biến đổi Khí hậu DRAGON-Mekong đã được nhiều tổ chức trong và ngoài nước đến trao đổi, đề xuất các hướng hợp tác. Với vai trò là một trung tâm dẫn đầu của ĐBSCL, Đại học Cần Thơ và Viện DRAGON-Mekong đang có các bước đi tiên phong trong nghiên cứu các vấn đề liên quan tới Biến đổi Khí hậu với một kế hoạch hành động trước mặt và lâu dài. (4)

DỰ BÁO MEKONG / FORECAST MEKONG

Qua Sáng kiến Hạ lưu Sông Mekong – Lower Mekong Initiative 2020  được khởi xướng từ 2009 do ngoại trưởng Mỹ Hillary Rodham Clinton cùng với các ngoại trưởng 4 quốc gia Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam  nhằm tăng cường cam kết của Mỹ đối với các quốc gia hạ lưu sông Mekong trong các lãnh vực môi trường, y tế, giáo dục và hạ tầng cơ sở.

Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS chuyên nghiên cứu các vùng châu thổ, đã liên kết / partnership với Viện DRAGON –  Mạng lưới Nghiên cứu Đồng bằng Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu áp dụng kinh nghiệm từ sông Mississippi với chuyên môn về Mô hình  Khoa học-Trái đất[Earth-science modeling] sẽ hỗ trợ cho các quốc gia Mekong phương cách lượng giá biến đổi khí hậu và hoạt động của con người có thể ảnh hưởng trên hệ sinh thái và an ninh lương thực trong lưu vực sông Mekong.

KHOÁ TẬP HUẤN DỰ BÁO MEKONG

Trong ba ngày 9-10-11 tháng 12 năm 2009 cùng với viện DRAGON Đại học Cần Thơ, Việt Nam, Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS và Bộ Ngoại Giao Mỹ, đã cùng bảo trợ cho một khoá tập huấn / workshop nhan đề: “Tìm hiểu mối hiểm nguy / risk và đặc tính dễ tổn thương/ vulnerability của các hệ sinh thái nước ngập / Wetlands Ecosystems nơi hai vùng châu thổ Mekong và Mississippi do Biến đổi Khí hậu và Nước biển dâng.”

Hình 4_ Cho dù cách nhau 12 múi giờ, hai vùng châu thổ Mekong (trái) và Mississippi (phải), có những điểm tương đồng về sinh cảnh môi trường, kinh tế xã hội và văn hoá. [Mô hình chụp từ vệ tinh của Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS ] (2)

Chương trình Dự báo Mekong được USGS thực hiện, không chỉ với ĐH Cần Thơ mà là một kết hợp mở rộng với các chính phủ địa phương và các Đại học trong lưu vực sông Mekong. Khoá tập huấn này là một phần của dự án có tên “Dự báo Mekong – Forecast Mekong,” một kết hợp dữ kiện hỗ tương, tạo mô hình / modeling, và hệ thống biểu đồ / visualization system nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý tài nguyên / resources managers, và công chúng am hiểu và tiên liệu được các tác động do biến đổi khí hậu và triển khai những dự án phát triển trong lưu vực sông Mekong. (2)

Khoá tập huấn quy tụ được hơn 75 thành viên tham dự, đã cùng xác định những thiếu sót về thông tin liên hệ tới vùng châu thổ Mekong / ĐBSCL và Biến đổi Khí hậu. Những thành viên tham dự bao gồm các nhà khoa học, các viên chức chính phủ từ các quốc gia Cambodia, Lào, Việt Nam, Thái Lan và cả Trung Quốc; đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ và các tổ chức NGOs phi chính phủ và dĩ nhiên với các chuyên gia USGS. Nhiều vấn đề khoa học quan trọng được đặt ra, bao gồm phẩm chất nước, lượng phù sa / sedimentation, những ảnh hưởng của các đập thuỷ điện trên sự đa dạng sinh học / biodiversity, an ninh lương thực, sự thích nghi với biến đổi khí hậu qua thời gian và mức nghiêm trọng của các mùa lũ lụt / seasonal floods, và ảnh hưởng trên sản lượng cá.

Những bước tiếp theo sẽ là các cuộc nghiên cứu phối hợp của USGS với các nhà khoa học trong lưu vực Mekong, nhằm cung cấp chuyên môn kỹ thuật để tạo thuận các bước thu thập phân tích và tích hợp dữ kiện / data analysis & integration, theo dõi môi trường / environmental monitoring, với các dụng cụ biểu đồ khoa học / science-visualization tools. Các thành viên tham dự cũng đã xác định nhu cầu được huấn luyện và chuyển giao kỹ thuật, cùng với ước muốn thiết lập mối quan hệ hợp tác dài hạn và chặt chẽ hơn với USGS.

Dự án Dự Báo Mekong / The Forecast Mekong project cũng sẽ giúp xây dựng nền móng cho các hoạt động trong tương lai qua tăng cường mối liên hệ giữa các nhà khoa học, các tổ chức trong lưu vực Mekong qua các cuộc nghiên cứu chung.

DRAGON đã xây dựng được một cộng đồng quốc tế giữa các nhà khoa học và quản lý tài nguyên nhằm chia sẻ những dữ kiện giữa các vùng châu thổ lớn và những con sông thế giới. Những cuộc nghiên cứu đối chiếu / comparative studies là cần thiết để hiểu biết và tiên liệu được hậu quả của biến đổi khí hậu trên các dự án xây dựng, sử dụng đất đai, biến đổi về thuỷ học và những ảnh hưởng khác do con người gây ra trên các hệ sinh thái vốn mong manh và dễ bị tổn thương.

Bằng triển khai những mô hình đối chiếu / comparative models và với các dụng cụ biểu đồ / visualization tools, mục đích của mạng lưới DRAGON là trợ giúp thông tin cho những quyết định chính sách công / public policy decisions có ảnh hưởng tới hệ sinh thái và  các cộng đồng cư dân sống trong các vùng châu thổ.

Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ [USGS] đem tới những hiểu biết khoa học rộng rãi từ châu thổ sông Mississippi tới một vùng châu thổ tương đồng, cách xa nửa vòng trái đất đó là châu thổ sông Mekong [ĐBSCL].

Khoá tập huấn này là một phần của dự án có tên “Dự báo Mekong – Forecast Mekong,” một kết hợp dữ kiện hỗ tương, tạo mô hình / modeling, và hệ  thống biểu đồ / visualization system nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách / policy makers, các nhà quản lý tài nguyên / resources managers, và công chúng am hiểu và tiên liệu được các tác động do biến đổi khí hậu và triển khai những dự án trong lưu vực sông Mekong. (2)

Chương trình này được thực hiện bởi USGS kết hợp với các chính phủ địa phương và các Đại học trong lưu vực Mekong, Chương trình Dự Báo Mekong / Mekong Forecast sẽ cung cấp một dụng cụ rất giá trị để nhận rõ những hậu quả của Biến đối Khí hậu và cách quản lý dòng sông / river management.

Những bước tiếp theo sẽ là các cuộc nghiên cứu phối hợp của USGS với các nhà khoa học trong lưu vực Mekong, nhằm cung cấp chuyên môn kỹ thuật / technical expertise để tạo thuận các bước phân tích và tích hợp dữ kiện / data analysis & integration, hướng dẫn theo dõi môi trường / environmental monitoring, với những dụng cụ biểu đồ khoa học / science-visualization tools. Các thành viên tham dự cũng đã xác định nhu cầu được huấn luyện / training và chuyển giao kỹ thuật / technological transfer, cùng với ước muốn thiết lập mối quan hệ hợp tác dài hạn và chặt chẽ hơn với USGS.

Dự án Dự Báo Mekong / The Forecast Mekong project cũng sẽ giúp xây dựng nền móng cho các hoạt động trong tương lai qua tăng cường mối liên hệ giữa các nhà khoa học, các tổ chức trong lưu vực Mekong qua các cuộc nghiên cứu chung và chia sẻ các dữ kiện / data sharing. 

Hình 5_ Một ĐBSCL đã và đang bị tổn thương do những nguyên nhân: (1) do các con đập thượng nguồn, (2) do nạo vét cát dưới lòng sông, (3) do nước biển dâng, (4) do ô nhiễm sông rạch, (5) còn phải kể tới những dự án sai lầm ngăn mặn phá huỷ sự cân bằng hệ sinh thái mong manh của vùng châu thổ sông Mekong. Tính tới 2020, đã có 11 con đập dòng chính khổng lồ của Trung Quốc trên khúc sông Lancang-Mekong thượng nguồn; có thêm 2 con đập dòng chính của Lào (Xayaburi và Don Sahong) đã hoạt động từ 2019. Dự án Luang Prabang 1460 MW, sẽ là con đập dòng chính lớn nhất trên sông Mekong của Lào và điều rất nghịch lý là do Việt Nam làm chủ đầu tư, dự trù có thể được khởi công sớm trong năm nay. [International River 2004, do Ngô Thế Vinh cập nhật 2020].

Một ví dụ điển hình, USGS với kinh nghiệm về Trận Bão nhiệt đới Katrina 2005 của thế kỷ trên vùng châu thổ Mississippivới tổn thất 1800 nhân mạng, đã để lại những hậu quả tàn phá lớn nhất trong lịch sử thiên tai của Hoa Kỳ thiệt hại vật chất lên tới 125 tỷ USD, đã cho thấy nhu cầu cấp thiết chia sẻ thông tin và các dữ kiện với các vùng châu thổ trên toàn cầu.

DRAGON đã tạo ra một cộng đồng quốc tế giữa các nhà khoa học và quản lý tài nguyên nhằm chia sẻ những dữ kiện giữa các vùng châu thổ lớn và những con sông thế giới.  Những cuộc nghiên cứu đối chiếu comparative studies là cần thiết để hiểu biết và tiên liệu được hậu quả của biến đổi khí hậu trên các dự án xây dựng, sử dụng đất đai, biến đổi về thuỷ học và những ảnh hưởng khác do con người gây ra trên các hệ sinh thái vốn mong manh và rất dễ bị tổn thương.

Bằng triển khai những mô hình đối chiếu / comparative models cùng với các dụng cụ biểu đồ / visualization tools, mục đích của mạng lưới DRAGON là trợ giúp thông tin cho những hoạch định chính sách / public policy decisions có ảnh hưởng tới hệ sinh thái và  các cộng đồng cư dân sống trong các vùng châu thổ trên hành tinh này.

Hình 6_ĐBSCL với những cánh đồng bị khô nứt – sa mạc hoá / desertification, do trận hạn hán khốc liệt năm 2016. (trên) [VN Express 3/11/2016]; Dự báo Mekong: trận hạn hán và nhiễm mặn 2020 sẽ trầm trọng hơn năm 2016.  Mekong Delta barbecue / ĐBSCL bị nướng do khô hạn. (dưới) [tranh biếm hoạ của Babui, tặng Ngô Thế Vinh]

NƯỚC QUANH TA: GIẢI PHÁP DO THÁI

Khan hiếm nước là một thực trạng đang diễn ra ở những mức độ khác nhau trên toàn hành tinh này. Từ tiểu bang Vàng California giàu có tới các nước nghèo khó của lục địa Phi châu. Khủng hoảng thiếu nước sạch nơi châu thổ Mekong cũng nằm trong bối cảnh toàn cầu ấy.

Đất lún, mặt bằng châu thổ Mekong thấp hơn mặt biển, có bài học từ một đất nước Hoà Lan Vùng Đất Thấp vẫn cứ tồn tại và phát triển qua nhiều thế kỷ.

Thiếu nước ngọt: nước uống và nước tưới cho hoa màu, có bài học từ một đất nước Do Thái mọc lên giữa sa mạc với đủ loại hoa màu xanh tươi.

Nước được khai thác từ nhiều nguồn, (1) từ giếng tới tầng nước ngầm, (2) từ nước biển khử mặn, (3) từ nguồn nước thải được thanh lọc tái sinh, (4) chiết xuất nước từ độ ẩm trong không khí…

Ưu tiên giải quyết vấn đề nước là một quốc sách của Do Thái ngay từ ngày lập quốc. Bằng trí tuệ sáng tạo và khoa học kỹ thuật  từ một sa mạc khô hạn, ngày nay Do Thái đã có đủ nước cho mọi nhu cầu gia dụng, canh nông và kỹ nghệ. Nhưng trên hết, vẫn là ý thức tiết kiệm nước của toàn dân – được giáo dục ngay  từ bậc tiểu học qua mọi cấp trong mọi lãnh vực sinh hoạt.

Không chỉ như vậy, họ còn biết sử dụng tối ưu các nguồn nước có được, tới mức còn dư nước viện trợ cho các quốc gia láng giềng thù nghịch và cả chuyển giao kỹ thuật giải quyết vấn đề thiếu nước ra thế giới như một quyền lực mềm trong ngoại giao. Kinh nghiệm Do Thái đã giúp nhiều quốc gia, trong đó có Trung Quốc, kể cả quốc gia tiên tiến như Mỹ để giải quyết vấn nạn thiếu nước.

Hình 7_ Nông gia Do Thái đã tiết kiệm được rất nhiều nước trong canh tác; một ví dụ nhỏ, bằng cách tưới nhỏ giọt / drip irrigation thay cho kỹ thuật tưới cổ điển tưới bằng vòi phun hay nước ngập đồng. Tưới ngay gốc giảm được lượng nước bốc hơi, cây lớn mạnh hơn và năng suất cũng cao hơn, thêm vào đó cách bón cây nhỏ giọt còn tránh được lượng nitrogen tràn vào các nguồn nước và cả giảm thiểu được lượng hoá chất trên vùng canh tác. [Let There Be Water. Seth M. Siegel 2017] (9) 

ĐBSCL SẼ VẪN MÃI XANH TƯƠI  

Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu, câu thuộc nằm lòng ấy đã có từ một nền giáo dục Quốc văn Giáo khoa thư từ buổi thiếu thời qua nhiều thế hệ. Và nay thì thực sự không còn nữa và cũng đừng tiếp tục gieo vào đầu óc trẻ thơ châu châm ngôn lỗi thời ấy.

Kể từ sau 1975, những khu rừng nguyên sinh bị tàn phá. Biển bị đầu độc không còn cá. Đất bị sa mạc hoá và xói mòn. Mọi nguồn tài nguyên bị tận lực  khai thác tới cạn kiệt. Cho đến cả một ngụm nước sạch để uống và một bầu không khí trong lành để thở rồi cũng trở thành điều mơ ước. Những điều cơ bản ấy cũng chính là quyền con người / human rights.

Với những công trình phát triển tự huỷ, và sắp tới đây, con đập thuỷ điện  Luang Prabang lớn nhất của Lào do Việt Nam đầu tư, rõ ràng Việt Nam đang chọn những bước đi liều lĩnh trên những tảng băng mỏng – walks on thin ice, với tiêu chuẩn nước đôi – double standards, và cũng  từ nay Việt Nam sẽ chẳng thể còn một tiếng nói chính nghĩa và thuyết phục nào đối với cộng đồng 70 triệu cư dân sống trong lưu vực sông Mekong và trước cả thế giới.

Với tầm nhìn của thiên niên kỷ thứ ba, duy trì từng hệ sinh thái phong phú của hành tinh này cũng là bảo vệ một nền văn minh rất đa dạng và lâu đời của con sông Mekong, mà không có mối lợi lộc ngắn hạn nào có thể vội vàng đem ra đánh đổi. Và cũng đã hơn một lần, trong hơn hai thập niên qua, người viết luôn luôn nhắc tới một vấn đề rất cốt lõi: “Môi sinh và Dân chủ” sẽ mãi mãi là bộ đôi không thể tách rời / Inseparable Duo.

THAY CHO LỜI KẾT

Nhân Ngày Nước Thế Giới 22 tháng 3 năm nay 2020, với chủ đề “Nước và Biến đổi Khí hậu”, trước tình cảnh một ĐBSCL đang ngày một suy thoái, người viết gửi tới các bạn trẻ cùng với 20 triệu cư dân 13 tỉnh Miền Tây trích dẫn câu nói của Oded Distel, một chuyên gia về nước của Do Thái: “Không có kỹ nghệ không gian các quốc gia vẫn sống được, nhưng không thể sống nếu không có nước”. (9)  Nước theo cái nghĩa là “nguồn nước sạch” có thể sử dụng được. Oded Distel muốn nhấn mạnh tới sự chọn lựa đâu là bước ưu tiên trong phát triển.

NGÔ THẾ VINH
California 21.02.2020
[Miền Tây, Cù Lao Dung 2017]

THAM KHẢO:

  1. UN-Water Policy Brief on Climate Change and Water, 12 July 2019 https://www.unwater.org/publications/un-water-policy-brief-on-climate-change-and-water/
  2. A Different Delta Force – USGS and U.S. Department of State Assist in the Mekong Delta, By   Gabrielle B. Bodin, March 2010 [revised Feb. 2013]
  3. The Mekong and Mississippi Sister-River Partnership, Similarities and Differences. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 01.15.2011
  4. Research Institute for Climate Change (DRAGON institute – Mekong) https://dragon.ctu.edu.vn/
  5. Thăm Khu Nhà Máy Xử lý Nước Thải và Hệ thống Bổ sung Tầng Nước Ngầm tại Quận Cam. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 23.03 – 24.07.2017
  6. From A Mekong Delta Threatened by Salinization to the Carlsbad Desalination Plant. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 01.2020
  7. Promising way to make fresh water for family use, 1.5 gallons per hour for each square meter of solar collecting area. http://news.mit.edu/2020/passive-solar-powered-water-desalination-0207
  8. Creating Drinking Water from Air. Watergen Technology from Israel. https://www.watergen.com
  9. Let There Be Water. Israel’s Solution for a Water-Starved World. Seth M. Siegel. Thomas Dunne Books. An imprint of St. Martin’s Press 2017.