Nửa thế kỷ cải tạo làm cạn kiệt tài nguyên một ĐBSCL đang chết dần

LGT: Là người được sanh ra và lớn lên ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tôi đã chứng kiến những thay đổi quá lớn và có ảnh hưởng tiêu cực đến môi sinh của 17 triệu dân thuộc vùng đất này. Ngày xưa, trẻ con tắm sông là bình thuờng; còn ngày nay chẳng ai dám tắm sông. Ngày xưa, mỗi lần có khách đến nhà, chỉ cần ra sau vườn vài phút là có cá và rau đãi khách; nhưng ngày nay thì đó chỉ là kí ức. Vài tuần trước tôi có dịp về thăm nhà và thấy sự xuống cấp của môi trường sống trong vùng đáng báo động. Cái cống sông Cái Lớn – Cái Bé, được xem là ‘công trình thế kỉ’, chưa thấy tác động tích cực ở đâu, nhưng nó đã gây tác hại tiêu cực đến nhiều con sông trong tỉnh. Trong bối cảnh đó, tôi hân hạnh giới thiệu bài viết mới nhứt của Nhà văn, Bác sĩ Ngô Thế Vinh về tình hình cạn kiệt tài nguyên ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Là người trăn trở với vùng đất này, Bs Vinh đã viết nhiều bài và sách, và những dự báo ông đưa ra hơn 25 năm trước nay đã thành hiện thực. Bài viết có nhiều ý kiến chân tình nhưng có lẽ hơi khó nghe đối với vài người. NVT

_____

NỬA THẾ KỶ CẢI TẠO LÀM CẠN KIỆT TÀI NGUYÊN MỘT ĐBSCL ĐANG CHẾT DẦN

Gửi ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL

không được quyền có tiếng nói

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

NGÔ THẾ VINH

順天者存,逆天者亡

Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong

Thuận với thiên nhiên thì còn.  

Nghịch với thiên nhiên thì mất. [Mạnh Tử]

“Kế hoạch phát triển nào cũng phải tính tới cái giá môi sinh phải trả – environmental costs – đối với sức khoẻ của người dân và cả trên nguồn tài nguyên lâu dài của đất nước.”  Ngô Thế Vinh

Lời Dẫn Nhập: Trong lịch sử cận đại, kể từ sau 1975, cụm từ “cải tạo” của người Cộng Sản Việt Nam, trong mọi lãnh vực, hàm chứa một nội dung tồi tệ nhất, chỉ có ý nghĩa độc ác, tha hoá con người, huỷ hoại môi sinh, làm cạn kiệt mọi nguồn tài nguyên, và để lại một đất nước không có tương lai. Đây là bài thứ 2 viết về 48 năm cải tạo Đồng Bằng Sông Cửu Long của nhà nước CS Việt Nam đã và đang phá huỷ cả một vùng châu thổ phì nhiêu nhất Châu Á và cũng là của thế giới, và làm nghèo cả một đất nước ra sao.

BÀI HỌC VỠ LÒNG: DÒNG CHẢY SINH THÁI (1)

Câu nói dân gian của ông bà từ các thế hệ khai phá đất phương Nam đã trối trăng lại cho con cháu là làm gì thì làm, nhưng nhứt định không được “ngăn sông cấm chợ” vì nó trái với tinh thần tự do phóng khoáng của người dân ĐBSCL. [TS Dương Văn Ni, ĐH Cần Thơ].

Ngay cả với giới khoa học môi trường, khái niệm về “Dòng Chảy Sinh Thái” không mới.

Trước thập niên 1950s, hầu như mọi mối quan tâm đều tập trung vào khai thác tiềm năng nguồn nước từ các dòng sông để phát triển, dẫn tới việc xây dựng ồ ạt các đập thuỷ điện và đổi dòng những con sông lớn nhỏ trên khắp hành tinh này.

Sang đến thập niên 1970s, người ta mới bắt đầu nhận ra những hậu quả tác hại  của những con đập trên các dòng sông do những bước phát triển không bền vững ấy – unsustainable development – đặc biệt là sự suy thoái phẩm chất nguồn nước và tác động tiêu cực tới hệ sinh thái nên đã quan tâm sửa chữa.

Tới thập niên 1990s, tầm quan trọng của chế độ thuỷ văn tự nhiên – dòng chảy (flow regime) rất được quan tâm, và được coi như một “chỉ dấu lành mạnh” của dòng sông với toàn thể hệ sinh thái nước ngọt (healthy freshwater ecosystems).

Tại những quốc gia tiên tiến, với sửa sai kịp thời, người ta đã đạt được một số cải thiện về phẩm chất nước, nhưng tính đa dạng sinh học của nguồn nước vẫn còn bị suy thoái. Vậy nguyên nhân chính của thiếu sót ấy là gì?Đó là: “dòng chảy – flow,  được coi là biến số chủ yếu – master variable” ảnh hưởng trên mọi biến số khác như: phẩm chất nước, chu kỳ năng lượng (energy cycle), môi trường sống (physical habitat), và những ảnh hưởng tương tác sinh học (biotic intereactions) – để cùng điều hoà các hệ sinh thái nước ngọt (freshwater ecological systems). [Karr 1991, Poff et al 1997]. (1)

Hình 1: Dòng chảy sinh thái được hiểu như dòng chảy với lượng nước và phẩm chất nước của con sông chảy thông suốt qua thời gian. Sự đo lường này được căn cứ trên toàn thể lượng và phẩm chất của dòng chảy nhằm duy trì một hệ sinh thái nước ngọt thiết yếu cho sự sống và con người phụ thuộc vào. Dòng chảy sinh thái với 5 yếu tố cần được quan tâm: (1) Thuỷ học; (2) Sinh học; (3) Phẩm chất nước; (4) Liên hệ với đất đai; (5) Cấu trúc địa hình. https://www.alberta.ca/about-environmental-flows.aspx(1)

Người ta đã bắt đầu nêu ra tiêu chuẩn về dòng chảy tối thiểu (minimum flows) để làm loãng ô nhiễm (pollution dilution), giữ cho dòng sông ít bị tổn thương để bảo vệ sinh hoạt dân cư và  các loài cá cùng những sinh vật sống dưới nước.

Nếu “biến số chủ yếu / master variable là dòng chảy” không được duy trì và chỉ điều chỉnh vài biến số khác là hoàn toàn không đủ để phục hồi một hệ sinh thái lành mạnh.

Những biến đổi do con người gây ra (anthropogenic alterations) trên “chế độ dòng chảy thiên nhiên” là nguyên nhân khủng khoảng tính đa dạng sinh học của hệ thống nước ngọt toàn cầu hiện nay, đó là: các cống ngăn chặn dòng chảy, các con đập, sự đổi dòng lấy nước, xả nước thải vào nguồn nước, khai thác đất đai và biến đổi khí hậu.

Duy trì dòng chảy sinh thái cần tới những phương thức nhất quán và giao thoa  (interdisciplinary) với nhiều lãnh vực. Tổ chức Bảo Tồn Thiên Nhiên / The Nature Conservancy khuyên nên dùng một “khung bậc – hierarchical framework” để phát hiện mẫu của dòng chảy nhằm mau chóng áp dụng các biện pháp quản trị thích nghi (adaptive management of flow). (1)

Một cách khái quát, có thể định nghĩa Dòng Chảy Sinh Thái của sông Mekong-Cửu Long dài 4.800 km chảy qua 7 quốc gia (Tây Tạng được kể là một quốc gia ) như sau:

“Mekong – Cửu Long là mạch sống, để bảo vệ mạch sống ấy là duy trì một “dòng chảy sinh thái  – environmental flow, cần thiết để bảo vệ lưu vực như một  toàn thể hệ sinh thái lành mạnhbền vững”, cụ thể hơn là duy trì một chế độ dòng chảy với nguồn nước sạch với phù sa, nuôi dưỡng một hệ thủy sinh (tôm cá, rong tảo và các vi sinh vật) và một nền canh nông phong phú (lúa gạo, cây trái), đó là nguồn lương thực thiết yếu, và cũng là bảo vệ những nền văn hóa ven sông của 70 triệu dân đang sống trong lưu vực.”

CHUỖI ĐẬP THUỶ ĐIỆN THƯỢNG NGUỒN SÔNG MEKONG

Hẳn mọi người không quên, là tuy đã bước sang cuối thập niên thứ hai của Thế Kỷ 21 (2017), mà TS Phạm Tuấn Phan, sinh quán Hà Nội, có bằng tiến sĩ vật lý và điện toán Đại học Belarus thuộc khối Liên Xô cũ, nguyên Giám đốc Điều hành Ban Thư ký Uỷ hội Sông Mekong (CEO / MRC Secretariat) nhiệm kỳ 2016-2018, là người bản địa đầu tiên trong lưu vực được vinh dự đảm trách chức vụ quan trọng và danh giá này, mang hai căn cước: một công dân Việt Nam và một công dân Mekong.

Tại Diễn đàn Khu vực họp tại Luang Prabang ngày 22/02/2017, liên quan tới Dự án thuỷ điện Pak Beng 912 MW, con đập dòng chính (mainstream dam) thứ ba của Lào, khi trao đổi với nhóm nhà báo – trong đó có phóng viên môi sinh Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị, TS Phạm Tuấn Phan đã mạnh mẽ phát biểu: “Thuỷ điện không khiến dòng Sông Mekong sẽ chết. Tôi nghĩ chúng ta nên hiểu rõ điều này trước đã“. Chắc chắn ông Phan sẽ không nói câu đó nếu ông hiểu được một điều rất cơ bản: thế nào là “Dòng chảy Sinh Thái” để giữ cho con sông Mekong không chết. [Hình 2] Phát biểu của ông Phạm Tuấn Phan trong vai trò lãnh đạo Uỷ Hội Sông Mekong / Mekong River Commission, một tổ chức liên quốc gia [Lào, Thái Lan, Cambodia, Việt Nam] không những lỗi thời, thiếu cơ sở khoa học, đi ngược lại quan điểm của bao nhiêu tổ chức bảo vệ môi sinh quốc tế và ngay trong lưu vực sông Mekong từ nhiều năm nay. Quan điểm sai trái của TS Phạm Tuấn Phan đã gây tác hại cho nỗ lực bảo vệ sông Mekong bấy lâu và cả rất thiếu trách nhiệm với các cộng đồng cư dân ven sông, trong đó có ngót 20 triệu cư dân trên chính vùng đất mẹ của ông, nơi mà “những người nông dân ĐBSCL đang khốn đốn muốn chết“, và một số không ít – ngót 2 triệu người, đã rời  bỏ quê hương đi tha phương cầu thực là điều rất dễ thấy. 

Hình 2:  phải, tại Diễn đàn Khu vực họp tại Luang Prabang ngày 22/02/2017 liên quan tới Dự án thuỷ điện Pak Beng – con đập thượng nguồn dòng chính thứ ba của Lào, khi trao đổi với nhóm nhà báo, trong đó có phóng viên môi sinh Lê Quỳnh (5), báo Người Đô Thị (người cầm máy ghi âm), ông Phạm Tuấn Phan Giám đốc Điều hành Ban Thư ký Uỷ hội sông Mekong đã mạnh mẽ phát biểu: “Thuỷ điện không khiến dòng sông Mekong sẽ chết. Tôi nghĩ chúng ta nên hiểu rõ điều này trước đã.” Chắc chắn ông Phạm Tuấn Phan sẽ không nói câu đó nếu ông hiểu thế nào là “Dòng chảy Sinh Thái” để giữ cho con sông Mekong không chết [Photo by Thiện Ý]; trái, phóng viên môi sinh Lê Quỳnh, trên khúc sông Mekong Bắc Lào. [nguồn: Earth Journalism Network, 2017]  

Từ ngót ba thập niên qua, người viết và Nhóm Bạn Cửu Long (5) đã không ngừng lên tiếng về mối nguy cơ từ những con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam (Lancang-Mekong  Cascades) của Trung Quốc, tiếp theo đó là chuỗi 9 con đập thuỷ điện dòng chính của Lào, rồi tới 2 dự án đập của Cambodia, tác hại trên toàn hệ sinh thái lưu vực Sông Mekong và ĐBSCL ra sao, như: làm nghẽn dòng chảy, mất lưu lượng nước, mất nguồn phù sa nơi các hồ chứa thượng nguồn, đã dẫn tới một tiến trình đảo ngược nơi ĐBSCL, thay vì được bồi đắp như bấy lâu thì nay đang dần dần tan rã, với các bờ sông và bờ biển bị sạt lở và mũi Cà Mau thì bị cắt lẹm mất đất 600 ha mỗi năm.

Kể từ ngày Ngoại trưởng nhà nước Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm phạm phải một sai lầm chiến lược khi đặt bút ký Hiệp định Uỷ hội sông Mekong / MRC / Mekong River Commission năm 1995 từ bỏ quyền phủ quyết [veto power] vốn đã có trong Hiệp ước Uỷ Ban Sông Mekong / Mekong River Committee từ năm 1957 thời Việt Nam Cộng Hoà.  

Thực tế cho thấy trong ngót nửa thế kỷ qua, Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn, đã hoàn toàn bất lực, không những không làm gì được để ngăn chặn  bất cứ một dự án thuỷ điện nào phía thượng lưu – còn phải kể thêm là chính các công ty quốc doanh Việt Nam – trên thực tế là các nhóm lợi ích, đã đồng loã góp tay góp vốn xây dựng một số đập thuỷ điện ở Lào và Cambodia, thúc đẩy thêm cho quá trình tự huỷ hoại ấy.

_ Tại Lào: Công ty quốc doanh Dầu khí Việt Nam (PVPC / PetroVietnam Power Co.) đã được chính nhà nước CS Việt Nam bật đèn xanh cho đem vốn sang làm chủ đầu tư cho con đập dòng chính Luang Prabang 1.460 MW lớn nhất trên lãnh thổ Lào, mà ai cũng biết con đập thượng nguồn ấy có tác dụng huỷ hoại mau chóng hơn cả một hệ sinh thái ĐBSCL vốn đã mong manh, với cái giá kinh tế và xã hội rất cao mà 20 triệu dân của 13 tỉnh Miền Tây sẽ phải gánh trả, với ảnh hưởng trực tiếp trên luống cày, trên từng ngụm nước uống, và cả trên chén cơm tô cá của họ. [KS Phạm Phan Long, Việt Ecology Foundation] (6) [Hình 3 a]

_ Tại Cambodia: Công ty Quốc doanh Điện Lực Việt Nam/ EVN (Electricity of Vietnam) đã góp 10% cổ phần trong số 816 triệu MK, để xây dựng con đập phụ lưu Hạ Sesan-2 (Lower Sesan 2) 400 MW lớn nhất của Cambodia, phần còn lại là của Nhóm Hoàng Gia Cam Bốt / Cambodia Royal Group và Công ty Năng lượng Lan Thương Trung Quốc/ Hydrolangcang International Energy Co., Ltd. Lại vẫn Trung Quốc, ngoài chuỗi đập bậc thềm Vân Nam, nay cánh tay TQ nối dài xuống xa tới cả những con đập phụ lưu hạ nguồn. [Hình 3 b]

Hình 3: Các công ty quốc doanh của nhà nước CSVN kết hợp với các nhóm lợi ích – bất kể đạo lý, đi tìm nguồn lợi nhuận bất cứ ở đâu – cho dù có hại cho đất nước mình ra sao. Trái, công ty quốc doanh Dầu khí PetroVietnam là chủ đầu tư con đập Luang Prabang 1.460 MW, con đập thuỷ điện dòng chính lớn nhất của Lào. (6) [nguồn: Michael Buckley]. Phải, công ty quốc doanh Điện lực Việt Nam / EVN góp vốn góp công vào dự án Hạ-Sesan-2 (LS2) 400 MW, đập thuỷ điện phụ lưu lớn nhất của Cambodia đã  ảnh hưởng tác hại trực tiếp tới ĐBSCL, Việt Nam. [nguồn: Decarboni]

Câu hỏi được đặt ra là tại sao nhà nước CS Việt Nam không thể không biết nhưng họ vẫn coi nhẹ những tổn thất môi sinh và xã hội như thế. Câu trả lời rõ ràng: khi mà giới lãnh đạo Hà Nội có toàn quyền quyết định, lại được các nhóm lợi ích chia chác cho hưởng lợi, trong khi người dân không được phép có tiếng nói và phải gánh chịu mọi tổn thất và cả di luỵ cho các thế hệ tương lai.

Hình 4: Cảnh khô hạn nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long. Và mọi người vẫn không quên sự kiện đau lòng, vào cuối tháng 3 năm 2016, nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng đã phải vô vọng kêu cứu Trung Quốc xả nước từ đập thuỷ điện Cảnh Hồng / Jinghong Dam để cứu hạn cho ĐBSCL, nhưng vô ích và đó cũng chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. [nguồn: VNExpress 03.11.2016]

Trước nguy cơ: mất dòng chảy, mất nguồn nước ngọt, mất phù sa, và cả một vùng châu thổ phì nhiêu là ĐBSCL đang bị lún dần và chìm trong biển mặn, hậu duệ của những thế hệ dũng mãnh tiên phong khai phá trong cuộc Nam Tiến cách đây mới hơn ba trăm năm, nay đang bị tê liệt, không được quyền cất tiếng nói và phải tủi nhục chấp nhận lùi bước trước thảm hoạ có thể bị xoá đi cả một nền Văn Minh Miệt Vườn và trong một tương lai không xa, có thể vào thế kỷ tới nếu không có được một giải pháp cứu nguy tức thời. Rồi ra sẽ có những đợt tỵ nạn môi sinh (ecological refugees) lớn hơn, trên tầm vóc quốc gia, vào giữa thế kỷ 21 này. 

LÃNH ĐẠO TỪ MIỀN BẮC

Cả ba miền Bắc Trung Nam đâu có thiếu nhân tài, nhưng do từ nhân cách và tính độc lập của họ, đã khiến những tài năng và nguồn chất xám ấy đã bị thể chế hy sinh một cách không thương tiếc.  

Từ ngày Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn [NN & PTNT] được chính thức thành lập từ 1995, trải qua 4 đời Bộ trưởng đều có gốc gác từ Miền Bắc:

_  Nguyễn Công Tạn, Thái Bình, Bắc phần 1995-1997

_  Lê Huy Ngọ, Thanh Hoá, Bắc phần, 1997-2004

_ Cao Đức Phát, Nam Định, Bắc phần,  2004-2016 

_ Nguyễn Xuân Cường, Hà Tây, Bắc phần, 2016-2021

Trong suốt khoảng thời gian đó, có thể nói ĐBSCL –  một hệ sinh thái mong manh có thể ví như  một cơ thể sống, đã bị các lãnh đạo từ ngoài Bắc vào không ngừng chặt chém bằng những con dao mổ trâu.  

Chỉ mới đây thôi, từ tháng 4 năm 2021, lần đầu tiên Việt Nam có một Bộ Trưởng Bộ NN & PTNT gốc gác từ Miền Nam: ThS Lê Minh Hoan, tốt nghiệp ĐH Kiến Trúc – ông là đứa con thứ sáu, sinh ra và lớn lên trên vùng Đất Sen Đồng Tháp, nên ông còn có một tên gọi khác là Chú “Sáu Sen – Six Lotus”.Chưa bao giờ như lúc này, ĐBSCL cần tới một khuôn mặt lãnh đạo mới, với ý tưởng mới để kịp thời vực dậy cả một vùng châu thổ đang chết dần.

GS Võ Tòng Xuân là người vui mừng trước tin này. Trao đổi với phóng viên Dân Việt 08/04/2021, Doctor Rice VTX đã nhận định: “Tân Bộ trưởng Bộ NN & PTNT là người tài, nhiệt tình, có cái nhìn sâu rộng, đặc biệt là rất thành thạo về lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở vùng ĐBSCL”, và GS Võ Tòng Xuân đã hiến kế cho BT Lê Minh Hoan nên thành lập nhóm tư vấn riêng cho mình. “Nhóm tư vấn này là những người có chuyên môn, nhà khoa học, có nhiệm vụ hỗ trợ, nghiên cứu, kiến nghị các vấn đề có liên quan, giúp BT Bộ NN & PTNT có quyết sách chính xác, rõ ràng, cụ thể đưa ngành nông nghiệp Việt Nam ngày càng phát triển.” Nói về một nhóm tư vấn, thì nguồn chất xám ấy không ở đâu xa, người viết nghĩ ngay tới Nhóm Nghiên Cứu Đại Học Cần Thơ với công trình “Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thuỷ Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé (06/9/2018), bao gồm những tên tuổi rất quen thuộc từ Đại Học Cần Thơ: TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến Đổi Khí Hậu, ThS Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái, TS Dương Văn Ni, chuyên gia môi trường và tài nguyên thiên nhiên, TS Nguyễn Hồng Tín, Trưởng Bộ môn Hệ thống Nông nghiệp Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL; TS Đặng Kiều Nhân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL.(2)

Hình 5: Nhóm Nghiên Cứu Đại Học Cần Thơ với công trình Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thuỷ Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé (06/9/2018), từ phải theo ngược kim đồng hồ: TS Lê Anh Tuấn, TS Đặng Kiều Nhân, ThS Nguyễn Hữu Thiện, anh Kiệt một nông dân vùng dự án CLCB, TS Dương Văn Ni, TS Nguyễn Hồng Tín. (2)

Họ là các nhà khoa học môi trường dày kinh nghiệm, đôi chân đã dính phèn, với nhiều năm trăn trở và lăn lộn với đồng bằng sông nước Cửu Long, và một số trong nhóm nghiên cứu này cũng đã tích cực tham gia vào bước hình thành Bản “Quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050”, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư / KH & ĐT chủ trì;(4) Công ty Royal Haskoning DHV đứng ra nghiên cứu và viết báo cáo; họ đã mời nhóm chuyên gia Hà Lan, Đức và Việt Nam cùng hợp tác. Do có quá nhiều vấn đề phức tạp, thời gian nghiên cứu Quy hoạch Tích hợp này đã kéo dài 3 năm. Theo TS Lê Anh Tuấn, người có tham gia trong nhóm nghiên cứu với chức danh là “chuyên gia môi trường và nông nghiệp”, “Tính thực tế và khả thi của báo cáo này – và cũng là nội dung NQ13/BCT hiện nay đang quá sớm để có được một đánh giá.” Và theo Luật Quy hoạch thì mỗi tỉnh ở ĐBSCL phải tự làm quy hoạch cho tỉnh mình trên cơ sở của Bản Quy hoạch Vùng ĐBSCL.  

Phải đương đầu và giải quyết bao nhiêu hệ luỵ tồn tại từ sau 1975, đứa con Đồng Tháp Lê  Minh Hoan có bản lãnh hay không là trong lúc này. Trước mắt, rất cần ông BT có chính kiến đánh giá khách quan và khoa học về các công trình cải tạo ĐBSCL bấy lâu trong 48 năm qua và gần đây nhất là Siêu Cống Cái Lớn.

MỘT CHUỖI CẢI TẠO THẤT BẠI: KHÔNG AI NHẬN TRÁCH NHIỆM

Những bước “cải tạo tự huỷ của nhà nước CS Việt Nam nơi ĐBSCL trong ngót nửa thế kỷ qua, với những công  trình “nghịch thiên – chống lại thiên nhiên”, đã để lại những di luỵ tác hại nghiêm trọng và tích luỹ trên nguồn tài nguyên và sự sống còn của cả một vùng châu thổ phì nhiêu nhất Châu Á và cũng là kho lương thực của Việt Nam.

Có thể kể một số “công trình cải tạo ĐBSCL” từ sau 1975:

_ Xây chuỗi đê bao chắn lũ để mở rộng khu làm lúa cao sản ba vụ, đã làm mất 2 túi nước thiên nhiên khổng lồ, là khu Tứ Giác Long Xuyên và vùng trũng Đồng Tháp Mười.

_ Xây trên sông những cống đập chắn mặn, ngăn chặn dòng chảy, phá vỡ nhịp đập thiên nhiên (Mekong Pulse) của toàn hệ sinh thái ĐBSCL điển hình là 3 dự án lớn: (1). Ngọt hoá Bán Đảo Cà Mau, (2) Công trình Cống đập Ba Lai, và gần đây nhất là, (3) Cống Đập Cái Lớn Cái Bé được mệnh danh là Công trình của Thế Kỷ. [sic]    

  •  Ngọt Hoá Bán Đảo Cà Mau: Một chuỗi những hối tiếc

Ba công trình khủng gồm: Ô Môn – Xà No và Ngọt Hóa Bán đảo Cà Mau “với kinh phí tính bằng đơn vị hàng ngàn tỷ đồng cho đến nay kết quả được-mất của các dự án này cũng chưa hề được đánh giá” [TS Dương Văn Ni, ĐHCT]. Trong suốt giai đoạn 1990 đến năm 2000, hàng trăm cống đập, đê biển, đê sông ngăn mặn, giữ ngọt đã được rộng rãi đầu tư xây dựng. Theo tínhtoán – chỉ trên lý thuyết của ngành thủy lợi thuộc Bộ NN & PTNT [dưới thời 2 Bộ Trưởng Nguyễn Công Tạn, 1995-1997; Lê Huy Ngọ, 1997-2004], hệ thống đưa nước ngọt từ sông Hậu về Bán đảo Cà Mau để cung cấp nước tưới, chủ yếu trồng lúa, cho 70.000 ha đất của tỉnh Bạc Liêu, 50.000 ha đất của Cà Mau và 66.000 ha đất của Kiên Giang.

Hình 6a: trái, Bản đồ Quy hoạch thủy lợi vùng Nam Bán Đảo Cà Mau. Hình 6b: phải, Âu thuyền Tắc Thủ do Cty CP Tư vấn XD Thủy lợi II thiết kế và xây dựng từ 2001 tại ngã ba sông Ông Đốc – Cái Tàu – sông Trẹm, Cà Mau, với kinh phí gần 80 tỷ đồng nhưng sau khi hoàn thành năm 2006, đã chứng tỏ không những là vô dụng, mà còn gây thêm cản trở giao thông. [photo by Nguyễn Kiến Quốc] (2)

Hình 7: những nơi dòng sông không chảy, ĐBSCL dày đặc ô nhiễm và sinh cảnh thì đang chết dần. [photo by Ngô Thế Vinh 12.2017]

Nhưng các dự án khủng ấy đã gây ra những hậu quả nhãn tiền là: 

_ Về khía cạnh hệ sinh thái, do dòng chảy sông rạch thường xuyên bị ngăn chặn bởi các cống, nên sự kết nối hữu cơ giữa “hệ sinh thái sông và biển” với thủy triều từ biển hoàn toàn bị triệt tiêu trong thời gian cống bị đóng. Và khi mở cống, do ô nhiễm tích luỹ lại theo dòng nước lan toả huỷ diệt sinh cảnh và nguồn thuỷ sản nơi cửa sông và vùng cận duyên.    

Phía trong cống không còn hiện tượng nước lớn, nước ròng mỗi ngày, hoặc nước rong nước kém cho chu kỳ rằm mỗi nửa tháng. Khi chưa có cống đập, thủy triều trong sông rạch vùng Bán đảo Cà Mau tuy không đều nhưng có khi biên độ cao đến gần 2 mét. Do các cống đóng suốt mùa khô, nên khúc sông bên trong trở thành hồ nước tù đọng khiến tình trạng ô nhiễm gia tăng trầm trọng. Rác rưởi từ nguồn phế thải gia cư, cộng thêm với các độc chất phục vụ trồng lúa như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân bón hoá học tràn xuống tích tụ dày đặc. [Hình 7]

_ Về khía cạnh công trình, do các cống ngăn mặn đã gây cản trở giao thông trên sông rạch nên phải tốn kém làm thêm những công trình khác như âu thuyền Tắc Thủ, được xây từ năm 2001 tại ngã ba sông Ông Đốc – Cái Tàu – sông Trẹm, thuộc hai huyện Thới Bình và U Minh, Cà Mau với kinh phí gần 80 tỷ đồng nữa. Công trình này do Cty CP Tư vấn XD Thủy lợi II thiết kế và xây dựng. Âu thuyền Tắc Thủ sau khi hoàn thành năm 2006, đã chứng tỏ không những là vô dụng, mà còn gây thêm cản trở giao thông. Cho đến nay, hầu như không ai chịu trách nhiệm về kế hoạch thất bại và đầu tư vô cùng lãng phí này. (2)

Hình 8: Người dân Bạc Liêu và rồi lan sang Cà Mau rủ nhau đi phá cống đập ngăn mặn. [nguồn: tư liệu VTV, Giữa đôi dòng mặn ngọt 1998] (2) 

 Kết quả là chỉ sau hơn 5 năm, công trình ngọt hóa Bán đảo Cà Mau đã bộc lộ những bất cập giữa lý thuyết và thực tế gây nhiều khó khăn cho đời sống cư dân trong vùng. Từ năm 1997-1998, đã có hàng trăm nông dân đòi phá các hệ thống cống đập này để lấy nước lợ vào nuôi tôm; tháng 7/1998 nông dân Bạc Liêu kéo nhau đi phá đập Láng Trâm và phong trào phá cống ngăn mặn lan sang tỉnh Cà Mau. [Hình 8] 

Cuối cùng, sau năm 2000 Chính quyền phải nhượng bộ để cho các tỉnh trong vùng chuyển đổi 450.000 ha đất trồng lúa sang vùng nuôi tôm, cũng có nghĩa là hy vọng đưa vùng đất này trở về điểm xuất phát, trả lại hệ sinh thái tự nhiên của hai mùa mặn ngọt.

Không chỉ có vậy, ngoài sự lãng phí 1.400 tỷ đồng, Dự án Ngọt hoá Bán đảo Cà Mau, cho dù có sửa sai nhưng vẫn còn để lại những tổn thất về môi trường tự nhiên và nguồn tài nguyên nên càng làm cho đất nước nghèo thêm. Các mục tiêu chính của dự án Ngọt hóa Bán đảo Cà Mau gần như hoàn toàn thất bại. 

(2) Cống Đập Ba Lai: Một hối tiếc lớn hơn nữa

Sau thất bại của các công trình “nghịch thiên” Ngọt Hoá Bán đảo Cà Mau, tưởng như đã là một bài học đắt giá, nhưng tiếp theo là công trình thuỷ lợi được coi là lớn nhất ĐBSCL: Cống đập Ba Lai, tại cửa sông Ba Lai, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre thêm “một bài học không học phát xuất từ Bộ NN & PTNT thời Bộ trưởng Cao Đức Phát, 2004-2016.

Công trình chắn ngang cửa sông Ba Lai được khởi công tháng 02/2000, từ xã Thạnh Trị kéo sang xã Tân Xuân. Kinh phí ban đầu lên tới hơn 66 tỷ đồng VN. Trên lý thuyết – như từ bao giờ vẫn trên lý thuyết, cống đập Ba Lai có chức năng: ngăn mặn, giữ ngọt cho 115.000 hecta đất, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600 ngàn dân cư Thành phố Bến Tre và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành; cùng kết hợp với phát triển giao thông thuỷ bộ và cải tạo môi trường sinh thái vùng dự án. [sic] 

Hai năm sau, từ tháng 04/2002 cống đập Ba Lai bắt đầu được đưa vào hoạt động, được vinh danh lúc đó là công trình thuỷ lợi lớn nhất ĐBSCL. Và từ đây, cửa sông Ba Lai, một trong 8 cửa của Cửu Long chính thức bị đóng lại. [Hình 9]

Hình 9: Cửu Long / Chín Cửa Hai Dòng; Sông Tiền 6 cửa: (1) cửa Tiểu, (2) cửa Đại, (3) cửa Ba Lai, (4) cửa Hàm Luông, (5) cửa Cổ Chiên, (6) cửa Cung Hầu. Sông Hậu 3 cửa: (7) cửa Định An, (8) cửa Ba Thắc (9) cửa Tranh Đề. Cửa Ba Thắc rất nhỏ đã bị thiên nhiên bồi lấp từ lâu; nay thêm cửa sông Ba Lai thì bị nhà nước CSVN xây đập chặn lấp 2002, khiến nay chỉ còn Thất Long / Bảy Cửa Hai Dòng. (2)

Hình 10: trái, Từ ngày có cống đập Ba Lai, cửa sông Ba Lai đã bị đóng lại. [Cửa Ba Thắc thì đã bị bồi lấp từ cả trăm năm nay], và Cửu Long Giang nay chỉ còn 7 nhánh: Thất Long; [photo by Lê Quỳnh]; phải, những giề lục bình phủ kín sông rạch do nước tù đọng phía trong các cống chắn khiến ghe tàu đi lại khó khăn, nhiều nơi người dân đã phải dùng thuốc diệt cỏ để khai quang lục bình nhằm tạo lối đi khiến nước sông lại càng thêm ô nhiễm. Lục bình còn ngăn cản ánh sáng và không khí rất cần thiết cho sự sống còn của các loài thuỷ sinh.  [photo by Ngô Thế Vinh 12/2017] 

Hình 11: Xây cống đập lớn đóng cửa sông, thay vì “ngọt hoá con sông Ba Lai” nhưng đã đưa toàn tỉnh Bến Tre tới tình trạng ngập mặn tệ hại hơn; trái, sáng ngày 10/01/2020, một buổi hội thảo Khoa học & Công nghệ Cấp Nhà Nước [sic] để giới thiệu túi nước ngọt có sức chứa từ 1 m3 tới 100 m3 do công ty nhựa Tân Đại Hưng sản xuất [SGGP Online 11/01/2020]; phải, để sống còn với hạn mặn bủa vây, người dân Bến Tre nay phải “mua nước ngọt” chứa trong những “túi nhựa đủ cỡ”. [báo điện tử Bộ TN & MT 12/01/2020]

Xây dựng cống đập Ba Lai không những đã rất tốn kém, nhưng khi phát hiện sai lầm thì việc phá bỏ, làm sạch môi trường còn bội phần tốn kém hơn và chuyển đổi sinh hoạt của cư dân cũng không phải là dễ dàng. 

Cho tới nay, cống đập Ba Lai với chi phí hơn 66 tỷ đồng, đã vận hành được hơn 21 năm [2002-2023], hiệu quả công trình cống đập Ba Lai ấy ra sao? Những cống ngăn mặn Ba Lai đã không đạt mục đích vì còn chằng chịt những cửa sông kinh rạch khác không có cống ngăn đã tập hậu chuyển nước mặn vào bên trong hệ thống cống đập đã xây. Dự trù còn phải chi thêm 900 tỷ đồng nữa để “nạo vét bồi lấp” cho những hệ luỵ từ một công trình 66 tỷ gây ra? Liệu có ai can đảm đứng ra nhận trách nhiệm cho những thất bại thảm hại của dự án này?

Chúng ta hãy nghe một tiếng nói trầm tĩnh và trí tuệ của đứa con sinh ra và lớn lên từ ĐBSCL, TS Dương Văn Ni, chuyên gia về đa dạng sinh học Đại Học Cần Thơ: “Với giải pháp công trình, muốn xây cống đắp đê ở đâu cần hỏi dân. Quan điểm của tôi, ngân sách chưa nên đầu tư quá lớn cho việc đắp đập ở các cửa sông lớn vì hiệu quả đến đâu chưa đánh giá được, mà gây hại thì lại rõ như cống đập Ba Lai”. [Tạp chí Thuỷ sản Việt Nam].

Địa bàn môi trường không phải như một bàn cờ để dễ dàng xoá đi bày lại. Một câu hỏi được đặt ra: với những tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai — Bộ NN & PTNT, hay Bộ TN & MT/ Tài Nguyên Môi trường hay chính phủ trung ương hay Bộ Chính Trị sẽ nhận trách nhiệm với phong cách “đem con bỏ chợ” như hiện nay?   

  • Cái Lớn Cái Bé: Thêm Một Sai Lầm Thế Kỷ

Với những công trình khủng trước đó gồm: Ngọt Hóa Bán đảo Cà Mau với kinh phí lên tới tính bằng đơn vị hàng ngàn tỷ đồng, rồi tới thất bại của cống đập Ba Lai cho đến nay kết quả được-mất của các dự án này cũng chưa hề được đánh giá cụ thể, thì chính phủ lại phê duyệt chủ trương đầu tư (498/QĐ/ TTg) một dự án khủng khiếp hơn tiếp theo là Dự án hệ thống thuỳ lợi  Cái Lớn – Cái Bé ! Vì vậy, người dân không khỏi băn khoăn là liệu tiền của bỏ ra nhưng các khuyết điểm trong dự án trước đó có tiếp tục bị lặp lại?  [TS Dương Văn Ni, ĐHCT].  

Dự án Thủy lợi Cái Lớn Cái Bé (CLCB) liên quan tới lãnh đạo của một ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng (từ 2011 tới nay), hai ông Thủ tướng: Nguyễn Tấn Dũng (2006-2016), Nguyễn Xuân Phúc (2016-2021), và một ông Bộ trưởng NN & PTNT Nguyễn Xuân Cường, (2016-2021).

Dự án CLCB được đề xuất từ năm 2011 với mục tiêu trên lý thuyết là một công trình nhằm ứng phó với nước biển dâng và biến đổi khí hậu và cũng để duy trì đất trồng lúa bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu, theo quy hoạch thuỷ lợi tổng thể cho ĐBSCL đã được nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt ngày 19.04.2016. 

Dự án Thủy lợi CLCB Giai đoạn 1 được nguyên TT Nguyễn Xuân Phúc* phê duyệt ngày 17.04.2017 dựa theo tờ trình của Bộ NN & PTNT. Toàn bộ công việc soạn thảo dự án, nghiên cứu khả thi cho đến lập báo cáo Đánh giá Tác động Môi trường (ĐTM) đều nằm trong một “chu trình khép kín” thuộc quyền kiểm soát của Bộ NN & PTNT mà không cho thấy có một tổ chức, cá nhân độc lập nào tham gia. Chủ đầu tư dự án là Ban Quản lý đầu tư và Xây dựng Thuỷ lợi 10 thuộc Bộ NN & PTNT. Từ đơn vị tư vấn lập báo cáo dự án là Liên danh Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam – Viện Quy hoạch Thuỷ lợi Miền Nam – Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Thuỷ lợi 2 rồi đến cơ quan lập báo cáo ĐTM là Viện Kỹ thuật Biển thuộc Quy hoạch Thuỷ lợi Việt Nam, tất cả đều là những đơn vị trực thuộc quản lý hành chính của Bộ NN & PTNT hoặc Bộ NN & PTNT có quyền ra chỉ đạo trực tiếp. Điều này có nghĩa các chuyên gia độc lập, tổ chức xã hội dân sự và cư dân không thực sự được tham vấn và có tiếng nói nào vào quyết định của dự án.     

Hình 12: trái, bản báo cáo Đánh giá Tác Động Môi trường (ĐTM)Dự án Hệ thống thuỷ lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé; phải, vùng dự án CLCB (màu hồng) trong lưu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. 

Theo báo cáo ĐTM thì mục tiêu (trên lý thuyết) của dự án Hệ Thống Thuỷ Lợi CLCB giai đoạn 1là: Kiểm soát mặn. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tạo nguồn nước ngọt. Tăng cường khả năng thoát lũ. Phát triển giao thông thủy, bộ trong vùng dự án. Với tổng vốn đầu tư cho dự án Giai đoạn 1 là 3.309,5 tỷ đồng (tương đương với 150 triệu MK).

Với một công trình xây dựng thuỷ lợi có thời gian vận hành tối thiểu 50 năm, có khi lâu hơn,  nhưng đánh giá tác động môi trường (ĐTM) chỉ tập trung chủ yếu vào phân tích tác động của giai đoạn chuẩn bị và xây dựng dự án mà lại thiếu sót về tác động của việc vận hành hệ thống thuỷ lợi CLCB sau khi xây dựng xong.

 Một điều đáng lưu ý là báo cáo ĐTM liên tục lặp đi lặp lại một ý quan trọng, được cho là ý kiến của 8 trên tổng số 39 UBND xã trong phần tham vấn cộng đồng: “đề nghị Chủ dự án thực hiện nghiêm túc biện pháp gây ô nhiễm. [sic]

Với một báo cáo ĐTM còn nhiều thiếu sót như thế thì không thể quyết định gì cảđể khởi công một “Công trình Thế kỷ”, chống lại thiên nhiên, có khả năng huỷ hoại cả một hệ sinh thái mong manh của ĐBSCL, ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản xuất sinh kế của hàng triệu cư dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao nhiêu vấn đề kỹ thuật chưa có biện pháp giải quyết.  Từ bài học thất bại của Công trình Ngọt hoá Bán đảo Cà Mau, tiếp theo là một thất bại khác của công trình Cống đậpChắn mặnBa Lai, và mới đây, là Công trình Thế Kỷ Siêu Cống Cái Lớn [Hình 13], đang gây ra những hậu quả nhãn tiền!Nhiều nhà khoa học và giới hoạt động môi trường đã không ngừng lên tiếng cảnh báo rằng: nếu không có một đánh giá môi trường chiến lược/ ĐTM [SEA / Strategic Environmental Assessment] cho toàn ĐBSCL mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình hình mặn-ngọt cho từng vùng, rồi lập ngay quy hoạch xây dựng một loạt hệ thống cống đập chỉ để ngăn mặn nơi các cửa sông lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái mong manh đã có đó từ ngàn năm và hậu quả sẽ khôn lường.  

Hình 13: Từ dự án (trái) tới hiện thực (phải); ngày 5/03/2022, TT Phạm Minh Chính (kế nhiệm TT Nguyễn Xuân Phúc) cùng Bộ trưởng Bộ NN & PTNT Lê Minh Hoan (kế nhiệm BT Nguyễn Xuân Cường) cùng đến khánh thành công trình Siêu Cống Cái Lớn Cái Bé giai đoạn 1. Chỉ  mới qua hơn một năm vận hành từ tháng 01/2022, “công trình thế kỷ và nghịch thiên” này đã bộc lộ những yếu kém, đang giết chết “Dòng Chảy Sinh Thái” của cả một hệ thống sông rạch, gây ra những tác động tiêu cực và ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống cư dân trong vùng. [nguồn: photo by TT Online 13/03/2022]

CẢI TẠO ĐBSCL VỚI NHỮNG SUY NGHĨ CHƯA TỚI                                              

Chỉ mới đây thôi, tháng 9, 2022, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, là một “thuyền nhân miệt vườn”, hơn 40 năm sau, từ Sydney Úc Châu, sau chuyến đi thỉnh giảng tại Đại Học Cần Thơ, trở lại thăm Kiên Giang quê cũ – (thuộc khu Tứ Giác Long Xuyên gồm 3 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Cần Thơ), nơi ông đã sống suốt những năm niên thiếu, đã phát biểu cảm nghĩ như sau:

Việt Nam có gì đáng ngạc nhiên? Nhiều lắm. Hiện tượng “triều cường” ngày nay không chỉ là đặc sản của Sài Gòn mà đã lan tràn sang Cần Thơ. So với 20 năm trước, đó là một ngạc nhiên đối với tôi. Nhưng với anh tài xế taxi thì ảnh không ngạc nhiên vì ảnh có cách giải thích. Anh ấy giải thích rằng vì mấy con rạch bị lấp và biến thành bất động sản, nhà cửa xây lên quá nhiều, không có quy hoạch nên dẫn đến tình trạng vừa lún vừa ngập nước triền miên.

Sông ngòi vùng quê ngày nay nó cứ lờ đờ, ô nhiễm. Nguyên nhân? Nông dân chỉ tay về cái cống khổng lồ ở sông Cái Lớn nó ngăn nước mặn, nhưng cũng làm thay đổi dòng chảy của tất cả các nhánh sông trong vùng. Con sông trước nhà tôi ở dưới quê bị ô nhiễm trầm trọng và khái niệm nước lớn nước ròng đang dần dần biến mất. Tôi tự hỏi tại sao mấy người chủ trương xây cái cống khổng lồ đó không tính toán lợi và hại trước, hay là họ có tính toán mà không đạt?Ai chịu trách nhiệm cho sự ảnh hưởng của cái cống đó đến hệ sinh thái và mùa vụ? Có vẻ chẳng ai chịu trách nhiệm.”  [Nguyễn Văn Tuấn, Diễn Đàn Thế Kỷ, 30/09/2022]

Vẫn GS Nguyễn Văn Tuấn viết trên facebook: Cái siêu cống này đã gây ra nhiều tác hại. Nó được thiết kế để ngăn mặn, nhưng ngay cả người nuôi tôm cũng đau khổ vì nó. Còn nông dân thì khỏi nói, và cụ thể là quê tôi ở Kiên Giang. Nếu có dịp đi sâu vào các con rạch, các bạn sẽ thấy những cái máy bơm nước chạy suốt đêm. Để làm gì? Để bơm nước từ ruộng ra sông. Lý do gần là ruộng bị ngập nước. Lý do xa hơn là cái cống ở sông Cái Lớn. Cái cống này, sau khi xây xong và được coi là một công trình của thế k, nó làm thay đổi dòng nước các con sông ở Kiên Giang. Thay đổi theo chiều hướng xấu hơn. Nước sông cứ lình bình, khái niệm nước lớn, nước ròng gần như không còn nữa. Nước tràn vào ruộng làm cho bà con vất vả kiểm soát nước nôi (vì nếu không thì lúa chết hết). Nói chuyện với dân địa phương mới biết là lúa chết đã xảy ra, nên nông dân phải dùng máy bơm nước từ ruộng đổ về sông. Một hậu quả khác của cái cống là tình trạng ô nhiễm ở các con sông đã trầm trọng thì giờ đây càng trầm trọng hơn. Cá tôm khó sống trong sông. Lục bình ‘trỗi dậy’ ở nhiều con rạch, đến nỗi ghe xuồng khó đi lại được. Trước khi xây cái cống này, chắc chắn người ta đã tính toán. Nhưng chẳng hiểu họ tính toán ra sao mà hậu quả như ngày nay. Tôi rất muốn xem cái báo cáo đánh giá môi trường để biết họ tính toán dựa vào giả định nào và phương pháp có đúng không. Cái cống gọi là công trình thế kỷ” cần phải được đánh giá lại về lợi và hại. Nếu không có những đánh giá độc lập, với cái đà xây thêm những cái cống như vầy – CLCB giai đoạn 2 thì hậu quả sẽ còn nghiêm trọng hơn rất nhiều.”

Có thể tin được không, sau một năm vận hành Siêu cống Cái Lớn với những hệ luỵ sai sót, nhưng theo báo chí nhà nước thì vẫn rêu rao: “Lợi ích khủng từ “Siêu cống” [báo Lao Động 17/01/2022] và cả trên Wikipedia* của các nhóm lợi ích, thì vẫn “nói lấy được” là Dự án CLCB đã tuân theo tinh thần “Nghị quyết 120 của Chính Phủ” – nhưng thực tế là một phá sản đối với Nghị quyết 120 CP và rồi “sau khi hoàn thành thử nghiệm giai đoạn 1 thành công [sic] thì một số địa phương trong vùng tây sông Hậu đã có kiến nghị chính phủ cho triển khai tiếp giai đoạn 2 của dự án nhằm ngăn xâm nhập mặn cho vùng ĐBSCL” [sic]

_ [Ghi chú của người viết: Wikipedia* bấy lâu vẫn được coi như bộ bách khoa toàn thư mở, dễ tiếp cận, cung cấp nhiều thông tin hữu ích được sử dụng như nguồn tham khảo và cả trích dẫn, nhưng các bạn trẻ cần thận trọng, đã có không ít những thông tin sai lạc từ các trang Wikipedia này, vì đó là sản phẩm trí tuệ trá hình của bộ máy tuyên truyền hùng hậu của nhà nước CSVN muốn hướng dẫn dư luận quần chúng cả tin theo ý họ].

GS Nguyễn Văn Tuấn đưa ra một nhận định có tính báo động: Tình trạng ô nhiễm nước, đất, không khí ở miệt quê đang là nguyên nhân của sự gia tăng chóng mặt về các căn bệnh không lây như ung thư, phổi, tiểu đường, và tim mạch. Nếu không kiểm soát được vấn đề ô nhiễm môi trường, tôi e rằng ngót 20 triệu dân miền Tây sẽ đứng trước một đe doạ rất lớn về sức khỏe.

Chỉ riêng câu hỏi này của GS Nguyễn Văn Tuấn, người viết muốn gửi tới ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng – người quyền lực nhất hiện nay, và ông Thủ tướng đương nhiệm Phạm Minh Chính, người kế thừa ông Nguyễn Xuân Phúc và trước đó là ông Nguyễn Tấn Dũng – để nhắc nhở với hai ông rằng:

… Giữa năm 2017, khi Dự án cống ngăn mặn Cái Lớn Cái Bé – được Bộ NN & PTNT dưới thời BT Nguyễn Xuân Cường đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi sôi nổi, nguyên do là đã có một chuỗi những  thất bại của các công trình ngăn mặn trước đó – điển hình là sự thất bại toàn tập của cống đập ngăn mặn Ba Lai, tỉnh Bến Tre.  Và gần như tuyệt đại đa số những tiếng nói trí tuệ độc lập từ các chuyên gia hàng đầu am hiểu hệ sinh thái ĐBSCL đều lên tiếng phản đối và can ngăn.

Nhưng khi, nguyên Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đặt bút Nghị Quyết 120 NQ-CP vào tháng 11/2017, một nghị quyết “thuận thiên” được coi như bước ngoặt lịch sử của nông nghiệp ĐBSCL, nhưng rồi – như từ bao giờ, các nhóm lợi ích với thế lực rất mạnh, vẫn bám mục tiêu đòi hỏi phải xây dựng hệ thống thủy lợi quy mô lớn, như dự án cống đập ngăn mặn Cái Lớn – Cái Bé (CLCB). Các nhóm lợi ích từ Nam ra Bắc luôn luôn có thế lực lũng đoạn chi phối mọi chính sách của nhà nước, những dự án do họ đưa ra phải được duyệt và thông qua thì họ và cả giới chức tham nhũng trong chính phủ mới có ăn, mặc kệ hậu quả ra sao và nông dân trồng lúa cứ nghèo. [GS Võ Tòng Xuân]

Ông nguyên Thủ tướng, với bàn tay phải đặt bút ký nghị quyết Nghị Quyết 120 NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL, nhưng rồi cũng chính bàn tay trái của ông bật đèn xanh cho các nhóm lợi ích –  có thế lực mạnh hơn, khởi công Dự án Cái Lớn Cái Bé, hơn 3 ngàn tỷ vẫn còn đầy rẫy những sai sót.(3) Thực chất Dự án CLCB là một phá sản của Nghị Quyết 120 NQ-CP, khiến nhà nghiên cứu môi trường độc lập Nguyễn Hữu Thiện đã phải thốt lên: Với dự án CLCB, Nghị Quyết 120 NQ-CP hoàn toàn rơi vào thế “thất thủ chiến lược” (3)

Ai cũng hiểu rằng, ngót nửa thế kỷ qua, những nghị quyết và những khẩu hiệu đến từ Bộ Chính Trị Ba Đình Hà Nội thì quá nhiều, nhưng khoảng cách giữa những Nghị Quyết và Thực Tế của đất nước trong 48 năm qua vẫn còn là cả một khoảng cách đại dương.

CHẤT XÁM VÀ TIẾNG NÓI BỊ LÃNG QUÊN

Đồng Bằng Sông Cửu Long, một vùng đất nước rất giàu tài nguyên, không hề thiếu chất xám và những tiếng nói trí tuệ. Nhưng do tính kiêu căng của đảng Cộng Sản cầm quyền, lại được kết nối với sự tham lam của các nhóm lợi ích, khiến nguồn chất xám ấy đã bị lãng phí và những tiếng nói trí tuệ độc lập ấy không những không được lắng nghe, mà còn cả bị đe doạ trấn áp. Người viết muốn nhắc tới một một “Think Tank của Đại Học Cần Thơ.”

Nhóm Nghiên Cứu Mekong Đại Học Cần Thơ (2), đã nêu rất rõ là: hệ thống các cống chặn mặn làm mất nguồn năng lượng dòng chảy nước ngọt từ phía thượng nguồn (mũi tên màu xanh) và năng lượng thuỷ triều đem dòng nước mặn từ biển vào (mũi tên màu đỏ) khiến môi trường tự nhiên của ĐBSCL không còn được tẩy rửa hàng ngày (con nước lớn- con nước ròng), hàng tháng (con nước rong- con nước kém), và hàng năm (mùa nước nổi- mùa nước cạn) như trước kia. Hệ quả là hàm lượng oxy hòa tan (DO) trong nước rất thấp khiến sông rạch mất cả khả năng tự làm sạch nguồn nước bằng cơ chế oxy hóa. [Hình 14]

 

Hình 14: Nhờ năng lượng dòng chảy nước ngọt từ phía thượng nguồn (mũi tên màu xanh) và năng lượng dòng nước mặn từ biển (mũi tên màu đỏ) mà môi trường tự nhiên của ĐBSCL được tẩy rửa hàng ngày (con nước lớn-ròng), hàng tháng (con nước rong-kém), và hàng năm (mùa nước nổi-cạn). Nguồn nước này cũng giúp cho nước chảy được trong các kênh rạch vì địa hình ĐBSCL quá bằng phẳng. (2) Những cống đập ngăn mặn của Bộ NN & PTNT đang “khai tử” dòng chảy và nhịp đập / Mekong Delta Pulse của hệ sinh thái ĐBSCL. [Nhóm Nghiên Cứu Mekong Đại Học Cần Thơ] (2)

Triệt tiêu Dòng Chảy Sinh Thái, với hậu quả là: gia tăng ô nhiễm nguồn nước trong các sông rạch, nước đổi sang màu đen, bốc mùi hôi thối do các chất hữu cơ bị phân hủy; và nguồn nước trong các vùng thủy lợi hoàn toàn không còn sử dụng được cho mục đích ăn uống, kể cả sinh hoạt tắm giặt hàng ngày.

Người dân nay phải sống bằng nước ngọt bơm từ những giếng ngầm, nguồn nước ngầm này cũng ngày một cạn kiệt và hạ thấp; có nơi cư dân đã phải khoan đến độ sâu 80 – 120 mét để tới được nguồn nước ngọt. Nhu cầu khai thác các tầng nước ngầm để lấy nước ngọt quá lớn – mà nguồn nước ngầm ấy không phải là vô hạn — hiện có hơn 2 triệu giếng khoan lấy nước ngọt từ các tầng nước ngầm, đang làm gia tăng tốc độ sụt lún đất nơi ĐBSCL, có nơi nhanh gấp 10 lần hơn mực nước biển dâng.

Về khía cạnh tài nguyên, nguồn thủy sản cũng là nguồn chất đạm/ protein quan trọng trong mỗi bữa ăn với tô cá chén cơm của cư dân ĐBSCL bị sút giảm nghiêm trọng: các loài cá trắng của nước chảy có nguy cơ bị tiêu diệt do dòng sông bị chặn bởi các cống đập, chỉ còn lại các loài cá đen nước tù của ao hồ  như cá lóc, cá trê, cá rô phi… Đây là hậu quả tất yếu khi mà hệ sinh thái sông ngòi (riverine environment) đã bị chuyển sang hệ sinh thái ao hồ (lacustrine environment) (Nguyễn Hữu Thiện, 2018).

Do môi trường nước cực kỳ ô nhiễm, lại thêm, lục bình phát triển tràn lan phủ kín cả mặt thoáng sông rạch khiến ghe tàu đi lại rất khó khăn nên nhiều nơi người dân đã phải phun thuốc diệt cỏ trên lớp lục bình nhằm khai quang thuỷ lộ khiến nước sông càng ô nhiễm thêm nữa; và do thiếu nguồn chất đạm từ tôm cá và các loài thuỷ sản khác đã ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng, trẻ em có nguy cơ bị suy dinh dưỡng. [Hình 10] 

Các loại cây quen sống ở vùng nước lợ, điển hình như cây dừa nước, hư hại và chết do vùng nước lợ bị ngọt hoá. Nói chung, toàn thể tính đa dạng của hệ sinh thái khu vực quy hoạch bị xuống cấp và bị huỷ hoại nghiêm trọng.

Về phương diện xã hộiở những nơi có cống đập ngăn chặn dòng chảy, việc canh tác trở nên khó khăn, chi phí cao mà lợi nhuận sút giảm, cộng thêm môi trường nước bị ô nhiễm, là một trong những lý do khiến tình trạng di dân – ecological migration ngày càng phổ biến và nhiều người đã bỏ đồng ruộng đi tìm kế mưu sinh ở các khu công nghiệp bên ngoài ĐBSCL hoặc trên thành phố. (2) Trong hai thập niên qua đã có ngót 2 triệu cư dân ĐBSCL phải rời bỏ quê hương vốn được coi là “vùng mật ngọt” với gạo trắng nước trong tôm cá đầy đồng thì nay phải ra đi tìm kế sinh nhai. Trong nghịch cảnh đó thì phụ nữ và trẻ em là bị nhiều tổn thương nhất.(2)

HƯỚNG TỚI NHỮNG BIỆN PHÁP PHI CÔNG TRÌNH 

Trong 48 năm qua, nhiều công trình cải tạo lớn đã được đem ra thử nghiệm trên khắp ĐBSCL như: đắp đê ngăn lũ, làm đê kè để giảm sóng hay chuyển hướng dòng chảy, xây dựng hàng loạt những cống chặn mặn… Có thể nói là các “chuyên gia quốc doanh” từ ngoài Bắc vào Nam không hiểu gì hệ sinh thái tinh vi của ĐBSCL, nên đã thô bạo dùng “dao mổ trâu” để thực hiện những cuộc giải phẫu thần kinh và đã để lại những hậu quả tác hại lâu dài, rất khó sửa chữa.

Trước những nan đề, mặn ngọt, thay đổi khí hậu, sử dụng đất đai, nước biển dâng, cũng như bao nhiêu khắc nghiệt của mẹ thiên nhiên từ thuở hoang sơ, bấy lâu con người đã biết thích nghi sống hài hoà với thiên nhiên, nếp sống ấy đã tạo ra một nền văn hoá sông nước. Giải pháp xây dựng những công trình thô bạo chống lại mẹ thiên nhiên vẫn là một chọn lựa thiếu khôn ngoan và là một đương đầu không cân sức, đã đến lúc các nhà khoa học môi trường thức thời đã đi tìm những “biện pháp phi công trình” chung sống và thích nghi với thiên nhiên là chủ yếu. 

Thế nào là các biện pháp thích nghi phi công trình / non-structural adaptation measures: đó là không chọn xây những công trình lớn cố định vĩnh cửu để đối phó với một hệ sinh thái không ngừng biến động: tính cố định của các công trình đã chứng tỏ lỗi thời trong một môi trường sống không ngừng đổi thay.

Và trong suốt dòng lịch sử phát triển hơn 300 năm của ĐBSCL, người nông dân và ngư dân đã luôn luôn biết sống hoà hợp với thiên nhiên, biết thích nghi để tồn tại mà không gây tổn hại cho môi trường và không vắt kiệt nguồn tài nguyên vốn không phải là vô hạn. 

Những ví dụ: 
_ trước
khi có nha khí tượng, người nông dân qua kinh nghiệm tích luỹ, đã biết dự báo thời tiết, nắng mưa khá chính xác và hiệu quả.

_ chưa có nha địa chất, nhưng họ đã biết đánh giá các vùng thổ nhưỡng, để chọn đúng loại cây trồng, không chỉ có cây lúa, họ biết đa canh để giữ màu cho đất.

_ chưa có nha thuỷ văn, họ đã biết chọn giống, nuôi trồng thuỷ sản phù hợp sinh cảnh: mặn-ngọt-lợ theo vùng. 

Với hiện trạng môi trường suy thoái trầm trọng như hiện nay – mà đa phần do chính con người gây ra, điều mà nhà nước cần quan tâm là:

_ giúp họ được sống trở lại với một môi trường không tù đọng không ô nhiễm đang đầu độc họ: mở cửa các cống đập cho các dòng sông được chảy.

_ với dòng chảy và thuỷ triều là những động lực làm thanh sạch và tẩy rửa môi trường bị tù đọng như hiện nay.

_ với các nhà máy xây dựng và hoạt động ven sông như nhà máy giấy Lee & Man, các nhà máy điện than đa phần từ TQ phải được giám sát chặt chẽ về xử lý ngay tại các nguồn xuất phát các nước thải và chất thải

_ nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ môi trường: tạo cho họ các tiện dụng gia cư tối thiểu như nhà vệ sinh, nơi thải rác thay vì đổ hết xuống sông rạch.

_ về tổng thể, nên có quy hoạch các khu cư dân hợp lý, thiết lập quỹ dự phòng như một hình thức bảo hiểm của nhà nước để tài trợ khi cư dân bị thiệt hại trong giai đoạn thay đổi khí hậu cực đoan như thời điểm 2016.

_ với một môi trường dần dà được tẩy rửa thanh sạch, nguồn nước lênh láng trở lại sử dụng được, giảm nhu cầu khai thác tầng nước ngầm, giảm độ sụt lún mười lần nhanh hơn nước biển dâng như hiện nay.

_ Ở một chừng mực nào đó, cần chủ động kiểm soát và cả chấp nhận phần nào tổn thất do biến đổi khí hậu nhưng phải biết nói không với những công trình tốn kém và mang tính tự huỷ hoại như hiện nay. 

TS Lê Anh Tuấn, nguyên Phó Giám đốc Viện Biến đối Khí hậu ĐH Cần Thơ đã nói tới “Giải pháp phi công trình” trong sử dụng đất đai và khai thác tài nguyên ĐBSCL với nhấn mạnh là cần linh hoạt: đó là những phương thức mềm” với chi phí rẻ, dễ thực hiện, thiên về bảo vệ duy trì, cải thiện môi trường, thuận thiên, bảo tồn tính đa dạng sinh học, với ý thức rằng phải cần thời gian mới thấy hiệu quả của nó. 

Một ví dụ: tìm ra các sinh kế phù hợp không gây tổn thương cho hệ sinh thái và điều kiện tự nhiên: ví dụ mùa mưa trồng lúa, mùa nắng nuôi tôm, nuôi cá nước mặn, nước lợ, tổ chức du lịch sinh thái – tìm hiểu văn hóa bản địa, phát triển khai thác, chế biến các lợi thế cây, con ở từng vùng miền (như trồng sen, chế biến sen, dệt lụa từ sợi sen, … hoặc một số loại cây ưu thế), phát triển nguồn năng lượng sạch (điện mặt trời, điện gió), dần dần thay thế cho nguồn nhiên liệu hoá thạch như than đá, dầu mỏ, làm tăng khí thải CO2 gây hiệu ứng nhà kính (green house effect) và cả gây thêm ô nhiễm…

Hình 15: một điển hình về đa dạng hoá sinh kế phát triển nông thôn “phi công trình” không gây tổn thương cho hệ sinh thái ĐBSCL. [nguồn: TS Lê Anh Tuấn, ĐH Cần Thơ]

Ưu tiên “phi công trình” không có nghĩa là bài bác mọi “công trình” mà cần có sự phối hợp hài hòa, chỉ xây dựng công trình khi nào thật sự cần thiết, nên bắt đầu các công trình nhỏ trước khi có những công trình lớn hơn. 

TS Lê Anh Tuấn thuộc ĐH Cần Thơ đã chọnkhu vực lúa-sen-cá-du lịchsinh tháiở Đồng Tháp như một điển hình về giải pháp “phi công trình, với minh họa rất dễ hiểu với người nông dân. 

VẪN NHỮNG DỰ ÁN SAI LẦM TỪ HỆ THỐNG

Suốt gần nửa thế kỷ – chính xác hơn là 48 năm sau 1975, như một chuỗi sai lầm từ hệ thống, nhà nước CSVN đã thiết lập vội vã nhiều dự án lớn – mà họ gọi là các “dự án trọng điểm” – rất tốn kém với tham vọng “cải tạo” ĐBSCL, mà đa phần là can thiệp rất thô bạo, gây tác hại trên một hệ sinh thái hết sức phức tạp và rất mong manh của cả một vùng châu thổ phì nhiêu của Châu Á.  

Do tính cục bộ, chạy theo lợi nhuận, chỉ với những “nghiên cứu mệnh danh là khoa học” nhưng theo phong cách: làm nhanh ăn nhanh; mà ngôn từ rất thời thượng trong nước hiện nay là “tư duy theo nhiệm kỳ” – chủ yếu bị chi phối bởi các nhóm lợi ích các chủ đầu tư, rồi đem chính mạng sống và kế sinh nhai người dân ra đánh bạc, bất chấp ý kiến của họ, đồng thời trấn áp các phản biện – tiếng nói phản biện của các nhà khoa học còn có thể bị gán cho cái tội chết người là “phản động” lợi dụng tự do dân chủ, hoặc nhẹ hơn là vào tù với tội danh “trốn thuế” và nhà nước CS đã gạt bỏ mọi khuyến cáo của các chuyên gia kinh nghiệm có thẩm quyền.

Tuy với những đe doạ trấn áp như vậy, nhưng vẫn không thiếu những nhà hoạt động môi sinh độc lập can đảm và bền bỉ cất lên tiếng nói của lương tri. Họ hướng tới mục tiêu tối hậu là bảo vệ cả một vùng châu thổ với ngót 20 triệu cư dân, nhằm giảm thiểu những tác hại lâu dài trên nguồn tài nguyên của đất nước và của các thế hệ tương lai. 

Nguyên lý bất di bất dịch là: Trước Hết là Không Gây Hại (Primum Non Nocere), vẫn cứ mãi là bài học vỡ lòng, là kim chỉ nam cho các bộ trưởng, vụ trưởng các ngành trước khi khởi công bất cứ một dự án nào trên ĐBSCL. Thế nhưng trong thực tế chưa có một chứng cớ nào cho thấy họ hành động theo nguyên lý căn bản trên. 

BIÊN NIÊN SỬ: CÁC CÔNG TRÌNH NGHỊCH THIÊN

Có thể liệt kê ngay một số những dự án chính đã và đang gây tác hại và tổn thương lâu dài cho toàn hệ sinh thái ĐBSCL như: 

_ Dự án đê bao chống lũ: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], với những đê bao ngăn lũ chỉ để có thêm đất làm lúa cao sản 3 vụ, vắt kiệt đất đai, lại không còn nguồn phù sa, nước thì tù đọng tích luỹ ô nhiễm đồng thời làm mất hai vùng trũng Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Xuyên như hai hồ dự trữ nước ngọt cho toàn ĐBSCL trong Mùa Khô, có tầm quan trọng chỉ đứng sau Biển Hồ – được ví như trái tim của hai vùng châu thổ Tonle Sap và ĐBSCL.    

_ Dự án các cống đập chặn mặn: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], ngăn chặn dòng chảy tự nhiên biến những con sông lành mạnh thành ao hồ tù đọng, xoá đi một nền văn hoá nước lợ / brackish water và gây rối loạn dây chuyền trên toàn nhịp đập / Mekong Pulse của hệ sinh thái ĐBSCL.

_ Dự án 14 nhà máy nhiệt điện than: [Bộ Công Thương], biến ĐBSCL là bãi tiếp nhận các nhà máy nhiệt điện chạy than phế thải từ Trung Quốc với hậu quả tàn phá môi trường đất đai, nguồn nước và không khí, với sức khoẻ của người dân không hề được quan tâm tới nếu không muốn nói là bị hy sinh.   

_ Dự án Nhà Máy Giấy Lee & Man: [Bộ Tài Nguyên & Môi Trường] gây ô nhiễm nghiêm trọng vì nguồn nước thải với đủ loại hoá chất cực độc nhưng vẫn được Bộ Tài Nguyên & Môi Trường cấp phép cho xả thải ra sông Hậu đang giết chết dòng sông, rồi còn phải kể tới bụi khói độc hại, mùi hôi thối, tiếng ồn từ nhà máy ngày đêm bào mòn sức khoẻ của người dân.   

_ Dự án Kênh Quan Chánh Bố: [Bộ Giao thông & Vận tải], với tốn kém hàng nhiều ngàn tỷ đồng chỉ để cho mấy tàu trọng tải lớn từ biển đi vào sông Hậu để tới giang cảng Cần Thơ gây bao khốn khổ cho người dân khi mà giá trị kinh tế của dự án kênh Quan Chánh Bố, cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời và vẫn đang gây rất nhiều tranh cãi gay gắt. 

Một danh sách chưa đầy đủ, trong thực tế còn nhiều dự án cấp địa phương đã được triển khai nhưng thiếu những nghiên cứu cơ sở và không có đánh giá tác hại môi trường từ các chuyên gia độc lập. 

Cũng GS Nguyễn Văn Tuấn, nhận định: “[…] còn quá sớm để quy những công trạng – nếu có – cho giới khoa học nhà nước. Tôi quan sát ở miền quê tôi thì thấy sự thật là những thành tựu về tăng năng suất trồng trọt và lúa là do người nông dân xoay xở. Nông dân tự thử nghiệm cho đến khi đạt được kết quả tốt (kiểu trial-and-error). Họ có thể không biết những nguyên tắc thí nghiệm hay ngẫu nhiên hoá, họ có thể không rành tính toán như các kỹ sư & tiến sĩ, nhưng qua trial-and-error, họ có thể lai giống và tạo giống mới, chế tạo máy gặt lúa, máy cấy lúa, máy hút lục bình, v.v... Giới khoa học chẳng giúp gì cho họ trong các sáng kiến đó. Người nông dân thiếu chữ để nói đó là công trạng của họ, và thay vào đó có những người mang mác ‘tiến sĩ’ giành công trạng cho mình. Ai cũng biết tác nhân làm nghèo làm khổ nông dân miền Tây là cái tập đoàn lương thực có tổng hành dinh nằm ngoài … Hà Nội.”

Ở Việt Nam, người ta có câu khuyên các nhà quản lý và khoa học quốc doanh: đừng làm gì hết, ngồi yên đó để dân nuôi, vì họ làm là hư hỏng. 

Theo KS Phạm Phan Long, Việt Ecology Foundation, thì vấn nạn lớn trên toàn đồng bằng hiện nay là ô nhiễm nguồn nước chính vì các công trình thủy lợi hoạch định phi lý đã gây ra. Ô nhiễm phải được xem là vấn nạn lớn mà mọi công trình phải bảo đảm không cho xảy ra. Công trình Cái Lớn Cái Bé đã đẩy ĐBSCL lao sâu hơn vào ao tù thảm trạng ô nhiễm không khác những công trình “thuỷ hại” trước đây nhưng với một quy mô lớn hơn.  

LỘ TRÌNH MỚI 2021-2030: QUY HOẠCH TÍCH HỢP

Quyết định số 1163 / QĐ-TTg ngày 31/7/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Nhiệm vụ lập quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050.

ThS Nguyễn Hữu Thiện, sinh ra (1968) và lớn lên ở một làng quê nông thôn sâu thuộc Hậu Giang, tốt nghiệp ngành thuỷ nông ĐH Cần Thơ, từ 1990 ở tuổi 22 đã là nhân viên đầu tiên của khu bảo tồn sếu đầu đỏ Tam Nông. Thông qua Hội Sếu Quốc tế (ICF / International Crane Foundation), năm 1992 ông giành được học bổng 4 năm của McArthur Foundation và tốt nghiệp MS về sinh học bảo tồn và phát triển bền vững tại ĐH Wisconsin-Madison, Hoa Kỳ năm 1996. Trở về Việt Nam, ông giảng dạy ngành sinh thái tại ĐH Cần Thơ trong 2 năm, sau đó đi làm việc cho các tổ chức quốc tế như Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN / International Union for Conservation of Nature), Quỹ Quốc tế về động vật hoang dã (WWF / World Wildlife Fund), Chương trình Đa dạng Sinh học Đất Ngập nước Mekong (MWBP /Mekong Wetlands Biodiversity Programme). Từ 2010, ông trở thành chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái ĐBSCL. Trong hơn 30 năm, Nguyễn Hữu Thiện đã cùng với các chuyên gia tâm huyết khác liên tục tham gia những công trình nghiên cứu sông Mekong và ĐBSCL.

Ông là người ủng hộ nhiệt thành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17 tháng 11 năm 2017 về phát triển ĐBSCL theo nguyên tắc “thuận thiên”, để phát triển bền vững và duy trì gía trị văn hoá sông nước của vùng ĐBSCL.

Từ 2018 đến 2022, ông làm chuyên gia cho Bộ Kế hoạch & Đầu tư, [với Bộ trưởng là Nguyễn Chí Dũng nhiệm kỳ từ 2016 tới nay], để hỗ trợ tư vấn quốc tế soạn thảo bản Quy hoạch Tích hợp ĐBSCL giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050. Bản quy hoạch này đã được Thủ tướng phê duyệt tháng 2/2022 và công bố tại Cần Thơ, và cũng là nội dung NQ13/TW của Bộ Chính Trị.

ThS Nguyễn Hữu Thiện cho rằng Quy hoạch Tích hợp lần này là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có được một bản quy hoạch tích hợp đa ngành cấp vùng, nhờ có Luật quy hoạch 2017. Trên lý thuyết nó cho phép đối xử với đồng bằng như là một cơ thể sống, thay vì cách quy hoạch đơn ngành, manh mún trước đây. Dù chưa thể gọi là hoàn hảo, nhưng nó cho thấy sự thay đổi lớn trong cách suy nghĩ ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững theo hướng thích ứng thay vì chống lại vắt kiệt thiên nhiên. Nó tạo ra một tiền lệ rất tốt cho những quy hoạch về sau. [hết trích dẫn] 

MÔI SINH VÀ DÂN CHỦ

Đồng Bằng Sông Cửu Long bấy lâu phải hứng chịu rất nhiều tổn thương do nhiều nguyên nhân: mất dòng chảy sinh thái vì chuỗi đập thuỷ điện thượng nguồn, những kế hoạch phát triển không bền vững nếu không muốn nói là tự huỷ ngay tại ĐBSCL của Việt Nam, và cả do biến đổi khí hậu.

Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu, câu văn trong Quốc văn Giáo khoa đã sống trong tâm khảm tuổi trẻ Việt Nam qua nhiều thế hệ, thì nay trong thực tế sự không còn nữa, và cũng đừng tiếp tục gieo vào đầu óc trẻ thơ câu châm ngôn lỗi thời nếu không muốn nói là lừa dối ấy. 

Kể từ sau 1975, đất nước “gọi là” thống nhất cũng là khởi đầu cho những khu rừng nguyên sinh bị tàn phá, đất đai (nhà máy bauxite), sông ngòi (nhà máy giấy sông Hậu), cả vùng duyên hải (nhà máy thép Formosa) cho thuê, khiến hệ sinh thái của cả nước bị suy thoái, đất bị sa mạc hoá, sông ngòi và biển bị nhiễm độc mất nguồn thuỷ sản, thiếu nước uống và cả cho tiện dụng gia cư.

Tài nguyên của đất nước đã bị đem bán rẻ, vì cái lợi trước mắt mà không tính tới cái giá môi sinh mà xã hội phải trả và người dân chỉ là thứ gia công, lắp ráp và làm thuê và cả nguồn nhân lực bị tận cùng  khai thác tới cạn kiệt.

Nhân danh “cải tạo”, nhà nước Cộng sản Việt Nam đã và đang chọn các bước đi liều lĩnh trên những tảng băng mỏng – walks on thin ice, với tiêu chuẩn nước đôi – double standards, chạy theo lợi nhuận với các phe nhóm lợi ích rất mạnh người dân thì hoàn toàn không có quyền cất tiếng nói — họ là nạn nhân và là đầy tớ ngay trên mảnh đất của chính tổ tiên mình.

Với tầm nhìn của thiên niên kỷ, để phục hồi và duy trì một hệ sinh thái phong phú của hành tinh này, cũng là bảo vệ các nền văn minh rất đa dạng và lâu đời của con sông Mekong, thì không có mối lợi lộc ngắn hạn nào có thể vội vàng đem ra đánh đổi.

Từ năm 2000, người viết cũng đã đưa ra nhận định: “Và hiển nhiên không có giải pháp đơn lẻ cho vấn đề môi sinh mà phải là bước chuyển hóa cơ bản và đồng bộ của các hệ thống xã hội từ “Toàn Trị” tiến lên “Dân Chủ”. Có dân chủ là có cơ hội mở mang dân trí và chính cư dân sống hai bên bờ sông Mekong sẽ có ý thức và tiếng nói bảo vệ dòng sông như là mạch sống của chính họ.

rồi ra người dân sẽ có cơ hội đồng đều, có quyền được uống một ngụm nước sạch, được hít thở một bầu không khí trong lành và có tự do, những điều cơ bản đó chính là “nhân quyền” chỉ có thểđược trong một đất nước dân chủ.”  Môi Sinh và Dân Chủ sẽ mãi mãi là một “Bộ Đôi Không Thể Tách Rời / Inseparable Duo.” Đây là một trận địa đấu tranh cam go mất còn, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác, giữa bộ đôi: “dân chủ và môi sinh” và phía kia là bộ đôi nguy hiểm / dangerous duo: “độc tài và tham nhũng.”

CHỮ TÂM VÀ TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ

Với cụm từ “trách nhiệm chính trị”, có thể nói đây là nét văn hoá mới 2023 trong lịch sử 97 năm của Đảng CSVN, qua việc từ chức của nhân vật số 2 là Chủ tịch nước ông Nguyễn Xuân Phúc.

Chỉ với hai vụ tham nhũng: bộ xét nghiệm Việt Á và tiếp theo là các chuyến bay giải cứu, người dân hiểu rõ rằng: thực chất đây chỉ là phần nổi rất nhỏ của một tảng băng chìm / tip of the iceberg. Vì còn phải kể bao nhiêu vụ tham ô tầy đình khác bị ém nhẹm trong suốt 48 năm qua thì sao? 

Gần đây, qua live stream người dân Việt Nam mới được biết ông TBT Nguyễn Phú Trọng rất quan tâm về văn hoá, mê Ức Trai Thi Tập của Nguyễn Trãi và thuộc tác phẩm Kiều của thi hào Nguyễn Du. Một lần trước Quốc Hội, trong sự khiêm cung ông Trọng đã lẩy hai câu Kiều để nói về thân phận mỏng manh và tài năng hữu hạn của mình: Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, khuôn xanh biết có vuông tròn hay không.Rồi mới đây, trong một hoàn cảnh khác, cũng chính ông TBT, lẩy thêm hai câu Kiều khác: Có tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần. Và cảm động hơn nữa, khi lần đầu tiên một người Cộng Sản thuần thành như ông TBT đã hai lần nhắc tới chữ “tâm” trong truyện Kiều: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài… Cũng mấy câu thơ ấy của Tố Như, nhưng nếu thay một chữ “tài” bằng chữ “quyền” thì sẽ rất trọn nghĩa.  

Ông TBT Nguyễn Phú Trọng sinh năm 1944, đã qua cái tuổi xưa nay là hiếm. Và cũng khởi đi từ “chữ tâm của Nguyễn Du”mà ông TBT nhắc đến, như từ một mẫu số chung về văn hoá, “người dân” có đôi điều muốn được trao đổi với ông:

_ Trên phạm vi ĐBSCL, với bao nhiêu những sai sót trong suốt 48 năm qua với các “công trình cải tạo trọng điểm”, mà cho tới nay không một ai nhận trách nhiệm, đề nghị với ông TBT cho lập ngay một “Toán Đặc Nhiệm – Task Force” gồm những nhà khoa học và chuyên gia môi trường độc lập, xét duyệt lại toàn bộ các công trình cải tạo đã được các bộ, các cơ quan thực hiện trong ngót nửa thế kỷ qua, với cả đánh giá những thành quả nếu có [?] để vinh danh và với một chuỗi những sai sót thì trách nhiệm về ai? Có những bài học nào được rút ra từ những bước sai sót vô cùng đắt giá ấy?

Mới đây với kết quả từ một công trình nghiên cứu của một công ty Hà Lan, một “Quy Hoạch Tích Hợp” đã hình thành cho giai đoạn 2021- 2030 với tầm nhìn tới 2050 đã được đưa vào Nghị Quyết 13-NQ/TW của Bộ Chính Trị mà ông TBT đã đọc trước Quốc hội ngày 22/04/2022, mở ra một “lộ trình / roadmap” cho tương lai phát triển ĐBSCL.

Từ “Khả năng tới hiện thực”, lộ trình ấy là một chặng đường dài. Sự thành công cần tới hai yếu tố: (1) Một cải thiện về thể chế, (2) Một nguồn nhân lực có  trình độ. Nếu không, thì cho dù một “quy hoạch tích hợp” có hay tới đâu thì rồi ra cũng chỉ là những khẩu hiệu.     

_ Trên quy mô của cả nước, cũng với chữ “tâm” của thi hào Nguyễn Du, có bao giờ ông TBT nghĩ rằng đã quá đủ với 93 năm lịch sử ĐCSVN và với 48 năm Đảng CSVN độc quyền sở hữu cai trị đất nước này, với một đội ngũ đảng viên rất nhiều quyền nhưng lại thiếu chữ tâm, thì “trách nhiệm chính trị” hay đúng hơn “trách nhiệm lịch sử” của ông TBT Nguyễn Phú Trọng bây giờ là rất lớn – và không phải là quá sớm để ông TBT và Bộ Chính Trị có đủ can đảm để khơi mào một “cuộc cách mạng xanh – green revolution” không đổ máu, với từng bước thực hiện tiến trình dân chủ hoá đất nước, từ hạ tầng cơ sở lên tới trung ương, để từng bước trả lại cho người dân quyền làm chủ đất nước – như bước chuyển tiếp tất yếu của lịch sử, và trên dòng luân lưu của lịch sử như một “dòng chảy sinh thái”  không hề có “đập chắn.”

NGÔ THẾ VINH

California, Tết Quý Mão 22/01/2023

Tham khảo:

1/ The Nature Conservancy. Environmental Flows Concepts.

About Environmental Flow. https://www.alberta.ca/about-environmental-flows.aspx

2/ Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thuỷ Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé  Nhóm nghiên cứu: Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Thiện, Dương Văn Ni, Nguyễn Hồng Tín, Đặng Kiều Nhân. (Bản thảo ngày 06/9/2018)

3/ Nói không với dự án Cái Lớn – Cái Bé. Đi tìm các giải pháp  phi công trình cho ĐBSCL. Ngô Thế Vinh. Viet Ecology Foundation 03.10.2018

4/ Quy hoạch vùng ĐBSCL, Thời kỳ 2021-2030, Tầm nhìn đến năm 2050. Báo cáo Quy hoạch. Quyển 1-2, 631 trang. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tháng 12/2021

5/ Vũ khí giải cứu sông Mekong Chất xám và tiếng nói. Lê Quỳnh phỏng vấn Bs Ngô Thế Vinh. Báo Người Đô Thị, Saigon 25/04/2016 

6/ Thư gửi 92 Đại Biểu Quốc Hội 13 tỉnh Miền Tây. Thuỷ điện Luang Prabang thêm một thảm học môi sinh cho ĐBSCL và Lưu Vực. Ngô Thế Vinh. VEF, Jan 14, 2020.

BS Ngô Thế Vinh: tốt nghiệp YKSG, chủ bút báo SV Tình thương, y sĩ Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, BS  thường trú các bệnh viện đại học New York, BS điều trị và giảng huấn tại một bệnh viện Nam California. Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng là một dữ kiện tiểu thuyết liên quan tới môi sinh và phát triển lưu vực sông Mekong và ĐBSCL. Nối tiếp là ký sự Mekong Dòng sông Nghẽn Mạch, với bản Anh ngữ đã thu hút sự quan tâm của giới khoa học, và các nhà hoạt động môi trường thế giới. Gần 30 năm tâm huyết với các vấn đề Sông Mekong và ĐBSCL, BS Ngô Thế Vinh không chỉ là một nhà văn, ông còn là một nhà hoạt động môi trường bền bỉ. Ông đã có những chuyến đi dọc dòng Mekong dài 4.800km, từ thượng nguồn đổ xuống Biển Đông. Bài viết đề cập tới các vấn đề nóng bỏng hiện nay trên dòng Mekong và ĐBSCL. [Tác giả 2002 bên chân con đập Mạn Loan, là đập thuỷ điện dòng chính đầu tiên trên sông Lancang-Mekong, Vân Nam TQ].

Doctor Rice – Võ Tòng Xuân và Gia Đình Bác Tám

Một chút tâm tình và giới thiệu: Thời trước (và ngay cả sau 1975) xem tivi tôi hay chú ý đến một người dáng dấp khoa học, nhưng nói năng hết sức bình dị với mọi người nông dân. Ông cầm cây lúa lên, rồi giải thích về quá trình trưởng thành và sự ảnh hưởng của sâu rầy mà tôi — một người không có học về nông học — vẫn thấy dễ hiểu. Phong cách giải thích những ý tưởng khoa học cho thường dân của ông đã gây ảnh hưởng rất lớn đến tôi sau này khi tôi giải thích các khái niệm khoa học phức tạp cho công chúng, tôi đều nghĩ đến ông. Người đó chẳng ai khác hơn là Giáo sư Võ Tòng Xuân, người mà sau này tôi có gặp vài lần và gọi bằng ‘Anh’.

Anh Võ Tòng Xuân năm nay đã 82 tuổi, và anh mới trải qua một cơn bệnh có thể nói là ‘thập tử nhất sanh’, nhưng may mắn thay anh đang bình phục nhờ sự chăm sóc của các bác sĩ, kể cả PGS TS Phạm Nguyễn Vinh. Nhân dịp này, Nhà văn – Bác sĩ Ngô Thế Vinh đã có một bài viết về Gs Võ Tòng Xuân. Tôi thật sự kinh ngạc về bài viết, vì nội dung quá hay và đầy đủ. Viết về một nhà khoa học quan trọng như Gs Võ Tòng Xuân, tôi nghĩ ít ai viết hay và đầy đủ hơn Nhà văn Ngô Thế Vinh, một người bạn thân tình của Gs Võ Tòng Xuân.

Qua bài viết, bạn đọc sẽ biết được Gs Võ Tòng Xuân như là một người con xuất sắc của miền Tây Nam Bộ, người đã gắn liền với cây lúa của miền Nam. Anh Võ Tòng Xuân đúng là một ‘Rice Doctor’ (Bác sĩ Lúa). Gs Võ Tòng Xuân tốt nghiệp cử nhân và cao học  từ Viện Lúa Gạo Quốc Tế ở Phi Luật Tân (IRRI). Năm 1972, đáp lời kêu gọi của Gs Nguyễn Duy Xuân (lúc đó là Viện trưởng Đại học Cần Thơ), anh Võ Tòng Xuân rời Phi Luật Tân về Việt Nam giảng dạy và nghiên cứu trong Đại học Cần Thơ (lúc đó mới thành lập từ một sắc lệnh của tướng Nguyễn Cao Kỳ). Ở Cần Thơ, anh Võ Tòng Xuân vừa giảng dạy, vừa nghiên cứu, vừa xây dựng chương trình tivi ‘Gia Đình Bác Tám’ nhằm giáo dục canh nông cho nông dân miền Nam. Đó là một chương trình tivi mà tôi nghĩ bất cứ ai ở vào thế hệ tôi cũng đều biết, chứng tỏ sự lan tỏa và thành công của chương trình. Năm 1974, anh được sang Nhật bảo vệ luận án tiến sĩ, và anh về Việt Nam chỉ một tháng trước ngày 30/4/1975. Tên tuổi của Gs Võ Tòng Xuân gắn liền không chỉ với ‘Gia Đình Bác Tám’, mà còn giống lúa Thần Nông mà ông thuyết phục nông dân sản xuất và đưa VN lên nước thứ hai xuất khẩu gạo. Anh còn có công lớn với nhiều giống lúa khác. Anh còn là một nhà giáo dục, quản lí giáo dục. Nhưng nói đến Võ Tòng Xuân, người ta nghĩ ngay đến Bác sĩ Lúa!

Theo tôi, anh Võ Tòng Xuân là một trường hợp tiêu biểu về nghiên cứu không phải để làm dày lí lịch khoa học mà nghiên cứu để chuyển giao thành tựu nghiên cứu đem lại lợi ích cho hàng triệu người. Sự nghiệp và đóng góp của anh Võ Tòng Xuân là một tấm gương và anh đa đi trước trào lưu ‘translational research’ — nghiên cứu khoa học nhằm đem lại ứng dụng thiết thực — mà thế giới phương Tây đang bàn luận sôi nổi ngày nay.

Ấy vậy mà anh Võ Tòng Xuân vẫn bị cái hệ thống ‘hành là chánh’ làm cho ‘lên bờ xuống ruộng’ vì chuyện tuổi tác hay những qui định ‘trời ơi đất hởi’. Đọc bài này mới biết đằng sau vinh quang của Bác sĩ Lúa Võ Tòng Xuân còn là một thân phận đầy gian truân do chính cái hệ thống mà anh được vinh danh!

Chúc anh Võ Tòng Xuân mau chóng bình phục!

NVT

__________

DOCTOR RICE – VÕ TÒNG XUÂN VÀ GIA ĐÌNH BÁC TÁM

NGÔ THẾ VINH

Hình 1: Võ Tòng Xuân lần đầu được gặp Chú Sáu Dân năm 1976 ở Đại Học Cần Thơ. Chú Sáu Dân, là tên gọi bình dân của ông Võ Văn Kiệt, Bí thư Thành ủy Sài Gòn, sau này là Thủ Tướng Chính phủ. Hình chụp ông Võ Văn Kiệt trong một buổi gặp gỡ các trí thức Việt kiều, và trí thức đào tạo ở Miền Nam trước 1975; hàng đứng từ trái: TS Võ Tòng Xuân lúc đó 36 tuổi, Trưởng bộ môn trồng trọt Khoa Nông nghiệp ĐH Cần Thơ; GS Nguyễn Ngọc Trân, Chủ nhiệm Chương trình Nghiên Cứu về ĐBSCL, chuyên gia Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Trưởng ban Việt kiều Trung ương; Phạm Hùng Phi, Phó Giám đốc Trung Tâm Khoa Học Kỹ Thuật TP.HCM; Nguyễn Văn Huấn (Ba Huấn),Trợ lý của Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt, sau này làm Phó Chủ Tịch UBND TP.HCM. [tư liệu Võ Tòng Xuân]

TIỂU SỬ

Võ Tòng Xuân, sinh ngày 6 tháng 9 năm 1940 (tuổi con rồng / Canh Thìn), tại làng Ba Chúc trong vùng Thất Sơn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Xuất thân từ một gia đình nghèo với 5 anh em. Học xong trung học đệ nhất cấp, VTX lên Sài Gòn sớm, sống tự lập, vất vả vừa đi học vừa đi làm để cải thiện sinh kế gia đình và nuôi các em. Do lao động quá sức, lại ăn uống thiếu thốn, VTX bị lao phổi phải nghỉ học một thời gian. Là học sinh trường Kỹ thuật Cao Thắng, tới năm 1961, xong bậc trung học, ở tuổi 21, khao khát được đi du học, nhân có cuộc thi tuyển học bổng của Đại học Nông Nghiệp Los Baños, Philippines, Võ Tòng Xuân nộp đơn dự thi và đã trúng tuyển. Đang từ một thanh niên ham thích kỹ thuật máy móc, nay chuyển sang ngành nông nghiệp, phải nói đây là một khúc rẽ định mệnh tốt đẹp cho Võ Tòng Xuân. Anh đã thích nghi và say mê ngay với môi trường nông nghiệp. Năm 1966, tốt nghiệp Cử nhân (BS / Bachelor of Science) về Nông Hóa, VTX được nhận vào làm nghiên cứu sinh cho Viện Lúa Gạo Quốc Tế / IRRI (International Rice Research Institute) Los Baños nổi tiếng Á Châu và của cả thế giới. Học tiếp Cao học, VTX tốt nghiệp Thạc Sĩ (MS / Master of Science) năm 1971.

Miền Nam năm 1972, đang giữa cuộc chiến tranh Bắc Nam rất khốc liệt – giữa Mùa Hè Đỏ Lửa, Đại học Cần Thơ lúc đó là đại học duy nhất ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), được thành lập từ 31/03/1966 thời Việt Nam Cộng Hòa đang trên đà phát triển mạnh, và đã có khóa tốt nghiệp đầu tiên ra trường (1970). Võ Tòng Xuân đã được GS Nguyễn Duy Xuân (1970-1975) – là Viện trưởng thứ hai sau GS Phạm Hoàng Hộ (1966-1970), viết thư mời ông về phụ trách khoa nông nghiệp – lúc đó trường vẫn còn là có tên là Cao Đẳng Nông nghiệp, với tư cách một chuyên gia về lúa.

Đáp lời kêu gọi của GS Nguyễn Duy Xuân, VTX ở tuổi 32 đã quyết định rời Los Baños trở về nước. Tại Đại Học Cần Thơ, nhà nông học trẻ VTX được trọng dụng, có cơ hội thăng hoa phát triển hết tài năng của mình. Ngoài công việc giảng dạy lý thuyết nơi giảng đường, VTX đã cùng với đám sinh viên đằm mình trên ruộng đồng, khảo sát thổ nhưỡng, phân định các vùng đất phèn, thử nghiệm các giống lúa mới và cây trồng, hướng dẫn nông dân trồng lúa cao sản – High-Yielding Variety, đã được nhập từ Viện Lúa Gạo Quốc Tế (IRRI) từ 1966-68, thời Bộ trưởng Canh Nông GS Tôn Thất Trình (1931-2021). Lúa cao sản mà nông dân quen gọi là Lúa Thần Nông / Miracle Rice, với đặc tính là thân lùn, ngắn ngày và năng suất cao, mở đầu cho một cuộc “Cách Mạng Xanh – Green Revolution” đang lan tỏa ra toàn cầu.

Với kinh nghiệm trước đó đã từng cộng tác với Đài phát thanh Philippines thời còn là sinh viên ở Los Baños, năm 1972 khi về nước, Võ Tòng Xuân đã mạnh dạn đề nghị với Đài phát thanh Sài Gòn xây dựng “Chương trình Gia đình Bác Tám”, là một chương trình giáo dục về canh nông với VTX viết kịch bản chuyên môn kiêm diễn viên chính. Chương trình hàng ngày được phát thanh lúc 5 giờ sáng trước khi nông dân vác cuốc ra đồng, nhằm phổ biến kỹ thuật nông nghiệp phổ thông qua những màn thoại kịch ngắn duyên dáng và hấp dẫn có sức cuốn hút rộng khắp, vào xa tới cả các mật khu. Chú Sáu Dân cũng đã từng là thính giả biết tiếng Anh Ba Xuân qua chương trình này. Như một giai thoại, khi anh Bảy Khai tức Phạm Sơn Khai vào tiếp quản Đại học Cần Thơ đã hỏi ngay giữa hội trường: “GS Võ Tòng Xuân – Gia đình Bác Tám còn đây không?”  Phạm Sơn Khai sau này giữ chức Viện Trưởng ĐH Cần Thơ trong suốt 10 năm từ 1976 – 1986, thay thế GS Nguyễn Duy Xuân, tuy tình nguyện ở lại nhưng vẫn bị bắt đi cải tạo và đã chết trong trại tù Ba Sao, Hà Nam Ninh 11 năm sau (1986).   

Trước 1975, trường Cao đẳng Nông nghiệp Cần Thơ mỗi năm đều được Nhật Bản gửi sang nhóm giáo sư giảng dạy và nghiên cứu. Trong số đó phải kể tới một tên tuổi: Giáo Jun Inouye, rất mê say cây lúa, đã cùng Võ Tòng Xuân nghiên cứu các loại lúa nhiệt đới của ĐBSCL. Với 3 công trình nghiên cứu được đăng trên một tạp chí uy tín Crop Science của Nhật Bản, GS Jun Inouye đã bảo trợ cho Võ Tòng Xuân làm luận án tại chức. Năm 1974, VTX được sang Nhật để bảo vệ luận án Tiến sĩ tại Đại học Quốc gia Kyushu nằm trong thị trấn trung tâm Fukuoka, trên đảo Kyushu – là một hải đảo lớn thứ ba phía cực nam của Nhật Bản). Luận văn là một đề tài liên quan tới các giống Lúa Nổi nơi ĐBSCL với nhan đề:  

“On the Growth Habits of Double-and Single-Transplanted, and Floating Rices in the Mekong Delta*”. [Sự Tăng Trưởng Các Giống Lúa Mùa Nước Nổi Trong Biện Pháp Canh Tác Cấy Một Lần và Hai Lần]

VTX trở về Việt Nam với học vị Tiến sĩ Nông học, chỉ không đầy một tháng trước ngày 30-04-1975. Đại học Cần Thơ là cái nôi đã nuôi dưỡng VTX trước đó và ĐBSCL là môi trường cống hiến của nhà nông học VTX trong suốt cuộc đời những năm còn lại của ông về sau này.

Bảo rằng VTX là cha đẻ của giống lúa Thần Nông là không đúng, nhưng ông đã có công lớn thuyết phục nông dân nơi ĐBSCL chấp nhận trồng giống lúa cao sản, và đưa Việt Nam lên hàng thứ hai, sản xuất lúa gạo của thế giới, chỉ đứng sau Thái Lan.

Nếu có một phim tài liệu / Documentary Film về VTX, thì đó cũng là lịch sử của các giống lúa và cả cây mía – đặc biệt là cây lúa cao sản Thần Nông, mở đường cho cuộc Cách Mạng Xanh / Green Revolution tại Việt Nam.

NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG CỦA ANH BA XUÂN

1976-1978 Chống dịch rầy nâu ĐBSCL: Sau 30/04/1975 đó là giai đoạn vô cùng khó khăn của cả nước, đang từ một miền Nam sung túc, nay do quản lý kém đã trở nên thiếu thốn mọi thứ. Lại xảy ra thêm trận dịch rầy nâu (brown planthopper) tàn phá các cánh đồng lúa cao sản khắp ĐBSCL, mọi thuốc trừ sâu rầy đều vô hiệu, khiến nhiều gia đình nông gia hầu như sạt nghiệp. VTX lúc đó đã là một tên tuổi quen thuộc với nông dân ĐBSCL, từng là cha đẻ của chương trình phát thanh “Gia đình Bác Tám” trước 1975, Võ Tòng Xuân đã viết trang hồi ký về giai đoạn này: “Cuối năm 1976 đầu 1977 tại Tân Châu (An Giang) xuất hiện rầy nâu loại biôtýp mới. Lúc đó giặc rầy nâu khủng khiếp đang đốt cháy hầu hết các cánh đồng lúa cao sản. Hàng trăm ngàn bà con nông dân điêu đứng; nhiều người bán hết cả tủ thờ để đầu tư trừ rầy nâu nhưng vẫn thất bại, phải cột xuồng nối đuôi nhau đi sang các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau để mua gạo ăn đong. Tôi đánh một điện tín ngay cho Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines, và 2 tuần sau nhận được 4 bịch giống lúa mới nhất. Tôi và anh Nguyễn Văn Huỳnh đã thanh lọc tính kháng rầy và tiềm năng năng suất của 4 giống này, đã chọn được giống IR36, sau đó nhân ra khoảng 2 tấn lúa giống IR36.

Võ Tòng Xuân kể thêm: Chúng tôi đã thuyết phục được lãnh đạo Đại học Cần Thơ, tạm thời cho đóng cửa nhà trường, để tất cả ban giảng huấn và hơn 2000 sinh viên các khoa nông nghiệp và sư phạm cùng ra đồng tham gia chống dịch. Sau 2 ngày tập huấn cấp tốc, học cách gieo trồng giống lúa mạ mới kháng rầy, và rồi thầy trò đã hết lòng thuyết phục nông dân chấp nhận trồng giống lúa mới kháng rầy, với kết quả thần kỳ là qua mấy vụ “giống lúa cao sản mới kháng rầy” đã phủ xanh ĐBSCL và dịch rầy nâu hoàn toàn được khắc phục.”

VTX rất hãnh diện khi nhắc về giai đoạn đầy thử thách này: Chiến thắng của nông dân ĐBSCL đối với con rầy nâu là một kỳ công làm cho các chuyên gia quốc tế đều phải thán phục. Đây là sự phối hợp lực lượng rất độc đáo mà Trường Đại học Cần Thơ đã thực hiện được.[Đại Đoàn Kết 02/05/2022] 

2004 THIẾU NGỌT THÊM MẶN: LÀM SAO ĐỂ SỐNG CÒN

Kể từ trước năm 2000, tiếp sau các chuyến đi quan sát thực địa nơi các quốc gia thượng nguồn, mối liên hệ giữa tôi, Anh Võ Tòng Xuân và phóng viên Ánh Nguyệt đài RFI trở nên thường xuyên mật thiết hơn do chúng tôi cùng chia sẻ mối quan tâm về sông Mekong và tương lai ĐBSCL.  

Một trong các cuộc phỏng vấn của phóng viên Ánh Nguyệt [Radio France Internationale tháng 12/2004], khi được hỏi về tình trạng không chỉ thiếu nước ngọt mà nạn nhiễm mặn ngày càng trầm trọng nơi ĐBSCL từ ngày Trung Quốc không ngừng tiến hành xây những con đập khổng lồ Vân Nam và Thái Lan chuyển dòng lấy nước từ sông Mekong – GS Võ Tòng Xuân đã đưa ra nhận xét:

“Cho tới 1975 khi nước nhà thống nhất, thủy sản của ĐBSCL còn rất phong phú, nhưng đến nay thì không, lượng tôm cá không chỉ bị sút giảm về số lượng mà cả về số chủng loại. Số cá ít ỏi lưới được từ sông là không đáng kể, chỉ đủ để cung cấp thức ăn chất đạm cho những gia đình nông dân nghèo trong vùng. Nói về cá tôm xuất khẩu, thực ra không phải từ nguồn thiên nhiên mà là do kỹ nghệ nuôi cá lồng [như cá ba sa], nuôi tôm sú trên vùng nước lợ, cộng thêm với số cá lưới được từ ngoài Biển Đông.

Giáo sư Võ Tòng Xuân phát biểu tiếp:

“Nông dân ĐBSCL thích nghi nhanh, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp: bỏ hẳn giống lúa cổ truyền chuyển sang trồng lúa cao sản, nên chủ động tránh được lũ cũng như hạn hán. Ở những vùng bị nhiễm mặn, vùng nước lợ, thay vì trồng lúa thì chuyển qua những loại cây khác hay chuyển qua sản xuất nuôi tôm sú chịu được nước lợ; rồi phong trào nuôi cua biển đang phát triển mạnh, người nông dân sẽ dùng nguồn nước mặn này để nuôi thủy sản với giá thành cao hơn là trồng lúa. Hiện nay Viện Lúa ĐBSCL đang vận dụng công nghệ sinh học, tìm những ‘genes’ chịu mặn nhằm lai tạo những giống lúa cao sản tương đối chịu mặn hơn các giống lúa thường. Xa hơn nữa, Việt Nam đang cùng với nhóm MEREM / Mekong Resources Economic Management do Nhật Bản tài trợ, nhằm nghiên cứu những thay đổi của môi trường nước cũng như của đa dạng sinh học trên sông Mekong để từ đó có thể khuyến cáo những chánh phủ liên hệ nên sử dụng nguồn nước sao cho an toàn hơn.” Cùng với những toan tính lượng định lạc quan như trên, Giáo sư Võ Tòng Xuân cũng đã nhận định rằng cho dù Việt Nam có lên tiếng phản đối nhưng cũng chẳng thể làm được gì để ngăn chặn Trung Quốc, Thái Lan và các quốc gia thượng nguồn thực hiện kế hoạch khai thác sông Mekong của họ.

2006 XÂY DỰNG ĐẠI HỌC AN GIANG SAU TUỔI HƯU

Theo bộ luật lao động khá nghịch lý của Việt Nam, tuy là một quốc gia kém phát triển sau chiến tranh nhưng lại có quy định tuổi hưu sớm cho nam giới là 60, nữ giới là 55. VTX sinh năm 1940, năm 2000 Anh chính thức bước vào tuổi hưu, phải nói là quá sớm với một con người “nghiện làm việc / workaholic” như Anh. Kể cả với ngoại lệ cho “người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 5 năm so với quy định.”

Năm 2006, khi tôi tới thăm Đại Học An Giang, lúc đó được sáu tuổi, và khi ấy Viện  Trưởng VTX cũng đã quá tuổi hưu kể cả thời gian gia hạn 5 năm. Đã từng tới Long Xuyên trước 1975, nay trở lại thăm để ngạc nhiên thấy một Long Xuyên, thị xã của tỉnh An Giang đã có rất nhiều đổi thay và phát triển.

Đại Học Cần Thơ đã có trước đó, do uy tín lớn của GS Phạm Hoàng Hộ và GS Nguyễn Duy Xuân nên đã quy tụ được rất nhiều “chất xám” tinh hoa của Miền Nam thời bấy giờ; chỉ riêng trong lãnh vực Nông Nghiệp có thể kể tới sự hợp tác của những tên tuổi lớn như GS Tôn Thất Trình, GS Thái Công Tụng, TS Nguyễn Viết Trương, TS Trần Đăng Hồng với công lao bước đầu đưa giống Lúa Thần Nông/ HYV / High-Yielding Variety vào ĐBSCL. Và từ 1972, có thêm một kiện tướng trẻ tuổi là Võ Tòng Xuân.

Giáo sư Đỗ Bá Khê khi đọc bài diễn văn “xuất trường” năm 1970 của Viện Đại Học Cần Thơ, ông đã có một tầm nhìn rất xa về vai trò của Viện Đại Học này đối với tương lai vùng Đồng Bằng Châu Thổ:

“Ngày nay (19/12/1970) trong Thời Đại Khoa Học Kỹ Thuật, các tỉnh ĐBSCL đang trông chờ nơi ánh sáng soi đường của Viện Đại Học Cần Thơ và ước mơ một chân trời mới, tô điểm bằng những cành lúa vàng nặng trĩu, những mảnh vườn hoa quả oằn cây, dân cư thơ thới, một cộng đồng trù phú trong một xã hội công bằng.”

Ở thời điểm đó An Giang chỉ mới có trường Sư Phạm Long Xuyên với 4 lớp và 260 giáo sinh. Phải 30 năm sau, do con số hơn 40 ngàn học sinh tốt nghiệp trung học mỗi năm tại ĐBSCL, trước tình trạng quá tải của Đại học Cần Thơ, trường Đại Học An Giang [ĐHAG] được phép thành lập và công trình xây cất ĐHAG được khởi công tháng Giêng 2001 – năm đầu tiên của Thế kỷ 21, với kinh phí 35 triệu MK trên một diện tích 40 hecta. ĐHAG được hỗ trợ tài chánh từ địa phương nhưng vẫn chịu sự giám sát chuyên môn của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Trung ương.

Hình 2: Năm 2006, tác giả đã tới thăm Đại Học An Giang lúc đó được 6 tuổi. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Lãnh đạo nhà trường ngay từ bước đầu chập chững là một khuôn mặt quen thuộc đối với bà con nông dân ĐBSCL: đó là GS Võ Tòng Xuân – vẫn được nông dân thân thương gọi là Anh Ba Xuân; từng là Trưởng khoa Nông học rồi Phó Viện trưởng Đại học Cần Thơ. VTX cũng được biết tới từ trước 1975 như một trong số những người có công phát triển lúa Thần Nông nơi ĐBSCL, được coi như “bước đột phá” chống đói giảm nghèo mà Viện Lúa Gạo Quốc Tế IRRI gọi đó là Cuộc Cách Mạng Xanh về Lúa Gạo.

Với một con chim đầu đàn như GS VTX, người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy ĐHAG đang phát triển theo hướng kết hợp giảng dạy, nghiên cứu ứng dụng vào công ích. Một thứ quan niệm R&D (Research and Development) trong các đại học Mỹ.

Trước khi gặp anh Võ Tòng Xuân, không người hướng dẫn, tôi đã tự xông xáo đi thăm các cơ sở nhà trường, giảng đường, thư viện và cả gặp gỡ nói chuyện riêng với một số em sinh viên: các em rất trẻ mộc mạc, ăn mặc giản dị, cách nói chuyện chất phác, và đặc biệt là lễ phép với khách lạ đến thăm. Phải chăng đó là nét đẹp từ một nền Văn Minh Miệt Vườn. Chắc chắn các em không phải con của các “đại gia hay cán bộ cao cấp” của ĐBSCL, bởi vì tệ lắm nếu không là Đại học Sài Gòn thì cũng đã là những sinh viên du học “tự túc” ở các nước Âu Mỹ, nhất là Mỹ.

Các em là thế hệ khá thiệt thòi, sinh ra và lớn lên nơi vựa lúa ĐBSCL sau chiến tranh nhưng lại chỉ được hấp thụ một nền giáo dục trung và tiểu học thấp kém nhất nước, do thiếu lớp học thiếu thầy cô giáo – thua cả Tây Nguyên, theo nhận xét của chính các nhà giáo dục trong nước. Tốt nghiệp trung học trong một tình trạng mất căn bản như vậy, khi bước lên đại học, chỉ có lòng hiếu học cao độ mới giúp các em vượt qua được khoảng cách đại dương ấy.

ĐHAG hiện chỉ có tầm vóc khiêm tốn của một Đại Học Cộng Đồng (Community College) còn đang phát triển. Quanh sân trường, đây đó còn những đống gạch cát của công trình đang xây cất dở dang. Thư viện khá đẹp như khuôn mặt chính của nhà trường với hai từng lầu, gọn sạch ngăn nắp, tổ chức sắp đặt theo tiêu chuẩn Mỹ, với cả một dàn máy điện toán PC cho sinh viên sử dụng. Sinh viên nam nữ tự động sắp hàng trật tự trước các quầy để mượn và trả sách. Sách mới, sách khoa học tiếng Anh phải kể là còn rất ít nhưng bù lại các em đã biết truy cập vào “internet” để có một số thông tin mà các em cần.

Buổi sáng, bước vào một giảng đường lớn, đông đảo sinh viên thuộc nhiều khoa và các lớp khác nhau, trên bục giảng là Gs VTX, với đề tài rất cơ bản “Phương pháp Khoa học và Lộ trình Nghiên cứu.” Cho dù đi vào từ phía sau giảng đường cũng không còn một chỗ trống, một em tự động đứng dậy nhường chỗ cho khách [sau này có dịp nói chuyện, tôi được biết là một sinh viên năm thứ tư sắp ra trường].

Bài giảng khúc chiết và dễ hiểu để ứng dụng đối với các sinh viên khi phải làm một luận văn / một thứ luận án nhỏ như điều kiện để tốt nghiệp ra trường. Luận văn ấy sẽ là nỗ lực cá nhân của sinh viên hướng về giải quyết các vấn đề thực tiễn liên quan đến phát triển kinh tế xã hội của vùng ĐBSCL. Riêng với tôi thì phần lý thú nhất trong bài giảng sáng hôm đó vẫn là những ví dụ nghiên cứu về “lúa gạo” của nhà nông học Võ Tòng Xuân.

GIÁO DỤC KHAI PHÓNG VÀ TỰ TRỊ ĐẠI HỌC

Sau lớp học buổi sáng, tôi được gặp anh Võ Tòng Xuân. Tuy gặp nhau lần đầu tiên nhưng từ nhiều năm “văn kỳ thanh”, tôi đã theo dõi những bước đi của anh, anh Xuân cũng đã là nguồn cảm hứng về “nhân vật Thầy Hộ” khi tôi viết cuốn Cửu Long Cạn Dòng – chúng tôi đã có ngay một mẫu số chung để nói chuyện với nhau. Phong cách giản dị, không nghi thức, anh Xuân tự tay pha trà tiếp tôi trong văn phòng Hiệu trưởng mà tôi vẫn quen gọi là Viện trưởng, căn phòng khá nhỏ, trông lại càng nhỏ chật hơn với ngập những sách. Trong số sách ấy, tôi cũng thấy cuốn Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng, ấn bản đầu tiên của nhà xuất bản Văn Nghệ ở hải ngoại năm 2000, cũng là thời điểm Đại Học An Giang mới tuổi “thôi nôi”.

Hình 3: GS Võ Tòng Xuân, tại văn phòng Viện trưởng Đại Học An Giang 2006. Tuy gặp Anh VTX lần đầu tiên, nhưng “văn kỳ thanh” chúng tôi đã biết nhau. Cũng khá ngạc nhiên khi thấy cuốn Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng, ấn bản đầu tiên do Văn Nghệ xuất bản ở hải ngoại năm 2000, đã có trên kệ sách của Anh Xuân. [Photo by Ngô Thế Vinh]

Như một ngoại lệ thật hiếm hoi, gốc từ một trí thức cũ trước 1975, không phải là đảng viên, Võ Tòng Xuân đã được chế độ mới khoác trên người Anh những danh hiệu cao quý nhất: Anh hùng Lao động (1985), Huân chương Lao động hạng Nhất (1986), Nhà Giáo Ưu Tú (1990) rồi Nhà Giáo Nhân Dân (1999).

Đã cùng sống qua hai chế độ trước và sau 1975, chúng tôi có nhiều điều để chia sẻ. Anh Xuân tỏ ra rất lo lắng và quan tâm về tình trạng xuống cấp của nền giáo dục hiện nay. Không có những phát biểu xu thời, VTX đã thẳng thắn nhận định:

Tôi lo nhất là nền giáo dục phổ thông của Việt Nam từ Nam ra Bắc đang quá kém so với các nước quanh ta. Tình trạng ấy ảnh hưởng tới phẩm chất của sinh viên khi lên đại học.” Như một hoài niệm, Anh Xuân nhắc tới nền giáo dục những năm 1960 ở Miền Nam. Anh Xuân nói: “Anh Vinh thấy không, hồi đó học sinh đậu tú tài xong có thể nói là đã khá trưởng thành, có thể làm được bao nhiêu việc. Chứ như bây giờ, học xong trung học rồi mà cứ “ngơ ngơ ngác ngác” – vẫn chữ của Anh Xuân, không biết làm gì. Cắm đầu học, chỉ để cho các kỳ thi, sau đó là quên hết, chữ nghĩa trả thầy, không có một căn bản kiến thức, không có chút vốn liếng ngoại ngữ, hầu như không được chuẩn bị gì để bước lên bậc đại học. Nếu vẫn với chương trình “nhồi sọ” học đủ các môn như hiện nay, thì Đại học cũng chỉ là một trường Trung học cấp Ba. Không hơn không kém !”

Đó là những khó khăn bất cập của hệ thống đại học trên cả nước – chứ không phải riêng một Đại học tân lập như ĐH An Giang hiện nay. VTX nói tới giáo dục đại học phải được cởi trói – Nhà nước phải trả quyền tự chủ cho Đại học về chương trình, tài chánh và cả quản trị con người. Anh Võ Tòng Xuân muốn nói tới một nền “Tự Trị Đại Học” [University autonomy], nói rộng hơn là một môi trường giáo dục khai phóng đã có trước đó ở Miền Nam mà người Cộng Sản – bên thắng cuộc đã xóa đi từ sau 1975.

Buổi trưa hôm ấy, tôi đã ngồi Honda ôm với anh VTX thay vì xe hơi, để xuống phố cùng với mấy cộng sự trẻ của anh dùng bữa ăn trưa với canh chua cá bông điên điển, cá kho tộ và có cả gỏi tôm ngó sen, toàn những món đặc sản của ĐBSCL.

Sau bữa ăn trưa ngắn ngủi, nửa ngày còn lại là một ngày ngập bận rộn của anh Xuân. Anh để tôi tùy nghi chọn lựa tham dự các sinh hoạt ấy. Như buổi trình luận án cấp trường của một giảng viên ĐHAG do anh Xuân chủ trì. Luận án liên quan tới những con số thống kê, những khiếm khuyết trong cách thu thập và phân tích dữ kiện đều được hội đồng giám khảo nhận xét, thí sinh có cơ hội được phản biện; cuối cùng thì thang điểm được cộng lại: chỉ đạt 52% số điểm có nghĩa là luận án không được thông qua. Cùng một lúc ở một giảng đường khác, là một buổi nói chuyện của một kỹ sư người Mỹ gốc Việt từ Florida về, dùng laptop và power point để giới thiệu với sinh viên về chiếc máy sấy lúa “tiết kiệm” do anh sáng chế. Cũng buổi chiều hôm ấy, có hai phái đoàn khách tới thăm, một đoàn từ đại học USC (University of Southern California). Tới đây, ai cũng muốn được gặp GS VTX.

Anh Xuân có những cộng sự viên trẻ, tốt nghiệp ở ngoại quốc từ nhiều nguồn khác nhau, lớp trẻ này có kiến thức khả năng và nhiệt tình nhưng chưa tới tầm vóc để có thể thay anh. Họ về với anh Xuân, về với ĐHAG vì họ biết đó là tương lai. Với trình độ chuyên môn và khả năng ngoại ngữ ấy nếu đi làm cho các công ty tư nhân ngoại quốc như Đài Loan, Đại Hàn chắc chắn họ sẽ có một số lương bổng cao hơn gấp nhiều lần. Cô Giám đốc phòng giao dịch quốc tế là một Ph.D. về giáo dục về từ đại học USC. Tổ chức thư viện và thiết kế website của ĐHAG là một kỹ sư có bằng MSc. tốt nghiệp ngành vi tính (computer science) từ một Đại học miền Đông Hoa Kỳ, cho dù nhiệm vụ chính của anh vẫn là giảng dạy về Tin học; được biết anh cũng vừa được một Đại học Úc thâu nhận vào chương trình Ph.D. trong năm tới. Cô nhà báo HV, xuất thân từ báo Tuổi Trẻ, tác giả nhiều bài ký và những bức hình chụp sinh động, nay cũng đã tự nguyện về với ĐHAG, cô ấy cũng được khuyến khích đi học thêm về báo chí ở Đại học Columbia New York… Ngoài ra, còn phải kể tới nguồn Voluntary Faculty – những giáo sư ngoại quốc thỉnh giảng tình nguyện. Anh Xuân cho biết tuy là trên căn bản tự nguyện nhưng ĐHAG vẫn tìm cách trả lương cho họ theo quy chế.

Hình 4: Ngồi xe Honda ôm với Anh Ba Xuân thay vì xe hơi của nhà trường. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Một “chuyện vui bên lề” là đã có một ông giáo sư thỉnh giảng tới với ĐHAG nhưng vì “đi một về hai” nên nhà trường đã có một tổn thất phụ / collateral damage về nhân sự.

Nhiệm vụ của ĐHAG cùng với ĐH Cần Thơ, là đào tạo nguồn nhân lực và nhân tài cung ứng cho các bước phát triển kinh tế và xã hội của ĐBSCL nhằm “tăng cường khả năng hợp tác và cạnh tranh, khả năng hội nhập vào thị trường quốc tế” khi Việt Nam sắp chính thức gia nhập WTO (World Trade Organization).

Tình trạng thực tế hiện nay, tỉnh An Giang nói riêng và ĐBSCL nói chung, không chỉ thiếu cán bộ có trình độ đại học và trên đại học trong các ngành kinh tế xã hội mà còn rất thiếu cả một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề trong các lãnh vực công nghiệp chế biến thủy sản và nông phẩm, công nghệ sinh học và phát triển du lịch.

Với hướng đi từ nay tới 2010, dự trù sĩ số sinh viên sẽ lên tới 10.000 với chương trình đào tạo 4 năm cho các ngành như sư phạm, canh nông, công nghệ thực phẩm thủy sản, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, kỹ sư điện toán, kỹ thuật môi trường / environmental engineering, quản trị kinh doanh nông thôn… và mục tiêu đào tạo là làm sao đáp ứng yêu cầu thực tiễn của các thành phần kinh tế. [Biện pháp đào tạo theo-địa-chỉ các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân chứ không phải với tương lai sinh viên tốt nghiệp chỉ là những công chức nhà nước].

Phải nói rằng số lượng giảng viên hiện nay của nhà trường còn rất hạn chế, với sĩ số 600 chỉ có 50% có bằng thạc sĩ (Master) và một số rất ít tiến sĩ (Ph.D.). Qua các em, tôi được biết anh Xuân không ngừng khuyến khích và tìm cơ hội gửi các giảng viên trẻ của ĐHAG đi ngoại quốc học thêm để tăng cường chất và lượng cho ban giảng huấn. Và cũng có cả kế hoạch thu hút thêm những nguồn chất xám mới đổ về. Nhiều hứa hẹn nhưng cũng thật nhiều thách đố cho một Đại học còn non trẻ như ĐHAG.

Ngoài chức vụ lãnh đạo ĐHAG, cụ thể rất sớm trước đó từ thập niên 1980, Anh VTX và các cộng sự đã có các công trình nghiên cứu sử dụng đất phèn ĐBSCL, tạo giống lúa cao sản mới quan tâm nhiều hơn tới chất lượng của lúa gạo thay vì số lượng, và VTX đã can đảm muốn nông dân ĐBSCL thoát khỏi “vòng kim cô của cây lúa” – vẫn ngôn từ của TS lúa gạo VTX, dám nuôi trồng những gì khác hơn cây lúa, với hướng nghiên cứu hệ thống canh tác nhằm chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp nâng cao mức thu nhập của nông dân.

Anh Xuân còn những dự án dở dang khác: (1) tìm gene giống lúa mới chịu được nước lợ do Cửu Long Cạn Dòng và thêm nhiễm mặn; (2) vận động nông dân ĐBSCL áp dụng kế hoạch “3 giảm 3 tăng” trong đó có giảm thuốc trừ sâu rầy để giảm nhiễm độc đã tới mức độ nguy hiểm cho môi trường sống; (3) lập khu bảo tàng cây lúa ĐBSCL với sưu tập tất cả các nông cụ mà tiền nhân đã sử dụng từ thuở khai hoang.

Hình 5: Đại Học An Giang 6 tuổi nhưng do thiếu ngân sách, vẫn còn các công trình xây cất dở dang. [Photo by Ngô Thế Vinh]

Và còn nhiều nữa, anh Xuân có theo dõi và biết rõ hậu quả những con Đập Bậc Thềm Vân Nam và các dự án chuyển dòng lấy nước sông Mekong của Thái Lan ra sao trên ĐBSCL, mà theo anh Việt Nam cũng chẳng thể phản đối được gì. Trước nghịch cảnh, anh tìm cách làm sao để biến những “bất cập” hiện nay thành “thuận lợi” như phát triển ngành nuôi “tôm sú”, nuôi “cua biển” nơi vùng nước lợ đem lợi tức cho nông dân cao hơn là trồng lúa; áp dụng kỹ thuật tưới luân phiên mà vẫn bảo đảm năng suất lúa ở vùng thiếu nước khi Cửu Long Cạn Dòng… Hình như lúc nào anh Xuân cũng thiếu thời gian cho một ngày chỉ có 24 giờ, bản chất người Nam, anh vẫn lạc quan; luôn luôn nhìn thấy nửa phần đầy của ly nước thay vì nửa vơi. Tre già măng mọc, anh Xuân đang lo vun trồng thế hệ măng tiếp nối anh. Hẹn ngày tái ngộ với ĐHAG, lần tới khi trở lại ĐBSCL mong sẽ có dịp đến thăm Bảo Tàng Cây Lúa của anh Xuân.

2007 DOCTOR RICE GIÚP TRỒNG LÚA PHI CHÂU

An ninh Lương thực là một vấn đề toàn cầu, nhất là đối với các quốc gia nghèo đói Phi Châu. Đó cũng là lý do để Doctor Rice VTX đã cùng nhóm cộng sự được Anh Ba Xuân thân thương gọi họ là Các Anh Hai Lúa đến nước Cộng hòa Sierra Leone (Tây Phi châu) đem theo các giống lúa cao sản từ ĐBSCL, đem trồng thử nghiệm tại khu Mange Bureh và tại Trại nghiên cứu Rokupr. Nhóm chuyên gia nông nghiệp từ Việt Nam đã thành công trồng được lúa 2 vụ, năng suất đạt khoảng 4,7 tấn/ ha, thời gian tăng trưởng của cây lúa chỉ từ 95 đến 100 ngày. Thành quả này đã khiến Phó Tổng thống nước Sierra Leone, Solomon Berewa nói rằng nếu Việt Nam giúp Sierra Leone thử nghiệm và tổ chức sản xuất lương thực theo kỹ thuật của ĐBSCL thì không những nông dân Sierra Leone được no ấm mà Việt Nam còn có thể cùng Sierra Leone xuất cảng gạo trực tiếp từ cảng Freetown của Sierra Leone đến các nước Tây Phi. Sau Sierra Leone, VTX đã tiếp tục khảo sát thổ nhưỡng của Nigeria và Ghana giúp chính phủ Nigeria thành lập Ủy ban phát triển đồng bằng sông Niger.

Dr. Rice Võ Tòng Xuân phát biểu một câu đáng ghi nhớ: “Việt Nam là một quốc gia không giàu nhưng hoàn toàn có khả năng giúp nhiều quốc gia khác chiến thắng đói nghèo”.Đem giống lúa cao sản và kỹ thuật trồng lúa từ ĐBSCL vào các quốc gia Phi Châu là một chương trình hợp tác đầy triển vọng nhưng rồi bị khựng lại vì tình hình chính trị bất ổn tại các quốc gia này.

image

Hình 6: Do những thành tựu đã đạt tại Sierra Leone, Sứ giả Cây Lúa Võ Tòng Xuân, hàng đầu thứ hai từ phải, được dân làng IKPE, tỉnh Akwa Ibom, Nigeria chào đón nồng nhiệt. [nguồn: Tuổi Trẻ 18/08/2008]

2015 TÌNH NGHĨA GIÁO KHOA THƯ

GS Nguyễn Duy Xuân người Cần Thơ, sinh năm 1925 hơn Võ Tòng Xuân 15 tuổi, tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế Đại học Vanderbilt Hoa Kỳ, trở về Việt Nam 1963, giáo sư Luật. Nhận chức Viện trưởng từ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã nỗ lực phát triển Viện Đại học Cần Thơ trên mọi lãnh vực từ chương trình giảng dạy, đào tạo ban giảng huấn, xây cất thêm giảng đường, phòng thí nghiệm, thiết lập ký túc xá như hệ thống campus cho sinh viên đến từ các tỉnh xa miền Tây. Ông là người tiên phong thực hiện giáo dục đại học theo tín chỉ / credits (giống như mô hình hệ thống Đại học Hoa Kỳ.

Chỉ trong vòng 9 năm [1966 – 1975] với công lao xây dựng của hai Viện trưởng: GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân, Viện Đại Học Cần Thơ như một Ngọn Hải đăng trí tuệ Miền Tây, trở thành một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, đặc biệt bước đầu ưu tiên phát triển hai lãnh vực Sư phạm và Nông nghiệp, vững vàng sánh bước với các Viện Đại học lâu đời khác của Miền Nam, đóng góp cho sự thăng tiến của vùng ĐBSCL.

Võ Tòng Xuân thì chẳng thể nào quên thời điểm năm 1972, chính GS Nguyễn Duy Xuân – mà Anh coi như bậc thầy của mình, đã đích thân viết thư mời Anh, khi ấy đang làm việc ở Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế / IRRI Los Baños Philippines về trường ĐH Cần Thơ. Võ Tòng Xuân kể lại: “Anh Nguyễn Duy Xuân nói ĐBSCL là cái vựa của lúa gạo nên rất cần những nhà khoa học về nông nghiệp. Chiến tranh rồi có ngày hòa bình, đất nước sẽ cần những người như tôi. Đó là một trong những lý do tôi về công tác ở Đại học Cần Thơ. Võ Tòng Xuân sau này trở thành một Giáo sư Nông học danh tiếng, “Doctor Rice”, tên tuổi anh gắn liền với sự tiếp nối phát triển cây Lúa Thần Nông nơi ĐBSCL.

Từ Ảo Vọng Tới Thảm Kịch. Chỉ mấy ngày trước biến cố 30/04/1975, cũng như GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân một trí thức yêu nước dấn thân, ông từ chối bước lên chuyến bay của Tòa Đại Sứ để di tản sang Mỹ, với quyết định ở lại phục vụ. Nhưng sau 1975, GS Nguyễn Duy Xuân vẫn bị bắt đi tù cải tạo, bị đưa ra Bắc, giam trong trại tù khắc nghiệt Ba Sao Hà-Nam-Ninh, hầu như không có ngày về.

Năm 1983, Võ Tòng Xuân, trong một lần ra Hà Nội dự hội nghị, anh đã vượt mọi khó khăn tìm cách vô được trại tù Ba Sao để thăm vị Viện trưởng của mình. GS Nguyễn Duy Xuân rất vui mừng khi gặp lại VTX, và cho dù đang trong nghịch cảnh tù đày, ông vẫn quan tâm hỏi han tới hiện trạng của Đại học Cần Thơ, nơi mà ông và GS Phạm Hoàng Hộ đã dày công xây dựng.

Đó cũng là lần duy nhất và cuối cùng VTX được gặp vị Thầy của mình. GS Nguyễn Duy Xuân tiếp tục bị đày ải thêm 3 năm nữa tổng cộng 11 năm, và đã chết trong trại tù Hà- Nam-Ninh ngày 10 tháng 11 năm 1986 trong đói khát và bệnh tật không thuốc men. Xác của ông được vùi nông trên một triền núi phía sau trại tù Ba Sao.

Phải mãi đến 30 năm sau, tháng 4 năm 2015, di cốt của GS Nguyễn Duy Xuân, mới được người con gái là Nguyễn Thị Nguyệt Nga từ Pháp về bốc mộ cha, đưa từ nghĩa địa trại tù Ba Sao về Chùa Thiên Hưng, quận Bình Thạnh, Sài Gòn. Trong buổi lễ cầu siêu, ngoài thành viên của gia đình cố Viện trưởng GS Nguyễn Duy Xuân, còn có một số cựu giảng huấn và các cựu sinh viên tốt nghiệp Đại học Cần Thơ trước 1975 như GS Võ Tòng Xuân, đến tham dự buổi lễ trong nỗi thương tiếc và ngậm ngùi.

image

Hình 7a:Trại tù Hà-Nam-Ninh, miền Bắc Việt Nam, nơi triền núi phía sau trại tù là nghĩa địa chôn vùi xác rất nhiều tù nhân cải tạo có gốc từ Miền Nam sau 1975.Thân xác Giáo sư Nguyễn Duy Xuân được vùi nông và bị lãng quên trong suốt 30 năm trong nghĩa địa trại tù Ba Sao này. [tư liệu Võ Tòng Xuân]

image

Hình 7b:Mãi 30 năm sau, tháng 4/2015,con gái của GS Viện Trưởng Nguyễn Duy Xuân là bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga từ Pháp về bốc mộ cha từ nghĩa địa trại tù Ba Sao đưa về Chùa Thiên Hưng, quận Bình Thạnh, Sài Gòn. Hình chụp trong buổi lễ cầu siêu tại Chùa; từ trái, GS Võ Tòng Xuân, bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga, ôm bình tro cốt của cha, và hai thân hữu [tư liệu Võ Tòng Xuân]

Với người viết, cái chết của GS Nguyễn Duy Xuân mang tầm vóc lịch sử của một tấn thảm kịch, bắt nguồn từ ảo vọng của những trí thức Miền Nam, với tài năng và giàu lòng yêu nước, đã tình nguyện chọn ở lại góp tay xây dựng đất nước, để rồi họ trở thành nạn nhân của một chính sách trả thù, giam hãm đày đọa độc ác và vô ích của những người Cộng sản bên thắng cuộc. Không có chính sách độc ác vô ích ấy, đất nước sẽ phát triển và còn tiến xa tới đâu. Đây là vết thương của một giai đoạn lịch sử, một bài học đắt giá cho các thế hệ Việt Nam tương lai.

Thành viên các Tổ chức Quốc tế:

Member, Board of Trustees of the Rockefeller Foundation (2002 to 2010); Member, Board of Governors, Asian Institute of Management in Manila (1997 to date); Member, Board of Trustees of the International Potato Center at Lima, Peru (1996–99; 2016 to date); Research fellow and trustee of the International Rice Research Institute; Member, Board of Directors of the International Fertilizer Development Center (2007-2017)

Các Giải thưởng quốc tế:

1993 Recipient of the Ramon Magsaysay Award for Government Service** – Giải thưởng Ramon Magsaysay 1993 “vì đã kết hợp nghiên cứu khoa học thực tế với vận động chính sách hiệu quả để cải thiện đời sống của người nông dân Việt Nam.”

1995 Canada’s Certificate of recognition for his “Dedication and contribution to the world of sciences”. Bằng tưởng lệ của Thủ tướng Canada (1995) về “Phụng sự và đóng góp vào khoa học thế giới”.

1996 French’s “Médaille Chevalier de l’Ordre du Mérite Agricole “. Huy chương “Kỵ mã Nông nghiệp” của Bộ Nông-Lâm-Thủy sản Pháp (1996).

2001 Philippines’ D.L. Umali Award. Giải “Cựu sinh viên xuất sắc nhất” của Đại học Philippines tại Los Baños.

2002 Japan’s Nikkei Asia Prize for Regional Growth. Giải thưởng Nikkei châu Á về Tăng trưởng vùng.

2005 Australia’s ASTD Derek Tribe Award. Giải thưởng Derek Tribe về khoa học kỹ thuật Australia

2019 Bằng khen của Bộ Ngoại giao Nhật Bản; GS.TS VTX là một trong 16 cá nhân của Việt Nam được Bộ Ngoại giao Nhật Bản tuyên dương và trao tặng Bằng khen.

2021 Order of the Rising Sun, Gold Rays with Neck Ribbon. Huân chương Mặt Trời Mọc, Tia Sáng Vàng và Ruy Băng Cổ.

Các Chức vụ Trong Nước:

Đại biểu Quốc hội 3 Khóa: II,III,IV; 1982-1997 Phó Viện Trưởng Trường Đại học Cần Thơ; 1999-2007 Viện Trưởng Trường Đại học An Giang; 1996-2006 Ủy viên Hội đồng Chức Danh Giáo sư Nhà nước Việt Nam; 01/2008-2010 Tổng Giám đốc Công ty TNHH Nông Thủy Sản Việt-Phi; 2010-2013 Viện Trưởng Trường Đại học Tân Tạo; 2013- Nay: Thành viên Hội đồng Sáng lập và Quyền Viện Trưởng và nay Viện Trưởng Danh Dự (Rector Emeritus) Trường Đại học Nam Cần Thơ.

Các Giải thưởng trong nước:

Giáo sư Nông học (1980), Anh hùng lao động (1985), Huân chương Lao động hạng Nhất (1986), Nhà giáo Ưu tú (1990), Nhà giáo Nhân dân (1999).

Các bài báo Khoa học: [Võ Tòng Xuân Publications]*:

_ Training manual for rice production / Vo-Tong Xuan and Vernon E, Ross; Illustration by Federico Gatmaitan. 1972, 1976

_ Role of resistant varieties in depressing brown planthopper populations in the Mekong Delta of Vietnam. Nguyen Van Huynh, Vo-Tong Xuan. International Rice Research Newsletter. 1981

_ Rice cultivation on acid sulphate soils in the Vietnamese Mekong Delta. Vo-Tong Xuan, Nguyen Kim Quang, Le Quang Tri. Publication, International Institute for Land Reclamation and Improvement. 1982

_ Curriculum development of agriculture in a post-war economy: the case of Vietnam. Vo-Tong Xuan, Mensvoort, T.E.F van. South-North partnership in strengthening higher education in agriculture. 1989

_ Cultivation of the sugarcane on acid sulfate soils in the Mekong Delta. Truong Thi Nga, Duong Van Ni, Vo-Tong Xuan. Selected papers of the Ho Chi Minh City symposium on acid sulfate soils, HCM City, Vietnam. 1992-1993

_ Vietnam and IRRI: a partnership in rice research : proceedings of a conference held in Hanoi, Vietnam 4-7 May 1994 / editors G.L. Denning and Vo-Tong Xuan. 1995

_ Mekong Delta plant genetic resources off-farm and on-farm conservation. Huynh Quang Tin, Nguyen Ngoc De, Vo-Tong Xuan. Plant genetic resources in Vietnam. Proceeding of a national workshop in Hanoi, Vietnam, on 28-30 March 1995.

_ Opportunities for upland rice research in Vietnam. Arraudeau,M.A., Vo-Tong Xuan. International Rice Research Institute, Los Baños, Laguna (Philippines). 1995

_ Vietnam-IRRI collaboration in training: progress and priorities in human resource development. Matheny, E.L., Raab, R.T., Vo-Tong Xuan. International Rice Research Institute., Los Baños, Laguna (Philippines). 1995

_ Vietnamese villages and rice production. [French, Campagnes vietnamiennes et production rizicoles]. Dogot,T.Lebailly, P., Dao Cong Tien, Pham Van Bien, Tran The Thong, Vo-Tong Xuan. Cahiers Agricultures. 1997

_ Genetic diversity of traditional varieties of upland rice from Vietnam and prospects offered by improved varieties [French: Diversité génétique des variétés traditionnelles du riz pluvial du Vietnam et perspectives offertes par les variétés améliorées] Courtois, B., Nguyen Huu Hong, Vo Thi Thu Huong, Carandang, C., Vo-Tong Xuan. Agriculture et Développement. 1997

_ Prospects for sustaining Vietnam’s re-acquired rice exporter status, Pingali, P.L., Nguyen Tri Khiem, Gerpacio, R.V., Vo-Tong Xuan. Food Policy. 1997

_ Land evaluation and land use planning of the area for rice-shrimp systems, Gia Rai District of Bac Lieu Province. Le Quang Tri, Vo Quang Minh, Vo-Tong Xuan. ACIAR Technical Reports Series. 2003

_ Enhancing food security and income through integrating an upland crop in the rainfed cropping systems. Nguyen Ngoc De, Vo-Tong Xuan, Abedin, M.Z., Bool. M.R. 2004

“New Direction for a Diverse Planet”, 4th International Crop Science Congress in conjunction with the 12th Australian Agronomy Conference, 26 Sep – 1 Oct 2004 Brisbane, Australia. 2004

_ Beach morning glory (Ipomea Biloba Forsk.) help prevent coastal erosion and desertification in Vietnam. Kroftf, M., Vo-Tong Xuan, Hoang Quang Ha. APA News 2012

_ Development of the Sugar Industry in ASEAN Countries. Vo-Tong Xuan et al. Sugar Tech 2016

_ Rice Production, Agricultural Research, and Environment. Vo-Tong Xuan 2018

VTX MỘT ĐỜI CẦU HỌC

Suốt một đời, trên bước đường “cầu học”, Võ Tòng Xuân đã đi khắp năm châu, cụ thể hơn, Anh đã đặt chân tới 80 quốc gia, và có thể dùng một từ tiếng Anh “globe trotter” cho Anh. Trước 1975, miền Nam có một nhà xuất bản tên Bốn Phương với câu châm ngôn rất hay: “Góp nhặt từ bốn phương, tung ra khắp bốn phương”. Võ Tòng Xuân đạt được chức danh Giáo Sư Lúa Gạo / Doctor Rice nhưng vẫn giữ hình ảnh là một “sinh viên suốt đời – étudiant éternel”.Anh khiêm cung trong cách “cho và nhận”, vẫn đi tìm học ở những nơi chính Anh có thể dạy dỗ.

image

Hình 8:GS Võ Tòng Xuân đi dự hội thảo về nông nghiệp thế giới tổ chức tại miền nam nước Pháp vào tháng 4 năm 2006. Ảnh chụp tại Gare de Lyon, Paris.[Photo by Ánh Nguyệt, RFI]

Cũng chỉ mới đây thôi, sau một hội nghị quốc tế về lúa gạo tại Lima 2017, thủ đô Peru, Võ Tòng Xuân đã tận dụng chuyến đi ấy để ghé Houston thăm ngôi mộ và thắp bó nhang tưởng nhớ nhà nông học Nhật Bản Shinpei Mykawa (1874-1906) người có công đầu đem lúa giống vào trồng trong vùng đông nam Texas. Sau khi mất, một cộng đồng và một con đường ở Houston được đặt tên Mykawa.

*

image

Hình 9a: Sau một hội nghị quốc tế về lúa gạo tại Lima 2017, thủ đô Peru, Võ Tòng Xuân đã tận dụng chuyến đi, ghé Houston để tới thăm ngôi mộ và thắp bó nhang tưởng nhớ nhà nông học Nhật Bản Shinpei Mykawa (1875-1906) người có công đầu đem lúa giống vào trồng trong vùng đông nam Texas[photo by Ngy Thanh]

*

image

Hình 9b: Bằng đường bộ từ Houston tới Louisiana với hơn 4 giờ lái xe (275,9 mi), Anh Xuân tới thăm hai Trung tâm Nông nghiệp của ĐH Louisiana / LSU: tới khu nghiên cứu lúa gạo cùng trao đổi kinh nghiệm với vị giáo sư trưởng khoa. [photo by Ngy Thanh]

Anh Xuân tới thăm Trung tâm Nông nghiệp của ĐH Louisiana / LSU: tới khu nghiên cứu lúa gạo và mía, để cùng trao đổi kinh nghiệm với vị giáo sư trưởng khoa, mà trong thực tế thì ai cũng hiểu rằng VTX có thể được mời tới như một giáo sư thỉnh giảng về cây lúa, cây mía tại chính những nơi Anh đến thăm.

Mỗi lần sang Mỹ, hay đến những các quốc gia khác – có các cộng đồng tỵ nạn người Việt, Anh VTX bao giờ cũng tìm cách ghé thăm chuỗi siêu thị Á Đông, và Anh rất “tâm tư – chữ của Anh Xuân”, khi thấy trong các siêu thị ấy chỉ bán gạo nhập từ Thái Lan với lý do Việt Nam không có được giống gạo ngon để có thể cạnh tranh với Thái. Anh VTX ao ước, một ngày nào đó – không phải chỉ có gạo, mà cả những nông sản khác của Việt Nam sẽ đạt được chất lượng cao và an toàn để có thể cung cấp rộng khắp cho thị trường thế giới. Và khi đó nông dân Việt Nam mới có thể thoát cảnh nghèo!

TUỔI NGOÀI 80 VTX VẪN BĂNG SÔNG LỘI RUỘNG

*

image
image

Hình 10: Ở tuổi ngoài 80, Anh Ba Xuân vẫn đi xe Honda ôm, đi qua mấy cây cầu khỉ cheo leo; hay vẫn ngồi trên tắc ráng băng sông đi khảo sát thực địa tại vùng xa và sâu U Minh. [Photo by Lục Tùng, báo Lao Động 30/12/2021]

NÔNG NGHIỆP VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 01/10/2022

Có lẽ đây là tấm hình chụp gần đây nhất – trước ngày Anh VTX nhập viện. Sau cuộc họp bàn về Dự án Phát triển Nông nghiệp ứng phó với Biến đổi Khí hậu cho tỉnh Hậu Giang, tối ngày 01/10/2022 tại nhà hàng Lúa Nếp, TP Cần Thơ, là buổi họp chia tay của một số thành viên trong đoàn.

image

Hình 11: Từ phải, GS Võ Tòng XuânHiệu trưởng Danh dự trường Đại học Nam Cần Thơ; PGS TS Lê Anh Tuấn, nguyên Phó Viện trưởng Viện Biến đổi Khí hậu ĐH Cần Thơ; ThS Nguyễn Hồng Trúc, TS Trần Đình Lâm thuộcTrung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Đông Nam Á (CVSEAS/ Center for Vietnam and Southeast Asian Studies)Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP HCM. TS Lâm hiện là giám đốc Trung Tâm CVSEAS. [tư liệu Lê Anh Tuấn]

MỘT CHÚT RIÊNG TƯ

Võ Tòng Xuân đã là nguồn cảm hứng về “nhân vật Thầy Hộ” trên hơn 700 trang sách khi tôi viết cuốn Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng, cách đây cũng đã hơn 20 năm. Sau đây là một trích đoạn, phác thảo đôi nét chân dung về hình tượng văn học ấy.

BÊN TRỜI

TIẾNG HẠC KÊU THƯƠNG

Tới đây thì ở lại đây

Bao giờ bén rễ xanh cây thì về

ca dao Nam bộ

Bấy lâu gắn bó với sông Mekong, con sông ấy, vùng đất mới ấy bao giờ cũng đem lại cho Hộ / VTX niềm cảm hứng và cả những tình cảm lớn lao. Bảo vệ sự nguyên vẹn tinh khiết cho dòng sông ấy không chỉ vì vùng Đồng Bằng Châu Thổ Cửu Long mà chính là bảo vệ mạch sống cùng với hệ sinh thái của một vùng đất Á Châu hướng về một tương lai xa.

Là thành viên Ủy Ban Sông Mekong, Hộ có dịp để thấy được con sông ấy hùng vĩ nhưng cũng mong manh ra sao. Sinh ra và lớn lên từ vùng đồng bằng Nam Bộ, Hộ đã quá thân thiết với con sông ấy. Hồi nhỏ thì chỉ biết gắn bó với khúc sông Tiền nơi quê nhà qua hai mùa lũ hạn, lớn lên thì vươn tới suốt chiều dài của dòng sông, thân thuộc với nhịp điệu của con sông Mekong như nhịp đập của trái tim mình. Con sông ấy tưởng như bất trị nhưng lại là nguồn sống từ ngàn năm của người dân đồng bằng châu thổ. Mới hơn trăm năm trước người ta cũng chưa biết con sông ấy khởi nguồn từ đâu.

Con sông xanh cuồng nộ ấy như một con rồng với đầu ẩn khuất trên chín từng mây trên ngọn núi thiêng bên cao nguyên Tây Tạng với cả thân rồng uốn lượn khi thì dũng mãnh sủi bọt gào thét xuyên qua những cao nguyên và rừng già khi thì trải mình hiền hòa trên các bình nguyên rồi đồng bằng châu thổ với chín cái đuôi không ngừng quẫy đập để vươn tới thềm lục địa Biển Đông. Vào mùa lũ tháng Chín thì con sông ấy biến thành biển nước mênh mông thắm đỏ mang đầy phù sa tràn bờ dìm sâu hết cả ruộng đồng, và nhà cửa thì chỉ còn như những chiếc nón úp trên mặt nước. Tháng Tư mùa khô, con sông ấy vẫn phô bày kích thước của nó: vẫn khối nước một màu nâu sậm trải rộng ra từ hai tới ba dặm, cảnh trí quạnh quẽ, làng mạc thì thưa thớt. Ngược dòng xa hơn về phía bắc, không xa con thác Khemerat, đã mấy tháng sau mùa mưa, Hộ / VTX đã không thể không ngạc nhiên khi thấy vẫn có những khúc sông cạn như sắp khô kiệt tưởng chừng có thể lội bộ băng qua. Hộ cũng hiểu rằng nếu chưa có hạn hán dưới đồng bằng châu thổ, chưa có những cơn đau thắt ngực phía hạ nguồn nơi quê anh là do còn các dòng phụ lưu – tributaries, như những mạch phụ – collaterals.

Sông Mekong với Hộ bây giờ còn mang ý nghĩa của những mô hình cơ thể học, hơn thế nữa còn là một mô hình toán học – Mathematical Model, với đầy rẫy những con số: 40 ngàn mét khối giây lưu lượng mùa lũ, chỉ còn 2 ngàn mét khối giây mùa khô – 20 lần thấp hơn; lòng sông không những thiếu độ dốc mà lại góc độ âm nghĩa là cao hơn khi tiến gần ra biển. Rằng chỉ mới hơn mấy chục ngàn năm trước đây thôi, con sông Mekong hoang dã mới bắt đầu tạo hình vùng đồng bằng châu thổ từ đáy biển, do chất pyrite có trong trầm tích phù sa và cả thêm từ chất sắt trong phù sa kết hợp với sulphur trong nước biển để tạo thành hợp chất pyrite. Với thời gian tính bằng thiên niên kỷ, dần dần đất nhô lên khỏi mặt biển và để rồi hàng năm được các con nước lũ đổ về phủ lên tầng tầng lớp lớp phù sa ngày mỗi dày thêm để trở thành những ruộng đồng mênh mông và màu mỡ.

Nhưng dưới lớp phù sa tân bồi ấy, chất pyrite còn đó, bị dìm sâu trong đất hay dưới làn nước. Chỉ khi phơi ra ngoài dưỡng khí, nó trở thành chất phèn chua acid sulphate, thẩm thấu / trồi lên mặt đất, bắt đầu hoành hành và là nguyên nhân nỗi khổ của người nông dân Đồng Bằng Nam Bộ. Hộ sau này cũng được biết thêm rằng tính thổ nhưỡng vùng châu thổ cũng rất thay đổi ngay trong một khoảng cách gần. Ở một nơi này thì rất chua trong khi cách đó khoảng một trăm mét đã hoàn toàn đổi khác, do mực nước – thủy cấp, độ dày đất tân bồi và các loài thảo mộc trên đó. Chính Hộ đã học được biết bao nhiêu kinh nghiệm từ những người nông dân. Họ hiểu rõ hơn ai hết vùng đất đai mà họ đang sống như biết rõ dấu chỉ trên bàn tay của họ và đã khôn ngoan tìm ra cách gieo trồng trong những điều kiện tưởng như vô phương tìm ra lời giải đáp. Họ cũng hiểu rằng đất phèn như con cọp ngủ trong hang và chẳng bao giờ nên đánh thức một con cọp đang im ngủ!

Cho dù chẳng phải là một trí thức trong tháp ngà, từng là tác giả của một luận án đồ sộ về “Hệ Sinh Thái của Vùng Hạ Lưu Sông Mekong” nhưng chính Hộ đã được thực tế dạy cho những bài học đích đáng. Khởi đi từ lề lối suy nghĩ kinh điển cho rằng để tăng năng suất lúa thì phải ngăn mặn trong mùa khô và trong mùa lũ thì cần những đập lớn trữ nước để xả ra trong mùa khô, rửa muối rửa phèn cho đất và dẫn tưới ruộng đồng. Nhưng thay vì ngăn mặn thì người nông dân vùng nam đồng bằng châu thổ lại cho dẫn nước biển vào ruộng trong mùa hạn mà ban đầu ai cũng cho là điên khùng. Nhưng thực ra họ đã áp dụng kỹ thuật “trầm thủy” với kết quả thật kỳ diệu: đất bớt phèn, đến mùa mưa thì đã có nước rửa mặn cho đất khiến mùa màng tốt tươi, chưa kể thêm cái lợi khác là nước biển đã đem tôm cá vào ruộng đồng và mương rạch. Chính người nông dân đã sáng tạo ra một “nền nông nghiệp lúa-tôm / rice-shrimp culture” phù hợp với hệ sinh thái phức tạp của vùng đồng bằng châu thổ. Và đã trong nhiều kỳ trên kênh đài truyền hình / không phải “thầy Hộ” mà là người nông dân đầy sáng tạo ấy lên đài hướng dẫn bà con làm sao tận dụng cả nguồn nước mặn trong kết hợp trồng lúa và nuôi tôm. Sự kiện bà con nông dân phá vỡ con đê ngăn mặn ở Gò Công Tây là bài học thấm thía và nhớ đời cho chính Hộ và đám kỹ sư thủy lợi đến từ trung ương.

Rồi lại còn thiên tai lũ lụt mỗi năm, ai cũng cảm thấy bất an khi đương đầu với con rồng bất kham ấy. Với bài học ngàn năm từ con sông Hồng, người ta muốn chế ngự nó bằng những con đập với hệ thống đê điều vững chắc. Sơn Tinh / thần núi biểu tượng cho sức mạnh của đê điều, Thủy Tinh / thần nước là sức tàn phá của những cơn lũ. Cả hai đều muốn chiếm đoạt nàng công chúa xinh đẹp là vùng đồng bằng châu thổ. Nước dâng cao thì núi vươn cao và cuối cùng Sơn Tinh đã thắng. Đó là chiến thắng của sức người với hệ thống đê điều hai bên bờ con sông Hồng.

Nhưng xem ra người nông dân Đồng Bằng Cửu Long có cái nhìn Lão Trang hơn, thay vì trấn áp thì họ chọn sự thách đố chung sống với những cơn lũ. Không đắp đê cao mà đào thêm những rạch sâu để thoát lũ ra Biển Tây, Biển Đông và cải thiện giao thông, tiếp tục truyền thống từ nhiều ngàn năm trước của nền văn minh Óc Eo vương quốc Phù Nam cho dù cả vương quốc ấy đã tiêu vong do một cơn hồng thủy tràn ngập vùng châu thổ vào khoảng giữa thế kỷ thứ sáu.

Con thuyền máy chạy băng băng giữa lòng một con kinh đào mới – gọi là mới chứ cũng đã hơn năm năm rồi. Sẽ có thêm hàng ngàn cây số kinh rạch nữa được hoàn tất vào cuối thế kỷ này. Cảnh tượng nổi bật là màu vàng của rỉ sắt đã nhuốm lên mọi cảnh vật: từ gốc những cây tràm, tới thân ghe, cầu tàu, lưới cá và cả chân người ta nữa – nghĩa là bất kể vật gì nhúng vào làn nước ấy. Người ta đã thấy ngay được nanh vuốt con cọp đang im ngủ trong hang vừa bị đánh thức. Trừ đợt tôm cá trong mùa mưa do cơn lũ đổ vào, đã không có sinh vật nào sống được dưới làn nước trong leo lẻo đẫm chất phèn chua ấy, có chăng chỉ là lưa thưa mấy đám cỏ sậy chịu phèn. Người nông dân chỉ cần nhận ra giống cỏ nào là họ biết đâu có thể là khu đất gieo trồng. Và cho đến bây giờ thì họ vẫn kiên nhẫn chờ đợi những trận mưa to những con lũ lớn tới rửa phèn cho đất và họ vẫn không ngừng phá rừng, tiếp tục đào kênh và lên liếp. Những vùng đầm lầy như Tam Nông càng ngày càng thu hẹp và đã chẳng còn bao nhiêu nữa và tương lai của các Tràm Chim đang bị thả nổi. Hay rồi ra Đồng Tháp Mười chỉ còn là những cánh đồng chua nước mặn với mấy khu nuôi tôm sú, mấy khoảng ruộng lúa xanh hay những căn nhà ngói đỏ. Và rồi cũng chẳng còn một cánh hạc nào bên bờ con sông thiêng đang dần bị tát cạn.

Chính Hộ đã giúp Mười Nhe đưa lúa thần nông HYV (High-Yielding Variety) vào khu đệm huyện Tam Nông với hy vọng giống lúa cao sản này sẽ cải thiện đời sống bà con mà không cần phá thêm rừng tràm. Nhưng mọi chuyện diễn ra sau đó hoàn toàn ngoài dự kiến của Hộ. Khoa Thủy văn Đại học Cần Thơ với dự án xây bốn ống dẫn thoát lớn từ con kinh bao quanh khu bảo tồn, thay vì để điều hòa mực nước trong Tràm Chim thì lại bị bà con nông dân tận dụng để rút nước ra khỏi khu đầm lầy để tưới ruộng trong suốt mùa khô. Đã thế do nước cạn bà con còn phá rừng mau hơn, vì ai cũng thấy trồng lúa nhất là thứ “lúa cao sản của thầy Hộ” rất có ăn. Nhưng cũng do là giống lúa rất khát nước nên mùa hạn bà con không chỉ lấy nước từ Tràm Chim mà còn be bờ không cho nước xuống vùng dưới khiến bà con nông dân miệt dưới thiếu nước phải kêu trời. Chẳng cần ai điều hợp hay trọng tài, Mười Nhe đã thành công phát triển riêng cho huyện Tam Nông bằng cái giá của Tràm Chim với sinh mạng của cả ngàn cánh hạc và mùa màng khô hạn nơi miệt dưới. [Trích CLCD, BĐDS, Chương VIII]

Những trao đổi với Anh VTX:

Anh Xuân và tôi đều bận rộn, nhưng có dịp chúng tôi vẫn trao đổi emails với nhau về những vấn đề quan tâm chung.

Giữa năm 2017, khi Dự án cống ngăn mặn Cái Lớn Cái Bé – được quảng cáo là Công Trình Thế Kỷ; đang gây ra rất nhiều tranh cãi do thất bại của các công trình ngăn mặn trước đó – điển hình là cống đập ngăn mặn Ba Lai, tỉnh Bến Tre. Và gần như tuyệt đại đa số các tiếng nói trí tuệ độc lập của các chuyên gia hàng đầu đều lên tiếng phản đối và can ngăn.

Để chuẩn bị cho một bài viết, tôi thảo ngay một email hỏi ý kiến của Anh VTX, và Anh Xuân đã mau mắn trả lời:

“Tôi biết anh rất tâm tư mỗi khi nói đến ĐBSCL. Qua 40 năm tôi mới đạt thêm một thắng lợi về mặt Khoa học và Kiến Tạo Xã Hội bằng một xoay chuyển chính sách nhà nước, nhưng phải nói ngay rằng đây mới chỉ là bước đầu được Thủ Tướng (lúc đó là ông Nguyễn Xuân Phúc, ghi chú người viết) chấp thuận đưa vào Nghị Quyết 120 NQ-CP, nhưng phải cần một thời gian nữa mới có thay đổi thật sự, các Bộ, Ban, Ngành mới chấp hành chủ trương. Cho nên tôi xin trình bày với anh một cách tóm tắt như thế này:

Từ khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhất trí với đề nghị mà tôi đã từng nêu 28 năm nay sau khi Việt Nam trở lại vị trí nhóm 3 quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, Nghị Quyết 120 NQ-CP của Chính phủ đã được ban hành vào tháng 11/2017. Đây là một nghị quyết lịch sử của nông nghiệp ĐBSCL, vì nó gỡ trói người nông dân thoát khỏi vòng kim cô phải sản xuất lúa muôn đời để cho cán bộ nhà nước hoàn thành chỉ tiêu pháp lệnh về sản lượng lúa, mặc kệ nông dân phải chịu giá rẻ bèo của sản phẩm thặng dư quá lớn này. Bây giờ chính sách phát triển thủy lợi của Việt Nam phải được chuyển đổi theo sự chuyển hướng của nông nghiệp, không thể theo mục tiêu cũ để tiếp tục tăng sản lượng lúa thông qua thâm canh nông nghiệp mà phải theo mục tiêu cải thiện sinh kế của nông dân thông qua đa dạng hóa cây trồng và canh tác tổng hợp.

Nhưng rất tiếc các nhóm lợi ích vẫn bám mục tiêu đầu tiên đòi hỏi phải xây dựng hệ thống thủy lợi quy mô lớn, xây dựng cống đập ngăn mặn, đào kênh dẫn nước ngọt quý hiếm từ sông Hậu xa tít để tiếp tục bắt dân trồng lúa, như Dự án sông Cái Lớn – Cái Bé (CLCB). Nhóm lợi ích luôn có thế lực mạnh, để được duyệt dự án thì họ mới có ăn, mặc kệ dân trồng lúa cứ nghèo.

Các nhà khoa học chân chính đã đưa ý kiến đề nghị dừng dự án CLCB, với những lập luận bác bỏ các lý do cần phải thực hiện dự án. Nhưng lý do quan trọng mà các nhà phản biện nói rất ít là dưới ánh sáng của Nghị Quyết 120 NQ-CP của Chính phủ, lương thực không còn là mục tiêu chính mà nhà nước đã bắt buộc mọi người thực hiện bằng mọi giá bất kể tổn phí. Thời thế bây giờ không như trước nữa. Chúng ta dư thừa quá nhiều lúa gạo. Với kỹ thuật lúa gạo của chúng ta ngày nay, chỉ trong vòng 3 tháng là chúng ta có gặt vụ lúa mới. Tại sao những người trong nhóm lợi ích chỉ nghĩ là phải ngăn mặn để có thể tiếp tục trồng lúa mà không thấy những người chuyên trồng lúa cả 40 năm nay vẫn khổ vì lợi tức từ lúa quá thấp? Nhóm lợi tức này muốn những người trồng lúa của nước ta chịu nghèo khổ vĩnh viễn hay sao?”

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc – sau này là Chủ tịch Nước, với bàn tay phải ông đặt bút ký nghị quyết Nghị Quyết 120 NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL, hay nói theo ngôn từ của GS VTX đó là Nghị Quyết “Thuận Thiên” nhưng rồi cũng chính bàn tay trái của ông Phúc bật đèn xanh cho các nhóm lợi ích – có thế lực mạnh hơn ông, khởi công Dự án Cái Lớn Cái Bé, hơn 3 ngàn tỉ được mệnh danh là công trình của Thế kỷ.

Cả tôi và Anh Xuân đều hiểu rằng những khẩu hiệu thì quá nhiều, nhưng khoảng cách giữa những Nghị Quyết và Thực Tế của đất nước trong 48 năm qua vẫn còn là một khoảng cách đại dương.

Một Kỳ Thị Tuổi Tác:

Từ ngày Anh VTX qua tuổi hưu,phải sống trong một bộ máy hành chánh phức tạp và rất quan liêu, nên người Anh Hùng Lao Động, Nhà Giáo Nhân Dân Võ Tòng Xuân vẫn thường xuyên bị sách nhiễu về vấn đề tuổi tác của Anh, qua những tra vấn thủ tục giấy tờ và những buổi tái khám sức khỏe định kỳ. Biết tôi là một bác sĩ y khoa không thua tuổi Anh nhưng vẫn còn làm việc ở một môi trường hải ngoại, không có quy định cưỡng bách về hưu do tuổi tác. Và chỉ mới đây thôi, cách đây hơn một năm, với tất cả sự bực bội tới mức phẫn nộ, Anh VTX viết email cho tôi:

Mon, Jun 14, 2021, 7:38 PM

Anh Vinh quí mến,

Hiện nay, theo qui định ó đâm của đám lãnh đạo dốt của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo (nhờ tụi nó nên nền giáo dục của VN ngày càng lụn bại với tràn đầy “học giả bằng cấp thật”) rằng Hiệu trưởng đại học tư nhân không được quá 75 tuổi, nên Hội đồng quản trị Trường ĐH Nam Cần Thơ phải chuyển tôi sang chức vụ Hiệu Trưởng Danh Dự (Rector Emeritus) vĩnh viễn…

Đến hôm nay tôi mới nhận email đề ngày 6/6/2021 của anh. Hộp thư Gmail của tôi quá đầy mà chưa xóa bớt nên bị warning hoài. Có lẽ anh đổi địa chỉ gmail của tôi sang vtxuan@nctu.edu.vn thì tiện hơn. Cách đây hai tuần có một anh Bạn nhắn tin đến điện thoại di động tôi. Anh ấy là cựu giảng viên Trường ĐH Hàng Hải Hải Phòng, nay về hưu sống ở Nha Trang. Anh ấy viết rằng đã đọc được trên trang “Tiếng Dân” thông tin về quyển sách “Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch” rất tâm đắc, nhờ tôi chỉ chỗ nào để mua một quyển. Và tôi đã gửi ngay bản electronic tôi sẵn có, đồng thời tôi giới thiệu trang Vietecology Press có audiobook do Ánh Nguyệt diễn đọc để nghe cho sướng! Anh ấy cám ơn khi được tiếp cận sách của BS Vinh. Anh có thể cho gởi quyển sách mới của anh đến địa chỉ tôi tại ĐH NCT như sau:

GS Võ-Tòng Xuân,

Hiệu trưởng danh dự Đại Học Nam Cần Thơ

168 Nguyễn Văn Cừ (nối dài), Ninh Kiều, TP Cần Thơ

2022 VTX 82 TUỔI TRÊN CON DỐC TỬ SINH

08/12/2022: Cùng ngày, các tờ báo lớn trong nước như: Tuổi Trẻ, Thanh Niên, VNExpress, Người Lao Động đồng loạt đăng tin: Giáo sư Võ Tòng Xuân “cha đẻ” nhiều giống lúa ngon của vựa lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long vừa được Viện Tim TP. HCM cứu thoát khỏi nguy kịch sau cơn nhồi máu cơ tim, xuất huyết tiêu hóa. Theo TS-BS Bùi Minh Trạng, Giám đốc Viện Tim TP HCM:

“GS VTX được chuyển từ bệnh viện Nhân Dân 115 sang Viện Tim Mạch chiều ngày 05/12/2022 trong tình trạng nguy kịch. Trước đó, GS VTX được nhập viện BV Nhân Dân 115 do xuất huyết đường tiêu hóa nặng cần truyền máu. Tuy nhiên sau khi truyền máu và nội soi ổn định, và rồi thêm diễn tiến bất ngờ, GS VTX bị nhồi máu cơ tim cấp tính. Chẩn đoán bằng soi tim, GS VTX bị nghẽn các động mạch vành và được đặt 3 ống thông động mạch (stents). Bị suy hô hấp cấp tính, GS VTX cần hỗ trợ của máy thở với đặt ống nội khí quản”.

Và cũng cùng ngày, TS Nguyễn Xuân Xanh, qua một email-nhóm thông báo trên Diễn đàn edu-sci – trong đó Anh VTX là một thành viên lâu năm:

Anh chị thân mến,

Đọc tin này mà giật mình:

GS Võ Tòng Xuân – ‘cha đẻ’ của nhiều giống lúa – qua cơn nguy kịch sau cơn nhồi máu cơ tim – Tuổi Trẻ Online (tuoitre.vn)

Nhưng may mắn, anh Xuân đã qua cơn nguy kịch. Cầu chúc anh tiếp tục bình phục. Có lẽ do anh ở tuổi cao mà vẫn ham làm việc quá sức, không ngừng nghỉ. Mong anh mau bình phục. Thân mến, Xanh

11/12/2022:ngày 6.Là một bác sĩ tôi hiểu rất rõ rằng thông tin sức khỏe là thuộc quyền riêng tư của người bệnh, nhưng với GS VTX là một nhân vật nổi tiếng của cộng đồng – và cộng đồng ấy như một gia đình lớn, thương mến Anh Xuân, có những thao thức và mong muốn – trong một chừng mực nào đó được biết tới những bước tiến triển về sức khỏe của GS VTX.

Do đó, tôi đã tìm liên lạc được với một bạn đồng môn Đại học Y Khoa Sài Gòn từ trước 1975, Anh hiện là một TS-BS PGS chuyên khoa Tim Mạch vẫn còn làm việc toàn thời gian, do sự khiêm cung Anh yêu cầu tôi không nêu tên Anh. Các tin tức về diễn tiến sức khỏe của Anh VTX tôi được biết trực tiếp từ Anh.

Anh cho biết sang tới ngày thứ 6, Anh VTX vẫn còn nằm trong Phòng Chăm Sóc Đặc Biệt / ICU, với tình trạng tạm ổn định, vẫn cần thuốc vận mạch / inotrope để duy trì huyết áp, vẫn thở bằng máy. Mục tiêu tối hậu trong mấy ngày tới là làm sao anh Xuân có thể tự thở để rút ống / extubation.

14/12/2022: ngày 9. Bác Xuân tập thở yếu, nên hôm nay, toán điều trị ICU sẽ làm Tracheostomy – để có thể đưa ống thở qua lỗ mở khí quản. Bác khỏe, kiểm soát được nhiễm trùng phổi, tỉnh táo.

15/12/2022:ngày 10. Anh VTX vẫn cần máy thở. Được thử nghiệm thở tự phát (SBT / Spontaneous Breathing Trial) để chuẩn bị cho ra khỏi máy thở, nhưng với một người bệnh tuổi ngoài 80, tổng trạng yếu, sau xuất huyết tiêu hoá, nhồi máu cơ tim & nhiễm trùng phổi, quả là khó khăn. Tôi đã nhắn với Bạn đồng môn, là chừng nào Anh Xuân ra khỏi máy thở, tỉnh táo, nhờ Anh chuyển tới Anh VTX lời hỏi thăm của các Bạn Anh ở hải ngoại quý mến Anh Xuân với lời chúc lành.

16/12/2022:ngày 11. Bác Xuân vẫn cần thở máy qua lỗ mở khí quản, với nồng độ oxy FiO2 40% đạt được 100%. EF 40% (phân suất bơm máu tim). Bác tỉnh, nói hiểu. Hy vọng khá hơn.

18/12/2022:ngày 13. TS Nguyễn Xuân Xanh vẫn từ Diễn đàn edu-sci mới gửi ra một email thứ hai – lần này thì trực tiếp tới Anh VTX: “Anh Võ Tòng Xuân thân mến, hy vọng hôm nay Anh đã khỏe lại nhiều. Mong nhận được vài dòng của Anh trên diễn đàn như một tín hiệu vui, nếu được. Chúc Anh mau bình phục và ăn được một cái Tết ấm áp”. Thân mến, NXXanh

20/12/2022:ngày 15. Tình hình Bác Xuân: đã ngưng được kháng sinh điều trị viêm phổi. Thở máy với Oxy FiO2 30%, liều thấp Midazolam (thuốc an thần) qua ống thở khí quản, tim ổn định. Đề phòng huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT / Deep Vein Thrombosis) bằng Lovenox 0,4 ml.

NTV: Cám ơn Anh đã cho tin, sẽ là một tin vui chừng nào Anh VTX được ra khỏi ICU và không cần tới máy thở…  Btw: Prognosis / Dự Hậu, theo Anh? All the best, Ngô Thế Vinh.Với tất cả sự dè dặt, Bạn tôi đã trả lời: Dự Hậu “có thể” là tốt / Maybe good prognosis.

25/12/2022:ngày 20. NTV:Tôi hiểu rằng trong trường hợp khẩn cấp, khi có dấu hiệu suy hô hấp, người bệnh cần được đặt ống khí quản với máy thở. Thường thì bệnh nhân sẽ được rút ống thở càng sớm càng tốt; có thể phải sang tới ngày thứ 4 hoặc thứ 5. Nhưng nếu kéo dài hơn, bệnh nhân sẽ được làm Tracheostomy (mở lỗ khí quản) để có thể vẫn thở trên máy qua ống khí quản mới. Cho tới ngày hôm qua, đã qua hơn 3 tuần lễ Anh VTX vẫn còn phụ thuộc vào máy thở – theo thuật ngữ chuyên môn, thì nay Anh Xuân thuộc vào nhóm PMV cần thở máy kéo dài (Prolonged Mechanical Ventilation). Đây không phải là một chỉ dấu tốt cho bước hồi phục nhanh của Anh VTX. Càng phụ thuộc lâu vào máy thở, các cơ hô hấp ngày càng yếu đi; khả năng người bệnh được rút ống khí quản càng khó hơn; chưa kể nguy hiểm nhiễm trùng phổi do máy thở và các biến chứng khác do nằm lâu trong ICU là khá cao. Với quan tâm và lo lắng, về triển vọng hồi phục nhanh của Anh VTX.

27/12/2022: ngày 22. Các BS ở Hồi sức Viện Tim chăm sóc chu đáo cho Bác Xuân. Bác đang có thêm vấn đề: Cai máy thở / Ventilator weaning gặp khó khăn vì bệnh nhân yếu, chỉ thở bằng bụng, đang nhờ Vật lý Trị liệu giúp. Do sử dụng Lovenox (thuốc loãng máu) để ngừa đông máu cục trong tĩnh mạch sâu (DVT) nay lại bị chảy máu bàng quang. Phải ngưng Lovenox, toán bác sĩ Viện Tim quyết định đặt lưới lọc Greenfield ở Tĩnh Mạch Chủ Dưới (IVC) nhằm ngăn ngừa máu cục từ chân lên phổi. Đã ngừng được kháng sinh và thuốc vận mạch (Inotrope). Vẫn hy vọng và cầu nguyện Anh Vinh ạ.

31/12/2022: ngày 26. Hôm nay là ngày của năm cùng tháng tận, và chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa là qua nửa đêm sang năm 2023, Anh VTX bước qua tuổi 83. Tin mới nhất từ Sài Gòn mà tôi nhận được – Anh VTX còn nằm trong ICU, với máy thở – và tôi hiểu rằng, cứ thêm một ngày trên máy thở thì thời điểm phục hồi càng lùi xa, và nay cuộc đấu tranh của Võ Tòng Xuân càng trở nên gian truân và khó khăn hơn. Từ một nơi rất xa, bên kia nửa vòng trái đất, tôi và các Bạn hữu quý mến Anh cùng gửi lời thăm hỏi tới “người hiệp sĩ đồng xanh” với lời chúc lành.

02/01/2023: ngày 28. Dear Anh Ngô Thế Vinh, báo Anh tin vui, GS VT Xuân đã ngưng được máy thở, hôm nay sẽ được chuyển lên trại bệnh, không còn nằm trong ICU. NTV_ Thật là một tin vui đầu năm. Không thể không gửi lời cám ơn tới toán điều trị trong ICU Viện Tim đầy khả năng, họ đã cống hiến trí tuệ và cả những phương tiện tối ưu lo cho người bệnh Võ Tòng Xuân, để cho đến hôm nay Anh Xuân đã ra khỏi máy thở, ra khỏi ICU sau 28 ngày ở một người bệnh tuổi 83, phải được kể là một thành tích Y Khoa ngoạn mục.

04/01/2023: ngày 30. Dear Anh Ngô Thế Vinh, Sáng nay tôi mới đưa anh Nguyễn Quốc Thái vào thăm GS Võ Tòng Xuân. GS Xuân khỏe, ngưng thở máy, hết viêm phổi. Anh Thái có chuyển lời thăm hỏi của Anh Vinh tới GS Xuân. Bác Xuân rất linh hoạt, sắc diện tươi tỉnh khi nghe Anh Thái nhắc đến BS Ngô Thế Vinh.

Các bác sĩ, và điều dưỡng tại đây rất tận tâm, còn giữ nếp nhà xưa. Tôi vẫn tới giúp các em ở Viện Tim, giảng dạy tại đây 2 buổi/ tuần. BS Phạm Nguyễn Vinh

image

Hình 12a: 7 giờ sáng thứ Tư 04/01/2023, PGS TS-BS tim mạch Phạm Nguyễn Vinh đưa nhà thơ Nguyễn Quốc Thái tới Viện Tim thăm GS Võ Tòng Xuân, khi ấy còn sớm, Anh Xuân vẫn chưa thức giấc.

image

Hình 12b: Trái,Bác sĩ tim mạch Nguyễn Nho Tiến – trong toán ICU chăm sóc GS Võ Tòng Xuân, sáng nay lên thăm GS Xuân trên trại bệnh. BS Tiến đang cầm cuốn vở để GS Võ Tòng Xuân có thể đọc mấy dòng chữ thăm Anh. Phải, hàng chữ cuối trên trang viết là chữ ký cứng cáp và mạnh mẽ của Anh Võ Tòng Xuân (phải). BS Phạm Nguyễn Vinh cho biết: Anh Nguyễn Quốc Thái có chuyển lời thăm hỏi Bác Xuân của BS Ngô Thế Vinh từ California. GS Võ Tòng Xuân rất linh hoạt, sắc diện tươi tỉnh. [photos by BS Phạm Nguyễn Vinh]

image

Hình 12c: Buổi chiều cùng ngày 04/01/2023, BS Phạm Nguyễn Vinh gửi cho tôi một đoạn video: GS Võ Tòng Xuân đang tập Vật Lý Trị Liệu, Anh Xuân đã có thể tự ngồi, tự đứng dậy với bước đi ngắn, tươi tắn linh hoạt, với ngón tay cái chĩa lên và cả giơ tay vẫy chào mọi người. Một thành tựu của “Bước Thứ Ba Y Khoa – Y Khoa Phục Hồi”.

Bài viết này như Một Thiệp Chúc Xuân 2023 gửi tới Anh Võ Tòng Xuân, cùng bao nhiêu Bạn hữu thương mến Anh Xuân với những lời chúc lành.

NGÔ THẾ VINH

California 05/12/2022 – 05/01/2023

Tham khảo:

1/ GS Võ Tòng Xuân – cha đẻ của nhiều giống lúa – qua cơn nguy kịch sau cơn nhồi máu cơ tim. Tuổi Trẻ Online 08/12/2022 GS Võ Tòng Xuân – ‘cha đẻ’ của nhiều giống lúa – qua cơn nguy kịch sau cơn nhồi máu cơ tim – Tuổi Trẻ Online (tuoitre.vn)

2/ Ngô Thế Vinh. ĐBSCL 2020 Cánh Đồng Chết và 45 Năm Ảo Vọng Trí Thức.

Viet Ecology Press, 2020. https://vietecologypress.blogspot.com/2020/04/bscl-2020-canh-ong-chet-va-45-nam-ao.html

3/ Ngô Thế Vinh. (1) Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng; (2) Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch (in Print and Audiobook), Nxb Văn Nghệ 2000, 2006. Việt Ecology Press

*Luận án TS và các bài báo khoa học của GS Võ Tòng Xuân là do hai chuyên viên thư viện Phạm Lệ Hương (California) và Nguyễn Nga (Arizona) sưu tầm.

Bước qua lời nguyền: tiến hành dự án Đập Stung Treng là huỷ diệt môi sinh (ecocide) – một nhìn lại

Lời giới thiệu: Một trong những vấn đề thời sự quan trọng nhứt, có ảnh hưởng xấu đến sự sống còn của người Việt và cư dân vùng Đông Nam Á là những can thiệp vào sông Mekong. Sự can thiệp đó bao gồm những con đập lớn do Trung Quốc xây dựng ở thượng nguồn và cả những con đập ở hạ nguồn (Thái Lan, Lào, Cam bốt, Việt Nam). Mới đây, nhà cầm quyền Cam bốt cho phục hoạt dự án thuỷ điện Stung Treng, vốn đã là mối quan tâm của các cơ quan quốc tế. Dự án này sẽ làm cho hơn 10,000 người dân mất chỗ ở và ảnh hưởng tiêu cực đến môi sinh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Trớ trêu thay, những ảnh hưởng này có sự góp phần của Việt Nam (ta tự hại mình).

Trong bài viết dưới đây mà tôi hân hạnh giới thiệu, Bác sĩ Ngô Thế Vinh trình bày chi tiết về những tác động đó. Bs Ngô Thế Vinh cảnh báo rằng nước phương Bắc có sẵn trong tay một loại ‘vũ khí nước’ để phát động một cuộc chiến môi sinh mà nếu chúng ta không lên tiếng phản đối thì sẽ chịu những hậu quả nghiêm trọng cho cả vùng ĐBSCL. NVT

****

Bước qua lời nguyền: tiến hành dự án Đập Stung Treng là huỷ diệt môi sinh (ecocide) – một nhìn lại

NGÔ THẾ VINH

Gửi 20 triệu cư dân ĐBSCL

không được quyền có tiếng nói

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

Lời Dẫn Nhập: Năm 2020, đã có một lúc bao nhiêu triệu cư dân vùng hạ lưu sông Mekong thở phào nhẹ nhõm khi nghe tin Bộ Điện Lực Cam Bốt   tuyên bố hoãn mọi dự án thuỷ điện trên sông Mekong trong 10 năm tới [1], như vậy là ít nhất có một thời kỳ dưỡng thương cho dòng sông bị đầy những vết cắt do chuỗi đập thuỷ điện của Trung Quốc và Lào phía thượng nguồn. Nhưng rồi mới đây, chỉ hai năm sau, 2022, là một tin chấn động khác: Phnom Penh tuyên bố cho tái phục hoạt / resurrection dự án thủy điện Stung Treng 1.400 MW trên dòng chính sông Mekong phía đông bắc Cam Bốt sát ranh giới với Lào. Dự án này không chỉ sẽ tàn phá sinh cảnh các khu đất ngập được bảo vệ bởi Công ước Ramsar ký kết từ năm 1971, mà còn gây tác hại vô lường trên hai vùng châu thổ phì nhiêu Tonlé Sap và ĐBSCL. Đây là bài đầu tiên trong loạt 3 bài viết nhìn lại toàn cảnh cuộc hành trình gian truân của một dòng sông – Sông Mekong hơn nửa thế kỷ qua.      

*

MEKONG SẼ KHÔNG XÂY THÊM ĐẬP THUỶ ĐIỆN MỚI

Tổng Giám đốc Điện Lực Cam Bốt, Keo Rattanak đã nói với các phóng viên báo chí tại tòa nhà Hội đồng Bộ trưởng ở Phnom Penh ngày 8/8/2019.

Cam Bốt không có kế hoạch xây các đập thủy điện trên dòng chính Sông Mekong mặc dù vẫn để các nhóm nghiên cứu khảo sát tiềm năng của các dự án. Chúng tôi không bàn cãi về bất cứ đầu tư nào trong lãnh vực này,” Rattanak nói tiếp. “Như vậy, quý vị không phải quan tâm về vấn đề này. Chúng tôi sẽ cố gắng đáp ứng nhu cầu điện theo những phương thức khác.[1]

     Cam Bốt phải đối đầu với tình trạng thiếu điện trầm trọng, với các khu dân cư hàng ngày bị cúp điện cùng với giá điện tăng. Thủ tướng Hun Sen nói sẽ gửi ông Rattanak đi Thổ Nhĩ Kỳ mua một con tàu phát điện (Power ship 200 MW) để bù đắp. Chính phủ cũng cố gắng gia tăng sản xuất điện mặt trời để đáp ứng nhu cầu điện cho cư dân.

     Hem Odom, một chuyên viên tham vấn độc lập về nguồn năng lượng thiên nhiên, đã hoan nghênh phát biểu của ông Rattanak, với cảnh báo về một con đập dòng chính sông Mekong sẽ gây những tổn thất rộng lớn, với xói lở hai bên bờ sông, cạn kiệt nguồn cá cũng là nguồn protein trong bữa ăn hàng ngày của người dân Cam Bốt. Không phải chỉ có Cam Bốt, mà cả Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Thiếu nước từ thượng nguồn sông Mekong và từ Biển Hồ, nước mặn xâm nhập vào ĐBSCL sâu và xa hơn.”  

TIN TỐT ĐẸP CHO SÔNG MEKONG     

World Wildlife Fund (Quỹ Đời Sống Hoang Dã Thế giới)đã vui mừng khi nghe được bình luận mới đây của Ngài Keo Rattanak, Tổng Giám đốc Điện lực Cam Bốt, rằng ông không muốn thấy hai dự án thủy điện dòng chính sông Mekong Sambor và Stung Treng được có trong quy hoạch năng lượng từ nhiều nguồn / mix energy.

      Bình luận trên được phát trong chương trình truyền hình hội thảo “Tầm nhìn Năng lượng” ở Phnom Penh do Phòng Thương mại Hoa Kỳ tổ chức và được vui mừng đón nhận do giá trị vô hạn của một dòng chảy tự do trên sông Mekong đối với hàng triệu cư dân Cam Bốt đang sống phụ thuộc vào con sông, với lượng cá bắt được là nguồn protein chính của họ. 

      Sông Mekong là định hình địa lý của đất nước Cam Bốt. Chảy xuống từ biên giới Nam Lào, và cuối cùng thì đổ vào ĐBSCL của Việt Nam qua hai nhánh: sông Tiền, và sông Bassac – có tên là sông Hậu khi vào Việt Nam. Sông Mekong cũng là nguồn cá nước ngọt lớn nhất thế giới.  Vùng đất ngập Ramsar thuộc tỉnh Stung Treng cũng là nơi cư trú của các chủng loại cá vô cùng hiếm quý như Irrawaddy Dolphin và Pla Beuk chỉ có trên sông Mekong và đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. 

      Cho tới hiện nay, khúc sông Mekong hạ lưu phía Nam Lào còn chảy tự do. Nếu Cam Bốt xây đập lớn ngăn chặn bất cứ ở khúc đoạn nào cũng sẽ gây những rối loạn về thủy học và hủy hoại của cả một hệ sinh thái không thể đảo nghịch, và cũng là thiết yếu cho sự sống còn của Biển Hồ với con sông Tonlé Sap chảy hai chiều theo mùa mỗi năm.

       Những dòng sông thoáng chảy đem tới những lợi ích quan trọng từ hệ sinh thái. Dòng sông bảo dưỡng nguồn cá nước ngọt bảo đảm an toàn lương thực cho hàng triệu cư dân, đem phù sa màu mỡ cho canh nông và cả ngăn ngừa tổn thất các cơ sở hạ tầng và đất đai do sạt lở. 

      Thay vì xây những con đập khổng lồ như Stung Treng và Sambor, Cam Bốt nên chú tâm tới nguồn năng lượng tái tạo bền vững như năng lượng mặt trời và điện gió. Những trại điện mặt trời có thể được xây dựng nhanh chóng, với giá thành rẻ hơn và tác động môi sinh rất ít. Trong khi những con đập thủy điện khổng lồ thì cực đắt và tốn kém, mà còn đưa tới hậu quả hủy hoại nguồn cá, sự đa dạng sinh học và đời sống cộng đồng. 

      Một dòng sông thoáng chảy sẽ giúp cho hàng triệu cư dân vốn sống phụ thuộc vào con sông ấy tiếp tục duy trì cuộc sống ổn định, với sự đa dạng sinh học của dòng sông, để phát triển lợi ích cho những thế hệ tương lai… Teak Seng, WWF Cambodia director

https://www.phnompenhpost.com/opinion/good-news-mekong

MỚI HAI NĂM MÀ ĐÃ BƯỚC QUA LỜI NGUYỀN

Dự án Đập Stung Treng 1.400 MW trên dòng chính sông Mekong đang  ngủ yên bấy lâu, thì nay 2022 lại được phục sinh (resurrection), khiến các cộng đồng cư dân trong lưu vực hết sức lo ngại, và cả giới bảo vệ môi sinh  vô cùng ngỡ ngàng.

Chỉ ba ngày trước khi bước sang năm 2022 (29/12/2021), Nhóm Hoàng Gia / Royal Group thuộc Tập đoàn (Conglomerate) tài phiệt lớn và thanh thế nhất của Cam Bốt đã viết thư cho chính phủ Phnom Penh xin phép cho họ được  nghiên cứu trong vòng 6 tháng tính khả thi (feasibility) của con đập thủy điện Stung Treng. Yêu cầu trên đã được Bộ trưởng Năng lượng và Hầm mỏ Cam Bốt chấp thuận, và tỉnh trưởng Stung Treng Svay Sam Eang cũng đã ra lệnh cho các giới lãnh đạo quận hạt hợp tác với Nhóm Nghiên cứu và Phát triển SBK được Nhóm Hoàng gia thuê mướn. [1]

Vị trí nghiên cứu để xây con đập thủy điện lớn nhất xứ Chùa Tháp nằm trên các vùng đất ngập (wetlands) tỉnh Stung Treng phía đông bắc Cam Bốt được bảo vệ bởi Công ước Ramsar 1971 – một Công ước mà chính Cam Bốt cũng đã đặt bút ký cam kết tuân thủ từ 1999.

Dự án thủy điện Stung Treng đã có từ năm 2007 nhưng đã phải khựng lại do bị các tổ chức bảo vệ môi sinh chỉ trích mạnh mẽ vì những tác động hủy hoại rộng lớn trên môi trường và cả sinh kế của người dân Cam Bốt.

Đến nay 2022, dự án ấy lại được Nhóm Hoàng Gia Cam Bốt phục hoạt – mà ai cũng biết Royal Group là một nhóm tài phiệt của chính quyền Phnom Penh, đã từng đứng sau dự án thủy điện Hạ Sesan-2 (Lower Sesan-2) trên một phụ lưu lớn nhất của sông Mekong đã từng gây tai tiếng trong các cộng đồng cư dân trong lưu vực.

Khu đất ngập Ramsar tỉnh Stung Treng chiếm một diện tích 14.600 hectares, trải dài 40 km lên tới phía bắc nơi con sông phụ lưu Sekong đổ  vào sông Mekong, ngay sát với biên giới Cam Bốt và Nam Lào. Đây cũng là sinh cảnh (habitats) cuối cùng còn sống được cho các loài cá hiếm quý và rất nhiều loài chim nước đang có nguy cơ tuyệt chủng.

VÙNG XÂY CON ĐẬP STUNG TRENG:

Năm 2007 nhóm Bureyagesstroy thuộc tập đoàn Thủy điện nhà nước Nga (RusHydro) tham gia cuộc nghiên cứu xây đập Stung Treng, nhưng chỉ hai năm sau, công ty Nga này bỏ cuộc. Và rồi Công ty quốc doanh Sông Đà của Việt Nam nhảy vào thay thế. Kết quả của các cuộc nghiên cứu ấy đã gây ra rất nhiều chỉ trích gay gắt nên dự án Stung Treng phải gác lại. [1]

Tới năm 2012, cuộc khảo sát của Viện Nghiên cứu và Phát triển Ngư nghiệp Nội đảo (Inland Fisheries Research and Development Institute)

thuộc Bộ Ngư nghiệp Cam Bốt nhận thấy con đập Stung Treng sẽ làm giảm lượng thủy  sản xuống tới 24% vào năm 2030. Và các nhà nghiên cứu đã cảnh báo con đập Stung Treng có thể gây tình trạng suy dinh dưỡng và ảnh hưởng tới sức khỏe của các cộng đồng cư dân nghèo.

Hình 1: trái, sơ đồ khu đất ngập trong tỉnh Stung Treng, nơi Nhóm Hoàng Gia dự trù sẽ xây con đập thủy điện 1.400 MW; phải: cảnh quan của vùng đất ngập Stung Treng. [nguồn: Gerald Flynn / Mongabay][1]

Tháng 10/2017 Thủ Tướng Hun Sen đã đến Stung Treng chủ trì lễ khánh thành đập thủy điện Hạ Sesan-2 công suất 400 MW với diện tích hồ chứa 340 km2 gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singaporedo Công ty HydroLancang của Trung Quốc nắm 51% cổ phần, Nhóm Hoàng gia Cam Bốt 39% và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) 10%.

Con đập Hạ Sesan-2 được xem là tệ hại nhất: nó đe dọa sự sinh tồn của hơn 50 chủng loại cá và cũng làm giảm 9,3 % tổng sản lượng cá trong lưu vực [khoảng 200.000 tấn cá/ năm]. Ảnh hưởng tác hại môi sinh đó không chỉ trên lãnh thổ Cam Bốt mà lên xa tới Lào, Thái Lan và xuống tới ĐBSCL, được coi như vựa lúa của Việt Nam.

Năm 2021, Tổ chức Theo Dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) đã ấn hành một hồ sơ dày 137 trang gọi “Hạ Sesan-2 một thảm họa — Lower Sesan-2 a disaster” [1], lên án các nhà xây đập đã vi phạm nhân quyền, chà đạp các cộng đồng cư dân bản địa (indigenous peoples) và con đập đã hủy hoại nguồn cá trên sông Sesan một cách nghiêm trọng, cùng lúc là sự thất bại cả về mục tiêu của sản xuất điện. Chỉ có chính người dân Cam Bốt là phải trả một cái giá quá đắt!

Hình 2: Tưởng cần nói thêm là EVN / Electricity of Vietnam, Công Ty Điện Quốc Doanh Việt Nam cũng đã nhúng tay rất sâu vào dự án Hạ Sesan-2 này ngay từ những bước đầu.

Với những hậu quả tiêu cực đó khiến công ty xây đập Trung Quốc HydroLancang và Nhóm Hoàng Gia thân chính phủ Hun Sen và đã cố gắng tô vẽ sao cho tạo ra được một hình ảnh tích cực về con đập Hạ Sesan-2. Nhưng vẫn có một cơn bão chỉ trích từ các tổ chức NGOs bảo vệ môi sinh đồng loạt lên án dự án đập Hạ Sesan-2 do những than vãn của bao nhiêu chục ngàn cư dân đã phải di dời (resettlements), do hồ chứa đã làm ngập 30,000 mẫu đất vốn là những khu sinh sống trù phú yên ổn và hạnh phúc bấy lâu của bao nhiêu ngàn gia đình qua rất nhiều thế hệ.

Đã từng qua những trải nghiệm đắng cay từ con đập Hạ Sesan-2, nay cư dân sinh sống trong tỉnh Stung Treng đang vô cùng lo ngại khi thấy Nhóm Hoàng Gia trở lại và vẫn với toán Nghiên cứu và Phát triển SBK khảo sát địa chất (geological studies) cho con đập lớn 1.400 MW – thay vì hoãn lại cho tới năm 2030.

Mao Sareth, trưởng khu ngư nghiệp Koh Khan Din, là một nội đảo vùng phía nam khu đất ngập Ramsar, tỉnh Stung Treng đã phát biểu:

“Chúng tôi đã từng phản đối con đập Don Sahong của Lào vì biết rõ nó sẽ tác hại trực tiếp trên cuộc sống của chúng tôi. Nhưng rồi, những phản đối ấy cũng vô ích và chẳng thay đổi được gì. Con đập Don Sahong vẫn cứ hoàn tất. Rồi chúng tôi phản đối con đập Hạ Sesan-2 ngay trong lãnh thổ đất nước chúng tôi và rồi cũng vô ích thôi, con đập ấy vẫn hoàn tất, chỉ có chúng tôi là mất tất cả: mùa màng, thủy sản và sinh kế cuộc sống.”[1] 

Ian Baird, gốc Canada là một  tên tuổi rất quen thuộc, nhà hoạt động môi sinh, từng sống nhiều năm trên đất Lào, Cam Bốt và là chuyên gia bảo vệ nguồn cá sông Mekong, khi nghe nói về kế hoạch phục hoạt đập thuỷ điện Stung Treng 1.400 MW,  Ian Baird nhận định rằng con đập ấy sẽ là một đe dọa nghiêm trọng trên lưu vực sông Mekong.

“Công ước Ramsar quả thật là rất yếu, chính quyền vẫn có thể làm điều mà họ muốn, nhưng nếu so với Việt Nam và Lào, thìCam Bốt vẫn có quan tâm nhiều hơn tới phản ứng của cộng đồng quốc tế và với Công ước Ramsar. Đó là lý do mà năm 2020, Cam Bốt đã tuyên bố hoãn mọi kế hoạch thủy điện trong 10 năm 2020-2030.  Điều mà các quốc gia Mekong khác trong lưu vực không hề làm.

Hình 3: TS Ian Baird, Đại học Wisconsin, nhà hoạt động môi sinh, từng sống nhiều năm trên đất Lào, Cam Bốt và là chuyên gia bảo vệ nguồn cá sông Mekong. [Nguồn: Tom Fawthrop]

“Có rất nhiều lý do để phải quan tâm ở đây, nếu con đập Stung Treng vẫn cứ tiến hành. Con sông Mekong đang chết bởi hàng ngàn vết cắt / death by a thousand cuts. Tôi đã quan sát trong nhiều năm, và thật là buồn, nhưng nhưng liệu chúng ta sẽ làm được gì?”[1]

VẪN CÓ MỘT LỰA CHỌN TỐT HƠN

Trước một thực tế: Cam Bốt đang thiếu điện, mà giá điện thì rất cao, và thủy điện cũng không hề rẻ. Không những thế, 2 dự án đập dòng chính Stung Treng và Sambor sẽ có tác động hủy hoại môi sinh rất nghiêm trọng trên nguồn nước và nguồn cá trong lưu vực.

Câu hỏi đặt ra là liệu có một lựa chọn nào tốt hơn thủy điện cho đất nước Cam Bốt? Câu trả lời là có, KS Phạm Phan Long đã viết trên tạp chí chuyên ngành PV Magazine (03/12/2019) về tiềm năng điện mặt trời nổi (FSS / floating solar system) của Biển Hồ có thể lên tới 28 GW (tức là 28.000 MW), tức là gấp 20 lần công suất con đập Stung Treng (1.400 MW), với giá thành cho kwh rẻ hơn, không kể cái giá môi sinh phải trả với thủy điện.Dự án FSS này có thể được thực hiện qua nhiều giai đoạn trên một phần mặt Biển Hồ với một mạng lưới tải điện thông minh (smart grid)  sẽ có khả năng giải quyết nhu cầu năng lượng điện sạch, là một ưu điểm với “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” – một ưu đãi thiên nhiên mà đất nước Cam Bốt có được. [3]

Sáng kiến dự án mặt trời nổi khác trên hồ chứa đập thủy điện phụ lưu Nam Ngum, KS Phạm Phan Long đề xuất công bố trên PV Magazine 01/11/2019 nay đang trở thành một hiện thực qua bản tin của Laotian Times ngày 20/02/2020: “chính phủ Lào đã ký kết với công ty Trung Quốc Hangzhou Safefound Technology để xây dựng giàn điện mặt trời nổi 1.200 MW trên mặt hồ đập Nam Ngum-1 khi hoàn thành có thể coi như lớn nhất thế giới.”

Nếu Phnom Penh cũng như Lào –  quyết tâm thực hiện dự án mặt trời trên Biển Hồ, thì 2 con đập Stung Treng và Sambor sẽ vĩnh viễn không cần thiết, mà FSS còn bảo đảm sinh kế cho hơn 30 triệu cư dân sống trong hai vùng châu thổ Tonlé Sap và ĐBSCL Việt Nam. Nhưng đến bao giờ?

KHỞI ĐẦU CHO MỘT KẾT THÚC: MỘT NHÌN LẠI

Sự kiện Phnom Penh bước qua lời nguyền, cho phục sinh dự án đập Stung Treng 1.400 MW, sẽ  là con đập dòng chính đầu tiên và lớn nhất trên sông Tonle Thom (tên Khmer của con sông Mekong) trong lãnh thổ Cam Bốt, như một hồi chuông báo động cho giới bảo vệ môi sinh, họ coinhư đây là bước “khởi đầu cho một kết thúc” đối với hệ sinh thái trong Lưu Vực Dưới sông Mekong (Lower Mekong Basin).  

Đây cũng chính là lúc để chúng ta ÔN CỐ TRI TÂN,  nhìn lại cuộc hành trình gian truân hơn nửa thế kỷ của một dòng sông, là mạch sống (lifeline) của hơn 70 triệu cư dân sống ven sông trong lưu vực.

NHỮNG CON ĐẬP LANCANG-MEKONG

Vậy mà đã 65 năm từ khi Liên Hiệp Quốc khai sinh Ủy Ban Sông Mekong 1957 (Mekong River Committee) cùng với các dự án đập thủy điện trên sông Mekong đã có rất sớm, nhưng rồi các dự án ấy bị gác lại do cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài và lan ra cả 3 nước Đông Dương, sau chiến tranh thì là mối e ngại về tác hại  rộng rãi của các con đập ấy trên môi sinh.

Có thể nói, trước thập niên 1970, Mekong vẫn còn là một con sông hùng vĩ và hoang dã, lớn thứ ba Châu Á, chảy qua 7 quốc gia kể cả quốc gia Tây Tạng* (Tây Tạng về phương diện địa dư chính trị, bấy lâu người viết vẫn ghi nhận như một quốc gia cho dù đang bị Trung Quốc xâm chiếm), với nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú, chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon Nam Mỹ.

Với chiều dài 4.800 km, Mekong là con sông lớn thứ 11 của thế giới,  
với tiềm năng thủy điện khoảng 60.000 MW, chia ra như sau:

_ 28.930 MW cho Lưu Vực Trên sông Mekong (Upper Mekong Basin) hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Trung Quốc;

_ 30.000 MW cho Lưu Vực Dưới (Lower Mekong Basin) nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc, chảy qua 5 quốc gia Myanmar, Lào, Thái Lan, Cambodia  và Việt Nam.

Nhưng cho tới nay, do nhu cầu năng lượng điện ngày càng gia tăng cho phát triển, con sông Mekong ấy đã và  đang bị hàng ngàn “vết cắt” do vô số những con đập thủy điện trên dòng chính và khắp các phụ lưu, từ bắc xuống nam với một chuỗi những hậu quả tiêu cực như sau:

1/ _ Các Hồ Chứa Thủy Điện Giữ Lại Hơn 75 tỉ m3 Nước:

Kỹ sư Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation – người đã theo dõi và lên tiếng bảo vệ sông Mekong rất sớm từ thập niên 1990, đã làm một kết toán về dung tích tổng cộng (total storage) chuỗi hồ chứa đập thủy điện hiện nay – kể cả các hồ chứa đập phụ lưu (tributary dam reservoir) trong lưu vực sông Mekong với kết quả là: tổng số dung tích lên tới 75 tỉ mét khối (m3),chiếm 16% lưu lượng trung bình hàng năm của sông Mekong,[2] lượng nước lưu trữ và tỉ lệ so với từng nước góp vào sông Mekong như sau:

_ Trung Quốc chiếm phần lớn nhất 43 tỉ mét khối (56%),

_ Lào 25 tỉ mét khối (15%),

_ Thái Lan 5 tỉ mét khối (6%)

_ Cam Bốt 1.8 tỉ mét khối (2%)

_ Việt Nam chỉ có 1 tỉ mét khối (1.5%).

Hình 4a (trái), những đập thủy điện dòng chính Sông Mekong: 11 con đập trên sông Lancang-Mekong Vân Nam, TQ đã lưu trữ 43 tỉ m3 nước, sản xuất 21.300 MW điện; riêng Lào đang hiện thực giấc mơ trở thành “Bình điện Á Châu / Asia’s Battery”, với 9 đập thủy điện dòng chính và vô số đập phụ lưu. Lào cũng lưu trữ 25 tỉ m3 nước. Riêng con đập Luang Prabang 1.410 MW do công ty quốc doanh PetroVietnam là chủ đầu tư.  [nguồn: Michael Buckley, Ngô Thế Vinh cập nhật và ghi chú].
Hình 4b (phải), vùng xám là Lưu Vực Lớn Sông Mekong [GMS / Greater Mekong Subregion] diện tích: 795.000 km2, chiều dài chính: 4.400 km, dòng chảy trung bình: 15.000 m3 /giây. [nguồn: MRC Secretariat 2000].

Không phải chỉ có lượng nước, còn thêm các yếu tố quan trọng hơn nữa là phương thức vận hành (operation) và điều tiết (regulation) của các con đập ấy. Do lấy nước vào các hồ chứa trong mùa mưa nên đã làm suy yếu dòng chảy của con sông Mekong, triệt tiêu sức mạnh của nhịp lũ (flood pulse), để tạo được dòng chảy ngược (reverse flow) trên con sông Tonlé Sap đưa nước vào Biển Hồ, vốn là  một hồ chứa nước ngọt thiên nhiên lớn nhất thế giới – như một trái tim điều hòa và tiếp máu cho hai vùng châu thổ Tonlé Sap của Cambodia và ĐBSCL Việt Nam. [2]

Với hậu quả nhãn tiền là: thời điểm con sông Tonlé Sap chảy ngược vào Biển Hồ không những đến trễ hơn 3 tháng (2019) và cũng chấm dứt sớm hơn, chỉ còn có 3 tháng thay vì 5 tháng như trước đây. Rừng lũ / floodforest thiếu lũ và cá không đủ thời gian để vào đẻ trứng và tăng trưởng… Cho nên các mùa thu hoạch cá chưa bao giờ thấp đến như vậy.

Hình 5: (1) Thời kỳ trước đập (Pre-Dam Period): Diện tích Biển Hồ co giãn theo hai mùa Mưa Nắng: Mùa Khô (trái) là hồ cạn chỉ với diện tích 2.500 km2; Mùa Mưa (phải), từ tháng 5 đến tháng 9, do nước sông Mekong dũng mãnh đổ về, con sông Tonlé Sap đổi chiều, chảy ngược vào Biển Hồ làm nước hồ dâng cao hơn từ 8 tới 10 mét và tràn bờ và làm ngập các khu Rừng Lũ / flooded forest, diện tích Biển Hồ tăng gấp 5 lần hơn, khoảng 12.000 km2. (2) Thời kỳ sau đập (Post-Dam Period): do các hồ chứa thượng nguồn lấy nước vào mùa mưa, lưu lượng dưới nguồn bị giảm mạnh, sông Mekong mất nhịp lũ / flood  pulse, khiến cho con sông Tonlé Sap không còn duy trì được dòng chảy ngược, Biển Hồ thiếu nước, thiếu phù sa, thiếu cá – được ví như một trái tim thiếu máu… ảnh hưởng tới hàng triệu cư dân sống trên hai vùng châu thổ Tonlé Sap và ĐBSCL. [nguồn: bản đồ Tom Fawthrop; ghi chú Ngô Thế Vinh].

Từ 15 năm qua diện tích Biển Hồ ngày càng bị thu hẹp; ước tính lượng nước từ sông Mekong thượng (upper Mekong) đổ vào Biển Hồ đã giảm mất 30 tỉ m3/ năm – ảnh hưởng trầm trọng tới nguồn nước, nguồn cá  và cả thiếu phù sa là nguồn phân bón thiên nhiên thiết yếu cho đất đai  nông nghiệp.

Ngày Hội Nước Sẽ Trở Thành Quá Khứ: Không biết từ bao lâu rồi, Lễ Hội Nước Bon Om Tuk có lẽ có từ thời vua Jayavarman VII thế kỷ thứ XII, người có công xây dựng khu đền đài Angkor như một kỳ quan của thế giới, và từ đó cứ hàng năm, khi vừa hết Mùa Mưa, mực nước sông Mekong bắt đầu ổn định và con sông Tonlé Sap lại chảy xuôi dòng đem theo vô số tôm cá từ Biển Hồ đổ vào các nhánh sông Mekong, xuống xa tới ĐBSCL. Đây cũng là thời điểm của Ngày Hội Nước được tính theo tuần trăng vào khoảng tháng 11 diễn ra trước Hoàng Cung, nơi bốn nhánh sông Mekong hội tụ, khu mà người Pháp gọi là Quatre Bras*. Trong dịp lễ hội này, vua và hoàng hậu tới đây chung vui với thần dân, và “Khai Mùa” cho ngư dân đánh cá, cho nông dân bắt đầu mùa gieo trồng.

[*Quatre Bras, tiếng Pháp là bốn cánh tay, tên Khmer là Chatomuk, là nơi hội tụ của 4 nhánh sông: nhánh thứ nhất từ thượng nguồn là sông Mekong Thượng (1), tới Phnom Penh chia làm hai nhánh: Mekong Hạ (2) và sông Bassac (3) là cánh tay thứ hai và thứ ba, cũng là sông Tiền và sông Hậu khi chảy vào Việt Nam, còn cánh tay thứ tư là con sông nước ngọt Tonlé Sap (4) bắt nguồn từ Biển Hồ. Đây cũng là nơi diễn ra Ngày Hội Nước Bon Om Tuk vào khoảng tháng 11 hàng năm trước Hoàng Cung.]

Nhưng rồi những năm gần đây, theo tin báo Phnom Penh Post [31/10/2015] TT Hun Sen một lần nữa đã phải ký sắc lệnh huỷ bỏ ngày Lễ Hội Nước dự trù tổ chức vào ngày 24 tới 26 tháng 11 “do mực nước sông quá thấp và tình trạng hạn hán mà Vương quốc Cam Bốt đang phải đối đầu.” Đây là lần thứ tư trong vòng 5 năm chính phủ Hun Sen đã phải hủy bỏ Lễ Hội Nước truyền thống hàng năm, thường tụ hội hàng mấy trăm ngàn người đổ về thủ đô Nam Vang để tham dự lễ hội đua thuyền trên sông Tonlé Sap.  

Như một nhịp điệu có từ ngàn năm, với con Sông Tonlé Sap chảy hai chiều một hiện tượng thiên nhiên được coi như kỳ quan của thế giới, rồi ra sẽ không còn nữa và trở thành truyện cổ tích cho các thế hệ mai sau của đất nước Khmer.   

2/ _ Các Hồ Chứa Cắt Giảm Hơn 65% Lượng Phù Sa:

Trước năm 1992 khi chưa có nhiều thủy điện, trung bình hàng năm qua hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, sông Mekong  đổ ra Biển Đông 166.7 Mt/ năm phù sa  ((Mt/ Megatone: triệu tấn)), từ năm 1993 do các hồ chứa trên thượng nguồn đã chắn giữ lại một số lượng lớn phù sa, tới thời điểm 2020, lượng phù sa ấy đã giảm xuống chỉ còn 57.6 Mt/ năm, giảm 65%và tới năm 2040 có lẽ sẽ không còn lượng phù sa đáng kể nào từ con sông Mekong đổ ra biển.[4]

Tình trạng ngăn chặn phù sa trong các hồ chứa không chỉ  làm mất nguồn dinh dưỡng cho đất; dòng chảy “đói phù sa” (hungry water) còn gây ra  “một tiến trình đảo ngược”, thay vì vùng châu thổ ĐBSCL được bồi đắp thêm đất thì nay dòng chảy lại nạo vét sỏi cát phù sa dưới lòng sông (riverbed incision), gây xói mòn sạt lở suốt dọc hai bên bờ sông và cả các vùng đất duyên hải. Hậu quả là một ĐBSCL đang mất đất, và mũi Cà Mau thì đang bị cắt lẹm mỗi năm. Theo ước tính của TS Lê Anh Tuấn, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Biến Đổi Khí Hậu Đại học Cần Thơ thì mỗi năm ĐBSCL đã mất đi hơn 600 hectares đất do sạt lở. Và do không có dòng chảy mạnh với phù sa để chắn sóng, khiến nước biển ngày càng lấn sâu và xa thêm vào trong đất liền.   

3/ _ Lượng Nước Quan Trọng Từ Các Phụ Lưu Sông Mekong

Nước sông Mekong không chỉ từ nguồn tuyết tan trên Cao nguyên Tây Tạng, mà phần nước từ các phụ lưu đổ vào cũng rất quan trọng. Theo tường trình từ Ủy Hội Sông Mekong (MRC) thì tỉ lệ trung bình hàng năm phần góp nước từ các phụ lưu theo mỗi quốc gia như sau:

Trung Quốc 16%, Lào là lớn nhất 35%, rồi tới Thái Lan 18%, Cambodia 18%, Việt Nam 11%, Myanmar là ít nhất 2%.

Mối Hiểm Nguy Mạng Lưới Đập Phụ Lưu: Nam Ngum 150 MW có thể được xem là con đập thủy điện phụ lưu đầu tiên của Lào và được hoàn tất rất sớm 1971 giữa giông bão của cuộc chiến tranh Việt Nam.

Trước khi Lào và Cambodia có kế hoạch thực hiện dự án 12 con đập dòng chính hạ lưu, thì Lào, Cambodia, Việt Nam, Thái Lan đã và đang liên tục xây những đập phụ lưu. Thái Lan với đập Pak Mun 136 MW (1994) trên sông Mun, Việt Nam với con đập Yali Falls 720 MW (1996) cùng với các con đập phụ lưu khác trên sông Sesan và Seprok trên Cao nguyên Trung phần, Lào thì từ sau con đập Nam Ngum (1971), đã xây thêm nhiều con đập phụ lưu khác như: Nam Theun-Hinboun 210 MW trung Lào, Nam Leuk 60 MW trong vùng Bảo tồn Sinh thái tỉnh Vạn Tượng, Nam Theun 2 lớn nhất 900 MW trung Lào, Houay Ho 150 MW giữa hai tỉnh Champassak và Attapeu nam Lào, Xe Pian-Xe Namnoy 438 MW trên cao nguyên Bolovens đông nam Lào, Xe Kaman 1.468 MW tỉnh Attapeu cực đông nam.

Việt Nam tuy đứng hàng thứ 5 trong 6 nước, nhưng cũng đã xây những  đập thủy điện trên khắp các phụ lưu sông Mekong trên Cao nguyên Trung phần; Việt Nam còn là một thành viên đầu tư vào dự án Mekong của Lào và Cam Bốt như vậy, Việt Nam không phải là hoàn toàn vô can, “bàn tay cũng đã tự nguyện nhúng chàm” góp phần trực tiếp gây biến đổi lưu lượng và cả sút giảm phù sa trên dòng chính con sông Mekong. Cùng với các con đập dòng chính Mekong, mạng lưới những con đập phụ lưu cũng có ảnh hưởng tích lũy đáng kể đối với tình trạng dòng chảy, lượng phù sa và nguồn cá lưu vực sông Mekong.

Hình 6: Nam Ngum, con đập phụ lưu đầu tiên của Lào, biểu ngữ giăng ngang con đập đánh dấu 25 năm thống nhất nước Lào. Hiện đang có một dự án độ phá trên mặt hồ đập Nam Ngum-1, xây dựng giàn điện mặt trời nổi 1.200 MW nếu hoàn thành sớm có thể coi như lớn nhất thế giới.”  [nguồn: photo by Ngô Thế Vinh 2000] 

Đập Phụ Lưu Hạ Sesan-2: Cùng với các con đập dòng chính Mekong, mạng lưới những con đập phụ lưu – điển hình là con đập phụ lưu Hạ Sesan 2 (Lower Sesan 2) đã có ảnh hưởng tích lũy đáng kể đối với tình trạng dòng chảy, lượng phù sa và nguồn cá lưu vực sông Mekong.

Con đập phụ lưu Hạ Sesan 2 gây ảnh hưởng nghiêm trọng hơn cả do nằm dưới điểm hợp lưu của hai con sông Sesan và Srepok. 3S là tên hệ thống 3 con sông phụ lưu lớn sông Mekong: Sekong, Sesan, Srepok cùng đổ vào dòng chính sông Mekong nơi tỉnh Stung Treng, đông bắc Cam Bốt. Đập Hạ Sesan 2 với chiều cao 75 m, diện tích hồ chứa 340 km2 (gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singapore), công suất 400 MW. Điện Lực Việt Nam (EVN/ Electricity of Vietnam) đã góp 10% cổ phần trong số 816 triệu MK, phần còn lại là của Nhóm Hoàng Gia Cam Bốt (Cambodia’s Royal Group) và Công ty Năng lượng Lan Thương Trung Quốc (HydroLangcang International Energy Co., Ltd). Lại vẫn Trung Quốc, ngoài chuỗi đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam, nay cánh tay TQ nối dài xuống xa tới cả những con đập phụ lưu hạ nguồn. 

Hình 7: Mạng Lưới 3S, ba sông phụ lưu: Sekong, Sesan, Srepok
cùng hội tụ đổ vào dòng chính sông Mekong [nguồn: Decarboni] 
Hình 8: Công ty quốc doanh Điện Lực Việt Nam (EVN / Electricity of Vietnam) cũng chung sức xây đập thuỷ điện Hạ Sesan 2 như hành động cầm súng bắn vào chân mình [nguồn: Decarboni]

Cư dân Cam Bốt sống trong vùng xây đập Hạ Sesan 2 đã cùng với Nhóm Bảo vệ 3 Dòng Sông (3S Rivers Protection Network), đã viết thư lên Quốc Hội Cam Bốt phản đối con đập, và họ cũng kéo nhau lên tới thủ đô Phnom Penh biểu tình tạo áp lực nhưng đã không đưa tới một kết quả nào.

Trước những tác hại hiển nhiên của con đập Hạ Sesan 2 trên ĐBSCL: biến đổi dòng chảy, mất nguồn nước, mất nguồn phù sa và cá… Việt Nam không những đã không có tiếng nói ngăn chặn phản đối mà còn góp vốn cho Cam Bốt thực hiện dự án tai hại ấy, có thể ví như một hành động cầm súng tự bắn vào chân mình / shoot oneself in the foot.

Nguồn Nước Sông Mekong Theo Mùa: nếu tính theo mùa, thì vào mùa khô do tuyết tan nhiều hơn trên Cao nguyên Tây Tạng, lượng nước từ khúc sông Lancang-Mekong Vân Nam đổ qua Lào xuống tới Vạn Tượng chiếm tới 80%, và xuống tới tỉnh Kratié đông bắc Cambodia là tới 40%. [2]

Khi Trung Quốc hoàn tất 11 con đập dòng chính trên khúc sông Lancang-Mekong, và chỉ riêng với hai con đập lớn nhất như hai con khủng long Nọa Trác Độ (Nuozhadu, 2014) 5.850 MW với hồ chứa lớn nhất và Tiểu Loan (Xiaowan, 2010) 4.200 MW là con đập cao nhất – theo Fred Pearce, Đại học Yale, thì “sông Mekong đã trở thành “tháp nước và nhà máy phát điện của Trung Quốc”. Philip Hirsch, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu sông Mekong Đại học Sydney đưa ra nhận định “Hai con đập Nọa Trác Độ và Tiểu Loan sẽ ảnh hưởng trên suốt dòng chảy của con sông Mekong xuống tới tận ĐBSCL của Việt Nam.”

Không thể không kể tới những yếu tố hủy hoại khác từ Trung Quốc: phá những khu rừng nguyên sinh (deforestation); dùng chất nổ dynamite khai thông các khúc sông ghềnh thác, vốn là sinh cảnh (habitats) thiết yếu của các loài cá, ảnh hưởng nghiêm trọng trên sự cân bằng thủy học, gây sụp lở bờ sông cùng phá hủy các loại hoa màu trồng ven sông, với mục đích chỉ để mở rộng lòng sông cho các con tàu lớn Trung Quốc dễ dàng đi xuống phương nam.

Với hơn 40 tỉ mét khối nước dự trữ trong các hồ chứa khổng lồ Vân Nam, Trung Quốc có trong tay thứ “vũ khí nước” đầy quyền lực để giáng cho các nước nhỏ Mekong “những bài học”. Và trong thầm lặng, Trung Quốc đã phát động một “cuộc chiến môi sinh” mà không cần tuyên chiến.

VẪN MỘT ĐIỆP KHÚC NGỤY BIỆN CỦA TRUNG QUỐC

Ngay từ thập niên 1990, khi chỉ mới có con đập dòng chính đầu tiên Mạn Loan (Manwan) 1.500 MW (1993), trong suốt bao nhiêu năm sau đó, như một điệp khúc, các học giả Trung Quốc luôn luôn ngụy biện cho rằng: “Các con đập thủy điện Vân Nam đã giúp tăng dòng chảy trong mùa khô làm giảm hạn nơi các quốc gia hạ nguồn, như vậy các con đập Trung Quốc chỉ có lợi !” [sic]

Đã thế, mà vẫn có những vị khoa bảng người Việt, cũng chỉ dựa trên lý luận thô thiển ấy với con số 16% lưu lượng trung bình/ năm từ khúc sông Lancang-Mekong Vân Nam để bảo rằng tác hại của chuỗi đập thuỷ điện bậc thềm Vân Nam / Mekong Cascades là không đang kể và đừng có đổ lỗi cho Trung Quốc!  [sic] KS Phạm Phan Long, trong một bài viết trên VOA, đã nhận định: “Do Biến đổi Khí Hậu, mưa ít dần nơi lưu vực trên là có thật, nhưng hạn hán tới sớm hơn và khắc nghiệt hơn khi thiếu mưa là do trữ nước vào các hồ chứa thủy điện, chính chúng có khả năng gây ra hạn hán cả khi có mưa, chưa kể vào những năm ít mưa, lại vẫn tích trữ nước gây hạn hán càng thêm kinh khủng.

Hình 9a: Mạn Loan (Manwan) 1.500 MW, là con đập lịch sử, con đập thủy điện dòng chính đầu tiên (1993) trên sông Lancang-Mekong, Vân Nam. Ngô Thế Vinh 09/2002 đứng bên chân con đập Manwan. Hàng chữ Hán phía trên đập: Mạn Loan Điện Xưởng 漫湾电厂 . [tư liệu Ngô Thế Vinh, Việt Ecology Foundation]
Hình 9b: Nọa Trác Độ (Nuozhadu) 5.850 MW, con đập dòng chính lớn nhất (2014) trên sông Lancang-Mekong, Vân Nam. Hàng chữ đỏ bên trái: “Hoa Năng Nọa Trát Độ thủy điện trạm” [Trạm thủy điện Nọa Trát Độ của công ty Hoa Năng / Huaneng Power International, Ltd.”]; Hàng chữ trắng bên phải tấm hình: “Năng nguyên vu thủy — Hữu dung nãi đại” (Khả năng bắt nguồn từ nước — Có sức chứa sẽ thành lớn). [photo by Ying Qiu, International River]

Và như đã phân tích, chuỗi tác hại không đơn giản chỉ có yếu tố nước, [mà nguồn nước ấy cũng rất “bất trắc” do Trung Quốc “tùy tiện” xả ra trong mùa khô từ các con đập thượng nguồn], mà còn phải kể tới những yếu tố “sinh tử” khác như: (1) phá vỡ chu kỳ dòng chảy thiên nhiên của con sông Mekong, (2) triệt tiêu nhịp lũ – flood pulse trong mùa mưa khiến không còn dòng chảy ngược trên con sông Tonlé Sap tiếp nước cho Biển Hồ — cũng là trái tim tiếp máu cho hai vùng châu thổ Tonlé Sap và ĐBSCL, (3) làm mất nguồn phù sa, mất nguồn dinh dưỡng cho đất canh tác, gây sạt lở hai bên bờ sông và cả vùng duyên hải khiến mất đất và diện tích  vùng châu thổ ĐBSCL ngày một teo quắt lại, (4) lưu lượng hàng năm trên 2 con sông Tiền sông Hậu ngày một xuống thấp, dòng chảy không còn phù sa tỷ trọng thấp khi đổ ra Biển Đông rất yếu, không có khả năng chắn sóng khiến nạn ngập mặn ngày càng lấn sâu và lấn xa vào vùng châu thổ… Chưa kể tới yếu tố kép: đất lún do lạm dụng khai thác các tầng nước ngầm. Theo Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, tốt nghiệp Đại học Wisconsin, một  chuyên gia sinh thái vùng đất ngập (wetlands) đã đưa ra những con số báo động (2017): “Nông thôn vùng sông nước Cửu Long bây giờ toàn xài nước ngầm; có khoảng 1 triệu giếng khoan mỗi ngày rút lên 2 triệu m3/ngày, dùng cho sinh hoạt đủ thứ, vậy nên ĐBSCL đang bị sụt lún nhanh gấp 10 lần nước biển dâng do biến đổi khí hậu.” 

Tới tháng 3/2022, theo Tổng Cục Thủy Lợi, việc khai thác nước ngầm nơi ĐBSCL đã tăng lên với 2 triệu giếng khoan, mỗi ngày rút lên 2,5 triệu m3/ngày, và 40% lượng nước ngầm ấy phục vụ cho sinh hoạt, phần còn lại cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.[5]

Từ sau 1975, những dự án trọng điểm của nhà nước CS Việt Nam được cổ xuý là để “cải tạo” ĐBSCL, nhưng thực tế đã chứng minh là gây tác hại nhiều hơn. Đó là những hủy hoại mang tính tích lũy. Và kết luận dễ dàng nhất để rũ bỏ mọi trách nhiệm là đổ lỗi cho Mẹ Thiên nhiên, cho Biến đổi Khí hậumà không kể tới một những hậu quả tích lũy của những yếu tố nhân tai, do chính con người gây ra do sự vô cảm và chạy theo các nhóm lợi ích của giới cầm quyền Hà Nội.   

Hình 10: Với hơn 600 km bờ sông các tỉnh Miền Tây đang bị sạt lở; hình trái, Sông Hậu tỉnh An Giang với nhiều khúc bờ sông bị sạt lở do nhiều yếu tố nhân tai: mất lượng phù sa do hồ chứa nơi những con đập thủy điện thượng nguồn, nạn phá rừng, nạo vét lòng sông khắp nơi để khai thác cát. [VN Express 15.05.2017]; hình phải, bờ Sông Hậu sạt lở nơi huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp. [photo by PanNature VN 2009]

Người dân Việt Nam đang phải chứng kiến một kịch bản ảm đạm, như một cuốn phim quay chậm, một Đồng Bằng Sông Cửu Long còn rất non trẻ đang  từ từ tan rã – cùng với cả một nền Văn Minh Miệt Vườn cũng chỉ mới hơn 300 năm tuổi”.  

NGÔ THẾ VINH

Columbus Day, 10/10/2022

Tham khảo:

1/ Cambodian Mega Dam’s Resurrection on the Mekong “The Beginning of the End”. Gerald Flynn, Nehru Pry,15 Sept. 2022

2/  Thủy Điện Lancang-Mekong gây khát nước và đói phù sa cho Đồng Bằng Sông Cửu Long cách nào?  Phạm Phan Long, PE., Viet Ecology Foundation, 20.03.2020 http://vietecology.org/article/article/2382

3/ Mặt Trời Trên Biển Hồ Cứu Dòng Mekong. Phạm Phan Long, PE, Viet Ecology Foundation, 15.12.2019 http://vietecology.org/article/article/1351

4/ Effects of riverbed incision on the hydrology of the Vietnamese Mekong Delta. Doan Van Binh, et al. First published: 02 January 2021, https://doi.org/10.1002/hyp.14030

5/ Vũ Khí Giải Cứu Sông Mekong: Chất Xám và Tiếng Nói. Phóng viên Môi sinh Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị phỏng vấn BS Ngô Thế Vinh 25/04/2016.

6/ Ứng phó sụt lún đất ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Tổng Cục Thuỷ Lợi 13/03/2022. http://www.tongcucthuyloi.gov.vn/tin-tong-hop/ung-pho-sut-lun-dat-o-vung-dong-bang-6260

Việt Nam — Những Ngày Trở Lại của Cựu Chiến Binh Eric Henry

LGT: Tiếp theo bài viết về Phạm Duy, Nhà văn Ngô Thế Vinh mới công bố một bài viết chân dung của Tiến sĩ Eric Henry, có thể xem là một nhà ‘Phạm Duy Học’. Ông từng là một cựu quân nhân Mĩ ở Việt Nam trong thời chiến, và qua đó mà tiếp xúc với âm nhạc Việt Nam. Ông là một người ngoại quốc hiếm hoi có những nghiên cứu có hệ thống và có những nhận định sâu sắc về nhạc Việt Nam và đặc biệt là nhạc Phạm Duy. Một trong những nhận xét của ông mà tôi rất tâm đắc là nhạc Việt Nam thường thiên về thương nhớ thời đã qua (hay nói theo tiếng Anh là nostalgia). Tiến sĩ Henry là người đã nghiên cứu về nhạc Phạm Duy rất kĩ và đã dịch bộ hồi kí Phạm Duy (hàng ngàn trang) sang tiếng Anh. Như là một cách tri ân, Nhà văn Ngô Thế Vinh đã soạn một bài viết công phu về Eric Henry mà tôi tin rằng bạn đọc sẽ tìm thấy nhiều thông tin có giá trị. NVT

_____

Việt Nam — Những Ngày Trở Lại của Cựu Chiến Binh Eric Henry

NGÔ THẾ VINH

Lời Dẫn Nhập: Bài viết về TS Eric Henry với dự kiến ban đầu kết hợp với Chân Dung Phạm Duy. Nhưng rồi, riêng phần Phạm Duy đã dài tới ngót 50 trang giấy, nên Chân Dung Eric Henry phải tách ra một bài khác, vẫn mong bạn đọc có cái nhìn kết hợp hai chân dung do tính bổ sung của hai nhân vật Phạm Duy và Eric Henry trên chặng đường tìm hiểu nền Tân nhạc Việt Nam cùng với các bước gian truân để hình thành và xuất bản bộ Hồi Ký tiếng Anh The Memoirs of Phạm Duy, dự trù sẽ do Cornell University Press xuất bản. Tưởng cũng cần nói thêm,Thư viện Đại Học Cornell là nơi còn lưu trữ đầy đủ nhất di sản 20 năm Văn học Miền Nam 1954-1975, và  “ngọn lửa phần thư” của những người Cộng sản Việt Nam muốn tận diệt nền văn hóa ấy đã không sao lan tới được.

Hình 1: Chân dung TS Eric Henry, ảnh trích từ Jacket cuốn Garden of Eloquence / Thuyết Uyển, của Lưu Hướng, do Eric Henry dịch và giới thiệu, University of Washington Press xuất bản 2021. [nguồn: photo by Nguyễn Phong Quang]

ERIC HENRY VÀ TÔI

      Lần đầu tiên tôi gặp TS Eric Henry, cách đây 5 năm (2017), và ngạc nhiên khi biết Eric – là một cựu chiến binh Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam, nhưng lại rất “ít chất lính”. Bước vào lứa tuổi 20, tới hạn quân dịch Eric quyết định đơn giản: nhập ngũ làm bổn phận một công dân, sau đó trở  về đi học lại. Ngay trong thời gian quân ngũ, Eric vẫn rất ham đọc, và đã có được một số hiểu biết về nền văn hóa Đông phương, đặc biệt là Việt Nam và Trung Hoa. Eric có năng khiếu về ngôn ngữ, nói tiếng Việt khá thông thạo và tinh tế, không có âm hưởng thứ tiếng Việt tục tằn của mấy chú GI’s học được từ các quán bars trong thời gian phục vụ ở Việt Nam. Tới một đất nước chiến tranh lại có nhiều tôn giáo như ở Việt Nam, Eric cũng đã học được cách trả lời dí dỏm và an toàn cho mấy câu hỏi dễ phân cách lòng người, như “Anh theo đạo gì?” —  “Tôi theo đạo vợ”, và đạo vợ mặc nhiên được công nhận như một thứ đạo phổ quát cho đám đàn ông lính tráng lúc đó, cho dù khi sang Việt Nam, Eric vẫn đang còn là một thanh niên độc thân.

      Khi biết tôi cũng là người cầm bút, mới vỡ lẽ ra Eric đã đọc cuốn tiểu thuyết Vòng Đai Xanh, từ một ấn bản tiếng Việt do Nxb Văn Nghệ California tái bản năm 1987. Eric cho biết vẫn giữ cuốn sách đó trên kệ sách và anh cũng rất quan tâm tới người Thượng trên Cao nguyên. Do “văn kỳ thanh”, chúng tôi đã dễ dàng nói chuyện với nhau hơn.

      Eric Henry cho biết anh mê nhạc Phạm Duy, đã thích thú đọc và dịch xong toàn bộ Hồi Ký 4 tập dài hơn 1500 trang của Phạm Duy trong vòng hơn một năm. Bản dịch ấy đã được Cornell University Press nhận xuất bản từ 2009, bốn năm trước ngày Phạm Duy mất nhưng cho đến nay cũng đã 13 năm (2009-2022) cuốn sách ấy vẫn còn ở dạng bản thảo.  

Hình 2a:trái, Eric Henry, 27 tuổi, sau khi hoàn tất khóa học tiếng Việt 12 tháng tập trung / intensive tại Defense Language Institute, Fort Bliss, El Paso, Texas. Eric được gửi sang Việt Nam phục vụ trong ngành quân báo Sư Đoàn 25 Kỵ binh (25th Infantry Division) đóng ở Củ Chi. Hình chụp năm 1970, Eric bảo: “Thuở ấy tôi nói được tiếng Việt nhưng chưa bắt đầu học tiếng Tàu”; phải, Ngô Thế Vinh, 28 tuổi là quân y sĩ quân lực VNCH, hình chụp năm 1969, sau khi tốt nghiệp khóa huấn luyện Lực Lượng Đặc Biệt và Nhảy Dù tại Động Ba Thìn, gia nhập binh chủng Mũ Xanh LLĐB (Green Beret / Special Forces), sau này là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù.

Hình 2b:42 năm sau chiến tranh Việt Nam, cựu chiến binh Hoa Kỳ Eric Henry nay là một học giả và cựu chiến binh VNCH Ngô Thế Vinh nay là một bác sĩ trong một VA Hospital, cả hai đều bước qua ngưỡng tuổi “cổ lai hy” gặp nhau ở Huntington Beach, California, nhân chuyến đi của Eric sang gặp những người con trong gia đình Phạm Duy – để thảo luận về một hợp đồng với Cornell University Press tiến tới xuất bản bộ sách The Memoirs of Phạm Duy, một dự án mà Phạm Duy khi còn sống đã rất ao ước nhưng chưa thực hiện được cho đến ngày Phạm Duy mất (27/01/2013). [photo by Phạm Lệ Hương, tư liệu Ngô Thế Vinh]

Hình 3: Tiếp đón anh Eric Henry tại nhà chị Phạm Lệ Hương, Huntington Beach California, từ trái: Ngô Thế Vinh, Nguyễn Duy Chính, Phạm Phú Minh, Eric Henry, Bùi Bích Hà, Trần Huy Bích; phải: Eric Henry đang ngắm bức tranh Mẹ và Con của họa sĩ Lemur. (photo by Phạm Lệ Hương và Ngô Thế Vinh).  

ERIC HENRY NĂM NĂM SAU

      Mới đây năm 2022, khi vào thư mục của Cornell University Press tìm mua bản tiếng Anh bộ Hồi Ký Phạm Duy để tặng một người bạn Mỹ vốn rất quan tâm tới văn hóa Việt Nam, nhưng không thấy, tôi liên lạc với Eric và được biết cuốn sách vẫn chưa xuất bản, với lý do là sau khi Phạm Duy mất, không có di chúc chỉ định quyền thừa kế cho riêng một người con nào, nên cho đến nay, vì chưa có sự đồng thuận của tất cả  7 người con trong gia đình Phạm Duy, Cornell University Press vẫn chưa thể xuất bản bộ Hồi Ký The Memoirs of Phạm Duy.

      Và tiếp theo đó là một chuỗi emails trao đổi với Eric Henry cho thấy những bước gian truân của Eric với bộ Hồi Ký Phạm Duy, và tôi có hứa với Eric sẽ làm những gì có thể làm được trong khả năng để bộ Hồi Ký The Memoirs of Phạm Duy có thể sớm ra mắt.    

NỀN TÂN NHẠC VIỆT NAM VÀ ERIC HENRY

Hình 4: Hình chụp Nhạc sĩ Phạm Duy và Tiến sĩ Eric Henry trong quán cà phê Nirvana / Niết Bàn, 29 đường Phùng Khắc Khoan, phường Đa Kao, quận 1, Saigon; với ghi chú của Eric: “Buổi sáng 9 tháng 7, năm 2005 — tôi đến Nirvana để gặp một nhà báo làm việc cho tạp chí Người Viễn Xứ, cô Quỳnh Lệ nói là muốn phỏng vấn tôi. Khi bác Phạm Duy được biết là tôi sẽ đi đến đó thì ngay lập tức tình nguyện tháp tùng để giúp tôi trả đáp những câu hỏi của cô Lệ”. [photo by Quỳnh Lệ, tư liệu Eric Henry]

      Đó là tháng Bảy năm 2005, chỉ mới hai tháng sau “ngày về của Phạm Duy”, khi trả lời một câu hỏi của phóng viên Quỳnh Lệ: Giáo sư nhận xét và đánh giá thế nào về nền âm nhạc Việt Nam?  Eric Henry đã đưa ra một nhận định khá bất ngờ và thú vị:

      Nhạc Việt Nam nói chung nhiều chất “mineur” [âm giai thứ, ghi chú của người viết]. Nội dung phần lớn xoay quanh 3 đề tài chính, đó là thương nhớ đến một quê hương đã xa xôi, thương nhớ một cuộc tình đã qua, mong muốn được trở về một khoảng thời gian trong quá khứ mà mình yêu quý – thường là thời thơ ấu. Cả 3 đề tài đó hầu hết đều mang tâm trạng tiếc nuối, buồn đau. Khác hn với nhạc Trung Quốc, phần lớn là vui tươi, rộn ràng, có câu cú ngắn gọn và mang tính đối xứng – symmetry – 4 câu, 8 câu. Bài hát Tây phương cũng thường có từng 8 ô nhịp, 16 ô nhịp. Bài hát Việt Nam phong phú về tiết điệu và câu cú hơn, cách tổ chức mỗi câu nhạc thường không rập khuôn. Tôi thích nhạc Việt Nam và thích những nhạc sĩ sáng tác những ca khúc có những câu nhạc không đều. Đó như là một sự khám phá cái mới.[5]  

      Trịnh Y Thư — anh bạn vong niên của tôi, một nhà thơ, một nhà văn, một tay đàn guitar classic có hạng, một dịch giả uy tín qua các tác phẩm cổ điển, anh nổi tiếng ngay với tác phẩm Đời nhẹ khôn kham (The Unbearable Lightness of Being), cuốn tiểu thuyết khó dịch của nhà văn Pháp gốc Tiệp Milan Kundera, tạp chí Văn Học xuất bản, 2002 — anh cũng là người viết Lời Tựa cho Tuyển Tập Chân Dung II Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa (2022), Trịnh Y Thư đã rất tâm đắc với nhận xét của TS Eric Henry về nền tân nhạc Việt Nam. Trịnh Y Thư viết:    

      Thưa anh Ngô Thế Vinh, ý kiến của Giáo sư Henry là rất chính xác. Nhạc Việt nói chung mang nhiều tính hoài niệm (nostalgia), và có lẽ đó là tính cách chung của người Việt, luôn luôn thương nhớ cái gì thuộc về quá khứ, một quá khứ đôi khi được chắt lọc qua một lăng kính. Do đó, âm nhạc nặng tính trữ tình, không thực, vì phải vận dụng trí tưởng tượng nhiều. Nhạc ít nói về hiện thực, về đời sống thật ngoài đời, về tương quan giữa con người với con người hay giữa con người với thiên nhiên, ngoại cảnh. Giữa thời chiến tranh khốc liệt, nhạc nói về cuộc chiến có rất ít, chỉ có mấy ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn, và một vài bài phổ thơ của Phạm Duy là hết…

      Về mặt kỹ thuật sáng tác, nhận định Giáo sư Henry đưa ra cũng rất đúng. Đa số nhạc sĩ Việt Nam sáng tác theo cảm quan trực cảm, ít ai triển khai một bài nhạc theo quy trình hàn lâm. Nhạc đi theo ca từ, đôi khi chỉ là phương tiện để diễn đạt ca từ. Vài trường hợp ngoại lệ là Cung Tiến, Vũ Thành… Điểm đặc biệt là nhạc Việt chú trọng phần nhiều đến giai điệu, bài nào có giai điệu hay, du dương, trữ tình, bài đó ăn khách. Đó là lý do nhạc Việt rất nghèo hòa âm, một khúc nhạc thường chỉ chuyển cung (modulation) 3, 4 lần là xong bài.

      Tuy nhiên, theo quan điểm Giáo sư Eric Henry, thì tất cả những điều trên lại là ưu điểm của nhạc Việt, bởi nó là sự lệch chuẩn, nó đi chệch ra ngoài những khuôn khổ (đôi khi rất khuôn sáo) thông thường… Trịnh Y Thư 

      Sau khi được đọc ý kiến của Trịnh Y Thư, Eric có thêm một bình luận cho rằng, “cách đánh giá của anh Trnh Y Thư không gần với cách đánh giá của tôi”.  Eric viết như sau: 

      Cám ơn Anh Vinh đã cho tôi thấy những nhận xét về nền âm nhạc Việt Nam của anh Trịnh Y Thư. Phản ứng của tôi là mặc dầu anh ấy thấy các đặc tính của âm nhạc VN mà tôi đã đưa ra với cô Quỳnh Lệ không phải sai lầm, nhưng tôi vẫn thấy là cách đánh giá của anh ấy không gần gì với cách đánh giá của tôi—tại vì anh cho là những đặc tính ấy đều là khuyết điểm, còn tôi cho là ưu điểm! Tôi đã nghiên cứu không ít về các nền âm nhạc của những nhà nước Đông Á, Trung Quốc, Đại Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Phi Luật Tân lẽ dĩ nhiên có một số ca khúc tuyệt đẹp—nhưng vẫn không nhiều bằng nước Việt Nam—và bề sâu sắc cũng không bằng!  Tôi có khi nói với người ta là người Việt là người Ý Đại Lợi của Viễn Đông!

     Cũng vẫn Eric Henry, khi nói tới nhạc sĩ Phạm Duy thì anh rất say sưa. Eric nhận định:

      Ca khúc của Phạm Duy rất phong phú. Có thể chia làm nhiều thời kỳ khác nhau: thời kháng chiến, thời ở Nam bộ, thời hải ngoại. Riêng thời hải ngoại cũng có thể phân thành nhiu giai đoạn. Nhạc Phạm Duy không có những tiếc nuối đau buồn như phần đông các nhạc sĩ khác. Có khi cũng có khóc lóc nhưng không quá sầu não. Thường thường, ông ấy hay viết theo một lối nói như là kể chuyện. Chủ đề trong nhạc Phạm Duy rất đa dạng và nhiều sắc độ, gần như không có giới hạn nào cả. Ví dụ như với chủ đề Mẹ thì mỗi bài là một sắc thái, một yếu tố riêng biệt; như bài “Bà Mẹ Gio Linh”, “Bà Mẹ quê”

      Qua sự nghiên cứu của tôi, tôi thấy rằng nhạc Việt Nam là một môn học, mà trong đó nhạc Phạm Duy là một môn học nữa. Nói về số lượng tác phẩm, sự đa dạng và phẩm chất thì nhạc Phạm Duy chiếm tỉ trọng gần phân nửa. Do vậy, nếu như tác phẩm của ông không được phổ biến thì nền âm nhạc Việt Nam sẽ chịu một sự hụt hẫng nhất định nào đó. Tôi nghĩ ông ấy là một trong những người nghệ sĩ yêu nước. Mà phần đông những người Việt Nam sống ở nước ngoài cũng rất yêu nước. Nếu tính về lịch sử thì những người theo Quốc Dân Đảng cũng là người yêu nước, chứ không chỉ riêng Việt Minh. Những năm gần đây, Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách rất cởi mở thông thoáng đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Tôi nghĩ là chính quyền Việt Nam sẽ cho phép phổ biến các ca khúc hay của nhạc sĩ Phạm Duy.[5]

      Qua thực tế hiện nay, cũng để thấy rằng, Eric Henry không chỉ là quá lạc quan mà còn là lạc quan quá sớm khi cho rằng, “chính quyền Việt Nam sẽ cho phép phổ biến các ca khúc hay của nhạc sĩ Phạm Duy.” Qua bài viết này, tôi muốn nói với anh Eric Henry rằng: chỉ khi nào một đất nước Việt Nam bước vào thời kỳ dân chủ, có một nền văn nghệ tự do, thì lúc đó âm nhạc Phạm Duy mới có thể cất cánh và bay bổng.

BƯỚC GIAN TRUÂN CỦA ERIC HENRY

VỚI THE MEMOIRS OF PHẠM DUY   

      Lịch sử của các nỗ lực của tôi để xuất bản sách The Memoirs of Phạm Duy, giống như lịch sử của chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô là một đoạn lịch sử vô cùng dài và vô cùng phức tạp. Bắt đầu từ đâu để kể cho rõ rành đây? [ trích dẫn email của TS Eric Henry, gửi Ngô Thế Vinh ngày 04/05/2022 ]

      Eric Henry đã gặp nhạc sĩ Phạm Duy nthế nào?

      Eric Henry kể: “Cuối mùa hè năm 2003, khi tôi đang đi thăm Tiểu Sài Gòn, gặp nhà báo Đỗ Ngọc Yến, chủ bút tờ báo Người Việt, đã giúp tôi làm quen với gia đình Phạm Duy.

Hình 5: trái, năm 1975, Phạm Duy gặp Đỗ Ngọc Yến trong những ngày đầu tỵ nạn tại Hoa Kỳ; từ trái, Đỗ Ngọc Yến, Thái Hằng, Đỗ Quý Toàn, Phạm Duy, Lê Tất Điều; phải, năm 2002, Đỗ Ngọc Yến, người sáng lập nhật báo Người Việt, tiếp Phạm Duy trong cuộc Hội luận về Nhạc Phạm Duy tại Little Saigon. Eric Henry kể, chính nhà báo Đỗ Ngọc Yến đã giúp tôi làm quen với gia đình Phạm Duy. [tư liệu Phạm Duy, và Phạm Phú Minh]

      Lần đó Phạm Duy đang đi thăm Việt Nam (2003) chưa về, cho nên tôi chưa có cơ hội gặp ông, nhưng tôi đã làm quen với anh Phạm Duy Hùng, là con thứ ba của nhạc sĩ. Khi gặp nhau ở nhà cha tại Midway City, chúng tôi nói chuyện 2 tiếng đồng hồ về nhạc của người cha, và lần đó tôi cũng được biết là Duy Hùng là người đàn ghi-ta rất giỏi. Anh ấy mời tôi đưa ra nhan đề của bất cứ ca khúc nào của nhóm Beatles, và bảo đảm là anh sẽ trình diễn được trên ghi-ta. Vậy nên tôi đưa ra tên bài “Across the Universe” của John Lennon, và anh Hùng, không chút nào do dự, đã đàn và hát cho tôi nghe bài ấy một cách toàn vẹn lắm—không có âm nào đánh sai.

      Năm tháng về sau, tức là tháng Giêng năm 2004, khi tôi đi Cali lần nữa, tôi mới được gặp Phạm Duy lần đầu tiên. Sau đó hai tháng, tôi đã gặp mặt với ông lần nữa, và sau hai tháng, tôi đã đề nghị với ông (bằng một bức thư gửi qua bưu cục) là tôi dịch Hồi Ký Phạm Duy sang tiếng Anh.

   Bức thư là như thế này:

      Thư gửi Nhạc sĩ Phạm Duy:

      Kèm theo đây là ba chương mở đầu của Hồi Ký I dịch sang tiếng Anh—xin mời Ông coi thử. Tôi thấy rằng bốn quyển Hồi Ký của Ông là một tác phẩm có giá trị tối cao đối với bất cứ ai muốn hiểu thêm về Việt Nam trong thế kỷ vừa qua.

      Nếu Ông thấy cách phiên dịch của tôi trong mấy chương này chấp nhận được, thì tôi sẽ tiếp tục làm, và sẽ đi tìm một nhà xuất bản để in ra về sautôi thấy là sự đồng ý của Ông sẽ giúp tôi nói chuyện với các nhà xuất bảnnhưng nếu Ông không muốn tôi làm công việc nàycó lẽ Ông đã có người phiên dịch rồi, chẳng hạnthì tôi sẽ ngừng tay ngay.

      Tôi thấy việc phiên dịch dòng văn của Ông rất thích thú và không khó khăn lắmnếu mỗi buổi tối tôi dành một tiếng đồng hồ cho công việc này thì trong vòng 3 đến 5 ngày tôi đều dịch xong mt chương được, và khi nào gặp chỗ khó hiểu, thì tôi có thể đi tham khảo với một số người bên đây. Tiện đây, xin cho Ông biết là mùa hè này tôi sẽ ở Việt Nam với 10 sinh viên từ 13 tháng 6 đến 12 tháng 8—vị trí là “Nhà Khách Phạm Ngọc Thạch,” Saigon—và sau đó tôi sẽ có mặt ở quận Cam từ ngày 12 đến ngày 17, tháng 8. Hy vọng việc sáng tác Mười Bài Hương Ca đang tiến triển tốt đẹp, thuận lợi. Dư âm của mấy bài đó vẫn trong tai tôi.

PHẠM DUY: VÌ TÔI LÀ TARZAN

      Mỗi lần tôi / Eric Henry gửi email đến ông / Phạm Duy để đặt ra vài câu hỏi đối với Hồi Ký, thì ông đều gửi hồi âm rất nhanh — có khi chỉ cần đợi một hai tiếng đồng hồ thôi. Có lần tôi đã gửi một số câu hỏi đến ông, và trên email đó nói là tôi biết rằng ông lúc ấy rất bận với việc tổ chức một cái show — cho nên tôi thấy là ông không cần trả lời nhanh — tôi chờ đợi được, không sao. Sau một hai tiếng, tôi nhận được thư hồi âm của ông. Trên đó ông nói, “Đúng như anh nói, tôi hiện giờ bận lắm, nhưng tôi vẫn trả lời nhanh được, tại vì tôi là… Tarzan!”. Sau đó, trên một bức thư khác của ông có câu: “Anh thấy không?  Tarzan* vẫn đong đưa trong rừng!”

      *Ghi chú của người viết: Tarzan là một nhân vật điện ảnh hư cấu, mô phỏng theo cuốn tiểu thuyết “Tarzan of the Apes” xuất bản 1912 của Edgar Rice Burroughs. Tarzan là câu chuyện một đứa trẻ hoang được đàn khỉ đột nuôi dưỡng và lớn lên trong rừng rậm Phi châu, sau trở thành một tráng sĩ  dũng mãnh của rừng xanh; cho dù có được tiếp xúc với xã hội văn minh nhưng Tarzan vẫn chọn trở về với thiên nhiên hoang dã, vượt qua bao hiểm nguy, sống như người vượn tự do tung hoành trong rừng sâu. Tarzan đã từng là người hùng của nhiều thế hệ thiếu niên thế kỷ trước.

PHẠM DUY: ĐỂ TÔI NHẢY THEO

      Khi mới bắt đầu làm quen với Phạm Duy, tôi – Eric Henry hứa với ông là sẽ làm hai việc: lời hứa thứ nhất là tôi sẽ làm trọn việc phiên dịch bốn quyển Hồi Ký của ông, lời hứa th hai là sẽ tìm được một nhà xuất bản cho tác phẩm đó ở bên Mỹ.

Một năm sau tôi đã hoàn tất việc phiên dịch, và bốn năm sau đó tôi đã tìm được một nhà xuất bản, là Southeast Asian Publications của Đại Học Cornell – sau này là Cornell University Press. Rồi tôi trở về Việt Nam để làm một bộ chú thích với hơn 1,500 footnotes về những nhân vật và địa danh trong Hồi Ký và để ký một hợp đồng với Phạm Duy và Đại Học Cornell.

Khi sắp ký hợp đồng, Phạm Duy chợt nhớ là ông có một hợp đồng khác với Công ty Văn hóa Phương Nam mà ông đã ký vài năm trước, nói là Phương Nam có quyền tuyệt đối buôn bán những tác phẩm của Phạm Duy — nhưng Hồi Ký không phải là một bài ca, chắc là ông có thể ký một hợp đồng với Đại học Cornell không sao.

Nhưng khi ông tham khảo với Phương Nam về việc này, thì ông khám phá ra là từ ngữ “tác phẩm” không chỉ bao gồm tác phẩm âm nhạc mà bao gồm tác phẩm văn chương nữa. Như vậy ông không có quyền ký hợp đồng với Cornell.

Điều này khiến tôi – Eric Henry thất vọng nặng nề, và tôi viết thư cho Phạm Duy, nói nửa đùa nửa thật là nếu không có cách xuất bản bản tiếng Anh cuốn Hồi Ký, thì tôi sau này sẽ chỉ có nước nhảy xuống sông tự tử thôi. [Sic]  

Trong thư hồi âm của Phạm Duy, ông nói là tôi không phải quá bận tâm về việc này. Chắc là trong tương lai sẽ có cách xuất bản Hồi Ký bằng tiếng Anh. Và ông đã đề nghị với tôi một vài kế hoạch để đạt đến mục đích đó.

Và cuối cùng Phạm Duy đã có một tái bút như thế này: “Khi nào ông quyết đnh nhảy xuống sông, xin cho tôi biết nhé – để tôi nhảy theo!”  Điều ấy cũng cho thấy tính hài hước và thái độ luôn luôn lạc quan của nhạc sĩ Phạm Duy.

MỘT TIỂU SỬ DO ERIC HENRY TỰ VIẾT

      Cùng với bài viết về “Những Chân Dung Phạm Duy”, tôi có dự định viết thêm Chân Dung của TS Eric Henry. Khi được tôi yêu cầu một tiểu sử do chính Eric Henry viết, anh đã trả lời tôi qua một email (Chủ Nhật ngày 8/05/2022):

      “Tôi coi lại tiểu sử mà tôi đã viết cho BBC nay bổ sung thêm và sửa chữa như sau: Tôi sinh năm 1943 [15/03/1943], bố mẹ tôi đều là nhạc sĩ nhà nghề. Thời thơ ấu đã tập dương cầm và dưới ảnh hưởng của song thân đã có cách hiểu biết và yêu dấu được nhạc cổ điển phương tây. Từ năm 1960, tôi bắt đầu đánh dương cầm và dạy dương cầm làm sinh kế, nhưng chưa biết gì hết về nước Việt Nam, huống chi nhạc Việt Nam. Năm 1968 tôi nhập vào lục quân Mỹ và được huấn luyện tập trung cấp tốc 12 tháng về tiếng Việt. 

      Đến năm 1970, tôi được đóng ở Việt Nam (Củ Chi, Xuân Lộc, rồi đến tỉnh Quảng Trị) với lục quân Mỹ. Ngoài vai trò thông dịch, tôi còn phỏng vấn nói chuyện với khá nhiều tù binh của Bắc quân. Thuở đó tôi làm quen với Truyện Kiều và một số tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh, Duyên Anh, nhưng vẫn không biết nhiều về nhạc phổ thông Việt Nam. Có lần tôi chép ra cái giai điệu của bài “Tôi Đưa Em Sang Sông” (Nhật Ngân sáng tác). Tôi cũng đã nghe nói một chút về tên tuổi của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Như thế là hết.

      Và tôi đã rời Việt Nam mùa hè năm 1971. Sau đó tôi làm nghiên cứu sinh (graduate student) về văn chương Trung Quốc ở Đại học Yale. Năm 1980 bắt đầu dạy Trung văn, hồi trước tại Dartmouth College, và từ 1982 trở đi tại University of North Carolina.  Năm 1995, tôi bắt đầu mở lớp Việt ngữ ở Carolina, và từ năm 1999 bắt đầu coi những video Paris by Night. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy là trong những ca khúc Paris by Night, có khoảng 40 phần trăm có giá trị nghệ thuật; vả lại, lối hát của nhiều ca sĩ trên đó hấp dẫn lắm, điêu luyện lắm!

      Từ năm 2000 trở đi tôi đã không ngừng tìm hiểu bằng mọi cách về âm nhạc Việt Nam. Và mấy năm gần đây cũng đã tìm cách hiểu được một chút về văn hóa ca hát của Nhật Bổn, Đại Hàn, Trung Quốc, Đài Loan,  Phi Luật Tân. Khoảng năm 2002 trong khi đi thăm một nhà sách Việt Nam – nhà sách Thế Hệ ở Falls Church, Virginia, tôi đã thấy, mua, và đem về nhà, quyển I Hồi Ký của Phạm Duy, và đã thấy ngay rằng đây là một tác phẩm có giá trị tối cao đối với bất cứ ai muốn hiểu thêm về Việt Nam trong thế kỷ vừa qua…

      Về quá trình học vấn của Eric Henry, được người viết trích dẫn từ: Eric Henry Curriculum Vitæ, University of North Carolina.

Học Vấn:

Tiến Sĩ / Ph.D. 1979, Văn Chương Trung Quốc / Chinese Literature, Yale University, Department of East Asian Languages and Literatures. Dissertation title: “Chinese Amusement: An Introduction to the Plays of Li Yü” / Lý Ngư

Thạc Sĩ / M.Ph. 1976, Văn Chương Trung Quốc / Chinese Literature, Yale University, Department of East Asian Languages and Literatures. Research paper title: “On the Nature, Structure, and Evolution of the Chin Yun Ch’iao chuan, a popular novel of the Early Ch’ing”

Cử Nhân / B.A. 1972, Văn Chương Anh / English Literature, Amherst College, summa cum laude. Senior thesis title: “On Doan Truong Tan Thanh, the National Poem of the Vietnamese”

Other education:

1977–78: Oneyear intensive language study at the International University Program for Chinese Language Studies at the Stanford Center in Taipei

1968–69: Oneyear intensive language training in Vietnamese at the Defense Language Institute Support Command, Fort Bliss, Texas

      Những tác phẩm đã xuất bản:

      Sách viết:

      Chinese Amusement: The Lively Plays of Li Yü 李漁 (Lý Ngư): Henry, Eric.  Hamden, CT: Shoe String Press (Archon Books), 1980, xvi, 288 pp.

      Sách Dịch:

      Garden of Eloquence; a translation of Shuō Yuàn 說苑 (Thuyết Uyển) in bilingual format with textual notes; commissioned by the editorial board of The Culture and Civilization of China (a joint program of the American Council of Learned Societies and Washington University Press). Shuō Yuàn (Thuyết Uyển) is a collection of 718 items, of which most are historical narratives, compiled by Liú Xiàng 劉向 (Lưu Hướng) and presented to the throne in 17 BCE. Seattle: University of Washington Press, 2022

      In Whose Eyes; a translation, with Nguyễn Quang Dy and Wayne Karlin, of Chuyện Nghề Của Thủy by Trần Văn Thủy and Lê Thanh Dũng (2013), Amherst: University of Massachusetts Press, 2016, xv, 219 pp.

      Những Chương Sách và Bài Báo

      “Running Amok in Early China”; in Behaving Badly in Ancient China   edited by Norman Rothschild and Leslie Wallace; Honolulu: University of Hawaii Press, 2017, pp. 171-188

      Some East Asian Popular Song Lyrics” Southeastern Review of Asian Studies 33 (Jan. 2012)

“Evidence for a Usurpation in Sòng” Warring States Papers 1 (2010), pp. 227-230

 .     “A Note on Chūnqiū Shìyǔ 春秋事語 (Xuân Thu Sự Ngữ) Item 5” Warring States Papers 1 (2010), pp. 55-58. 

 “The Submerged History of Yuè” Sino-Platonic Papers, pub. by Victor Mair, Univ. of Pennsyvania, no. 176 (June, 2007)

 “Bước Đường Lữ Thứ,” (“Footsteps of a Wayfarer”) Carolina Việt Báo 22 (Oct. 2006), pp. 79 – 84 (in Vietnamese; consists of cross-cultural observations prompted by travel in China and Vietnam)

“Phm Duy và lịch sử Việt Nam hiện đại” (a translation by Phổ Tịnh of the article below); posted on the website TALAWAS (2005) 

 “Phm Duy and Modern Vietnamese History,” Southeastern Review of Asian Studies 27 (2005), pp. 89 – 105

Tân Nhạc: Notes Toward a Social History of Vietnamese Music in the 20th Century / Một vài ghi chú về lịch sử xã hội âm nhạc Việt Nam. Michigan Quarterly; 44.1 (winter, 2005), pp. 135-147

      Anachronisms in Lüshì Chunqiu 呂氏春秋 (Lữ Thị Xuân Thu) and Shuōyuàn (Thuyết Uyển); Early Medieval China, vol 9 (2003), pp. 127-138

“Chinese and Indigenous Influences in Vietnamese Verse Romances of the 19th Century” Crossroads 15.2 (2001); pp. 1 – 40

“The Social Significance of Nudity in Early China,” Fashion Theory 3.4 (Dec., 1999), pp. 1-12

       Junzi yue 君子曰 (Quân-tử viết) Versus Zhongni yue 仲尼 (Trọng-nê viết) in Zuo zhuan  (Tả Truyện)”; Harvard Journal of Asiatic Studies 58.1 (June, 1999), pp. 125-161

      “Chu-ko Liang 諸葛亮 (Gia Cát Lượng) in the Eyes of His Contemporaries,” Harvard Journal of Asiatic Studies 52.2 (Dec., 1992), pp. 589-612

“The Motif of Recognition in Early China,” Harvard Journal of Asiatic Studies 47.1 (June, 1987), pp. 5-30

“On the Nature of the Kieu Story,” Vietnam Forum (Yale University Council on Southeast Asian Studies) 3 (Winter-Spring 1984), pp. 61-98

      Những Bài Điểm Sách

Poetic Transformations: Eighteenth-Century Cultural Projects on the Mekong Plains, Claudine Ang; Harvard University Asia Center, 2019, in China Review International, 25.1 (2020) 

The Commentarial Transformation of the Spring and Autumn, Newell Ann Van Auken; Albany; SUNY Press, 2016, in Dao: A Journal of Comparative Philosophy, Fall 2018

The Kim Vân Kiều of Nguyễn Du (1765 – 1820), translated by Vladislav Zhukov; Canberra; Pandanus Books, 2004, in Journal of Vietnamese Studies 3:1 (Winter 2008), pp. 240-245

Persons, Roles, and Minds: Identity in Peony Pavilion and Peach Blossom Fan, Tina Lu, Stanford University Press, 2001; 2001; in CLEAR [summer, 2002]

Guanzi: Political, Economic, and Philosophical Essays from Early China; A Study and Translation. Volume II. By W. Allyn Rickett. Princeton: Princeton University Press, 1998; in Journal of Asian Studies [1999]

      Những Sách Chưa Xuất Bản:

      Sách Viết:

      “Historical Narrative in Early China” (a study of genre and content among the narratives collected in Zuo zhuànGuó yuZhànguócè, and Shijì; 336 pp.) Zuo zhuàn 左傳 (Tả Truyện), Guó yu 國語 (Quốc Ngữ), Zhànguócè 戰國策 (Chiến Quốc Sách), and Shijì 史記 (Sử Ký)

“Readings in Chinese Historical Legend” (course textbook; 543 pages)

 Xin xù Summaries” (detailed summaries of the 176 narratives of the extant Xin xù 新序 (Tân Tự), with notes on sources and allusions; a research tool; a collaboration with Professor Anne Kinney)

“Chinese Phrase Lexicon.” Approx. 10,000 phrases, proverbs, and short classical passages cross-referenced by lexical item; computer document in process of expansion.

“Vietnamese Proverb Lexicon.” Similar in scope and concept to the above, but more focused on proverbs; computer document in process of expansion.

      Sách Dịch:

From classical Chinese:

“Stories from the States” (a bilingual edition of Guóyǔ 國語 (Quốc Ngữ) with introduction and notes; approx. 1,000 pp. Guóyǔ 國語 (Quốc Ngữ) is a collection dating from c. 300 BCE consisting of 243 historical narratives)

“Chronicle of the States of the Eastern Chou, Vol. I” (a translation, Chinese to English, of the first forty chapters of Dong Zhou liè guó zhì; 東周列國志; (Đông Chu Liệt Quốc Chí) 762 pp.

From Vietnamese:

Memoirs (Hồi Ký) by Phm Duy, four volumes (approximately 1,200 pages); Volume One: Coming of Age in the North; Volume Two: The Resistance; Volume Three: The Period of Division; Volume Four: My Sojourn Abroad. More than 1,500 detailed footnotes on persons, places, and events, to be published by Cornell University Press.

Hình 6a: trái,bìa sách In Whose Eyes, do University of Massachusetts Press xuất bản, 2016  là bản dịch tiếng Anh cuốn hồi ký  Chuyện Nghề của Thuỷ; phải, với lời đề tặng: “Thân tặng Bác sĩ Ngô Thế Vinh, bạn đồng đội của tôi – Eric Henry, ngày 28/05/2022. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Hình 6b: trái, bìa cuốn sách Thuyết Uyển / Garden of Eloquence của Lưu Hướng, sách dày 1232 trang, do TS Eric Henry dịch và giới thiệu,  University of Washington Press, Seattle xuất bản 2021; phải, trang sách đề tặng với 3 ngôn ngữ Việt, Hoa, Anh. Eric Henry còn có tên Việt Nam là Vũ Văn Hòa* – Hòa là tên của GS Nguyễn Đình Hòa, tác giả bộ từ điển Anh Việt mà Eric luôn luôn ôm theo khi anh bắt đầu học khóa tiếng Việt ở El Paso trước khi sang chiến trường Việt Nam. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

      * Nửa thế kỷ trước, khi bắt đầu học tiếng Việt tại Defense Language Institute ở Fort Bliss, Texas, tôi đã mời người xung quanh gọi tôi là “anh Hòa”, vì thuở đó tôi hay sử dụng một cuốn tự vị của một học giả cùng tên: Nguyễn Đình Hòa. Sau đó vài tháng, khi thấy là cần đến một tên đầy đủ hơn, tôi chọn “Văn” làm tiếng đệm, vì đó hình như là thói quen của nhiều gia đình Việt Nam—và sau đó tôi chọn “Vũ / Võ” làm họ, tại vì âm thanh của “Vũ Văn Hòa” nghe lại hình như… êm tai. Sau khi bắt đầu trở về từ Việt Nam và xã giao thường xuyên với người Việt, thì tôi đã dần dần chấm dứt sử dụng tên “Hòa”, vì cảm thấy là người Vit không có vấn đề nào cả với tên “Eric”. Nhưng khi nào tiếp xúc với người Hoa thì tiếp tục dùng tên “Vũ Văn Hòa”, vì thấy là họ thích cách gọi Vũ Tiên Sinh (武先生) không thích cách gọi Eric Tiên Sinh “Eric 先生” cho mấy.

      Đọc lược qua số tác phẩm của Eric Henry, tôi đã rất ngạc nhiên và hỏi Eric là thời giờ đâu và cả bí quyết làm việc của anh ra sao để có thể viết được nhiều tác phẩm như thế? Eric trả lời tôi ngay:

      Anh Vinh thân quý,

      Tôi thấy Anh là vị tác giả “đa sản , prolific — chữ của Eric” bằng tôivà trái với tôi, anh có một nghề khác đi song với nghề viết văn: nghề làm bác sĩ! Nhưng nếu Anh có hứng thú hỏi tôi có bí quyết gì để có cách viết nhiều, thì tôi sẽ trả lời như thế này:

      Tôi vốn là người làm biếng. Nhưng đồng thời tôi cũng là người rất thích tuân thủ thói quen. Nếu muốn hoàn tất một tác phẩm, thì phải lập thành một bộ thói quen nào đónhư mỗi ngày viết một trang văn, chẳng hạn. Nếu giữ thói quen đó suốt một năm, thì khi đến cuối năm mình sẽ có 365 trangđủ để tạo thành cả một cuốn sách!

      Tuy vậy, cái thú vật yêu quý nhất của tôi trong giới vạn vật là con lười (sloth) của Châu Nam Mỹ. Ước gì có thể treo mình xuống liên miên từ một cành cây như thú vật ấy! Thân quý, Eric 

ERIC HENRY VÀ THE MEMOIRS OF PHẠM DUY

      Và rồi những emails trao đổi tiếp theo giữa Eric và tôi đều có liên quan tới chặng đường 13 năm gập ghềnh của bộ sách tiếng Anh The Memoirs of Phạm Duy cho đến nay vẫn chưa có thể xuất bản.

      Email 1: Anh Bác sĩ Ngô Thế Vinh thân kính, [ May 4, 2022 ]

      Rất cảm ơn Anh quan tâm đến việc xuất bản sách phiên dịch Hồi Ký Phạm Duy. Lịch sử của các nỗ lực của tôi và các người “đồng minh” để xuất bản sách này giống như lịch sử của chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô — là một đoạn lịch sử vô cùng dài và vô cùng phức tạp. Bắt đầu từ đâu để kể cho rõ rành đây?

      Một lần, Phạm Duy và tôi sắp ký hợp đồng với Cornell S.E. Asia Publications vào năm 2009 để xuất bản sách này nhưng một công ty VN mang tên là Phương Nam không cho phéptại vì Phạm Duy mấy năm trước đã ký một hợp đồng với Phương Nam và dành cho công ty ấy độc quyền xuất bản và phổ biến tất cả sản phẩm của Phạm Duy, gồm có cả sản phẩm thuộc lãnh vực văn chương (như Hồi Ký, chẳng hạn). 

      Về sau, vào năm 2012, vài tháng trước khi qua đời, Phạm Duy đã thực hiện được một sự thay đổi trên hợp đồng này, nói là độc quyền này của Phương Nam chỉ hữu hiệu trên đất Việt Nam mà thôi, chớ không hữu hiệu trong lãnh vực của các nước khác. Biện pháp này đã giải quyết vấn đề với Phương Nam, nhưng chưa giải quyết được vấn đề với những người con của Phạm Duy — đặc biệt là với Duy Đức, người con trai út của Phạm Duy.  

Xin lỗi, tôi phải tạm ngừng viết, và tôi sẽ giải thích thêm vào buổi chiều ngày mai. Kính thư, Eric 

       Email 2: Anh Vinh thân mến, [ May 5, 2022 ]

       Ngoài Duy Đức ra, một nhân vật khác trong việc này là Tina Phạm, luật sư của gia đình Phạm Duy — tôi đã từng trao đổi thư từ với Tina từ năm 2009. Duy Đức lúc nào cũng làm theo ý kiến của Tina. Theo Tina, Duy Đức nên đòi hỏi nhà xuất bản Cornell bảo đảm là họ sẽ “indemnify” (bồi thường) gia đình Phạm Duy nếu họ bị công ty Phương Nam kiện. Nhưng Sarah Grossman, tổng biên tập của Cornell nói với tôi là Cornell không thể phát hành một văn kiện “bảo đảm” như thế. Sarah Grossman đã phát hành giùm tôi một văn kiện khác tuyên bố là Nxb Cornell sẽ tuyệt đối không tìm cách bán tác phẩm này trên đất Việt Nam. Nhưng Tina và Duy Đức chưa thỏa mãn với lời hứa chính thức này của Cornell.  

      Eric Henry sau đó đã liên lạc với Ban Giám Đốc Cty Phương Nam, và bây giờ Cty Phương Nam đã có giám đốc và phó giám đốc mới. Eric Henry đã nhận được thư hồi âm của Trịnh Hải Phương, phó giám đốc Phương Nam. 

      Kính chào ông Eric Henry,

      Tôi là Trịnh Hải Phương, Phó Giám đốc công ty TNHH MTV Sách Phương Nam, có nhận được thư của ông Eric Henry đề nghị cho phép xuất bản bản tiếng Anh “Hồi ký nhạc sĩ Phạm Duy” ở Mỹ. Sau khi chúng tôi kiểm tra lại nội dung hợp đồng độc quyền khai thác các tác phẩm của nhạc sĩ Phạm Duy thì nhận ra công ty Phương Nam chỉ độc quyền khai thác trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Do đó công ty Phương Nam không giữ quyền khai thác tác phẩm của nhạc sĩ Phạm Duy ngoài lãnh thổ Việt Nam. 

      Về đề nghị của ông thì thuộc quyền quyết định của gia đình nhạc sĩ Phạm Duy, những người thừa kế. Do đó ông có thể liên hệ với gia đình nhạc sĩ Phạm Duy để trao đổi. 

      Trân trọng, Trịnh Hải Phương

      Nhận được thư này, tôi gửi thư hồi âm như sau: 

      Kính gửi Ông Trịnh Hải Phương,

  Rất cám ơn Ông gửi thư hồi âm. Thư của Ông rất rõ rệt và rất là giúp việc. Tôi sẽ cho Nxb Cornell và gia đình nhạc sĩ Phạm Duy biết về thư này ngay lập tức. Tôi thấy là mỗi người sẽ yên tâm hơn; (và trong bản dịch Hồi Ký tôi sẽ nói về vai trò quan trọng của Công ty Phương Nam trong việc hồi hương của nhạc sĩ Phạm Duy. Tôi thấy là nếu hồi trước không có Phương Nam, thì cuộc hồi hương ấy chắc là không có cách nào thực hiện được.) Một lần nữa, xin hết lòng đa tạ Ông và các đồng nghiệp. Xin chúc Ông mọi sự tốt đẹp.
      Eric Henry 

     Và Ông Phương đã trả đáp như thế này: 

      Kính gởi ông Henry,

      Cám ơn ông đã hồi âm, công ty Phương Nam chỉ góp một phần nhỏ trong việc phổ biến những giá trị nghệ thuật của nhạc sĩ Phạm Duy đến với người dân Việt Nam.

      Cá nhân Phương Nam cũng rất cảm kích công việc anh đã làm cho nhạc sĩ Phạm Duy và hy vọng tập hồi ký được sớm xuất bản. 

      Trân trọng, Trịnh Hải Phương 

      Như vậy, Công ty Phương Nam không những không phản đối việc này, mà còn hy vọng là The Memoirs of Phạm Duy được sớm xuất bản

      Email 3: Anh Vinh thân quý, [ May 7, 2022 ]

      Cám ơn Anh gửi cho tôi thấy thiếp chúc mừng 1996, và bức thư 1995 mà đều mang bút tích của cố nhạc sĩ. Tôi sẽ tiếp tục cung cấp chi tiết về vụ tìm cách xuất bản The Memoirs of Phạm Duy. Thân ái, Eric

      Cám ơn Anh liên lạc với Duy Minh, Duy CườngDuy Đức. Tôi thấy là Duy Cường, giống như tôi, rất muốn thấy Cornell xuất bản The Memoirs. Thân ái, Eric 

      Email 4:  Anh Vinh thân quý, [ May 10, 2022 ]

      Nay mai, tôi sẽ viết thêm một chút về vụ xuất bản “The Memoirs. À, suýt quên: 3 bản hợp đồng mà tôi đã gửi cho Anh không chút nào “classified”. Muốn trích dẫn câu nào, xin tùy nghi! Chúc Anh thoải mái, yên tâm, Thân ái, Eric

NGÔI NHÀ MỚI CỦA PHẠM DUY

Hình 7a: trái, ngôi nhà mới 3 tầng trong cư xá Lê Đại Hành, phường 13, quận 11 nơi Phạm Duy đã sống tám năm còn lại cuối đời, từ trái: Phạm Duy Minh, Phạm Duy, và kiến trúc sư tân trang căn nhà. Nếu không có gì biến động, căn nhà này sẽ thuộc quyền sở hữu của gia đình Phạm Duy sau 20 năm 2005 – 2025. [nguồn: photo by Nguyễn Phong Quang]

Hình 7b: Dọn đến ngôi nhà mới, Phạm Duy Đại Lực Sĩ — chữ của Nguyên Sa, vẫn miệt mài làm việc với dàn máy điện toán Macintosh ở tuổi đã gần 90. [Photo by Nguyễn Phong Quang]
Hình 8: Hình chụp tháng 8 năm 2006 tại căn nhà Phạm Duy trong cư xá Lê Đại Hành, từ trái, Eric Henry dịch giả Bộ Hồi Ký Phạm Duy, nhạc sĩ Phạm Duy lúc đó 85 tuổi, Harry Diakoff là bạn tấm cám của Eric, cũng rất mê nhạc Phạm Duy. Harry Diakoff đã quay phim hai cô bạn gái dùng vũ điệu  để diễn giải hai ca khúc của Phạm Duy là: Ngày Trở Về, và Ru Con, khi được xem khúc phim ấy, Phạm Duy tỏ ra rất hứng thú. [tư liệu và ghi chú của Eric Henry]

Hình9: Eric Henry tới thắp nén nhang trên ngôi mộ chưa xây của nhạc sĩ Phạm Duy. Eric Henry viết: ảnh này được chụp vào ngày 13 tháng 11, năm 2013. Ngày đó tôi đi với Nguyễn Phong Quang, Duy Cường, và một bạn gái của Duy Cường từ Sài Gòn đến nghĩa trang tỉnh Bình Dương để thăm mộ Phạm Duy. Nấm mồ khi đó chưa được hoàn thành, chưa có pho tượng Phạm Duy. [Photo by Nguyễn Phong Quang]

BA BỨC THƯ NGÔ THẾ VINH GỬI

NHỮNG NGƯỜI CON NHẠC SĨ PHẠM DUY

     Qua điện thoại, tôi liên lạc được với Phạm Duy Minh, người con trai thứ hai của nhạc sĩ Phạm Duy, đang sống nơi căn nhà của cha ở Midway City. Tôi có nói với Duy Minh về ý nghĩa to lớn của bộ Hồi Ký tiếng Anh đối với sự nghiệp của Bố Phạm Duy khi được University Press của một Đại Học danh giá là Cornell nhận xuất bản. Đây cũng là điều mà Phạm Duy khi còn sống đã rất mong ước.

      Nhưng rồi qua Duy Minh – nay là con cả trong gia đình sau khi Duy Quang mất, tôi được biết là tất cả bảy anh em – cùng có quyền thừa kế giống nhau, nếu chưa có sự đồng thuận tuyệt đối 7/7 thì  chưa thể có một hợp đồng với Đại Học Cornell. Và sau đó Duy Minh đã cho địa chỉ email của ba người: Duy Minh, Duy Cường và Duy Đức để tôi có thể trao đổi liên lạc.

      Mặc dù đang rất bận rộn, nhưng do sự trân quý sự nghiệp âm nhạc / văn hóa của nhạc sĩ Phạm Duy, tôi đã không ngần ngại chia sẻ những ý nghĩ tâm huyết với Duy Minh, Duy Cường, Duy Đức và các Anh Em trong gia đình Phạm Duy, chỉ với mục đích duy nhất là làm sao vượt qua tất cả những trở ngại hiện nay để bộ Hồi Ký The Memoirs of Phạm Duy sớm được xuất bản. 

      Và sau đây là vắn tắt nội dung ba bức thư ngỏ, trong đó tôi xưng Anh với những người con của nhạc sĩ Phạm Duy, vì tất cả đều nhỏ tuổi hơn. 

      Tôi có nhắc, là mấy năm cuối đời Bố Phạm Duy đã quan tâm và kỳ vọng rất nhiều về bộ Hồi Ký bản tiếng Anh nếu được xuất bản ở Mỹ. Năm 2012, một năm trước khi Phạm Duy mất, trong một cuộc phỏng vấn Ông còn hãnh diện nhắc bộ sách The Memoirs of Phạm Duy. Đến nay 2022, 10 năm đã trôi qua, bản tiếng Anh ấy vẫn còn nằm ở Đại Học Cornell như một bản thảo. Và người dịch cuốn sách ấy là Tiến Sĩ Eric Henry, mà  mấy Anh Em cũng đã từng gặp, Anh ấy năm nay cũng đã 79 tuổi rồi, với tuổi đã cao như vậy, nếu có vấn đề gì về sức khỏe đột ngột xảy ra cho Anh ấy, thì bao nhiêu công sức của Anh Eric Henry và của Bố Phạm Duy sẽ có nguy cơ bị rơi vào quên lãng! Sẽ rất đáng tiếc!

      Tôi cũng nhắc tới điều mà Duy Minh và mấy Anh Em có thể e ngại là có vi phạm bản Hợp Đồng với Công ty Văn Hóa Phương Nam, nhưng điều đó không có — vì trước khi Bố Phạm Duy mất, bản hợp đồng với Phương Nam ghi rõ chỉ hiệu lực trong lãnh thổ Việt Nam!

      Và như vậy, tiếng nói quyết định cuối cùng để The Memoirs of Phạm Duy có thể được Cornell University Press xuất bản là nơi 7 anh em — những người con thừa kế di sản Phạm Duy.

      Tôi đã đề nghị Duy Minh, Duy Cường, Duy Đức và tất cả mấy Anh em trong gia đình nên cùng nhau bàn bạc để có một quyết định đúng vì sự nghiệp lâu dài của nhạc sĩ Phạm Duy. Vì thời gian sinh học thì không phải là bất tận. Tôi cũng nhắc cho Duy Minh, Duy Cường, và Duy Đức cùng các anh em trong gia đình nhạc sĩ Phạm Duy thêm một văn kiện từ Đại Học Cornell / attachment của “Sarah Grossman bảo đảm là Nxb Cornell sẽ tuyệt đối không bán The Memoirs of Phạm Duy trên đất Việt Nam.”

      Cho dù ngay từ ban đầu, Nhạc sĩ Phạm Duy đã đồng thuận làm việc song hành với TS Eric Henry để hình thành được bộ sách tiếng Anh đồ sộ The Memoirs of Phạm Duy. Nhưng nay do Bố Phạm Duy đã mất, Nxb University Press Cornell vẫn cần thêm một giấy cho phép / Permission của những người con thừa kế di sản Phạm Duy, tôi cũng đã gửi kèm theo eMail thứ 3 này một mẫu bản thảo / draft lá thư cho phép ấy. Một thủ tục đơn giản nhưng quan trọng để Đại Học Cornell có thể khởi sự in bộ sách The Memoirs of Phạm Duy. Bản thảo gợi ý đó như sau:   

To: Eric Henry 

Cc: Cornell University Press

 I, Phạm Duy Minh, the son of the Vietnamese song composer and author Phạm Duy, am the copyright proprietor (representing both myself and my six brothers and sisters), of the musical and literary works of my father, including his four-volume set of Vietnamese-language memoirs, Hồi Ký Phạm Duy. I, Phạm Duy Minh, hereby grant you permission to promote your annotated English translation of this autobiographical work, which I have seen and approved.

 With this letter I certify as well that I grant you permission to publish this work with Cornell University Press.

Signed,

Phạm Duy Minh

      “Và rồi tôi có nhắc tới ngày 27.01.2023 sắp tới đây sẽ là Ngày Giỗ thứ 10 của nhạc sĩ Phạm Duy. Ngày Giỗ sắp tới ấy sẽ có thêm rất nhiều ý nghĩa nếu trên bàn thờ Bố Phạm Duy, thay vì chỉ có hoa trái nhang đèn, sẽ là một bộ sách The Memoirs of Phạm Duy, điều mà Anh Vinh biết chắc chắn là nhạc sĩ Phạm Duy đã rất ao ước lúc sinh thời!

      Một cuốn sách được xuất bản bởi một Đại Học danh tiếng như Cornell, sẽ được lưu trữ nơi các thư viện lớn trên thế giới, để từ đó có thể mở ra các cuộc nghiên cứu, đây không chỉ là niềm tự hào của Bố Phạm Duy mà còn niềm hãnh diện cho các thế hệ thứ 2 thứ 3 của gia đình nhạc sĩ Phạm Duy. Hãy không để dự án lớn này bị “đứt gánh giữa đường” để sau này chỉ còn lại là sự hối tiếc!

…  

      Bằng mọi giá, Duy Minh Duy Cường Duy Đức và Các Anh Em cần có nỗ lực “tạo thuận” cho giấc mơ của Bố Phạm Duy trở thành hiện thực, để rồi ra, Duy Minh Duy Cường Duy Đức và Các Em sẽ không phải thốt nên câu là “rất tiếc”…  

      Last but not least, Think Big nha mấy Anh Em!

      Các emails này tôi đều có gửi cho Anh Eric được đọc, trong một email thứ ba không rút ngắn, có thêm đoạn này:

      Thập niên 1970, khi anh Vinh họp một Hội nghị Sinh Viên Á Châu bên Nhật, anh Vinh thấy các bảng hiệu rầm rộ quảng cáo cho cuốn phim “Love Story” mô phỏng theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của Erich Segal: câu catchphrase ấy là: “Love means never having to say you’re sorry / Yêu là không bao giờ phải nói câu là anh rất tiếc”. Anh Vinh lúc này thì nghĩ tới tình yêu thương của những đứa con đối với Bố Phạm Duy. Bằng mọi giá, Duy Minh và Các Em cần phải “tạo thuận” cho giấc mơ của Bố Phạm Duy trở thành hiện thực, để rồi ra, Duy Minh và Các Em sẽ không phải thốt nên một câu là “rất tiếc”. 

      Đó là những điều tâm huyết mà Anh Vinh muốn chia sẻ với Duy Minh, Duy Cường, Duy Đức và các Anh Em. 

      Eric Henry viết:

      Anh Vinh thân quý, Thiệt ra, tôi rất thích draft email [3] mà Anh đã gửi cho tôi thấy ngày hôm qua — trong khi đọc, tôi thấy là cách viết của nó hùng biện đến độ “chuyển trời rung đất”, có đầy đủ sức lực khiến thần quỷ rơi lệ, tuy vậy, nếu Anh thấy là draft mới nhất sẽ hữu hiệu hơn, thì tôi cũng xin tuân theo. I trust your judgement.

      Với 3 bức tâm thư được gửi đi và đã đến người nhận, nhưng rồi vẫn là sự im lặng của những người con Nhạc sĩ Phạm Duy.

      Không biết ngày mai của bộ Hồi Ký ấy sẽ ra sao: Que Sera, Sera… Và rồi trong sự tin cậy, Eric Henry sau đó cũng đã gửi tôi một copy bản thảo bộ sách The Memoirs of Phạm Duy như “Của tin gọi một chút này làm ghi. [Nguyễn Du]

PHẠM DUY – ERIC HENRY VÀ HUẾ 

      Trong một bài viết thay lời chúc mừng thượng thọ Phạm Duy 90 tuổi (2011) nhan đề Phạm Duy và Huế, Đặng Tiến viết: 

      “Nhạc sĩ Phạm Duy không có quan hệ dây mơ rễ má gì với đất Huế và người Huế, nhưng xứ thần kinh đã để lại trong nhạc phẩm anh nhiều âm hưởng và hình ảnh sâu đậm, đặc biệt sau bốn lần ghé Huế: 1944 khi đi hát rong; 1946 sau cách mạng tháng 8, từ chiến khu Nam Bộ về Bắc; 1948 trong kháng chiến chống Pháp; và 1953 khi về thành.”

      Không phải chỉ có 4 lần ghé Huế, Phạm Duy đã có rất nhiều lần ra Huế sau thập niên 1960, khi cường độ chiến tranh Việt Nam đi vào giai đoạn khốc liệt nhất, cũng là thời gian Phạm Duy viết 10 bài Tâm Ca. Riêng Nguyễn Đắc Xuân có ba bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc: Để Lại Cho Em, Nhân Danh, Chuyện Hai Người Lính. Bài Tâm Ca Số 5 – Để Lại Cho Em, là một dấu ấn đặc biệt của giai đoạn ấy.

Ca khúc “Tâm ca số 5” (nhạc: Phạm Duy, thơ: Nguyễn Đắc Xuân) qua lời giới thiệu của chính tác giả và tiếng hát Khánh Ly.

TÂM CA SỐ 5:  ĐỂ LẠI CHO EM 

(nhạc: Phạm Duy – thơ: Nguyễn Đắc Xuân)

Ðể lại cho em này nước non mình
Ðể lại cho em một nước đẹp xinh
Một miền oai linh hiển hách 
Chỉ còn dư vang thần thánh
Ðể lại cho em hèn kém của anh 
Ðể lại cho em cuộc sống mệt nhoài
Ðể lại cho em hồn nước tả tơi 
Ðường đời quanh co kẹt lối
Lòng người không căm giận dỗi
Ðể lại cho em tội lỗi qua rồi…

      Cuộc gặp gỡ giữa Phạm Duy – Nguyễn Đắc Xuân, và tôi sau này nơi căn nhà bên bờ sông Hương ấy được ghi lại trong Chương XVII cuốn tiểu thuyết Vòng Đai Xanh, với nhân vật hư cấu tên Vy, một sinh viên Phật tử tranh đấu chính là Nguyễn Đắc Xuân và một nhạc sĩ nổi danh về Dân Ca là Phạm Duy. 

      Đôi lần vào Sài Gòn, Nguyễn Đắc Xuân đều có tới tòa báo Tình Thương, Xuân đích thân đem theo một bài viết hay đôi bài thơ để được chọn đăng trên tờ báo Tình Thương.

      Khoảng tháng 4/1965, khi ấy tôi đang là Tổng thư ký tòa soạn báo Sinh Viên Y Khoa Tình Thương, Nguyễn Đắc Xuân, trong một chuyến vào thăm các Thầy ở chùa Già Lam, có tới tòa soạn 103 Nguyễn Bỉnh Khiêm gần đài Phát thanh Sài Gòn, trao tay một bài viết nhan đề: Bài Âu Ca của Phạm Duy, sau đó bài được chọn đăng trên báo Tình Thương số 17, phát hành tháng 5/1965. Nguyễn Đắc Xuân rất mê nhạc Phạm Duy và nhất là phần ca từ, Xuân viết: “lời nhạc của anh hay hơn cả thơ”. Nguyễn Đắc Xuân cũng có làm thơ, Bài Tâm Ca số 5 sáng tác năm 1965 của Phạm Duy phổ từ bài thơ “Để Lại Cho Em” của Nguyễn Đắc Xuân.  

Hình9: Bài Âu Ca của Phạm Duy, của Nguyễn Đắc Xuân được đăng trên báo SVYK Tình Thương số 17, tháng 5/1965. Trong cùng năm, Phạm Duy sáng tác bản nhạc Tâm Ca Số 5 phổ từ bài thơ Để Lại Cho Em của Nguyễn Đắc Xuân. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

      Một năm sau đó, tháng 5/1966, tôi gặp lại Nguyễn Đắc Xuân ở Huế trong chuyến ra Chùa Từ Đàm, cùng Chủ Nhiệm Phạm Đình Vy thực hiện cuộc phỏng vấn 96 Phút với Thượng Tọa Thích Trí Quang.

      Khi ấy, Nguyễn Đắc Xuân là sinh viên năm cuối ban Việt Hán Đại học Sư phạm Huế và là Đoàn trưởng Đoàn Sinh viên Quyết tử Huế, được coi như một thành phần chủ chốt của Phong trào đô thị đấu tranh của cộng sản nằm vùng nấp bóng Phật giáo, sau đó bị lộ diện và truy lùng, Xuân trốn vào sống trong các chùa và sau đó thoát ly vào mật khu của cộng sản từ cuối 1966.

      Tới Tết Mậu Thân 1968, thì Nguyễn Đắc Xuân xuống núi, lộ nguyên hình là một cán bộ cộng sản và đã có mặt ở Huế trong suốt chiều dài tấn thảm kịch Tết Mậu Thân, nơi diễn ra vụ thảm sát hơn ba ngàn thường dân Huế với các nấm mồ chôn tập thể.

      Sau 1975, với công lao cách mạng ấy, đảng viên cộng sản Nguyễn Đắc Xuân được phong làm cán bộ Tuyên giáo Thành ủy Huế, được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, rồi sau đó được bầu làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Thành phố Huế và kiêm nhiệm nhiều chức vụ khác.  

      Và từ 1966 cho tới nay 2022, chưa bao giờ tôi gặp lại người sinh viên quyết tử năm xưa – nay Xuân có thêm danh xưng là “nhà Huế học”, có người còn dễ dãi gọi Nguyễn Đắc Xuân là sử gia. Ở tuổi 85, Nguyễn Đắc Xuân (sinh năm 1937), không còn là hình ảnh gầy ốm của một sinh viên “hàn nho” thuở nào, và khi gặp phóng viên Phan Đăng, báo Công An Nhân Dân, Nguyễn Đắc Xuân với giọng hãnh tiến: “Tôi xây nhà được nhờ viết sách. Cho con cái đi học nước ngoài nhờ viết sách. Sống khỏe nhờ viết sách. [Báo Công An Nhân Dân PV nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, 25.03.2019]  

      Nguyễn Đắc Xuân – nhân danh một nhà Huế học, đã nói về Cố đô Huế như sau: “Không đâu êm ả, phẳng lặng tựa như mặt nước sông Hương nhưng cũng không ở đâu sóng lũ dữ dội như ở Huế. Khách đường xa đến Huế ai cũng thấy đời sống chậm, khoan thai, họ không hiểu Huế là nơi có những biến động không nơi nào trên nước mình sánh được.

      Và biến động “không nơi nào trên nước mình sánh được vẫn là vụ thảm sát Tết Mậu Thân 1968 – kéo dài suốt 26 ngày hay đúng hơn 624 giờ — mà mỗi giờ là giờ thứ 25 / La Vingt-cinquième Heure của mỗi người dân Huế sống sót — và trong “mắt bão” Tết Mậu Thân đó, tên tuổi Nguyễn Đắc Xuân luôn luôn được nhiều phía nhắc tới, như một tác nhân và là nhân chứng sống. 

NGUYỄN ĐẮC XUÂN “ĐỎ” VÀ NHẠC “VÀNG”

      Mùa Hè 2017, 4 năm sau ngày Phạm Duy mất, TS Eric Henry được mời ra nói chuyện ở Nhạc Viện Huế, với đề tài ban đầu là: “Nhạc Á Đông, nhạc Phạm Duy” sau phải đổi là “Lịch sử nhạc phổ thông Việt Nam và các nước láng giềng”, tên Phạm Duy không được chính thức ghi trên Poster trong sự kiện văn hóa ấy. Eric Henry qua một email, đã kể cho tôi nghe diễn tiến trước và sau chuyến đi Huế ấy:  

      “Khi nói với khán thính giả, tôi – Eric Henry muốn kể l cho họ nghe một mảnh đối thoại ngày nào giữa tôi và Phạm Duy. Phạm Duy đã hỏi tôi, “Ông nghĩ gì về nhạc vàng?” Trả đáp của tôi lúc ấy là: “Tôi thấy nhạc vàng là một loại nhạc chân thật.” [khi nghe câu ấy, Phạm Duy đã không nói gì, nhưng có vẻ nửa đồng ý nửa bất đồng ý.] 

      Khi tôi thảo luận về việc này với Nguyễn Đắc Xuân, anh Xuân đã cảnh cáo tôi là trong một nơi công cộng như Nhạc viện Huế, tôi không được nói là nhạc vàng là loại nhạc “chân thật” – vì nếu nói thế, thì mỗi người nghe sẽ hiểu là bên cạnh nhạc chân thật phải có một loại nhạc “không chân thật” nữa – và mỗi người sẽ hiểu ngay là nhạc “không chân thật” là cái gì: nhạc đỏ.

      Cho nên tôi – Eric Henry đành phải theo lời dặn Nguyễn Đắc Xuân và tự kiểm duyệt. Trong khi diễn giảng trước khán thính giả, tôi chỉ nói: “nhạc vàng là một loại nhạc mà biểu tỏ cảm tưởng chân thành về đời sống của người bình thường”. Tôi rất là không thích câu ấy — quá thiếu bề thẳng thắn, thiếu bề trung thực!

      Trong buổi nói chuyện, TS Eric Henry đã nói được những nét cơ bản về tân nhạc tại Việt Nam và một số nước trong khu vực Đông Nam Á, và cả Đại Hàn, Trung Quốc.

      TS Eric Henry chủ yếu nhấn mạnh đến nền tân nhạc Việt Nam, trong đó đáng chú ý nhất là nhạc sĩ Phạm Duy, TS Eric Henry đã nhận xét: “Nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy đa dạng như các bức tranh của danh họa Picasso”.

Hình 10: trên, TS Eric Henry trên sân khấu của Học Viện Âm Nhạc Huế, trong một buổi thuyết giảng: ngày 07/06/2017 về chuyên đề với tên ban đầu là: “Nhạc Á Đông, nhạc Phạm Duy” sau phải đổi là “Lịch sử nhạc phổ thông Việt Nam và các nước láng giềng”; dưới, TS Eric Henry đang trình diễn piano bản nhạc “Thuyền Viễn Xứ”. Riêng với hai ca khúc kể chuyện “Chiếc Cặp Tóc Thơm Tho” và “Tình Sầu”, tôi chỉ trình diễn từng đoạn để giúp thính giả hiểu cách cấu trúc trong hai bài đó. [tư liệu Eric Henry]

      Trong bài diễn văn tôi – Eric Henry, cũng kể một truyện ngụ ngôn, “Hai đứa bé” để biểu tỏ sự khác biệt then chốt giữa nhạc Phạm Duy và nhạc Trịnh Công Sơn. Có lẽ đây là phần duy nhất trong bài có mùi vị buồn cười. Câu chuyện ấy như sau:

      Có lần, khi đi thăm Phạm Duy ở nhà của ông tại Midway City bên Cali, tôi đang ngồi bên cạnh ông trên ghế sô-pha, và chúng tôi bắt đầu nói chuyện về sự khác biệt giữa nhạc của ông và nhạc Trịnh Công Sơn. Nhân dịp ấy, tôi nói với ông là đề tài này thường hay khiến tôi liên tưởng đến một truyện cười, mà tôi xin kể ra cho ông nghe. Lúc ấy tôi hơi sợ là truyện này có thể khiến ông thấy mếch lòng, nhưng tôi không sợ lắm, tại vì tôi biết  Phạm Duy không những thông minh tột độ, mà còn là người có óc khôi hài, cho nên chắc sẽ có sức thưởng thức được. Truyện là như thế này:

      Hai Đứa Bé: Có ngày một cặp vợ chồng đi thăm một bác sĩ tâm lý. Họ hết sức lo âu tại vì hai đứa con trai của họ đều có một bệnh tâm lý nặng nề.Một đứa bé thì lạc quan tuyệt đối, lạc quan quá độ, lạc quan vô lý. Còn đứa bé thứ hai có một thứ bệnh tật đối nghịch—bé ấy bi quan tuyệt đối, bi quan quá độ, bi quan vô lý. 

Sau khi bác sĩ nghe xong, ông ta nói, “Được rồi, tôi có một phương pháp điều trị hai đứa ấy. Cái quá trình điều trị mà tôi định sử dụng sẽ kéo dài ba ngày. Xin ông bà trở lại đây ngày mai với hai đứa bé. Ngày kế tiếp, khi vợ chồng trở lại với hai đứa con, thì bác sĩ đã chuẩn bị xong hai căn phòng khác nhau. Một căn phòng đầy đồ chơi. Đồ chơi ấy có rất nhiều thứ, được làm một cách rất tinh vi, và có nhiều màu sắc vừa sáng vừa đẹp. Còn căn phòng thứ hai, thì đầy cứt ngựa. Chỉ có cứt ngựa thôi, không có gì khác bên trong. 

Và bác sĩ cho đứa bi quan dọn vào phòng đồ chơi và ở lại đó ba ngày, trong khi đứa lạc quan ở lại phòng cứt ngựa ba ngày. Sau thời gian chỉ định đã qua, các người lớn bước vào phòng đồ chơi, và thấy là đứa bi quan đang khóc liên miên với những giọt nước mắt lớn rơi xuống mặt.

 Bác sĩ hỏi em: 

“Em sao thế? Em không thích đồ chơi này sao?”

Và em trả đáp:

“Những đồ chơi này thật là đẹp, thật tinh vi, thật đáng quý. Và chính vì thế tôi cảm thấy đau buồn vô cùng. Vì tôi biết rõ là những đồ chơi này không thể tồn tại vĩnh viễn. Một ngày sẽ đến khi tất cả đồ chơi này sẽ bị tan vỡ hết.” Nói xong, em bé khóc lần nữa, với vẻ bi thảm hơn trước. 

Rồi các người lớn bước vào phòng cứt ngựa. Họ thấy là bé lạc quan có vẻ hết sức vui sướng. Nó đang reo vui và đang nhảy liên miên từ một góc phòng đến một góc phòng khác. 

Bác sĩ hỏi: 

“Em sao thế? Cứt ngựa xung quanh không khiến em thấy chán sao?” 

Và em trả đáp: 

“Cứt ngựa thật nhiều như vậy, thì chắc chắn có một con ngựa thực sự ở đâu đó!” Và em ấy tiếp tục nhảy và reo vui.

 Xin hỏi quý vị cảm thấy như thế nào—đứa bé nào là Phạm Duy, và đứa bé nào là Trịnh Công Sơn? Khi kể ra truyện này cho Phạm Duy nghe, tôi thấy là cái chi tiết mà ông tâm đắc nhiều nhất là chi tiết cứt ngựa, nhưng sau khi nghe, ông không tỏ ra ý kiến nào về sự so sánh mà tôi đã muốn đưa ra. 

      Sau truyện “Hai đứa bé”, tôi – TS Eric Henry -bàn bạc về hai ca khúc kể truyện của Phạm Duy: “Chiếc cặp tóc thơm tho và “Ngày xưa một chuyện tình buồn” [Hương Ca số 9 và số 4],và đã đi sâu phân tích từ chủ đề, ca từ, cấu trúc, giai điệu, 2 ca khúc điển hình ấy trong số 10 bài Hương Ca của Phạm Duy được sáng tác mấy năm cuối ở hải ngoại, trước khi Phạm Duy chọn về sống ở Việt Nam.

      Riêng các sinh viên ở nhạc viện Huế hoàn toàn không có phản ứng nào cả—lý do là họ đang ngồi với hằng trăm bạn đồng học, xen lẫn với công an văn hóa và trong một hoàn cảnh công khai như vậy—làm sao mà có đầy đủ can đảm để đặt ra bất cứ câu hỏi hoặc nhận xét nào đấy? Rất tiếc là không thể có cuộc gặp mặt riêng tư với một số nhóm nhỏ sinh viên—nếu đã làm như thế được, thì chắc là kết quả sẽ khác hẳn.

MỘT CHÚT RIÊNG TƯ

      Được Eric Henry tặng sách, như một đáp lễ, qua Amazon tôi gửi tặng Eric bộ sách Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa. Chỉ 3 ngày sau, tôi nhận được email hồi âm của Eric:

      “Hoan hô! Amazon đúng hẹn rồi!  Tôi vừa nhận được Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa, Tập 1 và Tập 2. Trong khi coi Tập 2, tôi hài lòng và quan tâm đặc biệt khi thy là Anh đã chú ý nghệ thuật tạo hình trong những bài viết về họa sĩ Tạ Tỵ và hai điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ và Mai Chửng. Tôi cũng muốn thấy những gì mà Anh đã viết về John Steinbeck. Tôi suốt nhiều năm hết sức đam mê ngôn ngữ đẹp do Steinbeck tạo ra trong tiểu thuyết (gần như đầu tay) của anh: Tortilla Flat. Có hai quyển sách của Anh, tôi bây giờ có cơ hội được giáo dục về nhiều khía cạnh của văn hóa Việt Nam. Đây là một niềm vui lớn!

      Rồi là một email tiếp theo:

     “Tôi đã coi lại tập Chân Dung 1, và thấy là ngoại trừ các bài viết về Hoàng Ngọc Biên, Đinh Cường và Nghiêu Đề, có bài viết về họa sĩ Nguyên Khai nữa. Tôi rất muốn biết thêm về những người đã “cống hiến cả cuộc đời của mình cho nghệ thuật” này.

      Giống như Anh, tôi suốt nhiều năm đã được cái may mắn trở nên khá thân mật với nhiều người “bất thường tầm — vẫn chữ của Eric. Tiếc thay, họ đang dần dần trở thành “người của trăm năm cũ” rồi. Tôi nên bắt chước Anh và thử viết một tập “chân dung” để vinh danh họ. 

       Và chẳng thể ngờ, cũng từ đây giữa hai chúng tôi nảy nở ra mối tương quan mới, với một dự án mới: TS Eric Henry dự định sẽ dịch sang tiếng Anh hơn một ngàn trang  toàn bộ hai tập Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa của tôi. Tôi cũng hiểu rất rõ rằng, Eric cũng đang còn bận rộn với bao nhiêu công trình dở dang khác của anh.

      “Vạn sự khởi đầu nan”, chúng tôi vẫn nói với nhau như thế. Tôi còn nói thêm câu: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.Ngay hôm sau, tôi lại nhận được một email khác của Eric:

      Anh Vinh thân quý, Dưới đây là hình chụp của cụ Nguyễn Bá Học (1857 – 1921), tác giả danh ngôn “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.  Câu đó tôi đã ngâm đi ngâm lại suốt năm mươi mấy năm vừa qua, là một phần căn bản của cuộc sống Eric Henry.   

Danh ngôn này hình như là biến thể của một câu trong thơ Bạch Cư Dị 白居易 (772 – 846): 行路難不在水不在山,只在人情反覆間. (Hành lộ nan bất tại thủy bất tại sơn, chỉ tại nhân tình phản phúc gian), ý nghĩa hơi khác, nhưng cũng sâu sắc—tuy vậy, không có tinh thần hào hùng của câu Nguyễn Bá Học.

      Không lâu sau đó, tôi nhận được một chương sách dịch đầu tiên Chân Dung Mặc Đỗ của bộ sách tiếng Anh dự tính có nhan đề là: Creative World of the South Vietnam 1954 – 1975. Và rồi liên tiếp sau đó, cứ mỗi hai tuần hay mười ngày, tôi lại nhận được bản dịch một Chân Dung mới. Và hôm nay là Dương Nghiễm Mậu: Forty Years of Dương Nghiễm Mậu And the “Autobiography of Nguyễn Du” cũng là Chân Dung thứ sáu vừa được Eric dịch xong, cùng với một lá thư của dịch giả Eric Henry, mà tôi muốn chia sẻ với bạn đọc, thay cho một kết từ của bài viết này.

      Anh Vinh thân quý, Anh thật là “nhà báo của các nhà báo – Eric dùng cụm từ trong bài viết về Chân Dung Như Phong.  Đối với Anh, thế giới này không có cách giữ được bất cứ việc bí mật nào — sợ là chẳng bao lâu nữa sự hiểu biết của Anh về quá khứ Eric Henry sẽ vượt qua chính Eric Henry!

      Tôi bây giờ đang nghĩ về một bức thư mô tả các tác phẩm của Anh cho một nhà xuất bản. “Chân Dung tập 1” tôi tạm gọi là: “The Creative World of South Vietnam, vol. 1:  Eighteen Literary, Artistic, and Cultural Portraits. Tôi đã làm một danh sách cho các nhà xuất bản dễ thấy nội dung là như thế nào (và sẽ làm một danh sách tương tự cho tập 2):  Tôi bắt đầu suy nghĩ về việc liên lạc với các nhà xuất bản. Eric

     Để hoàn tất bản dịch hơn một ngàn trang sách, rồi tìm được một nhà xuất bản Mỹ trong dòng chính như University Press, còn là cả một chặng đường dài gian truân, như qua một câu thơ Tản Đà:

      Hai vai gánh nặng con đường thời xa, và rồi chúng tôi cùng chúc cho nhau, giữ sao cho chân cứng đá mềm.  

      Và cả hai chúng tôi cũng không bao giờ quên, là làm sao bằng mọi giá sớm xuất bản cho được bộ sách The Memoirs of Phạm Duy, một trong những ước mơ của nhạc sĩ Phạm Duy nay vẫn còn đang dang dở.

NGÔ THẾ VINH

Little Saigon, 08/08/2022

THAM KHẢO

1/ “Phạm Duy and Modern Vietnamese History.”Eric Henry. Southeastern Review of Asian Studies 27 (2005), pp. 89 – 105.

2/ The Memoirs of Phạm Duy. Translated from the Vietnamese by Eric Henry. To be published by Cornell University Press. 

3/ The curious memoirs of the Vietnamese composer Phạm Duy. John C. Schafer. Journal of Southeast Asia Studies. Feb 2012. The National University of Singapore, 2012.

4/ Tìm hiểu Nhạc Phạm Duy / Phạm Duy’s Study. Nhiều tác giả. Lưu hành nội bộ. [nguồn: Phạm Duy, tháng Giêng 2007]

5/ Phỏng Vấn GS ngôn ngữ học Tiến sĩ Eric Henry. Quỳnh Lệ. Người Viễn Xứ, 17/07/2005.

Giới thiệu Tuyển tập II Chân dung Văn học Nghệ thuật và Văn hóa của Ngô Thế Vinh

Tôi hân hạnh giới thiệu đến bạn đọc cuốn sách Tuyển tập II Chân dung văn học nghệ thuật và văn hóa của Nhà văn Ngô Thế Vinh. Đây là một công trình mang tính ‘anthology’ giới thiệu 15 văn nghệ sĩ và nhà văn hóa thành danh thời trước 1975 ở miền Nam Việt Nam. Những tác phẩm, chân dung và chứng từ trong tuyển tập này minh chứng cho một nền văn nghệ nhân bản, năng động và đột phá đã bị bức tử sau biến cố 30/4/1975. Do đó, tuyển tập là một nguồn tham khảo quý báu về di sản của nền văn nghệ và giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa.

Để cảm nhận đầy đủ ý nghĩa của Tuyển tập này, cần phải điểm qua diễn biến của nền giáo dục và văn nghệ miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa trước và sau 1975. Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) chỉ tồn tại vỏn vẹn 20 năm. Nhưng trong một quãng thời gian tương đối ngắn ngủi đó, VNCH đã để lại một di sản quý báu về một nền giáo dục mà ngày nay có người ‘tiếc nuối vô bờ bến’. Nền giáo dục VNCH được xây dựng trên ba trụ cột Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng. Nhân Bản là lấy con người làm gốc, là cứu cánh chứ không phải phương tiện của đảng phái nào. Trụ cột Dân Tộc là nền giáo dục đó có chức năng bảo tồn phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Trụ cột Khai Phóng là nền tảng để nền giáo dục tiếp nhận những thành tựu và kiến thức khoa học kỹ thuật trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ và các giá trị văn hóa nhân loại, giúp cho Việt Nam hội nhập thế giới.

Ngoài giáo dục, VNCH còn để lại một di sản đồ sộ về văn học – nghệ thuật. Người viết bài này cảm thấy mình may mắn vì lớn lên và được thụ hưởng những tác phẩm trong nền văn học đậm chất nhân văn đó, được tiếp xúc với những tư tưởng mới từ phương Tây qua những sách dịch và sách triết học. Nếu phải mô tả một cách ngắn gọn nền văn nghệ đó, tôi sẽ tóm tắt trong bốn chữ: nhân bản, tươi tắn, năng động, đột phá. Tính nhân bản và tươi tắn có thể thấy rõ qua những tác phẩm thơ và nhạc được giới thanh niên yêu thích. Tính năng động và đột phá được minh chứng qua những diễn đàn quan trọng như tạp chí Bách Khoa, từng làm say mê chúng tôi một thời. Nhà văn Võ Phiến từng nhận xét rằng, “Trước và sau thời 1954 – 1975, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy.”

Tuy nhiên, sau biến cố 1975, nhà cầm quyền mới với chủ trương “chuyên chính vô sản” đã có nhiều biện pháp nhằm hủy diệt những di sản đó. Với sự phụ họa của một số cây bút ngoài Bắc và một số người ‘nằm vùng’ trong Nam, họ kết án rằng nền văn nghệ VNCH là “văn học thực dân mới” hay “văn học tư sản” có mục đích phục vụ cho thực dân. Họ quy chụp cho các tác giả miền Nam là “những tên biệt kích văn hóa“, “phản động và suy đồi“, “thù địch với nhân dân“, “phục vụ đắc lực nhất cho Mỹ Ngụy“. Không chỉ vu khống và quy chụp, nhà cầm quyền còn phát động nhiều chiến dịch lùng sục tịch thu và tiêu hủy sách báo cũ, và bắt giam nhiều tác giả nổi tiếng trong các trại tập trung để ‘cải tạo tư tưởng‘. Chiến dịch tiêu diệt di sản của nền văn nghệ VNCH được thực hiện một cách có tổ chức và kéo dài đến 20 năm.

Hậu quả của sự vùi dập đó là một thế hệ người Việt hoặc là không hiểu biết gì về nền văn nghệ VNCH, hoặc là hiểu biết một cách méo mó do chánh sách tuyên truyền gây ra.

Tuy nhiên, trong thời gian chừng 10 năm trở lại đây, quan điểm của giới cầm quyền về nền văn nghệ VNCH đã thay đổi đáng kể. Theo thời gian, họ đã nhận thức rằng nền văn nghệ thời VNCH là một di sản văn nghệ của dân tộc. Theo đó, nhiều tác phẩm văn học và sách khảo cứu văn hóa thời VNCH đã được tái xuất bản, và khá nhiều nhạc phẩm sáng tác từ trước 1975 đã được ‘cho phép’ lưu hành. Nhiều tác giả từng bị vu cáo là ‘biệt kích văn hóa’ cũng được ghi nhận đúng đắn. Theo một ước tính gần đây, đã có chừng 160 tác giả thời VNCH đã được ‘phục dựng’.

Song song với sự ghi nhận giá trị của nền văn nghệ VNCH, người ta cũng bắt đầu tìm hiểu và đánh giá đúng hơn về nền giáo dục VNCH. Ở miền Bắc Việt Nam trước 1975 và Việt Nam sau 1975 nền giáo dục không có triết lý giáo dục. Người ta loay hoay đi tìm một triết lý giáo dục cho Việt Nam, nhưng dù đã có nhiều cố gắng mà vẫn chưa đi đến một sự đồng thuận, có lẽ vì sự chi phối quá nặng nề của thể chế toàn trị.

Những nhận thức mới đó và sự loay hoay đi tìm một triết lý giáo dục hiện nay gián tiếp nói lên rằng nền văn nghệ và giáo dục VNCH đã đi trước thời đại.

Trong bối cảnh đó, Tuyển tập chân dung văn nghệ sĩ của Nhà văn Ngô Thế Vinh là một đóng góp có ý nghĩa. Tuyển tập I bao gồm ‘chân dung’ của 16 tác giả và 2 nhà giáo: Mặc Đỗ, Như Phong, Võ Phiến, Linh Bảo, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn-Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Biên, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Nguyên Khai, Cao Xuân Huy, Phùng Nguyễn, Phạm Biểu Tâm và Phạm Hoàng Hộ. Trong Tuyển tập II, bạn đọc sẽ ‘gặp’ 15 tác giả:  Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn Trung, Hoàng Tiến Bảo, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư & Ngọc Yến, Phan Nhật Nam, John Steinbeck, và đặc biệt là Dohamide (Đỗ Hải Minh).

Viết chân dung của những tác gia là một việc rất khó khăn, nhưng Nhà văn Ngô Thế Vinh đã có một ‘công thức’ dung hòa giữa thông tin về cá nhân và thông tin về tác phẩm của họ. Không giống như các tuyển tập văn học khác thường chú trọng vào tác phẩm, Nhà văn Ngô Thế Vinh tập trung vào tác giả và hoàn cảnh sáng tác. Do đó, mỗi tác giả được mô tả bằng một tiểu sử ngắn, những tác phẩm chánh, và đặc biệt là những tâm tư cũng như hoàn cảnh ra đời của các tác phẩm. Qua những thông tin đó, có thể dễ dàng phác họa các tác giả như sau:

  • Nguyễn Tường Bách: nhà cách mạng gian truân & Hứa Bảo Liên: nhà văn gốc Hoa mang tâm hồn Việt.
  • Tạ Tỵ: một họa sĩ tiên phong và một nghệ sĩ đa tài.
  • Trần Ngọc Ninh: một đời mang ước vọng duy tân cho Việt Nam.
  • Lê Ngộ Châu: linh hồn của diễn đàn Bách Khoa khai phá những cái mới.
  • Nguyễn Văn Trung: lập thuyết gia cánh tả nhiều lận đận.
  • Hoàng Tiến Bảo: một nhân cách lớn.
  • Lê Ngọc Huệ: điêu khắc gia làm tỏa sáng sự mầu nhiệm Mân Côi.
  • Nghiêm Sỹ Tuấn: một tấm gương trí thức – y sĩ dấn thân thời chiến.
  • Đoàn Văn Bá: một tấm gương sáng về lòng dũng cảm và y đức của một y sĩ.
  • Mai Chửng: một tượng đài của cây lúa miền Tây.
  • Trần Hoài Thư & Ngọc Yến: người nâng niu và bảo tồn di sản văn học nghệ thuật VNCH.
  • Phan Nhật Nam: một cây bút nhà binh sắc bén và phân định chánh trị rạch ròi.
  • Dohamide: một nhà khảo cứu văn hóa Chàm ôn hòa và đầy trăn trở.
  • John Steinbeck: nhà văn cánh hữu với những trang viết thật về cuộc chiến Việt Nam.

Một trong những nhân vật mà tôi nghe nhiều trước đây, nhưng qua Tuyển tập này mới biết hơn: đó là ông Lê Ngộ Châu, chủ bút Tạp chí Bách Khoa. Có thể xem ông là một nhà báo. Có thể ông không lừng danh như các tác giả Mai Thảo, Du Tử Lê, Doãn Quốc Sỹ, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, v.v…, nhưng ông là người giúp cho họ nổi tiếng qua tạp chí Bách Khoa. Đối với tôi, tạp chí Bách Khoa là một diễn đàn trí thức quan trọng nhứt nhì ở miền Nam về văn hóa, văn nghệ, xã hội, kinh tế, và cả chánh trị. Qua 426 số báo từ 1957 đến 1975, Bách Khoa đã giới thiệu hơn 100 tác giả đến công chúng, những người sau này trở thành nổi tiếng. Những người tử tế ngoài Bắc trước 1975 nhận xét rằng Bách Khoa là một tạp chí nghiêm chỉnh, ngôn ngữ đàng hoàng, và là diễn đàn giúp họ hiểu các vấn đề ở miền Nam. Qua Tuyển tập II, độc giả sẽ biết rằng ông Lê Ngộ Châu là ‘linh hồn’ của tạp chí Bách Khoa.

Nếu ông Lê Ngộ Châu là người tạo ra di sản văn hóa, thì Nhà văn Trần Hoài Thư và phu nhân Nguyễn Ngọc Yến là người phục hồi di sản đó. Nhà văn Trần Hoài Thư từng là một nhà giáo, quân nhân, đi tù cải tạo, và khi sang Mỹ thì thành chuyên gia về điện toán. Nhưng trước và trên hết, Trần Hoài Thư là người của văn chương. Ông  khởi sự viết văn từ năm 1964, và từng có bài trên tạp chí Bách Khoa. Dù bị chi phối bởi ‘cơm, áo, gạo, tiền’ trong đời sống ở Mỹ, nhưng hai vợ chồng Trần Hoài Thư và Nguyễn Ngọc Yến dành nhiều thời gian cất công sưu tầm, hệ thống hóa, điện toán hóa, và kết quả là một thư mục quý báu về các tác phẩm văn học ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Ông thổ lộ rằng … nhờ văn chương mà tiếng chuông ngân vang, như những niềm vui lẫn tự hào kỳ diệu. Nhờ văn chương mà ta quên đi thân phận nhục nhằn, nhờ văn chương mà ta thấy ta cao lớn hơn bao giờ.”  Có thể nói một cách tự tin rằng so với những bài viết về Trần Hoài Thư trước đây, bài viết về Trần Hoài Thư trong Tuyển tập II là đầy đủ nhứt. Bài viết còn có những bức hình rất cảm động về đôi uyên ương này trong tuổi xế bóng. Sự tận tụy cho văn học của họ thật đáng ngưỡng phục.

Một học giả khác có nhiều đóng góp cho văn hóa học thuật trước 1975 là Giáo sư Nguyễn Văn Trung. Ông cũng là người có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của sinh viên thời trước 1975 như tôi. Tuy thời đó (thập niên 1960 – 1970) ông còn tương đối trẻ, nhưng rất năng động trong các hoạt động văn hóa và học thuật. Ở tuổi 28, ông cùng với các đồng nghiệp ở Đại học Huế sáng lập ra các tạp chí nổi tiếng Đại Học (1958 – 1964). Sau đó, ông sáng lập các tạp chí như Hành Trình sau này là Đất Nước (1964 – 1966) và Trình Bầy (1970 – 1972). Có thể nói ông là một trí thức thiên tả, nên các tạp chí do ông phụ trách cũng mang màu sắc tả khuynh. Chẳng hạn như tạp chí Hành Trình tuyên bố chủ trương ‘làm cách mạng xã hội không cộng sản’. Hành trình trí thức của ông khá lận đận trong một Việt Nam với nhiều chao đảo. Nhưng những lận đận của một trí thức như ông là một bài học kinh nghiệm cho thế hệ trí thức tương lai.

Một nhân vật quan trọng được đề cập trong Tuyển tập là nhà văn người Mỹ John Steinbeck, người được trao giải Nobel văn học năm 1962. Có thể xem John Steinbeck là một trí thức cánh hữu, vì ông công khai ủng hộ sự tham chiến của Mỹ ở Việt Nam. Ông tin rằng, Nhà văn phải tin tưởng rằng điều hắn đang làm là quan trọng nhất trên thế giới. Và hắn phải giữ ảo tưởng ấy cho dù khi biết được điều đó là không thực.” Ông không tin vào những bản tin về cuộc chiến Việt Nam của giới báo chí cánh tả, nên ông xung phong đi Việt Nam vào cuối năm 1966 để tận mắt nhìn thấy cuộc chiến và ghi lại cảm nhận cho riêng mình. Những cảm nhận và nhận định đó sau này được sưu tập thành một cuốn sách ‘Dispatches from the War’ (xuất bản 2012). Như Nhà văn Ngô Thế Vinh nhận xét rằng những trang ông viết là một bài học cho các thế hệ tương lai.

Tuyển tập dành nhiều trang cho họa sĩ Tạ Tỵ, và hai nhà điêu khắc Lê Ngọc Huệ và Mai Chửng. Những trang viết về Tạ Tỵ thật hấp dẫn, vì cuộc đời và sự nghiệp đa dạng. Ông nổi tiếng là một họa sĩ, nhưng ông còn là người lính của hai chiến tuyến khác nhau, là tù nhân, là người tị nạn, và cũng là nhà văn. Cá nhân tôi biết đến Tạ Tỵ qua cuốn Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn xuất bản trước năm 1975 và sau này là cuốn hồi ký Đáy Địa Ngục viết về những năm tháng ông đi tù cải tạo. Đó là những tác phẩm viết ra bởi ‘người trong cuộc’, nên chất chứa nhiều nỗi niềm về thân phận của người lính sau cuộc chiến và thân phận lưu vong.

Tuyển tập II có một tác giả mà tôi nghĩ rất mới đối với nhiều người: Dohamide hay Đỗ Hải Minh. Dohamide là người gốc Chàm (nay gọi là ‘Chăm’), là một nhà khảo cứu về văn hóa và dân tộc Chàm. Từ năm 1962, ông là một trong những tác giả có nhiều bài viết khảo cứu về văn hóa Chàm cho tạp chí Bách Khoa. Tác giả Ngô Thế Vinh nhận xét rằng “Dohamide với suốt một cuộc đời đau đáu đi tìm về cội nguồn, chỉ mong sao phục hồi được nền văn hóa Champa như một căn cước của dân tộc Chăm nhưng rồi cuối đời Dohamide cũng phải đứng trước những ‘Cộng đồng Chăm đôi bờ’.” Tại sao đứng trước đôi bờ? Tại vì cộng đồng Chàm bị giằng co giữa một bên là mối hận ‘mất nước’ đòi ly khai và một bên là hòa nhập vào đại gia đình dân tộc Việt Nam. Dohamide muốn dùng văn hóa và những thành quả khảo cứu của ông để thuyết phục giới trẻ không bị lôi cuốn vào những trào lưu cực đoan. Trong bối cảnh căng thẳng giữa các sắc tộc, những học giả độc lập và ôn hòa như Dohamide có thể giúp cho các sắc tộc hiểu nhau hơn, và nhà cầm quyền hoạch định những chánh sách đem lại công bằng và nhân văn cho các sắc tộc.

Những trang viết về các nhân vật Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Trần Ngọc Ninh, Hoàng Tiến Bảo, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, và Phan Nhật Nam cũng giàu hàm lượng thông tin. Đó là những bài viết có nhiều dữ liệu mới chưa từng được công bố trước đây, giúp cho người đọc hiểu hơn về những suy tư đằng sau các tác phẩm của họ.

Một đặc điểm độc đáo của Tuyển tập là những hiện vật, hình ảnh, và thủ bút của tác giả. Những chứng từ mang tính lịch sử này rất đáng để thế hệ sau sử dụng làm chất liệu cho các nghiên cứu về văn học và văn hóa thời Việt Nam Cộng Hòa. Trong thời gian gần đây, một người cầm quyền chánh trị cao nhứt ở trong nước phàn nàn rằng Việt Nam thiếu những tác phẩm hay và lớn, thì Tuyển tập này sẽ giúp cho người đó suy nghĩ lại.

Nhà văn Ngô Thế Vinh là một bác sĩ, nên văn phong của anh mang dáng dấp khoa học: trong sáng. Độc giả sẽ không tìm thấy những ngôn từ hoa mỹ hay những ví von thái quá trong Tuyển tập; thay vào đó là những trang mô tả sự việc đã xảy ra như thế nào, ở đâu, và lúc nào. Văn phong trong tuyển tập không có những mỹ từ, nhưng là những chữ chính xác, và do đó, độc giả chỉ có thể hiểu theo logic đường thẳng.

Nền văn nghệ và giáo dục VNCH là tập hợp nhiều tác giả và tác phẩm. Qua hai tuyển tập chân dung văn nghệ sĩ, Nhà văn Ngô Thế Vinh dìu dắt độc giả đi qua một hành trình văn học và văn hóa, và gặp những tác giả tiêu biểu đã có những đóng góp mang tính khai phá trong nền văn học nghệ thuật đó. Là một người trong cuộc và chứng nhân của cuộc chiến vừa qua, tác giả mô tả hành trình văn nghệ đã qua như là người thư ký của thời cuộc. Nhưng là một người lưu vong lúc nào cũng trăn trở về quê hương, tác giả nhìn lại hành trình văn nghệ đã qua bằng một lăng kính mới, một cách hiểu mới, và đó chính là một đóng góp có ý nghĩa của Tuyển tập.

Viễn cảnh 2022: Tung hoành với Sông Cờ Đỏ, Trung Quốc vắt kiệt nguồn nước Châu Á

Ngô Thế Vinh

Dẫn Nhập _ Các dân tộc sống trên lục địa Châu Á ở hạ lưu các dòng sông từ Tây Tạng và Trung Quốc chảy xuống, trên 1,6 tỉ người này đã phải gánh chịu hết cả thiệt hại kinh tế nông nghiệp, ngư nghiệp và môi trường các hạ vực đã bị thoái hóa dần dần suốt nhiều thập niên qua trong khi Trung Quốc hưởng hết ích lợi nhờ thủy điện vì trên thượng nguồn họ xây hàng trăm con đập, tàng trữ hàng trăm tỉ mét khối nước, giam hãm 90% phù sa và thay đổi toàn diện dòng chảy môi sinh trên toàn lưu vực. Nhưng tham vọng Trung Quốc chưa dừng lại, Trung Quốc đã bắt đầu xây một đại công trình mang tên Sông Cờ Đỏ, dài trên 6.180 km để hàng năm chuyển dòng lấy 60 tỉ mét khối nước ngay từ nguồn không cho xuống hạ lưu sông Mekong, Salween và Brahmaputra. Sông Cờ Đỏ của Trung Quốc là một mối đe doạ tiềm tàng to lớn, với khả năng gây ra tội ác cho nhân loại – imminent threat to humanity. Trung Quốc tránh không ký bất cứ một hiệp ước hợp tác sông ngòi quốc tế nào, để họ đơn phương thực hiện những tham vọng của mình. Không một siêu cường nào trên thế giới ngạo mạn khai thác dòng nước bất chấp cuộc sống của bao nhiêu triệu cư dân hạ lưu như thế.  Việt Ecology Foundation

*

Bắc Kinh có khả năng dùng “vũ khí nước” như một đòn ngoại giao bắt 25% dân số thế giới làm con tin / holding hostage. Khác với những hồ chứa đập thuỷ điện, vừa giữ nước vừa xả nước, Sông Cờ Đỏ là một chiến lược đổi dòng lấy nước – có nghĩa là 100% lượng nước này sẽ bị mất đi – không bao giờ được đền bù,  đối với các quốc gia hạ nguồn. [1]

Hình 1: Quốc gia Tây Tạng, nơi phát xuất những con sông lớn của Châu Á: (1) Dương Tử, (2) Hoàng Hà, (3) Indus, (4) Sutlej, (5) Yarlung Tsangpo – Brahmaputra, (6) Irrawaddy, (7) Salween, (8) Mekong. [nguồn: Bản đồ cập nhật của Michael Buckley, Meltdown in Tibet, Palgrave MacMillan 2014] [3]

CƠ THỂ HỌC CÁC CON SÔNG LỚN CHÂU Á

Các con sông lớn như mạch sống của toàn Châu Á đều bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng, còn được mệnh danh là Cực Thứ Ba của Trái Đất.

_ Đông Tây Tạng: phía đông là khởi nguồn của hai con sông lớn hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Trung Quốc: (1) sông Dương Tử 6.500 km dài nhất Châu Á chảy về hướng đông theo suốt chiều ngang lãnh thổ Trung Hoa tới Thượng Hải – Shanghai, (2) sông Hoàng Hà thì chảy về hướng bắc rồi chuyển sang hướng đông tới Thiên Tân – Tianjin, và cả hai cùng đổ ra biển Trung Hoa.

_ Tây Tây Tạng: phía tây bắc,(3) sông Indus(4) sông Sutlej chảy về hướng tây nam và giao thoa với ba con sông khác để hình thành vùng châu thổ Punjab giữa hai nước Ấn và Hồi. Phía tây nam(5) sông Yarlung Tsangpo là “con sông cao nhất thế giới”, với các ghềnh thác xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn, rồi chảy qua Ấn độ, Bhutan và Bangladesh, con sông đổi tên là sông Brahmaputra trước khi đổ vào Vịnh Bengal, Ấn Độ Dương. 

_ Nam Tây Tạng: phía nam là ba con sông (6) sông Irrawaddy(7) sông Salween chảy xuống Miến Điện theo hướng bắc nam trước khi đổ vào Biển Andaman. Riêng con (8) sông Mekong chảy qua nhiều quốc gia  với nhiều tên khác nhau, từ Tây Tạng: có tên Dza-Chu có nghĩa “nguồn nước của đá”, tiếp tục chảy về hướng nam băng qua những hẻm núi sâu của tỉnh Vân Nam với tên Trung Hoa là Lan Thương Giang / Lancang Jiang “con sông xanh cuộn sóng”, qua đến biên giới Lào Thái mang một tên khác Mae Nam Khong “con sông mẹ”, xuống Cam Bốt lại mang một tên khác nữa Tonle Thom “con sông lớn”, cuối cùng chảy qua Việt Nam mang tên Cửu Long với hai nhánh chính là sông Tiền và sông Hậu đổ ra Biển Đông trước kia bằng chín cửa sông, nhưng nay chỉ còn bảy. [Hình 1] 

TÂY TẠNG KHÔ HẠN CHÂU Á CHẾT

Và cũng dễ hiểu tại sao, bằng mọi giá Trung Quốc phải chiếm cho bằng được Tây Tạng – vùng cao nguyên chiến lược vô cùng quan trọng, giàu có về nguồn nước, phong phú về tài nguyên thiên nhiên – đó cũng là “định mệnh sinh học – biological destiny” của Tây Tạng, một quốc gia nhỏ bé với chưa tới 1,5 triệu dân bản địa (thống kê 1965, dân số gốc Tây Tạng 1,321,500; Leo A. Orleans, The China Quarterly Jul-Sep, 1966) và đang bị Hán hoá, người Tây Tạng nay đã trở thành thiểu số ngay trên đất nước mình.

Phải chứng kiến tốc độ tàn phá sinh cảnh Tây Tạng, ngay nơi đầu nguồn,  các con sông lớn Châu Á đang bị Trung Quốc khai thác một cách triệt để với những đập thuỷ điện, cùng với nạn phá rừng tự sát / suicidal deforestation, tới các kế hoạch khai thác hầm mỏ đại quy mô, gây ô nhiễm nguồn nước. Hiện tượng biến đổi khí hậu với khí thải từ các nhà máy đốt nhiên liệu hoá thạch đang gây hiệu ứng nhà kính khiến khối băng tuyết tưởng như vô tận nơi cực thứ ba trái đất đang nhanh chóng bị đẩy lùi và tan rã.

Cũng để thấy rằng, những con sông Châu Á từng nguyên sinh trong thế kỷ trước thì nay đã biến dạng suy thoái và không còn như xưa nữa.

Cảnh tượng ấy khiến Đức Dalai Lama đang lưu vong phải thốt lên lời kêu cứu và ông đã chọn ưu tiên bảo vệ môi sinh thay vì những vấn đề chính trị nóng bỏng. Trong một lần gặp gỡ với Đại sứ Hoa Kỳ Timothy Roemer ở New Delhi, thủ đô Ấn Độ vào tháng 8/2009, Đức Dalai Lama nói rằng:  

“Lịch trình chính trị có thể hoãn lại 5 -10 năm nhưng cộng đồng quốc tế cần tập trung quan tâm tới biến đổi khí hậu trên Cao nguyên Tây Tạng: khối băng tuyết đang tan rã, nạn phá rừng, và ô nhiễm nguồn nước do những dự án khai thác hầm mỏ, là những vấn đề cấp thiết, không thể chờ đợi.” [nguồn: Wikileaks Cables, the Guardian 10 Aug. 2009]

Bắc Kinh xác nhận là sẽ xây thêm các con đập thuỷ điện lớn trên thượng nguồn sông Yarlung Tsangpo – Brahmaputra, trước khi con sông xuyên quốc gia ấy chảy sang Ấn Độ, Bhutan và Bangladesh. Brahmaputra là dòng sông huyết mạch của ba quốc gia này

Khi các công trình hoàn tất, tổng công suất / total capacity của những con đập thủy điện trên Cao nguyên Tây Tạng sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp (Three Gorges Dam): 22.500 megawatts, lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử.

Hình 2: Bích chương của Hội Phụ nữ Tây Tạng: Hâm Nóng Toàn Cầu trên Cao nguyên Tây Tạng; Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết. [3]


Cho dù đang có những mối lo âu về sự tồn vong của quê hương Tây Tạng nhưng Đức Dalai Lama rất quan tâm tới những vấn đề chung của nhân loại. Ông nói tới vấn đề môi sinh rất sớm với tầm nhìn xa và trong mối tương quan toàn cầu và “phải làm sao giữ xanh hành tinh này, qua thông điệp nhân Ngày Môi Sinh Thế Giới / World Environment Day [ngày 05.06.1986]:

“Hòa bình và sự sống trên trái đất đang bị đe dọa bởi những hoạt động của con người thiếu quan tâm tới những giá trị nhân bản. Hủy hoại thiên nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là do hậu quả của lòng tham lam và thiếu tôn kính đối với sự sống trên hành tinh này… Chúng ta dễ dàng tha thứ cho những gì đã xảy ra trong quá khứ do bởi u minh. Nhưng ngày nay do hiểu biết hơn, chúng ta phải duyệt xét lại với tiêu chuẩn đạo đức là phần gia tài nào mà chúng ta thừa hưởng, phần nào chúng ta có trách nhiệm sẽ truyền lại cho thế hệ mai sau.” [3]

SÔNG CỜ ĐỎ / HỒNG KỲ HÀ 红旗河

MỘT KHỦNG LONG CỦA BẮC KINH

Từ mấy thập niên qua, ai cũng đã biết Trung Quốc đã và đang xây thêm hàng trăm đập thủy điện trên khắp các dòng sông với những hồ chứa nước khổng lồ, ngăn chặn phù sa làm đảo lộn toàn hệ sinh thái, tác động đến sinh kế của bao nhiêu triệu cư dân dưới nguồn.

Nay tiến thêm một bước đột phá nữa, Trung Quốc đang có thêm một kế hoạch vĩ mô / mega project, vô cùng táo bạo – khai mở một con sông nhân tạo: Sông Cờ Đỏ / Red Flag River, lớn nhất thế giới xuyên lưu vực, kết nối với mạng lưới sông thiên nhiên của Châu Á, nhằm chuyển nước về hướng Bắc củng cố nền an ninh nguồn nước – cũng là nguồn an ninh lương thực của Trung Quốc. Với dự án Sông Cờ Đỏ dài 6.180 km này, Trung Quốc hàng năm sẽ giành thêm được 60 tỉ mét khối nước – có nghĩa là các quốc gia khác sẽ mất đi lượng nước sinh hoạt thiết yếu này.

 Không tham khảo với các quốc gia láng giềng, có thể nói Trung Quốc với hơn 1.4 tỉ dân đã đơn phương khai mào một trận chiến môi sinh không tiếng súng và sẽ gieo hoạ cho 1,6 tỉ người thuộc các dân tộc lân bang chung sống với họ trên lục địa Châu Á.

Sông Cờ Đỏ có tham vọng chuyển 60 tỉ mét khối nước hàng năm tương đương với 21% lượng nước đầu nguồn hàng năm tại ba con sông xuyên quốc gia / transnational rivers: Mekong, Salween và Brahmaputra. Lượng nước quý giá này chính là nguồn sống, sinh kế của các dân tộc Nam Á, và Đông Nam Á vẫn phải dựa vào số nước ấy sẽ được chuyển tới vùng Tân Cương – Xinjiang phía bắc và tây bắc Trung Quốc.

Dự án Sông Cờ Đỏ xuyên lưu vực này sẽ gây chấn động dư luận nơi các quốc gia lân bang – đặc biệt là Ấn Độ, quốc gia có dân số đông thứ hai chỉ sau Trung Quốc.

Những nước dưới hạ nguồn sẽ phải rất quan tâm trước một viễn tượng có thể khó lường. Do Tây Tạng có nước chảy xuống là nhờ mưa và tuyết tan khi trời ấm, mức nước và lưu lượng sẽ cao nhất từ tháng hai cho đến tháng bảy, cho 70% tổng số nước cả năm, khi đó là thời gian tối ưu cho con Sông Cờ Đỏ dựa vào thế năng và động năng cao để chuyển dòng và chiếm đoạt nhiều nước nhất. Các nước hạ lưu cùng lúc đó lại đang vào mùa khô, vì thế sau khi Sông Cờ Đỏ hoạt động, hạn hán giáng xuống hạ lưu chắc chắn sẽ khắc nghiệt hơn nữa. Lúc đó họ chỉ còn biết dựa vào lòng tử tế của Trung Quốc, điều mà người Tây Tạng, Ngô Duy Nhĩ, Việt Nam đã từng được nếm trải.

Vì thế Sông Cờ Đỏ của Trung Quốc đã tiềm tàng một mối đe doạ to lớn, gần như tội ác cho nhân loại – imminent threat to humanity. Trung Quốc đã tránh không ký bất cứ một hiệp ước hợp tác sông ngòi quốc tế nào, để họ không bị ràng buộc có thể đơn phương thực hiện những tham vọng của mình. Không một siêu cường nào trên thế giới ngạo mạn khai thác dòng nước bất chấp cuộc sống của bao nhiêu triệu cư dân hạ lưu như thế.  

Riêng Việt Nam thì sao?  Vẫn là sự im ắng “truyền thống” cho dù Sông Cờ Đỏ sẽ lấy nước sông Mekong từ ngay nơi đầu nguồn.

Trung Quốc “vĩ đại” theo nhiều ý nghĩa, thể hiện cho tinh thần Đại Hán ấy trong quá khứ đã có Vạn Lý Trường Thành, là một trong bảy kỳ quan của thế giới. Nay với tiến bộ khoa học kỹ thuật, Trung Quốc còn thực hiện thêm những công trình mới có tầm vóc thế giới: đập thuỷ điện Tam Hiệp trên sông Dương Tử lớn nhất thế giới, và nay Sông Cờ Đỏ sẽ là con sông nhân tạo chuyển dòng lấy nước cũng lớn nhất thế giới với chi phí tốn kém nhất thế giới. Đây là một đại công trình làm thay đổi cả diện mạo của lục địa Châu Á. Với sẵn nguồn nhân lực, với quyết tâm và có khả năng kỹ thuật cao, Bắc Kinh có thể dư sức thực hiện Dự án Sông Cờ Đỏ này. Nhưng với cái giá nào phải trả của các quốc gia lân bang thì không được Bắc Kinh quan tâm tới.

Hình 3a: Sông Cờ Đỏ với Dự án chuyển nước vĩ mô “tam tung, tứ hoành / ba dọc, bốn ngang”; (a) đường đen mỏng: các dòng sông lớn; (b) đường đen đậm: Sông Cờ Đỏ và hai nhánh chính nối với các con sông thiên nhiên trong dự án chuyển nước nối lưu vực nam-bắc của Trung Quốc; (c) đường đen đậm đứt quãng gần: đường dẫn nước nam-bắc trong Dự án Chuyển Nước Nam-Bắc / SNWTP / South-North Water Transfer Project; (d) đường đen đậm đứt quãng xa: trong kế hoạch thực hiện. [nguồn: Bản đồ của Genevieve Donnellon-May và Mark Wang trên The Diplomat Oct. 7, 2021, với thêm ghi chú tiếng Việt của người viết]
Hình 3b:GS Vương Hạo (Wang Hao), Chủ tịch Nhóm Chuyên gia trong cuộc Hội thoại về “Sông Cờ Đỏ” – một dự án vĩ đại của Trung Quốc – đã ngạo mạn phát biểu: “Ít nhất trên quy mô ngàn năm / thiên niên kỷ, Dự án Sông Cờ Đỏ sẽ đem lại những lợi ích vượt xa hơn là những tác hại.”

LỊCH SỬ SÔNG CỜ ĐỎ VỚI “TAM TUNG TỨ HOÀNH”

Dự án này được soạn thảo bởi “nhóm nghiên cứu S4679” của Đại học Thanh Hoa / Tsinghua ở Bắc Kinh – được so sánh như một Harvard của Đông phương; do giáo sư Vương Hạo / Wang Hao là kỹ sư trưởng của Viện Nghiên Cứu Tài nguyên Nước và Thuỷ điện của Trung Quốc.

Sông Cờ Đỏ là một hệ thống thuỷ lợi với dòng chảy trọng lực / gravity flow water diversion system, lấy nước từ các con sông trên cao nguyên Tây Tạng [được mệnh danh là “nóc của thế giới” với độ cao trung bình 4.500 m trên mặt biển], dẫn vào một đường kênh chính / main channel đưa nước tới vùng Tân Cương / Xinjiang khô cằn – có khả năng “biến Tân Cương thành một California Made in China xanh tươi trù phú”, đồng thời cũng dùng con sông nhánh Chunfeng dẫn một lượng nước khổng lồ vào lưu vực Turpan tới vùng bắc Tân Cương. [Hình 3a,b]

Công trình thuỷ lợi Sông Cờ Đỏ còn đem nước tới Tân Cương và các tỉnh phía tây bắc như Cam Túc / Gansu, Ninh Hạ / Ningxia. Các tỉnh này nếu có nguồn nước sẽ trở thành một vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất nước. Ước tính là lượng nước cung cấp cho các tỉnh tây bắc sẽ nhiều hơn lưu lượng nước hàng năm của con sông Hoàng Hà / Yellow River đổ ra biển. Dự án này sẽ tạo thêm được 13,3 triệu hectares diện tích canh tác ở Tân Cương và thêm 130.000 km2 các ốc đảo / oasis xanh tươi ở vùng tây bắc Trung Quốc.

Ngoài những lợi ích về canh nông kể trên, Sông Cờ Đỏ còn bảo đảm an toàn nguồn nước cho Trung Quốc. Với Kế hoạch Dự án Chuyển Nước Nam-Bắc / SNWTP / South-North Water Transfer Project, Trung Quốc tạo được một mạng lưới nước / water grid system có tên là “tam tung tứ hoành / 三纵四横 / ba dọc bốn ngang”:

_ Tam tung / sanzhong / ba dọc: là 3 tuyến dẫn nước từ nam lên bắc; 2 tuyến trung và đông đã hoàn thành, tuyến tây đang triển khai. Khi tuyến phía tây này hoàn tất, sẽ có 17 tỉ mét khối nước được chuyển từ thượng nguồn sông Dương Tử sang sông Hoàng Hà ngay từ trên cao nguyên Tây Tạng, có khả năng phục sinh con sông Hoàng (Hà) đang bị cạn kiệt.  

_ Tứ hoành / siheng / bốn ngang: là 4 dòng sông chảy từ tây sang đông là: Hoàng Hà (Yellow river), Hoài Hà (Huai river), Dương Tử (Yangtze river) và Hải Hà (Haihe river)

Hệ thống “Tam Tung Tứ Hoành” này sẽ bảo đảm cung cấp nguồn nước cho thủ đô Bắc Kinh và các thị trấn lớn vùng bình nguyên phía bắc Trung Quốc.

Ngoài ra, Sông Cờ Đỏ còn có thêm hai kênh sông Hồng Duyên / Hongyan Hà dẫn nước đến Diên An / Yan’an phía bắc tỉnh Thiểm Tây / Shaanxi, và sông Mạc Bắc / Mobei dẫn nước vào Nội Mông và cả Bắc Kinh. Cũng qua kênh sông Mạc Bắc, Sông Cờ Đỏ cung cấp nguồn nước cho vùng đồng bằng phía bắc Trung Quốc, và qua nhánh sông Hồng Duyên cung cấp nước cho lưu vực Tứ Xuyên / Sichuan Basin. [Hình 3a,b]

Đây là một bức tranh quy hoạch thuỷ lợi cực lớn – không chỉ tạo ra một hệ thống cấp nước mới cho vùng tây bắc Trung Quốc mà còn kết nối với hệ thống mạng lưới nước quốc gia để có “bảo đảm kép” về mặt chiến lược cung cấp nguồn nước cho Bắc Kinh và vùng bắc Trung Quốc. [1]

VẪN BIỆN HỘ CHO TRUNG QUỐC

Rồi ra, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu vẫn có một số vị tiến sĩ hay trí thức khoa bảng trong và cả ngoài nước – sẽ hành xử như những luật sư tự nguyện bào chữa cho Bắc Kinh rằng: Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc. Họ vẫn chỉ biết dựa vào một con số đơn giản, cho rằng chỉ có 16% số lưu lượng sông Mekong đổ xuống từ Trung Quốc. Và nay, Sông Cờ Đỏ có lấy thêm đi mấy phần trăm % của con số 16% ấy thì nạn hạn hán nếu có xảy ra cũng không phải lỗi Trung Quốc.

Thực tế vào mùa khô khi nước khan hiếm nhất, lượng nước từ Trung Quốc xuống Mekong lên tới 40% và 70%, gấp hai tới bốn lần hơn con số họ cố ý trích dẫn. [nguồn: https://www.lowyinstitute.org/the-interpreter/china-eyes-its-next-prize-mekong]

Và người ta vẫn có thể tự ru ngủ mà bảo rằng: tranh chấp nước “trên nguồn – dưới nguồn / upstream – downstream” bấy lâu vẫn là chuyện bình thường, ngay cả giữa các địa phương trong cùng một quốc gia.

Có cần nhắc với họ không là năm 2016, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam đã phải lên tiếng cầu cứu xin Trung Quốc xả nước từ con đập Cảnh Hồng / Jinhong để cứu đại hạn nơi ĐBSCL lúc đó, và cuối cùng cũng không đạt hiệu quả nào!

*

Hình 4: trái, Hạn hán khắc nghiệt nơi ĐBSCL năm 2016, khiến Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng lúc đó phải lên tiếng cầu cứu Trung Quốc cho xả nước từ hồ chứa đập thuỷ điện Cảnh Hồng nhưng không đạt hiệu quả nào; phải, Cái bắt tay “hữu nghị” của Tập Cận Bình – lúc đó là Phó Chủ tịch TQ và TT  Nguyễn Tấn Dũng tháng 12/2011. [nguồn: trái, VN Express 3/11/2016]  

SÔNG CỜ ĐỎ VỚI TRÁI TIM BIỂN HỒ VÀ ĐBSCL

Tuy dự án Sông Cờ Đỏ S4678 không được công bố chính thức nhưng chắc chắn sẽ gây ra sự quan tâm rộng rãi. Cao nguyên Tây Tạng vốn được coi là một vùng sinh thái trù phú nhưng cũng rất mong manh và dễ bị tổn thương.

Sông Cờ Đỏ chắc chắn làm giảm thêm nguồn nước của các con sông xuyên quốc gia – trong đó có sông Mekong.

Rõ ràng, Sông Cờ Đỏ sẽ đem lại cho Trung Quốc một thứ “siêu quyền lực” bá chủ về nguồn nước  / hydro-hegemony trên toàn Châu Á, với “quyền sinh sát tắt mở vòi nước” theo ý mình – nhất là khi Bắc Kinh muốn cho các nước nhỏ “một bài học” – vẫn nói theo ngôn từ của Đặng Tiểu Bình.

Ngoài nước lớn là Ấn Độ, có đủ sức đối trọng với Trung Quốc, hầu như chưa có các quốc gia hạ nguồn nào khác chính thức lên tiếng – Riêng với Uỷ Ban Mekong Việt Nam – 23 phố Hàng Tre Hà Nội, cách ĐBSCL hơn 1.600 km, thì vẫn là sự im lặng hay hoàn toàn bị động.

Vẫn với một khuôn mẫu hành xử bấy lâu, chưa bao giờ Bắc Kinh muốn chia sẻ thông tin / hay muốn thực lòng tham khảo với các quốc gia hạ nguồn về dự án Sông Cờ Đỏ S4679, chắc chắn sẽ có ảnh hưởng huỷ hoại lâu dài đối các dòng sông xuyên quốc gia này.

Theo ước tính của hai tác giả Genevieve Donnellon-May / Đại Học  Singapore và Mark Wang / Đại học Melbourne, thì Bắc Kinh có khả năng dùng “vũ khí nước” như một đòn ngoại giao bắt 25% dân số thế giới làm con tin / holding hostage. Khác với những hồ chứa đập thuỷ điện, vừa giữ nước vừa xả nước, Sông Cờ Đỏ là một chiến lược đổi dòng lấy nước – có nghĩa là 100% lượng nước này sẽ bị mất đi – không bao giờ được đền bù,  đối với các quốc gia hạ nguồn. [1]

_ Tình trạng “đói lũ” ở ĐBSCL đã xảy ra thường xuyên hơn trong những năm gần đây. Lũ – mùa nước nổi xuống ĐBSCL, phụ thuộc chính vào lượng nước mưa từ thượng nguồn sông Mekong. Nếu mưa ít ở lưu vực trên / upper basin, kéo theo nạn thiếu nước trong hàng trăm các hồ chứa thuỷ điện, thì khi tới mùa mưa nước sẽ bị chặn lại trong các hồ chứa – thay vì lượng nước mưa ấy ồ ạt theo dòng sông xuôi chảy xuống hạ lưu. Hậu quả là sông Mekong sẽ thiếu nước, gây tình trạng hạn hán trên toàn hệ thống sông rạch.

_ Do đó sẽ rất ngây thơ để bảo rằng 16% lưu lượng nước từ Trung Quốc là không đáng kể, và cho rằng các hồ thuỷ điện không tiêu thụ nước. Nhưng khi các hồ thuỷ điện thiếu nước, phải cần thời gian lâu để tích trữ lại lượng nước thiếu vào chuỗi các hồ chứa, những hồ chứa đập thuỷ điện đã “phá vỡ cả một chu kỳ điều hợp thiên nhiên kỳ diệu” của con sông Mekong. Không còn lũ cao / hay đỉnh lũ trong mùa mưa để con sông Tonle Sap có thể chảy ngược dòng vào Biển Hồ, tăng diện tích Biển Hồ lên gấp 5 lần (từ 2.700 km2 mùa khô tới 16.000 km2 mùa mưa). Biển Hồ được ví như một biển dự trữ nước ngọt thiên nhiên khổng lồ tiếp nước cho cả hai vùng châu thổ Tonle Sap / Cam Bốt và ĐBSCL / Việt Nam trong cả hai mùa mưa nắng.  

_ Một con sông sinh thái / river ecosystem không đơn giản chỉ có nước mà phải là một dòng chảy bao gồm các sinh vật / biotic (như cây cỏ, rong tảo, sò ốc tôm cá), những vi sinh vật / microorganisms cùng với những vật thể phi sinh khác / abiotic (như cát sỏi phù sa), tất cả cùng tương tác với nhau như một cơ thể sống.  

Tác hại của chuỗi đập thủy điện và nay với thêm Con Sông Cờ Đỏ không chỉ cướp nguồn nước mà còn huỷ hoại hệ sinh thái của con sông: chặn nguồn phù sa trong các hồ chứa – mà phù sa là yếu tố bấy lâu bồi đắp tạo dựng nên vùng đồng bằng châu thổ từ hàng bao ngàn năm. Nay cũng nguồn nước ấy khi xuống tới ĐBSCL do “bị đói phù sa”, đã dẫn tới một tiến trình đảo nghịch: thay vì bồi đắp, thì nay lại “ăn đất” gây sạt lở không chỉ các bờ sông mà cả suốt chiều dài 800km vùng ven biển.  

_ Rồi còn phải kể tới nạn đất lún do lạm dụng khai thác tầng nước ngầm, cùng với ảnh hưởng của “biến đổi khí hậu” hâm nóng toàn cầu, nước biển dâng, với các hiện tượng El Niño và La Niña khiến các vùng châu thổ là dễ bị tổn thương nhất – trong đó có ĐBSCL, và tất cả đã làm đảo lộn mọi dự đoán về thời tiết thuỷ văn để có thể kịp thời đối phó!

TRUNG QUỐC VẪN LỐI HÀNH XỬ CÔN ĐỒ

Tháng 2 năm 1972, khi TT Nixon viếng thăm Bắc Kinh, bắt tay với Mao Trạch Đông dọn đường cho một Trung Quốc mở cửa; rồi tiếp theo đó với chính sách “Đổi Mới” của Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng vươn lên như một siêu cường, theo cái nghĩa “nước lớn bá quyền”, và chính Đặng Tiểu Bình đã từng giáng cho Việt Nam một bài học bằng trận chiến tranh đẫm máu nơi biên giới phía bắc (1979).

Và rồi như một chính sách nhất quán, Bắc Kinh đã có một lối hành xử rất côn đồ từ Biển Đông (với Hoàng Sa Trường Sa và với Đường Lưỡi Bò), vào tới đất liền chiếm đoạt nguồn nước, luôn luôn hăm doạ và bắt nạt các “tiểu quốc / nước bé”, bất chấp mọi trật tự và luật pháp quốc tế.  

Bằng chứng là mới đây vào tháng 10/2021 Trung Quốc đã ngang nhiên từ chối ký một “hiệp ước chia sẻ nước / water sharing treaty” với các quốc gia hạ nguồn. [1]

Chia sẻ thông tin, chấp nhận đối thoại chân thành, điều mà các chuyên gia thuỷ học Trung Quốc có thể dễ dàng làm nhưng đối lại vẫn là sự vô cảm.  Không đối thoại, không có tham khảo, trên mọi dự án lớn liên quan tới toàn vùng, cho dù Bắc Kinh biết rằng cách hành xử ấy sẽ tạo nên những mối quan hệ căng thẳng nhưng họ vẫn bất chấp. Với Trung Quốc ngày nay, chỉ có một tiếng nói của sức mạnh. Cuộc đấu tranh để sinh tồn có thể dẫn tới cuộc chiến tranh vì nước ngay trong thế kỷ 21 này.

NGÔ THẾ VINH

Mekong Delta 1995 – 2022

THAM KHẢO:

1/ _ What’s Behind China’s Latest Mega Hydro-Engineering Project. Genevieve Donnellon-May, Mark Wang. The Diplomat Oct 07, 2021.

   _ Red Flag River and China Downstream Neighbors. Genevieve Donnellon-May, Mark Wang. The Diplomat Oct 23, 2021.  

2/ Đồng Bằng Sông Cửu Long và Những Bước Phát Triển Tự Huỷ Hoại. Ngô Thế Vinh. Việt Ecology Foundation May 01, 2018

vietecology.org/article/article/299

3/ Mùa Xuân Tây Tạng và Câu Chuyện Những Dòng Sông. Ngô Thế Vinh. Việt Ecology Foundation. Jan 20, 2017

vietecology.org/article/article/197

4/ Thoi Thóp Trái Tim Biển Hồ, Miền Tây Đau Thắt Ngực. Ngô Thế Vinh. Việt Ecology Foundation. Nov 7, 2015

vietecology.org/article/article/122

Nghiêm Sỹ Tuấn: một kẻ sĩ hiếm hoi trong thời chiến

Lời giới thiệu: Tôi hân hạnh giới thiệu đến các bạn một bài về Bác sĩ Nghiêm Sỹ Tuấn (1937-1968). Nếu chỉ là một bác sĩ, thì chắc Nhà văn Ngô Thế Vinh không mất thì giờ để viết một bài dài và đầy ấp tư liệu như bài viết này. Thật vậy, Bs Nghiêm Sỹ Tuấn không chỉ là một quân nhân, mà còn là một trí thức với lòng vị tha (“Không bao giờ tìm tòi sơ hở của kẻ khác để chỉ trích, phê bình, chê bai”), một nhà văn với những ưu tư về thời cuộc và xã hội, và là “mẫu người quân tử Đông Phương hiếm hoi thuần Việt còn vương sót lại ở hậu bán thế kỷ 20.” Bs Nghiêm Sỹ Tuấn đã hi sinh hơn 50 năm trước, nhưng những ưu tư của ông vẫn còn mang tính thời sự ngày nay.

_____

Đi tìm chân dung Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn với Thông Điệp Mùa Xuân

Ngô Thế Vinh

Dẫn nhập – Chiến tranh, không phải là chấp nhận hiểm nguy, không phải là chấp nhận giao tranh. Ở một thời khắc nào đó, với người chiến binh, là sự chấp nhận thuần túy và giản đơn cái chết. La guerre, ce n’est pas l’acceptation du risque, ce n’est pas l’acceptation du combat. C’est, à certaines heures, pour le combattant, l’acceptation pure et simple de la mort. A. de Saint-Exupéry (Pilote de guerre)

Trái, Di ảnh Y sĩ Trung úy Nghiêm Sỹ Tuấn, Y sĩ trưởng Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù tử trận tại chiến trường Khe Sanh ngày 11/4/1968; phải, Chân dung Nghiêm Sỹ Tuấn qua nét vẽ của Y sĩ Đại úy Lê Văn Công, Quân Y Hiện Dịch khóa 15 YKSG, Virginia, USA 2018. [size 6 x 20” acrylic on canvas, sưu tập Ngô Thế Vinh]
Trái, Di ảnh Y sĩ Trung úy Nghiêm Sỹ Tuấn, Y sĩ trưởng Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù tử trận tại chiến trường Khe Sanh ngày 11/4/1968; phải, Chân dung Nghiêm Sỹ Tuấn qua nét vẽ của Y sĩ Đại úy Lê Văn Công, Quân Y Hiện Dịch khóa 15 YKSG, Virginia, USA 2018. [size 6 x 20” acrylic on canvas, sưu tập Ngô Thế Vinh]

TIỂU SỬ

Nghiêm Sỹ Tuấn, bút hiệu là Yển Thử, [bút hiệu này chỉ được dùng một, hai lần cho mấy bài thơ 28 Sao trên báo Tình Thương], sinh ngày 7 tháng 2 năm 1937 (tuổi Bính Tý) tại Nam Định, Bắc phần trong một gia đình thanh bạch và đông anh em. Cắp sách tới trường muộn màng ở tuổi 14. Hoàn tất học trình Trung học và Đại học trong khoảng thời gian 14 năm. Những năm học Y khoa, Nghiêm Sỹ Tuấn là Thư ký tòa soạn báo Sinh viên Y Khoa Tình Thương từ số ra mắt tới số 13 [khoảng thời gian từ 01-1964 tới 01-1966] khi Anh ra trường, là tác giả nhiều bài viết sâu sắc, mang nặng những suy tư về các vấn đề văn hóa, xã hội và vận mệnh đất nước.

Nghiêm Sỹ Tuấn tốt nghiệp bác sĩ Y khoa 1965 ở tuổi 28. Không phải là quân y hiện dịch, nhưng Nghiêm Sỹ Tuấn tình nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù, là một y sĩ tiền tuyến có mặt trên nhiều trận địa khắp bốn vùng chiến thuật, hai lần bị chiến thương, nhưng anh vẫn tình nguyện ở lại đơn vị tác chiến. Anh hy sinh trên chiến trường Khe Sanh sau Tết Mậu Thân, ngày 11 tháng 4 năm 1968 [3], ở tuổi 31 ngay giữa tuổi thanh xuân.

Trái, hình Nghiêm Sỹ Tuấn trên tấm thẻ sinh viên năm thứ ba Đại học Y khoa Sài Gòn niên khóa 1961-1962 [tư liệu BS Đinh Xuân Dũng]; phải, Nghiêm Sỹ Tuấn trông như một Ông Đồ với khăn đóng áo dài trong mấy ngày Tết cùng với các em, Tuấn là anh cả trong một gia đình thanh bạch đông anh em. [hình chụp năm 1963, album gia đình Nghiêm Mậu, em gái Nghiêm Sỹ Tuấn]
Trái, hình Nghiêm Sỹ Tuấn trên tấm thẻ sinh viên năm thứ ba Đại học Y khoa Sài Gòn niên khóa 1961-1962 [tư liệu BS Đinh Xuân Dũng]; phải, Nghiêm Sỹ Tuấn trông như một Ông Đồ với khăn đóng áo dài trong mấy ngày Tết cùng với các em, Tuấn là anh cả trong một gia đình thanh bạch đông anh em. [hình chụp năm 1963, album gia đình Nghiêm Mậu, em gái Nghiêm Sỹ Tuấn]

Năm 2010, khi Tập San Y Sĩ Canada thực hiện số báo chủ đề Tình Thương, Một Thời Nhân Bản [TSYS số 184, 01/2010], mọi người đều cảm nhận được dấu ấn rất rõ nét của Nghiêm Sỹ Tuấn ngay trong tòa soạn và xuyên suốt trên nội dung tờ báo Tình Thương.

TRẦN HOÀI THƯ PHÁT HIỆN

BÀI VIẾT SỚM NHẤT CỦA PHẠM LIÊU VỀ NGHIÊM SỸ TUẤN

Khi Tuyển tập Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn ra mắt năm 2019, chi tiết về ngày mất của Nghiêm Sỹ Tuấn vẫn còn là một nghi vấn, khiến BS Nguyễn Thanh Bình viết:

“Trong 15 bài viết về Nghiêm Sỹ Tuấn, có 2 người nói về ngày anh qua đời, thì lại không giống nhau: theo BS Trần Đức Tường, anh Tuấn mất khoảng tháng 4/1968, sau Tết Mậu Thân, theo BS Nguyễn Thanh Giản, anh Tuấn mất ngày 13/08/1968. Anh Trần Mộng Lâm, bạn đồng khóa 1967 của tôi, kể rằng, sau khi học quân sự ở Võ Bị Đà Lạt, chúng tôi về học hành chánh Quân Y tại Sài Gòn, và Lâm được chỉ định đi canh quan tài của anh Tuấn. Lúc đó có lẽ là tháng 4, và tôi nghĩ anh Tuấn mất vào khoảng đó, vì nếu sau ngày 13/08/1968 thì anh em chúng tôi đều đã đáo nhậm đơn vị rồi.” [1]

Hình bìa tuyển tập Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn, Người Đi Tìm Mùa Xuân. Nxb TSYS Việt Nam Canada & Việt Ecology Press 2019.
Hình bìa tuyển tập Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn, Người Đi Tìm Mùa Xuân. Nxb TSYS Việt Nam Canada & Việt Ecology Press 2019.

Với phát hiện bài viết của Phạm Liêu đăng trên tập san Mũ Đỏ, sau đó được đăng lại trên báo Tiền Phong số 38 (18/12/1968), của nhà văn Trần Hoài Thư năm 2021, thời điểm Nghiêm Sỹ Tuấn mất, không phải là tháng 8/1968 như BS Nguyễn Thanh Giản nhớ, và nay được kiểm chứng từ 3 nguồn khác nhau (từ Phạm Liêu, từ BS Trần Đức Tường và từ BS Trần Mộng Lâm), chúng ta có thể đoan chắc rằng thời điểm mất của Nghiêm Sỹ Tuấn phải là tháng 4/1968.

**

Bìa báo Tiền Phong số 38 (18.12.1968), với năm trang báo có bài viết đầu tiên của tác giả Phạm Liêu về trường hợp hy sinh của Y sĩ Trung úy Nghiêm Sỹ Tuấn, Y sĩ Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù trên chiến trường Khe Sanh. [sưu tập của Trần Hoài Thư, thư viện Cornell 2021]
Bìa báo Tiền Phong số 38 (18.12.1968), với năm trang báo có bài viết đầu tiên của tác giả Phạm Liêu về trường hợp hy sinh của Y sĩ Trung úy Nghiêm Sỹ Tuấn, Y sĩ Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù trên chiến trường Khe Sanh. [sưu tập của Trần Hoài Thư, thư viện Cornell 2021]

Phạm Liêu trên báo Tiền Phong – có lẽ là bút hiệu của một người bạn, một đồng môn rất thân thiết với Nghiêm Sỹ Tuấn [có ba người bạn cùng khóa Y khoa 65, cùng trong binh chủng Nhảy Dù là Trang Châu, Trần Đoàn trong nhóm Tình Thương và Đoàn Văn Bá nhưng được biết cả ba đều không phải là Phạm Liêu]. Tác giả Phạm Liêu viết về Nghiêm Sỹ Tuấn[3]

Con Người
Trầm tĩnh đến độ lạnh nhạt, trông anh giống một nhà tu khổ hạnh hơn một Y sĩ Dù. Nghiêm Sỹ Tuấn sinh ngày 7-2-1937 tại Nam Định Bắc Phần, trong một gia đình trung lưu nho giáo. Được thân sinh dạy vỡ lòng năm lên bảy, mãi đến năm 14 tuổi anh mới thực sự cắp sách đến trường (Dũng Lạc Hà Nội). Bảy năm Trung học và bảy năm Đại học.

1955 – 58 học-sinh Nghiêm Sỹ Tuấn luôn được xếp ưu hạng trong những môn ngoại ngữ Anh, Pháp, ĐứcHán tự và Việt tại trường Chu Văn An.

Ngay từ thủa thiếu thời, anh đã tỏ một ý chí cương nghị, một sự phục tòng hiếm có. Vâng lời phụ mẫu anh theo học dự bị y khoa (P.C.B) năm 1958 và tốt nghiệp Y Khoa Đại học đường năm 1965.

Y sĩ Trung úy Nghiêm Sỹ Tuấn, người thứ hai trong hàng, trước giờ lên máy bay cho một saut nhảy dù bồi dưỡng. [tư liệu của BS Vũ Khắc Niệm và Trang Châu]
Y sĩ Trung úy Nghiêm Sỹ Tuấn, người thứ hai trong hàng, trước giờ lên máy bay cho một saut nhảy dù bồi dưỡng. [tư liệu của BS Vũ Khắc Niệm và Trang Châu]

Những người bạn xa gần không một ai có thể phủ nhận thiện chí làm một cái gì cho xứ sở của anh. Để đóng góp thật sự, để nối liền ý thức và hành động anh đã tình nguyện về Dù. Được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, anh đi tham dự hầu hết những cuộc hành quân quan trọng của đơn vị. Là vị Y sĩ đầu tiên hai lần bị thương anh vẫn vui vẻ tái xuất giang hồ.

Nghiêm Sỹ Tuấn viết: “Tôi bắt đầu lội từ 11-8-66. Tới nay đã tham dự 11 cuộc hành quân hay chiến dịch. Dài nhất 78 ngày, ngắn nhất 2 ngày. Có mặt tại đủ bốn Vùng Chiến Thuật. Ba lần ở địa đầu nước An-nam Cộng-hòa.

Một Saut trận ở mật khu Thới Lai Cờ đỏ thuộc Vùng 4. Một lần bị thương cũng ở Vùng 4 trong cuộc đi ngắn nhất, ngắn nhất vì trúng đạn được về, chứ không phải chính nó ngắn có 2 ngày thôi đâu. Hai tháng khập khiễng dưỡng thương ở nhà. Tái xuất giang hồ từ đầu tháng 7/1967. Và bây giờ mừng lễ Giáng sinh ở Dakto, sau khi leo núi xuống đèo 15 ngày ròng rã. Đã lên ăn ngủ trên mấy đỉnh 1416, 1556. Đại khái cũng nhiều mệt nhọc, mà cũng nhiều thích thú”. (Trích trong thư gởi bạn đề ngày 28-12-67)

Trong đơn vị, anh luôn tỏ ra là một quân nhân giàu lòng vị tha bao dung rộng rãi với các quân nhân thuộc hạ, tự xếp mình trong một kỷ luật sắt đá, một thứ kỷ luật tự giác. Qua những bài viết trong Nguyệt san Tình Thương và nhiều tạp chí khác, anh đả kích mọi sự chống đối, dù nhân danh một sự kiện gì. Theo anh chiến tranh không thể tự nó đáng nhờm gớm. Chỉ đáng khinh bỉ những nhân chứng ngoại cuộc chỉ trỏ vô trách nhiệm.

Anh viết:

Chiến tranh chỉ xấu xa và tàn bạo trong mắt những người đứng xa chỉ trỏ. Cha ông chúng ta khi xưa đã nhất định tiếp tục nó, và đã chiến thắng chắc vì hiểu rằng trật tự và kỷ luật trong sức mạnh con người là một cảnh tự nó đẹp dễ làm cảm động, dễ làm thán phục. Nhất là khi có những sức mạnh bên ngoài đến gây xáo trộn trật tự và kỷ luật ấy.

Tôi trộm nghĩ thứ “trật tự và kỷ luật” trên, anh đã tìm thấy ở các đơn vị Dù. Sự kiện này cắt nghĩa phần nào cho việc lựa chọn một đơn vị sôi động nhất để nối liền nhân sinh quan đã vạch sẵn với hành động nhập cuộc bước xuống cuộc đời của anh. Nghiêm Sỹ Tuấn chủ trương một sự hy sinh tự nguyện, một sự đơn phương chấp nhận sự thể. Từ đấy, cái đẹp đẽ sinh ra, cái dũng sẽ nẩy nở. Kể rằng có một quân nhân thuộc hạ thường mơ ước một ngày nào có thể mua một chiếc máy ảnh giống như cái Canon” mà Nghiêm Sỹ Tuấn thường mang theo bên mình. Thế rồi trong một cuộc hành quân, người binh sĩ này tử trận. Y sĩ Tuấn về thăm gia đình người xấu số, không quên mang theo chiếc máy hình ngày nào, kính cẩn để trên bàn thờ, rồi im lặng ra về.

Được lệnh về phục vụ tại bệnh viện Đỗ Vinh, Nghiêm Sỹ Tuấn xin tiếp tục theo TĐ 6 Nhảy Dù hành quân tại Khe Sanh.

[Ghi chú của Ngô Thế Vinh: Chi tiết từ chối về phục vụ tại BV Đỗ Vinh là không đúng. Khi Nghiêm Sỹ Tuấn được đề cử đi học khoá giải phẫu một năm, nhưng vì Cục Quân Y không hứa sau khóa học sẽ được về làm việc tại BV Đỗ Vinh thuộc Sư Đoàn Dù, nên NST tiếp tục “súng, xắc” về lại đơn vị cho tròn hai năm phục vụ ở cấp tiểu đoàn – trích từ YSTT của BS Trang Châu] [1]

Ngày 11/4/1968, tại làng VeiĐại Đội anh đi theo đụng độ nặng. Những quả 81 của VC nổ long trời xung quanh anh. Hai binh sĩ ở tuyến đầu bị mảnh vào bụng được di tản về toán cứu thương. Y sĩ Tuấn nhảy ra khỏi hầm trú ẩn, trầm tĩnh băng bó hai thương binh, sang nước biển cho họ. Những cử chỉ chậm chạp thong thả. Trong lúc anh đang tiếp nước, một quả tạc đạn rớt ngay trước mặt, những người y tá chung quanh đều bị thương nhưng không chết, chỉ có mình anh trầm tĩnh lìa bỏ cuộc đời như anh đã trầm tĩnh chấp nhận những sự kiện đã xảy ra trong đời anh.

Một Nhân Sinh Quan

Mặc ai nói đông nói tây anh vẫn bình thản đi theo con đường đã vạch. Những người bạn anh kể rằng anh tôn trọng kỷ luật đến độ làm cho những người khác khó chịu. Dưới một bề ngoài trầm lặng, tiềm tàng một nếp sống nội tâm cuồng nhiệt.

Anh thật nhiều tham vọng. Anh muốn nhiệm vụ của một quân nhân Dù đi kèm một Y sĩ tiền tuyến của anh phải kiện toàn. Không bao giờ ta thán bất cứ một sự gì. Không bao giờ tìm tòi sơ hở của kẻ khác để chỉ trích, phê bình, chê bai. Người khác có cảm tưởng anh im lặng để hành động nhiều hơn, hữu hiệu hơn, thật đúng là một triết lý của hành động.

Tất cả những trầm tĩnh bên ngoài chỉ để che đậy một sự nổi dậy liên tục của nội tâm. Đọc văn anh, chúng ta liên tưởng đến một Kafka. Những chi tiết nhỏ nhặt của ngoại cảnh bắt nguồn cho một phân tích gẫy gọn súc tích cho một vấn đề chủ yếu. Từ một chuyện hai đứa bé cãi nhau về miếng đất con trâu vỉa hè, anh viết:

“Ngẫm ra hai đứa bé đều có lý, nghe như chuyện mặt trời xa gần. Tôi đâu dám cuồng vọng trộm đặt mình vào chỗ đứng của một Thánh nhân, song quả thực tôi có phải xử vụ này, tôi cũng đành chịu. Thời buổi đua tranh sơ hở thì đến thân mình còn mất nữa là. Cứ tôi tự do, không làm việc đang làm có người khác sẽ làm mất. Giả sử có kẻ bảo: Tôi có tự do, vậy tôi tự do hay không tự do là quyền tự do của tôi, chắc chẳng ai dám nói tôi… điên rồ”.

Nghiêm Sỹ Tuấn “Ngồi ăn cơm một mình”

Anh đã từ một sự kiện không đâu dẫn độc giả vào một thế giới riêng biệt của Nghiêm Sỹ Tuấn, thế giới biểu tượng của cử chỉ và ngôn từ. Trong những áng văn anh đã viết, triết lý của hành động và hành động trong kỷ luật được nêu ra và nhắc lại nhiều lần. Âu cũng là, tôi trộm nghĩ, một trong những nguyên do chính khiến anh đã chọn binh chủng Nhảy Dù.

Dáng dấp Nghiêm Sỹ Tuấn là dáng dấp của một nhà khổ hạnh. Anh chấp nhận tất cả: Ngay những điều bất hạnh có thể xảy ra trong mai hậu khi anh dấn thân. Nhiều người cho những sự hy sinh của anh vô nghĩa, nếu không nói phi lý, anh hiền hòa đáp lại:

“Làm gì có xương nào phơi vô nghĩa, càng vô nghĩa bao nhiêu càng ý nghĩa bấy nhiêuVả chăng xương nào thay được xương mình. Trái đậu thì hoa tàn. Hạt giống có chết cây mới nẩy mầm xanh, sao nói là vô nghĩa được.

Anh chấp nhận ngay cả sự chết một mai của mình nếu không nói những áng văn của anh như bản di chúc cuối cùng của một người sắp ra đi. Chấp nhận sự chết để tự dọn mình là một triết lý khổ hạnh, mà ít người bằng tuổi anh đã dám nhận làm chỉ nam cho đời mình. [3]
PHẠM LIÊU
[Nguyệt san Tiền Phong số 38, 15-12-1968]

Bìa Tập San Y Sĩ Canada số 184, 01/2010, chủ đề Tình Thương, Một Thời Nhân Bản. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Bìa Tập San Y Sĩ Canada số 184, 01/2010, chủ đề Tình Thương, Một Thời Nhân Bản. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Tính đến 2021, Nghiêm Sỹ Tuấn mất cũng đã hơn nửa thế kỷ. Sau này mới được biết, sau Nghiêm Sỹ Tuấn, còn có thêm hai người em trai của anh cũng hy sinh trên những trận địa khác. Chỉ riêng gia đình anh đã cống hiến ba người con trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam, một hy sinh và mất mát thật vô cùng lớn lao. [1]

TÁC PHẨM NGHIÊM SỸ TUẤN

  • Truyện ngắn​
    Những Người Đi Tìm Mùa Xuân
    Para Bellum

*

Trái, Bìa báo Tình Thương số 2 Xuân Giáp Thìn (1964); phải, trang trong với truyện ngắn nổi tiếng Những Người Đi Tìm Mùa Xuân, tác phẩm tâm đắc của Nghiêm Sỹ Tuấn. Anh là Thư ký Tòa soạn báo Sinh Viên Y Khoa Tình Thương từ số ra mắt tới số 13, khi anh ra trường và nhập ngũ. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Trái, Bìa báo Tình Thương số 2 Xuân Giáp Thìn (1964); phải, trang trong với truyện ngắn nổi tiếng Những Người Đi Tìm Mùa Xuân, tác phẩm tâm đắc của Nghiêm Sỹ Tuấn. Anh là Thư ký Tòa soạn báo Sinh Viên Y Khoa Tình Thương từ số ra mắt tới số 13, khi anh ra trường và nhập ngũ. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

  • Thơ 28 Sao

Đầu thai tỉnh giấc
Ngụp lặn từ đây
Trở về cát bụi
Sáu Buồn trước tử biệt sinh ly:
Quê Hương, Tuổi Đứng, Bạn Cũ, Người Yêu, Đám Đông, Đất Lạnh

  • Biên khảo

Ý thức tinh thần Đại học. Nghiêm Sỹ Tuấn, Đặng Vũ Vương, Hà Ngọc Thuần
Tình Thương và Tuyên Ngôn Leysin
Một Năm Học tập
Niềm đau nỗi khổ: Công cuộc khắc phục đau đớn
Những ám ảnh của chứng nan y: Nan y hay dịch tễ xã hội

  • Tạp bút

Thịt Chuột và Văn Hóa

  • Tác phẩm dịch:

Dưới Mắt Thượng Đế, Hans Killian
[Nghiêm Sỹ Tuấn & Nguyễn Vĩnh Đức]:

Từ trái, hình bìa gốc bản tiếng Đức: Hinter Uns Steht Nur Der Herrgott; hình bìa 1&4 bản dịch tiếng Pháp: Sous le Regard de Dieu do Robert Laffont xuất bản; dưới: trang báo Tình Thương với bản dịch truyện ngắn Cha Tôi trong tác phẩm Dưới Mắt Thượng Đế. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Từ trái, hình bìa gốc bản tiếng Đức: Hinter Uns Steht Nur Der Herrgott; hình bìa 1&4 bản dịch tiếng Pháp: Sous le Regard de Dieu do Robert Laffont xuất bản; dưới: trang báo Tình Thương với bản dịch truyện ngắn Cha Tôi trong tác phẩm Dưới Mắt Thượng Đế. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Tờ di chúc
Phép Lạ
Thiên đường đã mất
Văn Sợi, Người Phụ Tùng
Chết trên bàn mổ / Mors in tabula
Thác chảy trong đầu
Người bệnh tưởng
Phía bên kia con đường có bóng
Người bạn tốt nhất
Cha tôi
Quyết định to tát

Đất Chẳng Trở VềGilberte Sollacaro

  • [Nghiêm Sỹ Tuấn]

Lịch Sử Y Học. Kenneth Walker

[Hà Hợp Nghiêm – Nghiêm Sỹ Tuấn & Hà Ngọc Thuần]

Bìa cuốn Lịch Sử Y Học của Kenneth Walker (1882-1966), Nxb Hutchinson, London 1954; được Nghiêm Sỹ Tuấn và Hà Ngọc Thuần dịch với bút hiệu chung Hà Hợp Nghiêm, đăng từng kỳ trên báo Tình Thương từ số ra mắt 01.1964. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Bìa cuốn Lịch Sử Y Học của Kenneth Walker (1882-1966), Nxb Hutchinson, London 1954; được Nghiêm Sỹ Tuấn và Hà Ngọc Thuần dịch với bút hiệu chung Hà Hợp Nghiêm, đăng từng kỳ trên báo Tình Thương từ số ra mắt 01.1964. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Với lời giới thiệu của Hà Hợp Nghiêm: “Kenneth Walker là một trong những thủ thuật gia lỗi lạc của Anh quốc. Tốt nghiệp Đại học Cambridge và bệnh viện St. Bartholomew ở Luân Đôn, hội viên Học viện Giải phẫu Hoàng gia, ông nổi tiếng, ngoài y học thuần túy, về những tác phẩm y học và triết học của ông. Ông đã xuất bản: Lịch Sử Y Học và Lịch Sử của Máu. Ngoài ra ông còn cộng tác thường xuyên với nhiều tạp chí y học và khoa học lớn nhất hiện thời. Trong cuốn Lịch Sử Y Học mà chúng tôi [Nghiêm Sỹ Tuấn & Hà Ngọc Thuần] hân hạnh trình bày bản dịch dưới đây với quý vị độc giả, Kenneth Walker đã tóm tắt trong 20 chương, tất cả quá trình tiến hóa của Y học trong hơn 3000 năm, bắt đầu từ những văn minh tối cổ cho đến nền văn minh hiện đại, từ Hippocrates, Galien đến Pasteur, Fleming, cả một truyền thống lấy phụng sự làm động cơ, lấy lý trí làm hướng đạo, luôn luôn cố gắng cho đời thêm tươi đẹp, đáng sống.”

CÙNG ĐI TÌM LẠI CHÂN DUNG NGHIÊM SỸ TUẤN

Năm Nghiêm Sỹ Tuấn tử trận, cũng là năm lớp Y khoa 68 ra trường. Tính đến nay, qua hơn nửa thế kỷ, trải qua rất nhiều hoàn cảnh và những thử thách khác nhau, với bao nhiêu biến động và thăng trầm của đất nước, có thể nói các bạn của Nghiêm Sỹ Tuấn là những người sống sót, và để rồi chẳng thể ngờ rằng nay vẫn còn có dịp nhìn về một chặng đường quá khứ, tìm lại khoảng thời gian đã mất.

ĐẶNG VŨ VƯƠNG, nguyên trưởng ban Quan điểm báo SVYK Tình Thương hồi tưởng:

Viết về báo Tình Thương sẽ thiếu sót nếu không viết về Nghiêm Sỹ Tuấn [NST]. Ít hay nhiều báo Tình Thương đã ghi dấu ấn trên những người viết năm xưa và có thể ít hay nhiều đã ảnh hưởng đến hướng cuộc đời của nhiều người sau này. Tôi nghĩ rằng NST đã để lại dấu ấn trên nhiều anh em báo Tình Thương. Riêng tôi, tôi vẫn coi thời gian được làm bạn với NST và cùng viết báo Tình Thương là một trong những giai đoạn may mắn và quý báu nhất của đời tôi. Tôi với NST có rất nhiều khác biệt để thành bạn thân nhưng viết báo Tình Thương đem lại cho 3 chúng tôi (Đặng Vũ Vương, Nghiêm Sỹ Tuấn, Hà Ngọc Thuần) sự quý mến và tôn trọng nhau qua bao nhiêu sự trao đổi tư tưởng và theo đuổi lý tưởng và đặc biệt nơi NST tôi tìm thấy mẫu người “Renaissance man” của Tây phương đóng khung bằng tư tưởng và phong cách của một nhà Nho thời xưa. NST giỏi chữ Hán, thông văn chương Việt, có năng khiếu và sở thích về nhiều môn (thi văn, âm nhạc, nghệ thuật…) và đọc nhiều sách triết học. Tôi còn nhớ đã bàn luận rất nhiều với NST về Teilhard de Chardin thời tôi viết bài về Y khoa Nhân bản. NST chỉ cần chứng tỏ với chính mình và tôi nghĩ việc NST chọn binh chủng Nhảy Dù là một thử thách cá nhân. Mất NST, chúng ta mất một người bạn quý, một kẻ sĩ (trong trường hợp NST kẻ sĩ gồm Scholar + Gentleman + Physician). Trong bài viết cho Tập san Quân Y năm xưa về NST, tôi đã ví NST như là một “sao chổi” thoáng bay qua vòm trời Tình Thương, tuy nhẹ nhàng và ngắn ngủi nhưng đã để lại dấu tích lâu dài và sâu đậm trên bạn hữu và những ai đã một lần tiếp xúc với Tuấn.

Nghiêm Sỹ Tuấn giỏi chữ Hán, tiếng La Tinh, anh có năng khiếu về ngoại ngữ: tiếng Pháp, tiếng Anh, anh còn học thêm cả tiếng Đức cùng với Trần Xuân Dũng ở Goethe-Institut Saigon. Khi cùng dịch tác phẩm Dưới Mắt Thượng Đế của Hans Killian, Nguyễn Vĩnh Đức chủ yếu dịch từ bản tiếng Pháp Sous le Regard de Dieu của Max Roth, trong khi Nghiêm Sỹ Tuấn còn cẩn trọng tham khảo thêm từ bản gốc tiếng Đức Hinter Uns Steht Nur Der Herrgott.

Cho dù đã vô cùng bận rộn với học trình bảy năm Y khoa, từ phòng thí nghiệm tới giảng đường cho tới các bệnh viện, Nghiêm Sỹ Tuấn vẫn dành thời gian cho các sở thích về nhiều bộ môn nghệ thuật: thơ nhạc họa và ngoài sách Y khoa, anh đọc nhiều sách Triết học.

Nghiêm Sỹ Tuấn có cá tính rõ rệt, một con người tài năng và lý tưởng, Anh không xuất thân từ một danh gia vọng tộc mà gốc gác bình dân như tuyệt đại đa số các gia đình Việt Nam khác, nhưng anh là hình ảnh kẻ sĩ hiếm hoi, được kết tinh từ những phẩm chất làng xã Việt Nam, với truyền thống và nề nếp giúp xã hội Việt Nam đứng vững và tồn tại qua bao ngàn năm thăng trầm của lịch sử. Nghiêm Sỹ Tuấn chính là mẫu người quân tử Đông Phương hiếm hoi thuần Việt còn vương sót lại ở hậu bán thế kỷ 20.” [2]

Hình chụp năm 1963 tại một bệnh viện Sài Gòn, thuộc khóa Y khoa 1959-1965; hàng ngồi, từ trái: Đỗ Thức Diêu, Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Ngọc Trân, Đinh Xuân Dũng, Lê Khắc Minh, Huỳnh Ngọc Phương; hàng đứng, từ trái: Trần Tiễn Huyến, Nghiêm Sỹ Tuấn, Huỳnh Trúc Lâm, Trần Bá Cơ, Nguyễn Hoàng Hải, Tôn Thất Chiểu, Nguyễn Tiến Hải, Dương Hữu Thành, Đinh Hà, Lê Hữu Lộc, Nguyễn Anh Tuấn, Ngô Thanh Quế. (riêng trong nhóm này thì đã có: Nghiêm Sỹ Tuấn, Đỗ Thức Diêu, Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Anh Tuấn, Ngô Thanh Quế đã qua đời.) [tư liệu của BS Đặng Vũ Vương, ghi chú hình của BS Nguyễn Hoàng Hải]
Hình chụp năm 1963 tại một bệnh viện Sài Gòn, thuộc khóa Y khoa 1959-1965; hàng ngồi, từ trái: Đỗ Thức Diêu, Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Ngọc Trân, Đinh Xuân Dũng, Lê Khắc Minh, Huỳnh Ngọc Phương; hàng đứng, từ trái: Trần Tiễn Huyến, Nghiêm Sỹ Tuấn, Huỳnh Trúc Lâm, Trần Bá Cơ, Nguyễn Hoàng Hải, Tôn Thất Chiểu, Nguyễn Tiến Hải, Dương Hữu Thành, Đinh Hà, Lê Hữu Lộc, Nguyễn Anh Tuấn, Ngô Thanh Quế. (riêng trong nhóm này thì đã có: Nghiêm Sỹ Tuấn, Đỗ Thức Diêu, Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Anh Tuấn, Ngô Thanh Quế đã qua đời.) [tư liệu của BS Đặng Vũ Vương, ghi chú hình của BS Nguyễn Hoàng Hải]

Nghiêm Sỹ Tuấn viết văn khi đang còn là một sinh viên, có thể là sớm hơn. Từ 1963, cùng với các bạn Y khoa làm báo Tình Thương như một diễn đàn cho những ý tưởng nhân bản, hướng tới một xã hội lý tưởng và không mang nặng tính chủ nghĩa” [GS Trần Ngọc Ninh]. Ngay từ các bài viết xuất hiện rất sớm trên tờ báo Tình Thương, Nghiêm Sỹ Tuấn đã quan tâm tới các vấn đề cơ bản của đất nước: giáo dục, xã hội, và thời sự.

Nghiêm Sỹ Tuấn chỉ để lại vài truyện ngắn, mấy bài thơ, một cuốn nhật ký viết dở dang và có thể còn ở đâu đó là những trang bản thảo đã bị thất lạc. Chắc chắn Anh còn những hẹn hò khác, nhưng Anh đã vội vã mang đi, chôn sâu dưới mảnh đất của một quê hương Việt Nam tự do mà Anh đã hết lòng yêu mến và đã đem chính sinh mệnh của Anh ra để bảo vệ.

Thẻ thực tập bệnh viện nhóm B, năm thứ Ba YKSG niên khóa 1961-1962, trên từ trái: Lê Văn Tập, Tôn Thất Chiểu, Huỳnh Ngọc Phương, Nguyễn Ngọc Trân, Nghiêm Sỹ Tuấn; dưới từ trái: Đinh Xuân Dũng, Huỳnh Trúc Lâm, Trần Bá Cơ, Nguyễn Gia Ân, Nguyễn Tiến Hải. [tư liệu BS Đinh Xuân Dũng]
Thẻ thực tập bệnh viện nhóm B, năm thứ Ba YKSG niên khóa 1961-1962, trên từ trái: Lê Văn Tập, Tôn Thất Chiểu, Huỳnh Ngọc Phương, Nguyễn Ngọc Trân, Nghiêm Sỹ Tuấn; dưới từ trái: Đinh Xuân Dũng, Huỳnh Trúc Lâm, Trần Bá Cơ, Nguyễn Gia Ân, Nguyễn Tiến Hải. [tư liệu BS Đinh Xuân Dũng]
Lớp Y Khoa 1965, hình chụp 1963 tại sân ngôi trường cũ 28 Trần Quý Cáp Sài Gòn; khi ấy Nghiêm Sỹ Tuấn đang là sinh viên Y khoa năm thứ 4 cùng với các Bạn đồng khóa và Giáo sư Mahoudau từ Faculté de Médecine de Paris qua dạy về các đề tài Nội khoa và Thần kinh.
Lớp Y Khoa 1965, hình chụp 1963 tại sân ngôi trường cũ 28 Trần Quý Cáp Sài Gòn; khi ấy Nghiêm Sỹ Tuấn đang là sinh viên Y khoa năm thứ 4 cùng với các Bạn đồng khóa và Giáo sư Mahoudau từ Faculté de Médecine de Paris qua dạy về các đề tài Nội khoa và Thần kinh.

[ Ghi chú chi tiết Hình 12: hàng đứng từ trái, Minh, Đàm Quang Toản, Nguyễn Trọng Dzực, Nguyễn Hải Nam, Lê Xuân Lộc, Nguyễn Đình Khoát, Lê Văn Ba (dân vệ), Đoàn Văn Bá, Trần Đoàn (ngón tay chữ V sau lưng Bá), Giáo sư Mahoudau, Lê Tất Giao, Michell Quyên, Nguyễn Thị Lý, Dương Quang Trí, Trần Bá Cơ, Nghiêm Bảo Thạch, Đinh Hà, Nghiêm Sỹ Tuấn, Phan Giang Sang, Nguyễn Anh Tuấn (Râu), Trần Tiễn Huyến, Đỗ Thức Diêu, Lê Văn Tập; hai người đứng rùn gối: Nguyễn Thượng Vũ (quần đen), Trần Xuân Dũng (quần trắng). [tư liệu và nhận diện của BS Lê Văn Tập]. Sau năm 1975, cộng sản đã chọn ngôi trường Y khoa cũ làm khu trưng bày Tội ác Mỹ Ngụy và sau đổi thành Khu Bảo tàng Di tích Chiến tranh.]

Giữa thập niên 1960s, khi đang làm báo sinh viên Tình Thương, là những năm đầy biến động của đất nước, ngoài tiền tuyến chiến tranh ngày càng ác liệt lan rộng dâng cao với rất nhiều chết chóc, trong khi hậu phương là một mặt trận khác với những cuộc biểu tình dắt dây, với vòng kẽm gai và lựu đạn cay trải dài trên khắp các đường phố… Nghiêm Sỹ Tuấn đã tỏ ra không đồng ý với mọi xáo trộn nơi hậu phương giữa cuộc chiến tranh, mà theo anh thì chỉ có lợi cho cộng sản và tuy anh không lớn tiếng phản đối nhưng bản thân anh luôn luôn đề cao tính kỷ luật và trật tự.

Không chỉ với tác phẩm tâm đắc Những người đi tìm Mùa Xuân, nhưng Para Bellum là một tác phẩm quan trọng khác, mang nặng những suy tư về chiến tranh và hòa bình của Nghiêm Sỹ Tuấn. Chính kiến của Nghiêm Sỹ Tuấn rất rõ ràng trong truyện ngắn Para Bellum / Chuẩn bị Chiến tranh.

LẠI MẠNH CƯỜNG, một y sĩ tốt nghiệp Y khoa Sài Gòn sau Nghiêm Sỹ Tuấn nhiều khóa, LMC chưa vào Y khoa khi Nghiêm Sỹ Tuấn đã ra trường. Từ Hòa Lan, Lại Mạnh Cường đã nhận định về truyện ngắn Para Bellum rất đặc biệt này của Nghiêm Sỹ Tuấn:

Phải nói ngay tôi bị “dội ngược” khi đọc truyện ngắn này của NST, mang tựa đề rất lạ Para Bellum. Tra trong internet mới biết tác giả trích dẫn từ một câu danh ngôn bằng tiếng Latin cổ: Si vis pacem, para bellum; dịch ra tiếng Anh là “If you want peace, prepare for war”; tiếng Việt: “Muốn hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh”!

Đọc khoảng một nửa truyện mới hiểu tác giả học xong y khoa, nhận được lệnh gọi nhập ngũ và đợi chờ ngày ra đơn vị. NST viết lại những tiếp xúc của mình (nhân vật số 1) trong thời gian này với người yêu (số 2), người bạn (3), ông bác (4), cháu bé gái (5), người lính (6), bà hàng chè (7).

Lối hành văn cầu kỳ, mơ hồ, lại mang chất thơ. Tôi có cảm tưởng đây là những màn độc thoại (monologue), nhưng lại được tác giả cố tình viết ra dưới hình thức đối thoại (dialogue) giữa tác giả với những người thân, để giãi bày tâm sự. Các nhân vật số 2, 3, 4 và cả số 5 chỉ giữ vai trò những “mắc áo”, để tác giả mặc sức “trang hoàng” những tư tưởng cầu kỳ đến khó hiểu trong cái đầu “bác học” của ông. Xin dẫn chứng một vài mẩu đối thoại với người yêu trước khi chia tay ra đơn vị:

“Bởi anh còn gì nữa đâu ngoài thân thể này, với đầu óc mơ màng với trái tim hay đập mạnh; với bàn tay vụng về chỉ thích viết vẽ bâng quơ, xây lầu trên cát. Đắm say sẵn có, lại thêm chữ nghĩa điểm tô, khiến anh chỉ biết cảm thấy thơ thới hòa vui khi nhìn em nét cười tươi sáng, áo trắng đơn sơ. Còn khi xe ngựa lặng thinh, sừng sững chập chờn tuổi đứng, một mình sao anh nghe buồn nản len lỏi từ đâu. Ồ! Anh lại muốn làm thơ rồi phải không em? Mà thơ chắc là em không thích.”

“Em thích nghe? Trước kia không nói, vì em thường bảo không hiểu; vả anh cũng rất sợ phiền. Giờ chắc êm đềm hay ngắn, sao đem nhiều lời khuấy động? Anh cứ để qua đi mà không hay. Đến lúc oanh vàng quen thuộc rộn ràng hót mấy thanh từ giã, mới vội vàng tìm miệng trao lời.

Thường tình vẫn thế, chỉ khi chiều muộn đường xa mới thấy bếp lửa dịu dàng. Anh đã cố gắng thoát khỏi thân riêng, tìm kiếm và tạo dựng cộng hưởng nơi người. Hiển hiện đâu đây, nét dẫn khởi đang muốn trở thành dẫn lực. Liệu anh có lầm chăng?”

Tôi ngờ rằng cuộc đối thoại này chỉ là hư cấu, không thật trăm phần trăm! Và nó thật sự không hấp dẫn tôi. Tôi cho là mình nghĩ đúng về NST khi theo dõi các cuộc đối thoại tiếp theo, giữa tác giả với người bạn thân và nhất là với ông bác. Từ đó tôi cho rằng con người “(ưa) lập thuyết” lấn áp con người thật NST. Anh cố đè nén mọi cảm xúc, đam mê và tình cảm cá nhân, quyết sống theo các khuôn mẫu khắt khe, nhằm phục vụ cho lý tưởng. Anh chuộng kỷ luật và ưa trật tự, và đã khẳng định chắc nịch: “Chiến tranh chỉ xấu và tàn bạo trong mắt những người đứng xa chỉ trỏ. Nên người phải ngừng hay tiếp tục nó với những lý do đẹp đẽ. Cha ông chúng ta xưa kia đã nhất định tiếp tục nó, và đã chiến thắng, chắc vì hiểu rằng trật tự và kỷ luật trong sức mạnh con người là một cảnh tự nó đẹp, dễ làm cảm động, dễ làm thán phục. Nhất là khi có những sức mạnh bên ngoài để gây xáo trộn trật tự và kỷ luật ấy.”

NGUYỄN THANH GIẢN là người bạn thân thiết từ thời trung học, cũng là bạn đồng khóa Y khoa với Nghiêm Sỹ Tuấn sau này. Nguyễn Thanh Giản viết:

“Thằng Tuấn mà đi Nhảy Dù thì chắc dù nó bay lên chứ không xuống đâu! Tôi mỉm cười nhưng không ngạc nhiên vì biết anh nhỏ con, cao có 1,58 mét và nặng chỉ có 40 ký. Tuy nhiên vì đã chơi thân với nhau kể từ khi còn trung học và suốt 7 năm đại học nên tôi biết rõ anh có lý do để chọn binh chủng Nhảy Dù, một binh chủng chiến đấu anh dũng và có kỷ luật cao.

Ngay từ khi còn ngồi ghế trung học, chúng tôi cũng đã có những đêm thức trắng bàn luận với nhau, nào là văn chương triết lý, nào là vận nước lâm nguy, nào là ước vọng của những người trai thời loạn. Cái hoài bão của chúng tôi thời đó thật là to lớn quá, cái lý tưởng tuyệt vời quá, nhưng cả hai chúng tôi đều băn khoăn trong lòng là không biết mình sẽ làm được cái gì?

Thế rồi ra trường, mỗi đứa được điều động đi một ngả. Lần cuối cùng tôi được gặp Tuấn là ở quận Cam Lộ, thuộc tỉnh Quảng Trị. Lúc đó người ta đang xây dựng một hàng rào điện tử gọi là hàng rào McNamara để ngăn chặn Cộng quân từ Bắc xâm nhập vào Nam. Người dân ở quanh đó bị bắt buộc phải dời đi nơi khác. Họ được tạm cư ở những trại làm bằng lều vải do Mỹ cung cấp. Trên một khu đất rộng, những căn lều vải được cất lên san sát. Mùa hè với những cơn gió Lào thổi về như thiêu đốt và mặt đất cát nóng bỏng. Thực phẩm và nước uống cũng do trực thăng hoặc những đoàn xe Mỹ chở tới. Tôi được giao nhiệm vụ coi sóc sức khỏe của đồng bào ở các trại này, gọi là công tác Dân Sự Vụ.

Bộ Chỉ huy của tôi đóng ở Đông Hà, mỗi sáng tôi được chở tới Cam Lộ để khám bệnh cho đồng bào đến chiều lại về vì ở Đông Hà an ninh hơn. Nhưng thường thì buổi chiều tôi không muốn về. Tôi muốn ở lại cùng với anh em y tá của tôi một phần, một phần nữa tôi muốn sống thật gần gũi với những người dân quê lam lũ. Nhiều người dân ở trong các lều thấy tôi đến thăm họ buổi tối, tặng thuốc bổ hay cho trẻ em vài cái kẹo, họ rất quý. Tôi thường nói chuyện, tâm sự với họ tới khuya. Quan hệ giữa tôi và đồng bào ở đó trở nên thân mật. Có lần tôi bị ốm phải về Quảng Trị tĩnh dưỡng mấy ngày, đến khi trở lại họ thăm hỏi tôi một cách ân cần. Một người dân chất phác hỏi:

– Bác sĩ đau làm chúng tôi nhớ bác sĩ quá. Bác sĩ không đi khám bệnh được sao không nhờ bà bác sĩ khám giùm?

Tôi cho họ biết vợ tôi không phải là bác sĩ nên đâu có biết khám bệnh, thì họ đồng thanh nói:

– Thì ông chỉ cho bà cách khám bệnh và cho thuốc cũng được chớ có sao!

Những người dân quê này thật hiền lành chất phác và dễ thương quá, họ không hiểu thế nào và phải học ra sao để làm bác sĩ. Tôi đành giải thích theo lối họ:

– Đồng ý tôi có thể dạy vợ tôi cách khám bệnh nhưng vợ tôi phải học rất siêng năng. Tối nào cũng phải thức ít nhất 12 giờ đêm để học bài, nếu không thuộc tôi phải dùng roi tét vào đít. Cứ như thế 7 năm thì bà ấy mới có thể chữa bệnh được!

Mọi người cười ồ lên có vẻ hiểu. Tôi thương những người dân quê này quá, họ chẳng khác nào gia đình của tôi, nhưng tôi chỉ có thể ở với họ một thời gian ngắn rồi sẽ ra đi. Chiến tranh vẫn kéo dài, ngày một thêm ác liệt, rồi tai họa nào sẽ giáng lên đầu họ? Tôi làm sao có thể chia sẻ với họ mãi được!

Một buổi chiều, tôi đang đùa giỡn với đám trẻ con thì Tuấn ở đâu đi tới. Anh mặc bộ đồ Dù khá mới, da dẻ đã sạm nắng, đầu tóc vẫn hớt kiểu móng lừa. Tiểu đoàn anh đi hành quân ở Cùa mới về, nghe nói tôi ở đây nên anh tới thăm. Thấy tôi, anh nói giỡn:

– Bác sĩ không lo khám bệnh lại đi giỡn với trẻ con.

Tôi mời anh vào trong lều mở nước ngọt mời anh và các y tá uống. Đêm hôm đó, trong căn lều vải giữa đồng khô cỏ cháy chúng tôi được dịp nằm bên nhau ôn lại những kỷ niệm xa xưa, thời còn cắp sách tới Đệ Tam B6, Đệ Nhị B6 của trường Chu Văn An đã gần mười năm về trước. Chỉ khác là lần này chúng tôi nằm ở vùng tiền tuyến, tiếng đạn nổ chung quanh như nhắc nhở rằng những chết chóc điêu linh của cả dân tộc vẫn là một thực thể không biết đến ngày nào mới chấm dứt.

Sáng hôm sau, tôi bắt đầu một ngày làm việc mới thì gặp trường hợp một em bé bị sưng ruột dư. Tuấn cũng nắn bụng em bé và đồng ý với sự chẩn đoán của tôi. Đứa bé cần được đưa đi nhà thương để mổ ngay. Nhưng vừa nghe tới chữ mổ là cha mẹ nó ẵm chạy ra ngoài ngay. Họ cho mổ là việc ghê gớm lắm, con họ bị đem đi mổ chắc là sẽ chết và thân xác không vẹn toàn, có khi không được trả xác về nhà nữa là khác. Trong đầu họ nghĩ đến ông thầy thuốc Nam, ông y tá quen thuộc hay cùng lắm là ông thầy pháp có thể cứu được đứa bé. Tôi bối rối chưa biết xử trí ra sao, anh em y tá định giữ bé lại nhưng mẹ nó đã lanh lẹ ẵm chạy về lều. Tuấn nói với tôi:

– Để tao khám bệnh thế mày bữa nay. Mày đã quen với dân chúng ở đây rồi, hãy đến tận nơi giải thích cho họ: chỉ có cách giải phẫu mới cứu được đứa bé mà thôi. Tao biết mày có tài thuyết phục hay lắm mà.

Tôi tới tận lều giải thích mãi cha mẹ đứa bé vẫn không nghe. Sau phải nhờ nhiều người quen nói thêm vào, cha mẹ đứa bé mới đồng ý đem nó đi Quảng Trị với điều kiện tôi cũng phải đi theo và cha mẹ nó thì luôn luôn ở bên cạnh. Tôi bèn gọi máy bay trực thăng tản thương rồi tất cả cùng đi. Chỉ một tuần lễ sau đứa bé bình phục hoàn toàn nhưng lúc đó Tuấn đã xa tôi rồi. Tôi còn nhớ đêm trước hôm chia tay Tuấn nói với tôi:

– Cuộc chiến này nếu không làm sáng tỏ được là chúng ta chiến đấu cho tự do dân chủ thì rất nguy. Nó sẽ trở thành cuộc chiến của những thằng ở thành phố đánh nhau với những thằng ở miền quê. Những thằng ở thành phố tinh khôn hơn nhưng chỉ là thiểu số, miền quê trông có vẻ khờ khạo nhưng nắm giữ hầu hết tiềm lực của dân tộc. Mày tranh thủ được nhân tâm dân chúng miền này là rất tốt. Nếu bên mình mà làm được như vậy thì bọn Việt cộng sẽ thua nhanh chóng. Cuộc chiến đã trở thành cuộc tranh thủ nhân tâm, mình không làm thì bọn Việt cộng tinh ranh sẽ làm và sự sụp đổ của miền Nam sẽ là điều không tránh khỏi.

Sự tiên đoán của Tuấn đã xảy ra. Ngày miền Nam sụp đổ, anh không còn nữa nên tránh được cái tủi nhục của những người bại trận. Còn chúng tôi lũ lượt kéo nhau đi từ nhà tù này tới nhà tù khác…

Tuy nhiên lời tiên đoán của Tuấn đến bây giờ lại sắp được chứng nghiệm một lần nữa. Chiến thắng của Việt cộng tôi cho chỉ là tạm thời, nếu họ không biết thay đổi chính sách. Vì khi huyênh hoang với chiến thắng, họ quên mất bài học cũ, bài học chinh phục nhân tâm. Và cho đến nay, hầu hết những người tượng trưng cho sức mạnh dân tộc đã quay lưng lại với họ.” [1]

VŨ KHẮC NIỆM, là y sĩ đàn anh trong Y khoa và cũng là cấp chỉ huy của Nghiêm Sỹ Tuấn trong Quân Y Nhảy Dù. BS Vũ Khắc Niệm viết:

“Tôi còn nhớ mãi một buổi sáng trong căn cứ Hoàng Hoa Thám, tôi như thường lệ xuống câu lạc bộ Tiểu Đoàn Quân Y ăn sáng thì thấy anh Hoàng Cơ Lân đã ngồi đó tự bao giờ, mắt anh đỏ mặt buồn rầu nói với tôi: Nghiêm Sỹ Tuấn chết rồi nhờ toa báo cho anh em biết; xong anh về văn phòng. Tôi sững sờ đứng im lặng, hình ảnh Tuấn trong nón sắt đeo dù mờ ảo hiện về.

Hôm nay, Ngô Thế Vinh gửi cho tôi những bài vở và hình ảnh trong Tuyển Tập Nghiêm Sỹ Tuấn gần hoàn tất, tôi đã đọc và qua những bài viết của bạn hữu cũng là những người tôi hân hạnh quen biết, và có người tôi chỉ nghe danh nhưng tất cả là những người có uy tín mà tôi rất mến phục. Cùng với những bài vở do chính Nghiêm Sỹ Tuấn viết đã làm tôi có cái nhìn rộng hơn về Nghiêm Sỹ Tuấn, một con người vô cùng đặc biệt với những hiểu biết sâu rộng nhưng vô cùng khiêm tốn.

Chúng ta đã mất đi một người bạn, một tài năng hiếm hoi trong cái tuổi quá trẻ. Nghiêm Sỹ Tuấn đã không có dịp đem những tiềm năng dồi dào ấy hiến dâng cho đời, tiếc thay!

Suy nghĩ miên man tôi tự hỏi sao chúng ta không có một cơ sở y tế quân đội nào, một bệnh viện nào mang tên Nghiêm Sỹ Tuấn để tên Anh được nhiều người biết và nhắc đến như Đỗ Vinh, Lê Hữu Sanh, Trần Ngọc Minh…

Nhưng với đức tính khiêm cung thực sự của một kẻ sĩ, tôi nghĩ Nghiêm Sỹ Tuấn chỉ cần một số bạn bè thân thiết thấu hiểu Anh là đủ.

Tôi xin nhân danh một đồng nghiệp, một đồng đội của Nghiêm Sỹ Tuấn trong Quân Y Nhảy Dù cảm ơn Ngô Thế Vinh và các bạn hữu của Tuấn đã dành công sức tạo nên Tuyển Tập này để thế hệ mai sau còn có người nhớ tới Nghiêm Sỹ Tuấn, con người với cuộc sống ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa.” [1]

PHAN NHẬT NAM, xuất thân khóa 18 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, một sĩ quan tác chiến của binh chủng Dù và cũng là một phóng viên chiến trường, tác giả những trang bút ký sống động trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Cảm xúc trước cái chết quá trẻ của Nghiêm Sỹ Tuấn, Y sĩ Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù, Phan Nhật Nam viết:

Nghiêm Sỹ Tuấn tốt nghiệp Bác Sĩ Y Khoa năm 1965 ở tuổi 28. Bác Sĩ Tuấn nhỏ người, chỉ cao 1 thước 58, nặng 40 ký. Một thân thể tương đối nhỏ so với tầm vóc trung bình, sức nặng cần thiết cho một người lính chiến, chưa nói đến quân nhân thuộc binh chủng Nhảy Dù. Xong hai khóa huấn luyện đến lễ mãn khóa, các tân khoa bác sĩ được mang cấp bậc Y Sĩ Trung Úy. Ngày chọn đơn vị phục vụ là một ngày quan trọng, quyết định tương lai, vận mệnh của người quân y sĩ. Trước giờ chọn đơn vị, một thông báo được tuyên đọc cho tất cả tân bác sĩ được rõ: “Người nào muốn chọn về Nhảy Dù hoặc Thủy Quân Lục Chiến chỉ cần đưa tay lên mà không cần phải đợi đến lượt xướng danh.

Bác Sĩ Nghiêm Sỹ Tuấn liền đưa tay, vị sĩ quan phụ trách thoáng ngạc nhiên do thấy anh mong manh, gầy, nhỏ. “Anh chọn gì?” Tuấn đáp gọn: “Nhảy Dù”. Sau khi ký giấy tờ, anh bước ra khỏi phòng, không cần để ý đến ai sẽ đi đâu, và bao giờ buổi lễ chấm dứt. Bác Sĩ Nghiêm Sỹ Tuấn chọn Nhảy Dù không do bất ngờ, ngẫu hứng bởi trước đây anh đã viết ra lời:

Cung Dâu dựng nhắm phương nào
Ngập ngừng tên cỏ ngày cao chất chồng
Mai sau đó gửi về không
Bóng vươn tinh đẩu mơ vùng núi cao.

Vâng, qua bài thơ Tuổi Đứng, Nghiêm Sỹ Tuấn hóa ra đã chọn sẵn nghiệp phận binh đao, anh đã quyết định trước.

Bác Sĩ Nghiêm Sỹ Tuấn hẳn không chọn binh chủng Nhảy Dù do được khích động, quyến rũ từ hình tượng “áo hoa nón đỏ”, anh thuộc về một mẫu người khác. Giữa những năm 1960, khi đang làm báo Tình Thương của sinh viên Y Khoa, là những năm biến động, hỗn loạn toàn miền Nam, ngoài tiền tuyến chiến tranh ngày càng ác liệt lan rộng, dâng cao với chết chóc, tàn phá; trong khi hậu phương là một mặt trận khác với những cuộc biểu tình liên tục, vòng kẽm gai, và lựu đạn cay trải dài, chắn ngang, rối tung trên khắp các đường phố. Sài Gòn đã là một diễn trường tệ hại với những cuộc tranh giành quyền lợi giữa các phe nhóm, Trung úy Nghiêm Sỹ Tuấn, Bác Sĩ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù đã chọn đúng đơn vị.

Nghiêm Sỹ Tuấn là một con người khác. Người của thế giới im lặng với Sách. Người sống trực tiếp với Chữ. Sống trực tiếp nghĩa đen và nghĩa bóng. Anh tiếp xúc thẳng với Nam Hoa Kinh, Đạo Đức Kinh qua Hán Văn. Anh hiểu nghĩa huyền vi của “Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả Danh phi thường Danh. Vô danh thiên địa chi Thủy. Hữu danh vạn vật chi Mẫu. Huyền chi hựu huyền” từ Hán Ngữ. Người đã học, sử dụng Hán Văn ắt hiểu trực tiếp hình tượng của Hán Ngữ là hiện thực cấu trúc của thế giới siêu hình.

Thế nên anh viết truyện ngắn Para Bellum với chủ ý từ thành ngữ La-Tinh: Si vis pacem, para bellum – Nếu Muốn Hòa Bình Hãy Chuẩn Bị Chiến Tranh – Không những là yêu cầu sinh tử của Việt Nam Cộng Hòa trong thập niên 1960’s mà của cả Việt Nam suốt Thế Kỷ 20 cho đến hiện nay.

Trở lại chữ nghĩa của Nghiêm Sỹ Tuấn. Khi cùng dịch tác phẩm Dưới Mắt Thượng Đế của Hans Killian với Bác Sĩ Nguyễn Vĩnh Đức, dịch từ bản tiếng Pháp Sous le Regard de Dieu của Max Roth, Nghiêm Sỹ Tuấn còn cẩn trọng tham khảo thêm bản gốc tiếng Đức Hinter Uns Steht Nur Der Herrgott. Nghiêm Sỹ Tuấn là một Kẻ Sĩ Thuần Việt sống đủ với Thân Phận Việt Nam.

Nghiêm Sỹ Tuấn không viết những dòng chữ không nội dung. Nghiêm Sỹ Tuấn không nói những lời nói suông… Từ hỗn loạn Sài Gòn sau 1/11/1963, anh có một lập trường rõ rệt, phản đối mọi cuộc xuống đường, dù ở phe nhóm tôn giáo nào. Muốn cách mạng ư? Trước hết cách mạng bản thân mình trước. Anh tiên tri, dự đoán, viết ra đủ cảnh tượng hỗn loạn vô nghĩa sau một sự kiện gọi là “cách mạng / cách mạng xã hội chủ nghĩa”: Giữa một thời thế, xã hội vật chất đang lên, (giá trị) tâm hồn tinh thần dần đi xuống.

Nghiêm Sỹ Tuấn cố gắng thoát khỏi thân riêng, tìm kiếm và tạo dựng cộng hưởng nơi người chung quanh, cụ thể những người lính mà anh chọn lựa đứng cùng đội ngũ trong lần tình nguyện đi Nhảy Dù.

Sĩ Trung Úy Nghiêm Sỹ Tuấn với ý thức tự do, đã đi tới chọn lựa: Tự nguyện dấn thân vào một cuộc chiến tranh thảm khốc. “… Làm gì có xương nào phơi vô nghĩa, càng vô nghĩa bao nhiêu càng ý nghĩa bấy nhiêu. Vả chăng xương nào thay được xương mình. Trái đậu thì hoa tàn. Hạt giống có chết cây mới nẩy mầm xanh, sao nói là vô nghĩa được… Cũng đừng buồn thấy lan nhược nở đỏ rồi rơi êm giữa rừng gai cằn cỗi. Cô đơn, đau khổ, gắng chịu một mình. Có thế mới thấy hết vẻ đẹp thanh tao của giếng êm, trăng rạng.”

Không hề chủ trương hay cổ động chiến tranh, nhưng cuối cùng Y Sĩ Trung Úy Nhảy Dù Nghiêm Sỹ Tuấn đã chết do đạn cộng sản pháo kích khi đang cố băng bó vết thương cho một binh sĩ nơi địa đạo Khe Sanh một ngày Tháng 4, 1968.

Lá Thư thay lời kết: Trở lại chuyện Bác Sĩ Tuấn. Tháng 4, 1968 được mấy tiếng phép, từ mặt trận Nhị Bình, Hóc Môn tôi tới Chùa Ấn Quang để đưa đám Nguyễn Đức Cần, Khóa 19 Đà Lạt, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù chết trận Khe Sanh đưa về. Trong câu chuyện nghe loáng thoáng… Nó (cộng sản) pháo kích ghê lắm, toàn pháo 130 ly hoặc hỏa tiễn 122 ly bên kia Bến Hải, thằng 6 (Tiểu Đoàn 6 Dù) cũng bị nặng, chết đến cả bác sĩ…

Bác sĩ Tuấn ơi, hơn nửa thế kỷ sau mới nghe ra, biết đầy đủ về bác. Cuối bài viết mới có lời kính điếu muộn gởi đến với Y Sĩ Trung Úy Nhảy Dù Nghiêm Sỹ Tuấn. Với lời tạ lỗi.” [1]

TRẦN MỘNG TÚ, Phụ nữ và chiến tranh là một đề tài lớn trong văn học nhân loại. Trần Mộng Tú đã qua một trải nghiệm chiến tranh đau thương nhất nơi địa danh Bình Thủy năm 1969, giữa tuổi thanh xuân của chị. Hơn thế nữa, chị là một nhà thơ. Khi đọc cuốn sách Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn, Trần Mộng Tú đã viết những dòng chữ thật cảm động trong “Ngọn nến muộn màng cho người yêu nước Nghiêm Sỹ Tuấn.” [1]

Cuốn sách về một cuộc đời rất ngắn của Bác Sĩ Quân Y Nghiêm Sỹ Tuấn, một Thi Văn Sĩ , tử trận ở tuổi 31 tại Khe Sanh năm 1968 khi anh đang là Y Sĩ Trung Úy Tiểu Đoàn 6, Nhảy Dù. Nghiêm Sỹ Tuấn chết ở cái tuổi đẹp nhất của đời người: đời của một Y Sĩ, một Thi Sĩ và đời người Lính. Với ba cái đó cộng lại, Nghiêm Sỹ Tuấn là một con người sống lý tưởng và ôm đầy hoài bão tốt đẹp.

Với trái tim nồng nàn Anh đã đối diện với định mệnh Si Vis Pacem Para Bellum. Anh đi tìm hòa bình trong chiến tranh, Chiến Tranh là một điều không né tránh được nếu nhân loại thực sự muốn có Hòa Bình. “Cư An Tư Nguy”, người quân nhân nào cũng thuộc lòng câu đó khi vào nhiệm vụ. Anh đi vào chiến tranh như một người nông phu bước vào thửa ruộng của chính mình. Không có điều gì tự nhiên mà có được, như muốn có bông lúa thì người nông phu phải cày bừa trong bùn đất.

Nghiêm Sỹ Tuấn đã đi vào chiến tranh như thế. Bỏ lại gia đình, bạn hữu, người yêu. Anh có một người yêu hay không? Chắc là phải có vì ta đọc trong văn thơ của Anh thấp thoáng đối thoại giữa Anh và một người con gái.

Người thứ nhất: Nghiêm Sỹ Tuấn
Người thứ hai: Người Yêu
Người thứ hai: Em vừa nghe đọc tên anh. Bao giờ anh đi?
Người thứ nhất: Ngày mai, ngày kia, một tuần, một tháng, không chừng.
Người thứ hai: Anh có vẻ nhàn nhã thế. Không lo chi cả sao?
Người thứ nhất: Có gì phải lo đâu em. Anh sẵn sàng đã lâu rồi. Em muốn nói với anh, sao ngập ngừng?
Người thứ hai: Hơi khó nói một chút. Anh thật đã sẵn sàng, không còn gì bận tâm?
Người thứ nhất: Anh hiểu. Em vừa hỏi anh câu ấy. Thực ra, khi vừa rời sách vở, lúc ấy người ta mới rất nhiều bận tâm. Thân mình, ruột thịt, bạn bè, tình yêu. Với mặt trời, hoa cỏ và chim kêu. Tìm giữ tất cả ngần ấy thứ bên mình và trong đầu óc một hình ảnh, một mục đích, một điều ước mơ gì đó. Khó mà tìm ra đường lối giữ và khổ nhất là theo đúng đường lối tìm ra. Sao cho luôn luôn có thể nhìn ngay được những bận tâm ấy mà lòng vẫn nhẹ nhàng. Nhưng hôm nay em lại hỏi anh thế: Từ cả năm nay có khi nào đâu? Anh cũng vậy, chưa khi nào. (Trích đoạn trong Para Bellum
  NST)
Anh sẵn sàng đã lâu rồi. (NST)
Đúng Anh sẵn sàng sửa soạn đi vào chiến tranh (Para Bellum)
. Không phải chỉ sửa soạn cho chính mình mà cho cả thế hệ đang tới này hiểu thế nào về lòng yêu nước.
Khi Anh nằm xuống Anh vẫn là một người đàn ông độc thân. Không có một vành khăn tang trên đầu quả phụ. Người yêu mơ hồ trong văn chương của anh không hiện thực.
 Chôn theo thân xác anh là một linh hồn đầy ắp lý tưởng và họ đã phủ trên ngực Anh một lá cờ rũ.
Chúng ta gấp cuốn sách lại với ngậm ngùi và lòng kính trọng. Chiến tranh Việt Nam luôn luôn là một vết thương không bao giờ lành dù nhìn dưới một khía cạnh nào. Cho dù vết thương có khô
 máu, có lên lớp da non.

Trần Mộng Tú đã có một bài thơ thật cảm động về:

Tuổi Trẻ, Tình Yêu và Chiến Tranh

Những tờ nhật báo
mỗi ngày một giống nhau
hôm nay tin địch chết
ngày mai tin ta chết
mẹ già cuối xóm
đi nhận xác con
người vợ trẻ xếp hành trang cho chồng mai đi sớm
tăng thêm quân
tuổi mười tám xếp bút nghiên cầm súng
đào thêm hầm
người chết thiếu chỗ chôn
chung quanh em bỗng thấy
thành phố tắt tiếng cười
chiếc áo em đang mặc màu xanh
em nhìn thành màu đỏ
mùi mực in
thành mùi máu tanh hôi
em yếu đuối
em ngơ ngác tâm thần
em sợ lắm rồi thây người ngã xuống
Không,
không bao giờ em muốn anh đi
Anh gạt tay em dấn mình vào lửa
mảnh đạn mảnh bom chặn mất đường về
ngày mai mưa nắng anh không biết
lửa hỏa châu
đốt cháy lời thề. 
[1]

Trần Mộng Tú (1968)

TRẦN THỊ NGUYỆT MAI, cô là một thuyền nhân, thuộc một thế hệ sau và khác, hoàn toàn không biết gì về Nghiêm Sỹ Tuấn. Năm Nghiêm Sỹ Tuấn mất, cô đang còn ở lứa tuổi hoa. Nhưng khi được đọc các bài viết về Nghiêm Sỹ Tuấn, cô cảm nhận ngay được Thông Điệp Mùa Xuân của anh, Nguyệt Mai bồi hồi xúc cảm viết:

Tối hôm qua tôi mới đọc xong những bài viết của Bác sĩ Nghiêm Sỹ Tuấncùng những chia sẻ tâm tình từ những bạn đồng môn của ông. Như một độc giả thuộc thế hệ sau hoàn toàn không biết gì về ông, tôi xin ghi lại ít dòng cảm tưởng về người đã khuất qua những trang viết của chính ông và của bằng hữuBác sĩ Nghiêm Sỹ Tuấn tử trận tại Khe Sanh tháng 4 năm 1968. Ông hy sinh khi đang săn sóc vết thương cho một thương binh khi cuộn băng còn cầm trên tay!”

Ông đã yên nghỉ đời đời khi Mùa Xuân thật sự của dân tộc vẫn còn xa tắpNhưng qua những bài viết và phong cách sống của Nghiêm Sỹ Tuấn, thì thông điệp dấn thân – hy sinh – quên mình của Ông vẫn còn đó. Và đó cũng chính là tấm gương sáng: Con Đường Sáng, cho các thế hệ sau tiếp bước Nghiêm Sỹ Tuấn Đi Tìm Mùa Xuân cho Dân Tộc.” [1]

KẾT TỪ CHO MỘT BÀI VIẾT

Nghiêm Sỹ Tuấn không bao giờ chủ trương hay cổ động chiến tranh vì ý thức hệ, nhưng Anh chấp nhận nhập cuộc chỉ để phục vụ công lý, chống lại sự dối trá bất công để đạt được ổn định, công bằng xã hội và hạnh phúc cho con người.

Giữa một thế nước chông chênh, Nghiêm Sỹ Tuấn với ý thức tự do, Anh đã đi tới một chọn lựa: tự nguyện dấn thân vào một cuộc chiến tranh thảm khốc với tinh thần của Hội nghị Diên Hồng từ 700 năm trước.

Nghiêm Sỹ Tuấn đã đột ngột ra đi trong sự thương tiếc của mọi người, luyến tiếc cho một cuộc hành trình đầy kỳ vọng và hứa hẹn. Mất Nghiêm Sỹ Tuấn chúng ta mất đi tinh hoa của một thế hệ trí thức mà nhân cách, tư tưởng là biểu hiện cao đẹp của một kẻ sĩ trong thời chiến của những năm 1960. Nghiêm Sỹ Tuấn là điển hình tính nhân bản của truyền thống y khoa, của một người y sĩ sẵn sàng dấn thân để phục vụ con người khổ đau trong hoàn cảnh bất thường của đất nước.

Viết về Nghiêm Sỹ Tuấn là vượt lên trên sự vinh danh một cá nhân. Với tâm hồn phóng khoáng và kiến thức cao rộng như anh, Nghiêm Sỹ Tuấn hoàn toàn không cần đến điều đó. Nhưng làm sao chuyển tải được thông điệp dấn thân, hy sinh” của Nghiêm Sỹ Tuấn tới các Bạn Trẻ Việt Nam như những người tiếp bước Anh “Đi Tìm Mùa Xuân” cho đất nước, đó mới là ước vọng của Nghiêm Sỹ Tuấn.

Đối tượng của bài viết này không phải chỉ là với một thế hệ sắp qua, mà chính là các thế hệ đang tới: đó là mối ưu tư của Nghiêm Sỹ Tuấn từ hơn nửa thế kỷ trước đối với các vấn đề căn bản của con người, của đất nước mà cho đến nay vẫn còn dở dang và nguyên vẹn. Lớp Người Trẻ, như lực lượng tiên phong sẽ nhận lãnh trách nhiệm bảo vệ các hệ thống giá trị vĩnh hằng, những chuẩn mực về quyền của con người – mà bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền vẫn mãi là một thông điệp sống động khẳng định quyền người dân được sống trong tự do với đầy đủ phẩm giá và nhân cách.

Những bài viết về Nghiêm Sỹ Tuấn tuy ra đời muộn màng hơn nửa thế kỷ sau ngày Anh mất, không thuần chỉ là một tưởng niệm, một nén nhang tưởng nhớ người Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn, nhưng còn là một thông điệp với tầm nhìn xa của Nghiêm Sỹ Tuấn để lại cho các thế hệ mai sau, tiếp bước Anh đi Tìm Mùa Xuân cho Dân tộc.

Văn chính là người, câu đó hoàn toàn đúng với Nghiêm Sỹ Tuấn. Đó là sự nhất quán giữa tác phẩm và cuộc sống của Nghiêm Sỹ Tuấn qua mọi hoàn cảnh cho tới ngày Anh mất. Nghiêm Sỹ Tuấn là một trí thức, một kẻ sĩ dấn thân, một quân nhân gương mẫu. Anh là hình ảnh tuyệt đẹp của phục vụ và hy sinh. Anh chết quá trẻ ở tuổi 31, thời gian của tích lũy và đi tìm vốn sống. Kiến thức và vốn sống đó chưa có thời gian để đơm hoa kết trái, những trang viết của Nghiêm Sỹ Tuấn chỉ mới là những bản nháp, anh chưa có tác phẩm lớn nhưng cuộc sống anh đã là một tác phẩm lớn cống hiến cho đời. Nguyễn Vĩnh Đức, Chủ bút đầu tiên của báo Tình Thương, đã quý mến gọi Nghiêm Sỹ Tuấn là “Người Thư Sinh Muôn Thuở”. Mang vóc dáng của một thư sinh nhưng Anh rất mạnh mẽ. Anh là một tượng đài đơn độc và cũng là một biểu tượng tuyệt đẹp trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Ai đã từng tiếp xúc biết tới Nghiêm Sỹ Tuấn đều mang lòng ngưỡng mộ và cả hãnh diện có được một người bạn như Anh. Rồi nghĩ tới câu thơ của thi hào Nguyễn Du: Thác là thể phách, còn là tinh anh, như một nguồn an ủi.

NGÔ THẾ VINH
Sài Gòn 1963 – California 2022

Tham Khảo:

1/ Tuyển tập Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn, Người Đi Tìm Mùa Xuân. TSYS Việt Nam Canada & Việt Ecology Press 2019

2/ Tình Thương, Một Thời Nhân Bản [TSYS số 184, 01/2010]

3/ Phạm Liêu: Viết về Nghiêm Sỹ Tuấn. Nguyệt san Tiền Phong số 38, 15/12/1968[Trích trong Mũ Đỏ.]

Dohamide: giấc mơ Chàm và Bangsa Champa

LGT: Tôi hân hạnh giới thiệu đến các bạn một bài viết đặc sắc về một nhà chuyên khảo gốc Chăm (Chàm) Dohamide hay Đỗ Hải Minh. Thú thiệt là tôi từng nghe qua về nhà khảo cứu Dohamide, nhưng không biết những đóng góp quan trọng của anh ấy về văn hoá Champa. Đọc qua bài này, chúng ta biết rằng trước năm 1975 ở miền Nam đã có những công trình nghiên cứu có giá trị cao về dân tộc Chăm và văn hoá Chăm. Xin trân trọng giới thiệu đến các bạn xa gần.

_____

DOHAMIDE GIẤC MƠ CHÀM VÀ BANGSA CHAMPA

NGÔ THẾ VINH

Hình 1: từ trái, cây bút chuyên khảo văn minh Champa trên tạp chí Bách Khoa Dohamide, chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu, Ngô Thế Vinh, nhà văn Võ Phiến. [hình chụp  1994 tại Little Saigon, tư liệu Ngô Thế Vinh]

TIỂU SỬ

      Dohamide, người gốc Chăm, sinh năm 1934 tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang), có thêm ba bút hiệu nhưng ít được biết đến: Linh Phương, Châu Giang Tử, Châu Lang. Khi Dohamide có bài viết đầu tiên Người Chàm tại Việt Nam ngày nay” đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1962, Chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã giới thiệu anh với độc giả như sau: 

      “Bạn Dohamide, tác giả loạt bài sau đây, là người gốc Chàm, sanh tại làng  Katambong, Châu Đốc (An Giang). Bạn đã có can đảm thoát ly những ràng buộc khắt khe của tập tục địa phương để lên thủ đô Sài Gòn vừa đi làm nuôi gia đình vừa đi học, và hiện nay bạn đã tốt nghiệp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Ngoài tiếng Chàm là tiếng mẹ đẻ, bạn Dohamide biết nói và viết các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Á Rập, Mã Lai, Cam Bốt, những thứ tiếng này đã giúp bạn Dohamide rất nhiều trong những thiên khảo cứu như trình bày với bạn đọc.” [Bách Khoa, số 135, 15/8/1962]

Hình 2: Lời Toà Soạn của chủ nhiệm Lê Ngộ Châu giới thiệu Dohamide, tác giả bài viết đầu tiên “Người Chàm tại Việt Nam ngày nay” trên tạp chí Bách Khoa, số 135, 15/8/1962.

      Dohamide và người em Dorohiêm, cả hai “đã sanh ra và lớn lên tại một thôn ấp người Chăm theo tôn giáo Islam hệ Sunni Imam Shafi’y, vốn là hậu duệ của Vương quốc Champa lưu vong từ miền Trung Việt Nam ngày nay. Do vào thời vua Minh Mạng áp dụng một chánh sách đối xử khắc nghiệt tàn sát người Chàm, họ phải đào thoát sang định cư bên đất Kampuchea và mãi về sau này, do có chính sách chiêu dụ của nhà Nguyễn, một số đã trở về tái định cư tại vùng Tây Nam Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trên vùng đất mới này, 7 làng Chăm đã được thành lập, (con số 7 có ý nghĩa thiêng liêng với người Chàm), trong đó, ngôi làng chúng tôi từ thời thuộc Pháp, lấy tên là làng Katambong tức Koh Taboong thuộc tỉnh Châu Đốc.

      Koh tiếng Chàm có nghĩa là cồn hay cù lao, Ta-boong là cây gậy, ngụ ý hình dáng cù lao này giống như một cây gậy.”  Koh Ta-boong nguyên là một cồn cát, do phù sa từ sông Mekong tạo nên dọc theo một bên bờ sông Hậu, hàng năm đều có lụt với mùa “nước nổi, nước giựt” và hiện tượng bên lở bên bồi. Làng Katambong nằm phía bên bồi, nay là một ấp lấy tên Việt Nam là Khánh Mỹ thuộc xã Khánh Hoà, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

      “Ngoài ra còn có 6 làng người Chăm khác là Mat Chruk, Koh Kaboak, Plây Kênh, Plao Ba, Koh Ghoi, Koh Kaghia, Sabâu, với địa danh Việt tương ứng là Châu Giang, Đa Phước, Châu Phong, La Ma hoặc Vĩnh Trường, Bún Lớn hoặc Bún Bình Thiên, Đồng Cô Kỵ… với địa thế không liền nhau.[1]

      Làng Katambong là một xã hội Chăm thu nhỏ và khép kín. Người Việt bên kia sông thì quen gọi họ là Chà Châu Giang, trong khi người Chàm thì vẫn gọi người Việt là “Yuôn”, tuy sống kế cận nhưng họ thuộc hai nền văn minh khác nhau: một bên là nền văn minh cầm đũa (civilisation de la baguette), một bên là nền văn minh ăn bốc.

      Thân phụ anh Dohamide là một trong hai vị giáo làng trong 7 làng Chăm địa phương, một mình ông phải phụ trách luôn cả ba lớp: đồng ấu / cours enfantin, dự bị / cours préparatoire và sơ đẳng / cours élémentaire, học đến đó là hết lớp; muốn tiếp tục học thêm thì phải ra  trường tỉnh nhưng hầu hết các học sinh Chăm trong làng Katambong đều nghỉ học và sau đó chỉ đến trường để được dạy thêm kinh sách giáo lý Islam.

Qua sông thăm Cồn Tơ Lụa làng Đa Phước:

trái, Người viết đến thăm giáo đường Mubarak (có nghĩa là được ban ân phước) của người Chăm Islam ở làng Đa Phước Châu Đốc; công trình kiến trúc nguy nga này được hoàn tất từ 1992 do tiền từ các cộng đồng Chăm hải ngoại gửi về, cả được hậu thuẫn rất mạnh từ các nước Hồi giáo nhất là Mã Lai; phải, ngôi nhà sàn ngói đỏ của người Chàm, trên Cồn Tơ Lụa An Giang, Châu Đốc, mùa lũ nước có thể ngập tới sàn nhà. [photo by Nguyễn Kỳ Hùng]
Hình 3: trái, Người viết đến thăm giáo đường Mubarak (có nghĩa là được ban ân phước) của người Chăm Islam ở làng Đa Phước Châu Đốc; công trình kiến trúc nguy nga này được hoàn tất từ 1992 do tiền từ các cộng đồng Chăm hải ngoại gửi về, cả được hậu thuẫn rất mạnh từ các nước Hồi giáo nhất là Mã Lai; phải, ngôi nhà sàn ngói đỏ của người Chàm, trên Cồn Tơ Lụa An Giang, Châu Đốc, mùa lũ nước có thể ngập tới sàn nhà.[photo by Nguyễn Kỳ Hùng]
Trái, Người viết đứng bên một khung dệt lụa cổ truyền, nghề này vẫn được duy trì, và đã gắn bó những người phụ nữ Chàm với gia đình trong một xã hội khép kín; phải, Tác giả bế em bé Chàm tên Karim từ tay mẹ của em. [photo by Nguyễn Kỳ Hùng]
Hình 4: trái, Người viết đứng bên một khung dệt lụa cổ truyền, nghề này  vẫn được duy trì, và đã gắn bó những người phụ nữ Chàm với gia đình trong một xã hội khép kín; phải, Tác giả bế em bé Chàm tên Karim từ tay mẹ của em. [photo by Nguyễn Kỳ Hùng]

Năm 1943, đã 9 tuổi, như một trường hợp hiếm hoi, Dohamide được thân phụ khuyến khích ra trường tỉnh học tiếp lớp nhì / cours moyen. Đi học hàng ngày, phải qua sông bằng xuồng. Ra tỉnh, được tiếp xúc với một xã hội xa lạ giữa những người Yuôn / Kinh, cũng là lúc Dohamide bắt đầu có những thắc mắc về cội nguồn của mình. Bangsa Champa, tìm về cội nguồn, có lẽ bắt đầu từ đây.   

      Năm 1948, sau bậc tiểu học, Dohamide lại được cha mẹ thu xếp cho đi tàu sông rời quê nhà lên Sài Gòn học tiếp bậc trung học. Tại Hòn Ngọc Viễn Đông, Dohamide được tiếp cận với một xã hội mở rộng gồm nhiều sắc tộc, không phải chỉ có người Việt, người Pháp, người Hoa mà còn có cả người Ấn Độ, người Mã Lai theo đạo Islam, họ làm ăn rất thành công và giàu có.

      Nhưng cảnh sống đạm bạc của Dohamide vẫn thu hẹp trong một khu xóm lao động Nancy nghèo nàn, gồm những căn nhà cây vách ván lụp xụp thuộc quận 2. Dohamide sống chung với mấy gia đình Chăm cũng đến từ Châu Đốc, họ lên Sài Gòn kiếm sống bằng cách làm thuê, buôn bán nhỏ rải rác nhưng vẫn tìm đến với nhau để gần gũi nương tựa, lâu dần cũng hình thành được một mô thức jam’ah / cộng đồng. Để duy trì đức tin,  họ tạo được riêng một giáo đường / masjid khởi đầu chỉ là căn nhà gỗ nhỏ thô sơ nhưng đó vẫn là nơi để  duy trì những sinh hoạt xã hội tôn giáo y khuôn như tại quê nhà khiến chàng trai Dohamide tuy sống thiếu thốn nhưng vẫn cảm thấy được ấm lòng. 

      Năm 1953, xảy ra một trận hoả hoạn tại khu Nancy đã khiến cho cộng đồng người Chăm đang sinh sống ở đây bị trắng tay. Cố gắng xây dựng lại, chưa được bao lâu lại xảy ra vụ Bình Xuyên 1955, xóm Nancy một lần nữa lại bị thiêu rụi. Điều tiếc nuối nhất với Dohamide là bao nhiêu ghi chép về lịch sử Champa từ Thư viện Việt Nam cũng thành tro than. Dohamide viết: “Nhưng dầu sao, qua quá trình lần mò ghi chép, ít nhất tôi cũng có được trong đầu một ý niệm tổng quát sơ khởi về Bangsa Champa gốc nguồn và biết được những sự kiện căn bản bao quanh người Chăm Châu Đốc, trong đó có bản thân tôi.”[1]

      Tuy nghèo xác xơ, nhưng những người Chăm này vẫn cố bám đất, từng bước xây dựng lại đời sống mới. Do thấy rõ được nhu cầu phải liên hệ với xã hội bên ngoài, Dohamide được mấy vị trưởng thượng đề nghị anh mở lớp dạy chữ Việt cho các đồng tộc Chăm. Qua lớp học này, qua ngôn ngữ Việt, ý niệm về cội nguồn Bangsa Champa được đánh thức dậy. Số người Chăm Châu Đốc lên sống ở Sài Gòn ngày càng nhiều, không phải chỉ ở khu xóm Nancy, nay lan ra các xóm lao động khác như Hoà Hưng, Phú Nhuận… dần dà họ kết nối lại được thành những jam’ah / cộng đồng nhỏ, nhưng xóm Nancy vẫn là khu sinh hoạt trung tâm. Và nơi  đây cũng là cái nôi cho Hiệp hội Hồi giáo Việt Nam được hình thành vào năm 1959.  

      Xong chương trình Tú tài I, Dohamide chọn thi vào học Ban Tham sự Đặc biệt Cao Nguyên chương trình 2 năm (dành cho người sắc tộc thiểu số) thuộc Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và cũng là lần đầu tiên trong đời Dohamide được gặp một số bạn đồng khoá thuộc các sắc tộc Tây nguyên như Ê-đê, Churu, Jarai, Bahnar… và cả những người thiểu số Thái, Tày, Nùng di cư từ miền Bắc vào. Và đặc biệt hơn nữa, Dohamide còn có được hai người bạn Chăm tới từ Phan Rang, nhưng với cảm giác đau xót là họ đã không thể hiểu nhau bằng ngôn ngữ Chăm, vốn gốc là tiếng mẹ đẻ của mình, và cả ba không có cách nào khác hơn là phải dùng tiếng Việt pha với tiếng Pháp để trao đổi chuyện trò.

       Dohamide tốt nghiệp Thủ khoa Ban Cao Nguyên (1958). Khi có thêm Tú tài II, Dohamide được học tiếp lên Ban Đốc sự Hành chánh Khoá 7 chương trình 3 năm, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (1959-1962). Sau khi tốt nghiệp, Dohamide được bổ nhiệm làm việc trong ngạch  hành chánh công quyền.  Từ năm 1956, do chánh sách có từ thời Đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà, quy định Việt Nam hoá tên họ các sắc dân thiểu số; theo anh Nguyễn Đắc Điều (Đốc sự Khoá 6), thì anh Dohamide không tự chuyển tên mình sang tiếng Việt, nhưng khi danh sách tốt nghiệp Đốc sự Khoá 7 (1962) trình lên Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì tên Dohamide đã trở thành “Đỗ Hải Minh”. [Nghị định bổ nhiệm đính kèm]

trái, Nghị định của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà hợp thức hoá việc bổ dụng 56 sinh viên tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Khoá VII năm 1962, tên Dohamide đã chính thức đổi thành Đỗ Hải Minh qua Nghị định này. [tư liệu Nguyễn Đắc Điều]; phải, Dohamide nay có tên Đỗ Hải Minh (người đứng ngoài cùng từ trái) tốt nghiệp Khoá VII Ban Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh 1962. [album gia đình anh chị Dohamide]
Hình 5: trái, Nghị định của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà hợp thức hoá việc bổ dụng 56 sinh viên tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Khoá VII năm 1962, tên Dohamide đã chính thức đổi thành Đỗ Hải Minh qua Nghị định này. [tư liệu Nguyễn Đắc Điều]; phải, Dohamide nay có tên Đỗ Hải Minh (người đứng ngoài cùng từ trái) tốt nghiệp Khoá VII Ban Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh 1962. [album gia đình anh chị Dohamide]

Năm 1964, Dohamide lập gia đình với cô giáo người gốc Việt Phan Thị Hoàng Hoa, lúc đó đang dạy học ở một trường trung học Gia Định. Cũng khi đó Dohamide được một vài bô lão Chăm có tinh thần Bangsa cực đoan nhắc nhở anh, việc vua Chăm Pô Rômê ngày xưa đã chết vì cưới vợ Việt.

Sau đại đăng khoa là tiểu đăng khoa: chú rể Chăm Dohamide với chiếc áo the đen, trao nhẫn cưới trong đám cưới với cô giáo Việt Phan Thị Hoàng Hoa, ngày 24.5.1964 trước khi đi Mỹ du học. [album gia đình anh chị Dohamide]
Hình 6: Sau đại đăng khoa là tiểu đăng khoa: chú rể Chăm Dohamide với chiếc áo the đen, trao nhẫn cưới trong đám cưới với cô giáo Việt Phan Thị Hoàng Hoa, ngày 24.5.1964 trước khi đi Mỹ du học. [album gia đình anh chị Dohamide]

Là người Chăm, không thể không bị xúc động thấm thía khi được đọc về câu chuyện – dù biết rõ nội dung mang nặng tính huyền thoại dân gian – vị vua Champa đã say mê sắc đẹp mỹ nhân Yuôn (là tên  người Chàm và người Khmer gọi người Việt), để rồi chính nàng Yuôn đã ra tay đốn cây Krêk vốn là tiêu biểu linh hồn Vương quốc Champa khiến phải bị địch bắt đi và chết thảm.

      Nhưng rồi một đám cưới Chăm-Việt vẫn cứ diễn ra.  Chú rể Chăm Dohamide và cô dâu Yuôn Phan Thị Hoàng Hoa  sau này đã có một cuộc sống lứa đôi rất hạnh phúc, họ có được ba con: hai trai, một gái là con út đều thành đạt khi tới tuổi trưởng thành. [Hình 6]

      Vào giai đoạn đó, trên Cao Nguyên Trung Phần đang dấy lên cuộc đấu tranh đòi ly khai của phong trào BAJARAKA (là chữ viết tắt của 4 sắc tộc Thượng lớn: BAhnar, JArai, RhAdé và KAho), họ phản đối chính sách phân biệt đối xử người Thượng của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà. BAJARAKA được coi là tiền thân của tổ chức FULRO về sau này.

      Mặt Trận FULRO (tiếng Pháp: Front Unifié de Lutte des Races Opprimées) không chỉ bao gồm các sắc dân Thượng Tây Nguyên, mà được mở rộng kết hợp thêm với: (1) Mặt trận Giải phóng Champa (Front de Libération du Champa, FLC) tức FULRO Chăm, do Les Kosem (một tướng nhảy dù người Khmer gốc Chăm) lãnh đạo. (2)  Mặt trận Giải phóng Kampuchea Krom của nhóm người Việt gốc Miên sống ở vùng Tây Nam Nam bộ (Front de Libération du Kampuchea Krom, FLKK) tức FULRO Khmer, do Chau Dera làm đại diện, để thành lập một tổ chức thống nhất gọi là FULRO: Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức

      Do những biến động trên, Bộ Nội vụ VNCH lúc đó đã không bổ nhiệm những khoá sinh sắc tộc tốt nghiệp vào các nhiệm sở trên vùng Tây Nguyên. Dohamide ra trường được bổ nhiệm vào chức vụ không liên hệ gì tới Nha Thượng Vụ, riêng Dorohiêm, thì bị đưa ra vùng địa đầu Quảng Trị một thời gian 5 năm trước khi được về Sài Gòn làm chuyên viên văn hoá giáo dục các sắc tộc thiểu số.

      Do Dohamide là thành phần người Chăm hiếm hoi có học, anh đã vận động và thành lập được một  Hiệp Hội Chàm Hồi giáo Việt Nam từ 1959. Năm 1964, Dohamide được đề cử là Đại biểu Islam Việt Nam đầu tiên tham dự Hội nghị các nước Islam Đông Nam Á và Viễn Đông tại Kuala Lumpur, Malaysia. [Hình 11]

      Năm 1972, anh đại diện Việt Nam tham dự Hội nghị Islam Thế giới tại Thánh địa Mecca, Ả Rập Saudi. Và cũng từ đây, Dohamide đã xây dựng được mối quan hệ chính thức giữa cộng đồng Chăm Islam nhỏ bé ở Việt Nam với Liên Minh Islam Thế Giới.

Ngày 13.4.1974, cộng đồng Chăm nồng nhiệt chào đón Dohamide trở về Sài Gòn sau một Hội nghị Quốc tế Hồi giáo tại thánh địa Mecca. [album gia đình anh chị Dohamide]
Hình 7: Ngày 13.4.1974, cộng đồng Chăm nồng nhiệt chào đón Dohamide trở về Sài Gòn sau một Hội nghị Quốc tế Hồi giáo tại thánh địa Mecca. [album gia đình anh chị Dohamide]

MỐI DUYÊN BÁCH KHOA

      Và rồi không ai khác hơn, cũng chính là chủ nhiệm Lê Ngộ Châu,  người có mắt xanh đã tìm ra và giới thiệu Dohamide trên báo Bách Khoa, và có thể nói Dohamide là người Chăm đầu tiên trở thành một tên tuổi quen thuộc với độc giả Bách Khoa từ thập niên 1960s, do loạt bài chuyên khảo về lịch sử và văn minh Champa.

      Buổi đầu, Dohamide chập chững cầm bút tập viết các bài phóng sự tiếng Việt về người Chàm được chủ nhiệm Tam Mộc cho đăng trên nhật báo Buổi Sáng, tuần báo Thế Giới tại Sài Gòn. Dohamide khai thác đề tài “nghề chài rà của người Chàm Châu Đốc” do truyền thống của dân tộc Champa thời cổ rất giỏi nghề đi biển và chài lưới. Loạt bài được đón nhận hào hứng, Dohamide còn được đám độc giả Chăm bình dân yêu cầu khai thác thêm về đề tài “bùa ngải Chà Châu giang”.  Đây cũng là dịp để cộng đồng nhỏ bé Chàm Châu Đốc trong khu xóm nghèo Nancy mới vừa học tiếng Việt đua nhau mua báo để được hiểu thêm về sinh hoạt nơi quê nhà.

      Trong thời gian học chương trình Đốc sự tại Học Viện Quốc gia Hành Chánh, Dohamide có dịp được làm việc với GS Phó Viện trưởng Nghiêm Đằng và sau đó anh được giới thiệu với Giáo sư Nghiêm Thẩm là bào đệ của ông. GS Nghiêm Thẩm lúc đó là Giám đốc Viện Khảo cổ Sài Gòn, cũng là Giáo sư ngành nhân chủng học tại Đại học Văn Khoa. Nhờ cơ duyên ấy Dohamide được dịp  tham khảo thêm các tài liệu của Viện Khảo cổ và Hội Nghiên cứu Đông Dương (Société des Études Indochinoises).

      Vào cuối năm 1962, Dohamide đã hệ thống hoá được các ghi chép và viết loạt bài “Người Chàm tại Việt Nam ngày nay”. Loạt bài này tình cờ được ông Nguyễn Ngọc Nê, là một chuyên viên trong đoàn cố vấn Đại học Michigan đọc và lấy làm thích thú nên đề nghị chuyển tới tạp chí Bách Khoa, nơi anh Lê Ngộ Châu đang là chủ nhiệm kiêm chủ bút. Lê Ngộ Châu rất bén nhạy, thấy ngay đây là một “viên ngọc ẩn thạch”, nên đã mời ngay Dohamide tới gặp tại toà soạn Bách Khoa, 160 Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Chẳng mấy chốc, hai người trở thành đôi bạn tâm giao. Bách Khoa cũng là nơi tạo điều kiện cho Dohamide gặp gỡ trao đổi với các cây bút nổi tiếng khác như nhà văn Bình Nguyên Lộc tác giả một cuốn sách gây nhiều tranh cãi “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam”, học giả Nguyễn Văn Hầu nổi tiếng với các bài chuyên khảo về Nam kỳ lục tỉnh, vùng Thất Sơn Châu Đốc và cả học giả Nguyễn Hiến Lê về sau này.

      Tiếp tục được sự khuyến khích và gợi ý các đề tài từ chủ nhiệm Lê Ngộ Châu, Dohamide đã viết được một loạt 36 bài trong bộ báo Bách Khoa 426 số, [cộng thêm hai bài trao đổi của hai học giả Nguyễn Văn Hầu và nhà văn Bình Nguyên Lộc]. Dohamide trở thành nổi tiếng như là một nhà văn hoá Chăm của tạp chí Bách Khoa. 

      Toàn bộ 426 số báo Bách Khoa nay đã được số hóa  (digitized) và hoàn tất ngày 15/10/2017. Đây là công trình sưu tập của chị Phạm Lệ Hương một thủ thư lâu năm và anh Phạm Phú Minh chủ bút Diễn Đàn Thế Kỷ, nay được lưu trữ và phổ biến miễn phí trên Thư Viện Người Việt Online và độc giả có thể đọc tất cả các bài viết của anh Dohamide trên tạp chí Bách Khoa với link: https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/BachKhoa.php

Bìa số báo Bách Khoa 138 (1/10/1062) và bài viết “tang lễ và hôn nhân Chàm” tr.19-21 của Dohamide. [nguồn: thư viện Người Việt Online]
Hình 8: Bìa số báo Bách Khoa 138 (1/10/1062) và bài viết “tang lễ và hôn nhân Chàm” tr.19-21 của Dohamide. [nguồn: thư viện Người Việt Online]

1/ Người Chàm tại Việt Nam ngày nay. Dohamide. Bách Khoa, số 135 (15/8/1962), tr.27-32

2/ Giới lãnh đạo thôn ấp Chàm ở Việt Nam. Dohamide. Bách Khoa, số 136 (1/9/1962), tr.9-13

3/ Cuộc sống gia đình của người Chàm. Dohamide. Bách Khoa 137 (15/9/1962), tr.11-16

4/ Tang lễ và hôn nhân Chàm. Dohamide. Bách Khoa 138 (1/10/1962), tr.19-21 

5/ Người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 139 (15/10/1962), tr.15-18

6/ Sinh hoạt xã hội của người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 140 (1/11/1962), tr.17-22

7/ Sự trưởng thành của thanh thiếu nữ Chàm. Dohamide. Bách Khoa 141 (15/11/1962), tr.17-24

8/ Đời sống gia đình của người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 142 (1/12/1962), tr.31-34

9/ Tang lễ và tín ngưỡng của người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 143 (15/12/1962), tr. 21-26

10/ Tín ngưỡng của người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 144 (1/1/1963), tr. 25-28

11/ Một vài nhận xét về người Chàm tại Việt Nam ngày nay: Sự hiện tồn của ngôn ngữ Chàm. Dohamide. Bách Khoa 145 (15/1/1963), tr. 63-69

12/ Một vài nhận xét về người Chàm tại Việt Nam ngày nay: Viễn ảnh cuộc sống xã hội. Dohamide. Bách Khoa 146 (1/2/1963), tr. 19-23

13/ Vài vấn đề của cộng đồng người Chàm tại Việt Nam. Dohamide. Bách Khoa 147 (15/2/1963), tr.15-20

[13b — Nhân loạt bài người Chàm tại Việt Nam hiện nay của ông Dohamide, góp ý về: Bước phiêu lưu của người Chàm Châu Đốc. Nguyễn Văn Hầu. Bách Khoa 153 (15/3/1963), tr.33-39 ]

14/ Kỷ nguyên Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 181 (15/7/1964), tr.13-17

15/ Hồi giáo trong buổi sơ khai. Dohamide. Bách Khoa 182 (1/8/1964), tr. 19-27

16/ Kinh Cu-ran trong sinh hoạt của người Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 183 (15/8/1964), tr. 31-38

17/ Nguyên tắc hành đạo của Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 184 (1/9/1964), tr.53-57

18/ Nguyên tắc hành đạo của Hồi giáo / cầu nguyện: sgo-lab. Dohamide. Bách Khoa 185 (15/9/1964), tr. 21-29

19/ Nguyên tắc hành đạo của Hồi giáo: Hành hương Mecca. Dohamide. Bách Khoa 186 (1/10/1964), tr.29-35

20/ Tập tục của người Hồi giáo 1. Dohamide. Bách Khoa 187 (15/10/1964), tr.47-50

21/ Tập tục của người Hồi giáo 2. Dohamide. Bách Khoa 188 (1/11/1964), tr.25-33

22/ Gia đình người Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 189 (15/11/1964), tr.37-42

23/ Nghĩa vợ chồng trong gia đình Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 190  (1/12/1964), tr. 23-27

24/ Giá thú Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 191 (15/12/1964), tr. 25-30

25/ Hồi giáo ở nước ngoài và ở Việt Nam. Dohamide. Bách Khoa 192  (1/1/1965), tr. 31-35

26/ Hồi giáo tại Việt Nam. Dohamide. Bách Khoa 193-194  (15/1/1965), tr.53-59

27/ Cuộc sống núi rừng Cao nguyên: sắc tộc Jeh, một năm tắm một lần. Dohamide. Bách Khoa 380 (1/11/1972), tr.19-22

28/ Thân phận người sơ khai. Dohamide. Bách Khoa 387  (15/2/1972), tr.47-53

29/ Thảm trạng da đỏ. Dohamide. Bách Khoa 393  (23/6/1973), tr.23-31

30/ Những khuôn mặt sầu chai đá của châu Mỹ la tinh. Dohamide. Bách Khoa 395  (8/8/1973), tr.35-41

31/ Thử bàn lại với nhà văn Bình Nguyên Lộc về “người Châu giang”.  Dohamide. Bách Khoa 396  (30/8/1973), tr.23-30

[31b — Về người Châu Giang: trả lời ông Dohamide trên Bách Khoa 396. Bình Nguyên Lộc. Bách Khoa 398  (1/10/1973), tr.43-46]

32/ Những hiện tượng huyền bí trong tập tục Chàm. Dohamide. Bách Khoa 405  (15/2/1974), tr.13-16, tr.83-86

33/ Đi vào hội nghị Hồi giáo Mecca và kiểm điểm một chuyến đi. Dohamide. Bách Khoa 411 (1/7/1974), tr.43-54

34/ Thế lực dầu lửa 1. Dohamide. Bách Khoa 418  (20/11/1974), tr.13-18

35/ Thế lực dầu lửa 2. Dohamide. Bách Khoa 419  (15/12/1974), tr. 15-22

36/  Sự thức tỉnh của các nước sản xuất dầu. Dohamide. Bách Khoa 420  (1/1/1975), tr.43-53

      Loạt bài trên báo Bách Khoa là những tài liệu cơ bản cho tập sách “Dân tộc Chàm Lược Sử” xuất bản năm 1965 với lời tựa giới thiệu của giáo sư Nghiêm Thẩm, như “mở ra một cánh cửa sổ cho người Chăm có một tầm nhìn tổng hợp về lịch sử dân tộc gốc nguồn của mình”.

      Do có được sự quan tâm của ông Sabarudine Cik, nguyên quyền Đại sứ Malaysia tại Việt Nam lúc đó, cuốn sách này cũng đã được dịch sang tiếng Anh “A Condensed History of Cham People” xuất bản ở Malaysia năm 1969. [1]

DU HỌC MỸ: DIỆN KIẾN CỰU TỔNG THỐNG TRUMAN    

      Với thành tích học vấn xuất sắc, Dohamide nhận được học bổng đi du học Mỹ, lấy bằng Cao học M.A. về Chánh trị tại học Đại học Kansas, Hoa Kỳ (1967).

      Điều cực kỳ lý thú và không bao giờ quên đối với chàng sinh viên người Chăm Dohamide khi được gặp vị cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Harry S. Truman, sinh quán tại Kansas  mà ai cũng biết là vị Tổng Thống đã chấm dứt cuộc Thế Chiến thứ Hai năm 1945  bằng quyết định ném hai trái bom nguyên tử xuống Nhật Bản.

Dohamide được diện kiến cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Harry S. Truman tại Kansas City 1966. [album gia đình anh chị Dohamide]
Hình 9: Dohamide được diện kiến cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Harry S. Truman tại Kansas City 1966. [album gia đình anh chị Dohamide]

      Sau đây là những dòng chữ của chính Dohamide ghi lại cuộc gặp gỡ đầy xúc cảm và nhớ đời với vị cựu Tổng Thống lừng lẫy của lịch sử Hoa Kỳ: [Hình 9]  

      “Có một sự việc khiến tôi – Dohamide, vô cùng phấn khởi đồng thời cũng rất hồi hộp. Đó là dịp duy nhứt trong đời tôi đột nhiên được mời, với tánh cách là một đại biểu sinh viên Việt Nam đến một khách sạn sang trọng ở thành phố Kansas tham dự buổi tiếp xúc của cựu Tổng Thống Harry S. Truman.

      Để buổi gặp có ý nghĩa, mỗi sinh viên được dặn chào mừng vị cựu Tổng Thống bằng tiếng nói mẹ đẻ và tự giới thiệu tên họ, tên đất nước mình. Được mở cửa đưa vào phòng tiếp kiến, tôi đã mở lời chào mừng bằng tiếng Việt, và làm như lời nhắc của ban nghi lễ trong phần tự giới thiệu, nhưng không hiểu sao sau khi nói tên nước Việt Nam xong thì mường tượng như một bản năng chợt đến, tôi lại thêm “gốc Chàm”! Do đó đáp câu hỏi của Tổng Thống liền sau đó tôi đã phải cố gắng vận dụng tiếng Anh vốn hãy còn nặng giọng phát âm tiếng Pháp, lấy hết sức bình sinh làm rõ gốc nguồn Chàm này, và phương cách cho dễ hiểu nhứt không gì hơn là lấy trường hợp người da đỏ mà người Mỹ quen gọi là “Indian” có mặt tại các khu dành riêng (reservation) hiện có tại đất Kansas này, để so chiếu ra hình dung một người Chàm tại Việt Nam. Và quả nhiên, hiệu nghiệm, ông cựu Tổng Thống nói ngay là tại tiểu bang Kansas này có các nhóm người Indian cư ngụ và nhấn mạnh chánh phủ liên bang Hoa Kỳ  tôn trọng nền văn hoá cổ truyền của họ…

      Đi bách bộ trên con đường ngắn vào nhà trọ, tôi nôn nao ước phải chi có một đồng tộc Chăm bên cạnh ngay lúc đó, để cùng chia sẻ niềm xúc động đang dâng tràn trong người, sau buổi diện kiến có nói lên được từ “Champa” thân thương này…” [1]

      Sau đó, Dohamide đã được một vị mạnh thường quân Mỹ giàu có bảo trợ cho về sống ở một nông trại mênh mông bát ngát của tiểu bang Kansas, và cả giúp cho Dohamide được đi thăm các khu dành riêng cho người da đỏ cùng các cơ sở dạy nghề dành cho các sắc dân thiểu số này tại một địa điểm lân cận.

TRỞ VỀ VIỆT NAM

      Học xong chương trình Cao học / Master về Chánh trị học tại Đại học Kansas, Hoa Kỳ (1967), Dohamide trở về Việt Nam, trở lại với cuộc đời công chức nhưng công việc lại không liên quan gì tới ngành phát triển sắc tộc mới hình thành.  

      Sẵn có mối quan hệ chặt chẽ với giới chức Mỹ, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Dohamide được ông Châu Kim Nhân lúc đó đang là giám đốc Cơ quan Tiếp Vận Trung Ương, mời về hợp tác, sau này  với chức vụ Phó Giám đốc. Tại đây, Dohamide đã cùng với các bạn đồng sự vượt qua được mọi nghi kỵ khó khăn, và đã tạo được mối giao hảo tốt đẹp giữa cơ quan Tiếp Vận Trung Ương VNCH và cơ quan Tiếp vận Viện trợ Mỹ USAID / Logistics (U.S. Agency for International Development) thời bấy giờ. [5]

GIAI ĐOẠN SAU 1975

      Ngạch Đốc sự Quốc Gia Hành chánh được xem như thuộc thành phần quân cán chính cao cấp của chánh quyền cũ nên sau 1975, Dohamide và cả người em Dorohiêm đều phải đi trình diện tập trung cải tạo. Ban đầu là các trại giam ở miền Nam, sau đó từ trại giam Long Thành, Dohamide bị tống lên một đoàn xe bít bùng chở thẳng ra bến Tân Cảng, đổ xuống hầm con tàu Sông Hương, cùng với mấy ngàn tù nhân khác, trải qua hơn hai ngày đêm trên biển khơi ra tới Cảng Hải Phòng, để rồi từ đây Dohamide lần lượt chuyển qua các trại lao động khổ sai ngoài miền Bắc ngót 10 năm. Dohamide cũng không thể quên được vụ chạy giặc biên giới trong Cuộc Chiến Việt Trung 1979, xuống các tỉnh Trung du. Dù ở trại nào, thì tình cảnh cũng giống như  mọi tù nhân khác, với ăn không đủ no đói không đủ chết, rét lạnh do quần áo không đủ mặc, và bệnh tật thì không thuốc men nhưng may mắn là Dohamide và cả người em Dorohiêm, ở tù lâu hơn, vẫn còn sống sót. 

 
      Năm 1984, từ trại tù miền Bắc, Dohamide được chuyển về Nam và sau đó được tha về ở tuổi đã ngoài 50, tóc đã nhuốm bạc với sức khoẻ suy yếu. Điều mà Dohamide coi như diễm phúc là được thấy lại đầy đủ ba đứa con bên cạnh mẹ chúng, tuy tất cả đều ốm o do thiếu ăn. Vợ anh, một cô giáo Việt dạy sử địa đã phải một mình hy sinh bươn chải nuôi nấng ba con, và trong suốt mười năm tù đày ấy, chị Dohamide Phan Thị Hoàng Hoa chỉ có thể ra Bắc “thăm nuôi” chồng có một lần. Rồi Dohamide chạnh nhớ tới lời khuyên năm xưa của một vài vị bô lão Chăm nhắc nhở anh sự việc vua Pô  Rômê ngày xưa đã chết vì cưới vợ Việt. Nhưng nay anh vẫn còn sống, vẫn còn nguyên vẹn một mái ấm gia đình để trở về trong khi một số bạn tù Việt của anh thì có người lại không may mắn vì người bạn đời đã sang ngang.

      Vẫn Tình Nghĩa Bách Khoa

      Tuy chưa hết thời gian quản chế, Dohamide một hôm đi bộ trên đường Phan Đình Phùng, tìm tới toà soạn Bách Khoa thăm anh chị Lê Ngộ Châu. Sau ngót 10 năm gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, vẫn vui vẻ như thuở nào. Sau đó vài ngày, Dohamide được anh chị Lê Ngộ Châu “bồi dưỡng” (chữ của Việt Cộng từ trong tù cải tạo) cho một bữa ăn thịt bò nhúng dấm mà Dohamide bảo là vào đúng cơn thèm của một người vừa mới được trở lại với đời thường. Chị Lê Ngộ Châu, vẫn tinh tế như bao giờ, biết rõ Dohamide có đạo Islam không ăn được các món thịt heo.

      Dohamide viết: “Tôi ghi lại đây bữa cơm này không phải chỉ vì cái ngon lâu ngày mới được thưởng thức lại, mà là vì cũng nhân bữa cơm này, tôi được gặp lại học giả khả kính Nguyễn Hiến Lê, người mà tôi đã học hỏi được rất nhiều, trước năm 1975, trên con đường tự học về những gì bản thân ưa thích, trong đó, có việc tìm hiểu về Bangsa Champa cội nguồn.

      Trong buổi gặp này, bác Nguyễn Hiến Lê vẫn nhắc nhở, dù có thế nào, cũng đừng bỏ cuộc, cố gắng với sức mình và cùng khuyên anh chị em trẻ người Chăm quan tâm nghiên cứu thêm về Champa để đóng góp tiếng nói của chính người Chăm trong các vấn đề liên hệ tới cội nguồn cùng nền văn minh Champa.”  Đây cũng là lần gặp cuối cùng trước khi bác Nguyễn Hiến Lê qua đời ngày 22/12/1984”. [1]

       Hội Nhập hay Đi Kinh Tế Mới

       Ra tù rồi, nhưng vẫn còn bị quản chế. Để khỏi phải đi vùng kinh tế mới, do là một chuyên viên, Dohamide xin vào làm trong Công ty xuất nhập khẩu Cholimex ở quận 5 Sài Gòn. Giám đốc Cholimex một người gốc Hoa, nguyên là nhà thầu chuyên chở cho Nha Tiếp Vận thời VNCH, đã biết anh Dohamide từ thời ấy. Cũng tại đây, Dohamide  gặp lại một số anh em chuyên gia cũ như Trần Bá Tước, Huỳnh Bửu Sơn, Hồ Xích Tú…

      Không lâu sau đó, cũng qua giới thiệu của các bạn cũ, Dohamide được mời tham gia sinh hoạt “Nhóm Thứ Sáu trong tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Võ Văn Kiệt.  Dohamide đã góp nhiều công sức để hình thành cơ quan Quản trị Đầu tư IMC / Investment Management Inc. và cùng các bạn đồng sự đã xây dựng được dự án liên doanh Khu chế xuất Tân Thuận. [4]

NHỮNG NĂM Ở HẢI NGOẠI

      Chín năm sau khi ra tù, phải đến tháng 3/1993, qua bao nhiêu thủ tục giấy tờ phức tạp, qua chương trình H.O. / Humanitarian Operations, Dohamide cùng gia đình được xuất cảnh sang Mỹ. Nơi đến định cư đầu tiên là thị xã Frankfort thủ phủ của tiểu bang Kentucky, do Dohamide đã được một người Mỹ quen anh trước 1975 bảo trợ, chu đáo lo cho gia đình anh nơi ăn chốn ở buổi ban đầu.

      Khi được tin Dohamide tới Mỹ, bà con đồng tộc Chăm từ các địa phương khác rất vui mừng. Dohamide đã được họ tới tấp gọi điện thoại hỏi thăm, có anh em còn mua vé máy bay tạo cơ hội cho Dohamide được đi thăm các tiểu bang có cộng đồng người Chăm sinh sống: từ miền đông Washington DC, New York, tới Chicago sang các tiểu bang miền Tây như Washington qua các thành phố Seattle, Olympia, tới California: Sacramento, San Jose, Santa Ana… Đi đến đâu Dohamide cũng thấy sự hình thành lớn mạnh của những cộng đồng Chăm hải ngoại, có nơi quy tụ được tới hơn 300 gia đình Chăm, sinh hoạt đủ các ngành nghề. Điều đáng nói là các bậc cha mẹ nay đã nhìn xa trông rộng, biết đầu tư vào sự học cho con cái, một số đã tốt nghiệp bậc Đại học, nhưng vẫn cố gắng giữ những tập tục cổ truyền từ bên nhà.

      Đám thanh niên Chăm nhiều nhiệt huyết, vừa có cố gắng hội nhập vào dòng chính mainstream Hoa Kỳ, vừa có ý thức bảo tồn văn hoá Champa, và họ đã tổ chức được một Liên minh người Chăm Tị nạn – Cham Refugee League”.

      Các cộng đồng Chăm hải ngoại cũng đã thiết lập được những giáo đường / masjid riêng trên một số thành phố tại Hoa Kỳ, như: Seattle, Olympia, Sacramento, Pomona, Santa Ana… Nay do có thêm điều kiện tài chánh, nhiều người Chăm tại hải ngoại đã thực hiện được “giấc mơ làm haji”, đi hành hương sang tận thánh địa Mecca.

      Cuối cùng gia đình Dohamide đã chọn về định cư tại Nam California nắng ấm như vùng đất lành chim đậu. Sau một thời gian ổn định được cuộc sống trên vùng đất mới, bắt đầu từ 2004 Dohamide đã có những chuyến về thăm Việt Nam, như một tiếp tục cuộc hành trình Bangsa Champa, tìm về cội nguồn.

CÁC SÁCH XUẤT BẢN

Văn Hoá:

      1/ Dân tộc Chàm lược sử. Dohamide, Dorohiêm, Hiệp Hội Chăm Hồi Giáo Việt  Nam in lần thứ nhất, Sài Gòn 1965. Tủ sách Chàm Châu Đốc tái bản lần 2 tại California, Hoa Kỳ 2016.

      2/ Bangsa Champa: tìm về một cội nguồn cách xa. Dohamide, Dorohiêm, SEACAEF [Southeast Asian Culture and Education Foundation] & VIET FOUNDATION [Volunteers for the Integration of Ethnic Traditions], California, Hoa Kỳ 2004.

      Bangsa Champa là một tác phẩm biên khảo nhưng khác với cuốn Dân tộc Chàm lược sử, các chương viết trong sách có tính cách ghi chép về văn hóa, tìm về cội nguồn và cuộc sống của dân tộc Chăm, đôi khi là các đoạn hồi ký mô tả đời sống của các nhóm người Chăm đang sống rải rác đây đó tại Việt Nam và cả ở hải ngoại.

      Bangsa Champa: tìm về một cội nguồn cách xa, đã được tổ chức ra mắt tại hội trường báo Người Việt, trên con đường báo chí Moran, Little Saigon, ngày 8/1/2005 do Bác sĩ Phạm Gia Cổn thành viên sáng lập Viet Foundation [Volunteers for the Integration of Ethnic Traditions] điều phối, có thêm phần trình diễn văn nghệ Chăm, do Dorohiêm phụ trách, trên một sân khấu có hình ngọn Tháp Chàm uy nghi cổ kính. Một buổi ra mắt sách rất thành công trong một hội trường có sức chứa 300 người chật hết chỗ. [Hình 10]

Buổi ra mắt sách Bangsa Champa tại hội trường báo Người Việt; trái, Tác gỉa Dohamide chào mừng quan khách, phải: Bác sĩ Phạm Gia Cổn, thành viên sáng lập Viet Foundation [Volunteers for the Integration of Ethnic Traditions], người điều phối chương trình ra mắt sách ngày 8/1/2005 tại hội trường nhật báo Người Việt, Little Saigon. [tư liệu Phạm Gia Cổn]
Hình 10A: Buổi ra mắt sách Bangsa Champa tại hội trường báo Người Việt; trái, Tác gỉa Dohamide chào mừng quan khách, phải: Bác sĩ Phạm Gia Cổn, thành viên sáng lập Viet Foundation [Volunteers for the Integration of Ethnic Traditions], người điều phối chương trình ra mắt sách ngày 8/1/2005 tại hội trường nhật báo Người Việt, Little Saigon.[tư liệu Phạm Gia Cổn]
Chương trình văn nghệ Chăm do Dorohiêm tổ chức trong buổi ra mắt sách Bangsa Champa với các vũ điệu Chàm trước hình một Tháp Chàm cổ kính và uy nghi. [tư liệu Phạm Gia Cổn]
Hình 10B: Chương trình văn nghệ Chăm do Dorohiêm tổ chức trong buổi ra mắt sách Bangsa Champa với các vũ điệu Chàm trước hình một Tháp Chàm cổ kính và uy nghi. [tư liệu Phạm Gia Cổn]

3/ Người Chăm Châu đốc, là một công trình biên khảo thứ ba của Dohamide và Dorohiêm có nội dung đi sâu vào tập tục truyền thống người Chăm Châu đốc, tác phẩm còn đang dở dang thì Dorohiêm bất ngờ bị đột quỵ mất ngày 5/1/2019; và nay, ngày 8/11/2021, Dohamide cũng đã trở thành “người trăm năm cũ”, và tất cả chỉ còn là những trang bản thảo.

trái, Bìa cuốn sách Dân tộc Chàm lược sử, đồng tác giả Dohamide, Dorohiêm, do Hiệp Hội Chàm Hồi Giáo Việt Nam in lần thứ nhất, Sài Gòn 1965; phải, Bìa trước và sau cuốn sách Dân tộc Chàm lược sử, do Tủ sách Chăm Châu Đốc tái bản tại Hoa Kỳ 2016. Hình ảnh nơi bìa sau, người đứng là Dohamide Đại biểu Chăm Hồi Giáo Việt Nam đang phát biểu ý kiến tại Hội nghị các nước Hồi giáo Đông Nam Á và Viễn Đông, họp tại Kuala Lampur, Malaysia tháng 2/ 1964. [tư liệu Phạm Lệ Hương]
Hình 11: trái, Bìa cuốn sách Dân tộc Chàm lược sử, đồng tác giả Dohamide, Dorohiêm, do Hiệp Hội Chàm Hồi Giáo Việt Nam in lần thứ nhất, Sài Gòn 1965; phải, Bìa trước và sau cuốn sách Dân tộc Chàm lược sử, do Tủ sách Chăm Châu Đốc tái bản tại Hoa Kỳ 2016. Hình ảnh nơi bìa sau, người đứng là Dohamide Đại biểu Chăm Hồi Giáo Việt Nam đang phát biểu ý kiến tại Hội nghị các nước Hồi giáo Đông Nam Á và Viễn Đông, họp tại Kuala Lampur, Malaysia tháng 2/  1964.  [tư liệu Phạm Lệ Hương]
trái, Bìa cuốn sách Bangsa Champa: tìm về một cội nguồn cách xa; Dohamide, Dorohiêm là đồng tác giả; do SEACAEF & VIET FOUNDATION, California, Hoa Kỳ xuất bản 2004; cả hai cuốn sách trên vẫn bị cấm xuất bản tại Việt Nam cho tới nay; phải, hai anh em Dorohiêm (mất ngày 3/1/2019), Dohamide (mất ngày 8/11/2021). [tư liệu Phạm Phú Minh, photo by Ngô Thế Vinh]
Hình 12: trái, Bìa cuốn sách Bangsa Champa: tìm về một cội nguồn cách xa; Dohamide, Dorohiêm là đồng tác giả; do SEACAEF & VIET FOUNDATION, California, Hoa Kỳ xuất bản 2004; cả hai cuốn sách trên vẫn bị cấm xuất bản tại Việt Nam cho tới nay; phải, hai anh em Dorohiêm (mất ngày 3/1/2019), Dohamide (mất ngày 8/11/2021). [tư liệu Phạm Phú Minh, photo by Ngô Thế Vinh]

Ngoài những buổi ra mắt sách chính thức, còn phải kể tới những buổi gặp gỡ “ra mắt sách bỏ túi” với các nhóm bạn quý mến anh Dohamide.

Dohamide đang cắt chiếc bánh Bangsa Champa trong một buổi ra mắt sách bỏ túi tại nhà hoạ sĩ Nguyễn Đình Thuần, Santa Ana 2018; từ trái, Nguyễn Đình Thuần, Dorohiêm, Nguyễn Quốc Thái, Dohamide, Phan Thị Lệ. [photo by Ngô Thế Vinh]
Hình 13: Dohamide đang cắt chiếc bánh Bangsa Champa trong một  buổi ra mắt sách bỏ túi tại nhà hoạ sĩ Nguyễn Đình Thuần, Santa Ana 2018; từ trái, Nguyễn Đình Thuần, Dorohiêm, Nguyễn Quốc Thái, Dohamide, Phan Thị Lệ.[photo by Ngô Thế Vinh]
từ trái, Dorohiêm, Phạm Phú Minh, Dohamide, Hoàng Xuân Trường, Phạm Gia Cổn, Tôn Nữ Thu Nga, Song Thao, Phùng Minh Tiến, Thành Tôn, Nguyễn Mạnh Trinh. Ba người trong hình, Dorohiêm (2019), Dohamide (2021), Nguyễn Mạnh Trinh (2021) nay đã là Người Trăm Năm Cũ. [hình chụp tại Cafe Factory, Little Saigon 3/2018, tư liệu Phạm Phú Minh]
Hình 14: từ trái, Dorohiêm, Phạm Phú Minh, Dohamide, Hoàng Xuân Trường, Phạm Gia Cổn, Tôn Nữ Thu Nga, Song Thao, Phùng Minh Tiến, Thành Tôn, Nguyễn Mạnh Trinh. Ba người trong hình, Dorohiêm (2019), Dohamide (2021), Nguyễn Mạnh Trinh (2021) nay đã là Người Trăm Năm Cũ.  [hình chụp tại Cafe Factory, Little Saigon 3/2018, tư liệu Phạm Phú Minh]

Sách Tôn Giáo:

—   Sự nghiệp Nabi Muhammad (1994)

  Đạo Islam: đức tin và các ứng dụng. Hammuđah Abđalali, Dohamide Abu Talib. Tủ sách tìm hiểu Islam, California 1995

  Xoá tan các ngờ vực về Islam. Dohamide Abu Talib, The Islamic Society of  Indochina, Inc. California, Hoa Kỳ 2015.

DOHAMIDE VÀ INRASARA

      Trong cuốn Bangsa Champa, nơi Chương 8, khi giới thiệu chân dung những đứa con ưu tú của Champa, Dohamide đã giới thiệu Phú Trạm, bút hiệu Inrasara đang sống trong nước, như một học giả Chăm đầy triển vọng đang vươn lên

      Dohamide viết:

      “Đặc biệt nhứt và sáng chói nhứt, có thể nói là Inrasara, là một học giả say sưa dấn thân vào sự nghiệp nghiên cứu văn hóa Chăm được thể hiện qua văn học Chăm là công trình nghiên cứu xuất sắc, có giá trị lịch sử, nội dung soi rọi và khai thác một cách có hệ thống kho tàng văn học Champa từ lâu đã được một vài học giả Pháp quan tâm tìm hiểu nhưng chỉ mới tiếp cận được từng mảnh tản mác rời rạc. Công trình nghiên cứu văn học Chăm của Inrasara đã mang đến niềm tự hào chung cho Bangsa Champa.    

      Độc đáo nhứt là Inrasara đã đơn thân độc mã hình thành và ấn hành tập san chuyên đề xuất bản định kỳ, lấy tênTagalau. Đóng góp quý báu của Inrasara là đã làm cho tập san Tagalau thành một nơi gặp gỡ của các cây bút người Chăm từ những ngành nghề khác nhau, cùng chung một tâm huyết, thể hiện các suy tư đa dạng và nhận định độc đáo của mình xuất phát từ trong lòng xã hội Chăm.

… Inrasara, nhà thơ đồng thời là học giả trẻ người Chăm mà tiềm năng sáng tạo phong phú và cao sâu đang độ bừng lên trong dòng chánh lưu của xã hội Việt Nam đương thời.” [1]

Những đứa con ưu tú của sắc tộc Chăm; trái, Dohamide sinh năm 1934, Dorohiêm sinh năm 1937, cả hai sinh ra và lớn lên ở làng Katambong, Châu Đốc thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long; phải, Phú Trạm sinh năm 1957, (sau hơn một thế hệ, 23 năm), sinh ở tỉnh Ninh Thuận, Trung Phần Việt Nam, bút hiệu Inrasara, được Dohamide nhận định: “Inrasara là một nhà thơ Chăm nổi tiếng, một học giả dấn thân vào nghiên cứu văn hóa Chăm với các công trình nghiên cứu xuất sắc, có giá trị lịch sử, nội dung soi rọi và khai thác một cách có hệ thống kho tàng văn học Champa, đã là niềm tự hào chung cho Bangsa Champa”. [1]
Hình 15: Những đứa con ưu tú của sắc tộc Chăm; trái, Dohamide sinh năm 1934, Dorohiêm sinh năm 1937, cả hai sinh ra và lớn lên ở làng Katambong, Châu Đốc thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long; phải, Phú Trạm sinh năm 1957, (sau hơn một thế hệ, 23 năm), sinh ở tỉnh Ninh Thuận, Trung Phần Việt Nam, bút hiệu Inrasara, được Dohamide nhận định: “Inrasara là một nhà thơ Chăm nổi tiếng, một học giả dấn thân vào nghiên cứu văn hóa Chăm với các  công trình nghiên cứu xuất sắc, có giá trị lịch sử, nội dung soi rọi và khai thác một cách có hệ thống kho tàng văn học Champa, đã là niềm tự hào chung cho Bangsa Champa”. [1]    

      Và đây là những dòng đầy hoài niệm, Phú Trạm Inrasara viết về hai anh em Dohamide, Dorohiêm:

      “Vào Đệ Thất trường Pô-Klong, cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Dân tộc Chàm lược sử. Không biết từ đâu nó rơi vào tay tôi, để tôi dính luôn vào nó. Ở nhà quê có đâu sách mà đọc, vậy là cứ nhai đi nhai lại đến thuộc lòng. Năm 1992, vào Sài Gòn làm việc, tôi đạp xe qua gặp ngay anh. Lần nữa, trước khi qua Mỹ, anh mời tôi sang nhà. Anh kiệm lời, tôi thì ít nói, thế nên chúng tôi gần như không nói gì nhiều. Chỉ nhớ anh dặn tôi trau giồi sinh ngữ, văn hóa và lịch sử dân tộc, và gửi gắm tâm sự: Cần nhiều tấm lòng và thái độ hơn nữa để giúp hai bộ phận Chăm [Đông và Tây] xích lại gần nhau. Thời gian sau đó chúng tôi thường xuyên trao đổi sách vở, thư từ. Khoảng 2004 anh về Việt Nam ghé nhà tôi tại quận Tư, anh em hàn huyên chuyện tình cảm mà không gì khác. Tiếc, tôi đã không có lấy tấm ảnh chung trong khi máy ảnh ở nhà sẵn đó! Đó là lần cuối chúng tôi gặp mặt nhau.[6]

      Với tác phẩm thứ hai “Bangsa Champa, Tìm về một cội nguồn cách xa”, Inrasara viết tiếp:

      “Tôi muốn mượn lời Henry Miller để nói về công trình này: đây không phải là tác phẩm, đụng đến nó là bạn đụng đến con người. Bangsa Champa nói lên đầy đủ con người Dohamide – Dorohiêm: Đứa con của Đất, yêu tha thiết quê hương, đau đáu nỗi niềm dân tộc, làm tất cả những gì có thể để mang quê hương đến với mỗi đứa con Chăm, và mang Chăm về hội lại một quê chung. [6] 

MỘT CHÚT RIÊNG TƯ

      Văn kỳ thanh, tôi biết anh Dohamide từ hồi báo Bách Khoa, sau này thân thiết với anh là do có cùng mối quan tâm tới các sắc dân thiểu số: vấn đề người Thượng ở Tây Nguyên, người Chàm Phan Rang Phan Rí ở miền Trung, người Chăm Islam ở Châu Đốc, Tây Ninh và Cambodia. Từ thời làm báo sinh viên Y khoa Tình Thương và sau đó trong thời gian quân ngũ, tôi đã có dịp tìm hiểu thêm và cả tiếp cận với những sắc dân thiểu số.

      Dohamide có đọc cuốn Vòng Đai Xanh, và sau này là hai cuốn sách Mekong của tôi. Tôi thì đọc các bài viết và hai tác phẩm về văn hoá Chăm của anh. Chính anh Dohamide đã viết một bài tựa có lẽ là hay nhất cho cuốn Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng trong dịp tái bản 2014.

      Vào thập niên 1990, anh Dohamide có được đọc bản thảo một bài viết của tôi “Những Đứa Con của Núi Rừng”, và sau này khi Vòng Đai Xanh tái bản lần thứ ba (2018), có thêm bài viết này nhưng với các thông tin mới được cập nhật, với nhan đề “Người Thượng Đôi Bờ”.   

Từ Vòng Đai Xanh 1970

tới Người Thượng Đôi Bờ 2017

      Tin VOA, 15/ 03/ 20176 người Thượng ở Tây Nguyên xin tị nạn với lý do bị đàn áp chính trị và tôn giáo vừa bị trả về Việt Nam hôm thứ Ba, sau khi Campuchia bác đơn xin tị nạn của họ. Cambodia Daily cho hay trong 6 người, có một bé gái dưới 10 tuổi. Nhóm người này đã được các giới chức Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) hộ tống qua biên giới để trở về Việt Nam, theo lời ông Sok Sam An, Phó chỉ huy trạm kiểm soát biên giới O’yadaw ở tỉnh Ratanakiri, Campuchia… Trong khi đó, Cambodia Daily dẫn lời người đứng đầu Dịch vụ Tị nạn Jesuit, tổ chức hỗ trợ người Thượng ở Phnom Penh, cho biết hiện vẫn còn 143 người đang chờ quyết định về số phận của họ. Làn sóng người Thượng mới nhất vượt biên sang tỉnh Ratanakiri bắt đầu vào cuối năm 2014. Nhưng làn sóng này đã chậm lại sau khi xảy ra hàng chục vụ trục xuất trở về Việt Nam. Cho tới nay, chỉ có 13 người Thượng được cấp quy chế tị nạn và tới Philippines vào tháng 5, trong khi hàng chục người khác bị trả về Việt Nam. [hết lược dẫn]

NGƯỜI THƯỢNG Ở VIỆT NAM

Người Thượng là tên gọi chung cho khoảng 29 sắc dân bộ lạc sinh sống trên vùng Cao nguyên Trung phần Việt Nam, nói nhiều thứ ngôn ngữ, mặc nhiều thứ y phục, chủ yếu sống bằng du canh và săn bắn. Họ quen sống trên những ngôi nhà sàn, nuôi thêm các loại gia súc: trâu bò heo gà. Ngày nay tại một số ít buôn bản, người Thượng vẫn còn giữ được những nghi thức sinh hoạt bộ lạc cổ truyền, rất hấp dẫn và thu hút du khách.

Trước các cuộc chiến tranh, có thể nói người Thượng có một cuộc sống xa xôi cách biệt hẳn với người Kinh ở đồng bằng. Nhưng cuộc sống thanh bình ấy hầu như đã bị kết thúc kể từ Thế Chiến Thứ Hai.

      Với cuộc chiến tranh Việt Pháp chín năm, lần đầu tiên người Thượng đã phải thật sự va chạm với thế giới bên ngoài. Cuộc chiến ấy kết thúc với sự thất trận của người Pháp. Hiệp định Genève chia đôi Việt Nam và chánh quyền miền Nam được giao cho quyền kiểm soát cả một vùng Cao nguyên Trung phần rộng lớn với khoảng 1,5 triệu người Thượng thuộc nhiều bộ lạc khác nhau sống rải rác trong các vùng rừng núi phía đông dãy Trường Sơn. Ý thức được tầm quan trọng chiến lược của vùng địa bàn Cao nguyên, ngay từ những tháng đầu tiên, chánh phủ Sài Gòn đã tung ra hàng loạt các nỗ lực đồng hóa người Thượng vào đời sống xã hội người Việt mà không kể gì tới những sắc thái văn hóa đặc thù của riêng họ. Quy chế Hoàng Triều Cương Thổ riêng biệt dành cho người Thượng có từ thời vua Bảo Đại, đã bị ông Diệm hủy bỏ (từ tháng 3/1955). Có nghĩa là không còn chính sách đãi ngộ và tôn trọng quyền lợi đặc biệt của những người thiểu số. Với chính sách Dinh điền, hàng chục ngàn người dân công giáo di cư từ miền Bắc đã được đưa lên Cao nguyên định cư, xâm phạm cả những vùng đất đai màu mỡ đã từng là sở hữu của người Thượng qua nhiều thế hệ. Cộng thêm với vô số những lỗi lầm khác của chánh quyền thời bấy giờ, như ra lệnh đóng các tòa án phong tục Thượng, ngăn cấm các thổ ngữ và hạn chế số người Thượng có khả năng và có học tham gia vào các cơ cấu hành chánh. Thái độ bất mãn và không hợp tác của người Thượng và cả chống đối nữa là điều rất dễ hiểu.

Vào đầu thập niên 1960, cùng với sự tham dự trực tiếp của người Mỹ vào cuộc Chiến Tranh Việt Nam – tình cảnh của người Thượng hầu như đã hoàn toàn đổi khác. Người Thượng đã tiếp đón người Mỹ bằng vòng tay rộng mở, với những ràng buộc gắn bó nảy nở từ cả hai phía. Các cố vấn Mỹ cần người Thượng giúp đỡ họ thu thập các tin tức tình báo về sự xâm nhập và di chuyển của quân đội cộng sản. Trong khi đó người Thượng lại tin tưởng rằng, những người bạn Mỹ có thể bảo vệ họ chống lại sự đe dọa từ cả hai phía người Việt, [dù là cộng sản hay không], hơn thế nữa cả bảo đảm nền tự trị của họ một mai khi cuộc chiến tranh chấm dứt.

Và trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam, người Thượng luôn luôn là nạn nhân kẹt giữa các thế lực tranh chấp. Khoảng năm 1972, giới quân sự Mỹ ước lượng rằng đã có khoảng 200 ngàn người Thượng bị chết trong các cuộc giao tranh, với khoảng 80 phần trăm buôn ấp có tự lâu đời hoàn toàn bị phá hủy và những bản đồ sắc tộc đã chẳng còn mang một ý nghĩa nào.

Đến năm 1975, bối cảnh chánh trị và quân sự Việt Nam càng ngày càng suy thoái. Sau biến cố mất Ban Mê Thuột, bằng một quyết định sai lầm có tính cách chiến lược của ông Thiệu khi bỏ Cao nguyên, với hậu quả là một cuộc di tản đẫm máu, kéo theo sự tan rã hoàn toàn của chánh quyền Sài Gòn.

Dưới chế độ cộng sản mới, hàng ngàn người Thượng do bị nghi ngờ đã sát cánh chiến đấu với người Mỹ, bị hành hạ tù đày trong các trại cải tạo, một số lãnh tụ Thượng bị hành quyết và những người dân Thượng sống trong các buôn bản cũng bị kiểm soát rất chặt chẽ khiến cuộc sống của họ càng ngày khốn khổ và trở nên bi đát hơn.

      Một số người Thượng khác đã chọn cầm vũ khí, tìm tự do trong rừng sâu, chống lại chế độ mới. Nhưng họ đã bị tổn thất nặng nề do nhà nước Hà Nội có hỏa lực nhiều lần mạnh hơn. Nhóm người Thượng này đã phải chạy sang Lào rồi Cam Bốt cuối cùng cho dù kiệt sức, họ cũng thoát được sang được Thái Lan. Qua bao nhiêu vận động và thủ tục, lần đầu tiên có một nhóm đông đảo 213 người Thượng được vào Mỹ và cuối cùng đi định cư ở tiểu bang North Carolina, nơi có những người bạn cựu chiến binh Mũ Xanh Mỹ chờ đón và giúp đỡ họ.

      Vẫn tại Việt Nam, với không ngừng các đợt di dân lên Cao nguyên, cho tới năm 2000, dân số trên các tỉnh Tây nguyên đã tăng vọt lên tới con số 4 triệu, mà đa số lại là người Kinh đến từ đồng bằng. Chỉ còn khoảng 1 triệu người Thượng với ngót 30 sắc tộc bao gồm 6 bộ lạc lớn chính như: Jarai (320 ngàn), Rhadé (258 ngàn), Bahnar (181 ngàn), Koho (122 ngàn), Mnong (89 ngàn) và Stieng (66 ngàn). Và người Thượng nay trở thành thiểu số trên chính vùng đất đai vốn là quê hương của họ.

      Với áp lực di dân khổng lồ và ồ ạt của người Kinh [do chính sách của Nhà nước cộng sản hoặc từ các cuộc di dân tự phát], người Thượng hầu như không còn không còn có được một khoảng không gian sinh tồn, họ không có cách nào duy trì được nếp sinh hoạt du canh truyền thống vì họ đã hoàn toàn bị tước đoạt quyền kiểm soát đất đai trước đây là của họ. Họ phải chấp nhận sinh sống trên từng mảnh vườn nhỏ, làm thuê trên những vùng trồng trà hay cà phê của người Kinh; họ cảm thấy bị kỳ thị và bị bóc lột ngay trên vùng đất đai vốn là của tổ tiên họ.

Nhóm người Thượng vượt biên bằng đường bộ từ Việt Nam sang tỉnh Ratanakiri, Cam Bốt 22/07/2004 [nguồn: Reuters]
Hình 16: Nhóm người Thượng vượt biên bằng đường bộ từ Việt Nam sang tỉnh Ratanakiri, Cam Bốt 22/07/2004 [nguồn: Reuters]

Tôn giáo nguyên thủy của người Thượng là đa thần và thờ cúng những vật linh, với nhiều nghi thức thường thấy như cảnh giết trâu hay súc vật khác trong các buổi tế lễ. Nếp sinh hoạt ấy vẫn còn được duy trì nơi một số ít buôn bản Thượng ở Việt Nam.

Nhưng cũng do có các đoàn truyền giáo Tây phương [Pháp và Mỹ] hoạt động rất mạnh trên Cao nguyên từ những thập niên 1930, càng ngày càng có đông số người Thượng theo đạo Tin lành, một số khác ít hơn theo đạo Thiên chúa [có khoảng 150 ngàn theo đạo Thiên chúa].

Trong số một triệu người Thượng ở Cao nguyên hiện nay, ước định có khoảng hơn 300 ngàn người theo đạo Tin lành — hay còn được gọi là Tin Lanh Dega. Từ thập niên 1990, theo nhận định của Human Rights Watch, Tin Lanh Dega trở nên càng ngày càng hấp dẫn đối với người Thượng không phải chỉ có thuần đức tin tôn giáo mà nó còn được kết hợp với khát vọng độc lập và niềm kiêu hãnh về văn hóa. Đó như một kết hợp chánh trị và tôn giáo khá tinh vi. Trong những buổi lễ rao giảng đạo cùng một lúc cầu nguyện cho một quê hương độc lập không phải là hiếm có.

[Dega có nguồn gốc từ tiếng Rhadé: Anak Ede Gar có nghĩa là Những Đứa Con của Núi Rừng một từ ngữ đã được người Thượng chính-trị-hóa / politicized để chỉ chung cho các nhóm sắc dân thiểu số sống trên Cao nguyên. Nhiều người Thượng không muốn dùng từ Montagnard vì cho đó là sản phẩm của thời thực dân Pháp. Giới quân sự Mỹ trên Cao nguyên trong thời Chiến Tranh Việt Nam gọi họ là Yard, được người Thượng chấp nhận dễ dàng hơn nhưng đó cũng chỉ là một từ rút ngắn từ chữ Montagnard].

NGƯỜI THƯỢNG Ở MỸ

Vào thời điểm 1975, hầu như không có người Thượng nào có cơ hội di tản khỏi Việt Nam cho dù trước đó họ đã cộng tác rất chặt chẽ với người lính Mũ Xanh Mỹ trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam.

Trước 1986, chỉ có khoảng không quá 30 người Thượng sống rải rác trên đất nước Mỹ. Tới khoảng năm 1987, mới có một đợt những người Thượng tị nạn đầu tiên từ Thái Lan tới Mỹ. Họ khoảng 200 người đa số là đàn ông, được đưa tới định cư tại tiểu bang North Carolina.

Vào tháng 12/1992, thêm một nhóm khoảng 402 người Thượng từ Tây nguyên vượt biên sang các tỉnh Mondulkiri và Ratanakiri bên Cam Bốt. Giữa hai lựa chọn phải trở về Việt Nam hay được phỏng vấn cho đi định cư tại Mỹ, đa số đã chọn giải pháp thứ hai: họ gồm 269 đàn ông, 24 phụ nữ và 80 trẻ em.

Cho tới năm 2000, con số người Thượng ở Mỹ tiếp tục gia tăng. Họ bao gồm từng nhóm nhỏ người Thượng vào Mỹ, hoặc với tính cách tị nạn sau khi được ra khỏi các trại cải tạo của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, hoặc được đi theo các diện đoàn tụ ODP [Orderly Departure Program], hoặc theo diện con lai [thường cha là lính Mỹ, mẹ là những người đàn bà Thượng bị bỏ rơi lại từ cuộc Chiến Tranh Việt Nam trước đây], hầu hết cũng đều được đưa tới định cư tại North Carolina.

Theo thống kê dân số năm 2000, riêng tại bang North Carolina đã có khoảng hơn 3000 người Thượng, nơi định cư đông nhất của người Thượng bao gồm khoảng 2000 người ở Greensboro, 700 ở vùng Charlotte, 400 ở Raleigh.

Vào tháng 2/2001, tại Việt Nam lại xảy ra biến cố gây nhiều tiếng vang trong giới truyền thông quốc tế và cả tạo phản ứng từ các tổ chức bảo vệ nhân quyền: nhiều ngàn người Thượng đã đồng loạt biểu tình trên các tỉnh Cao nguyên đòi độc lập, đòi lại đất đai của tổ tiên và đòi quyền tự do tôn giáo. Và cũng là điều khiến mọi người khá ngạc nhiên là các phương tiện high-tech đã được người Thượng bên trong cũng như bên ngoài vận dụng rất hữu hiệu trong cuộc tranh đấu của họ, như liên lạc điều hợp bằng cellular phone, email và thông tin nhanh chóng qua các mạng lưới Internet. Nhà nước cộng sản Việt Nam đã thẳng tay trấn áp mạnh mẽ khiến ngót một ngàn người Thượng phải chạy sang Cam Bốt. Một số đã bị quân đội cộng sản Việt Nam truy lùng và cưỡng bách trở lại Việt Nam. Phủ Cao Ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc [UNHCR] đã phải can thiệp, và đa số đã bày tỏ nguyện vọng không muốn trở lại Việt Nam. Cuối cùng vào năm 2002, thêm số 900 người Thượng nữa được nhận vào Mỹ và cũng được tới định cư tại North Carolina. Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây về một tình cảm chia sẻ ấm áp của cộng đồng người Việt sống tại Nam California đối với đợt những người Thượng mới tới này bằng buổi đón tiếp họ ở phi trường và một số hiện kim tượng trưng đã được quyên góp.

Những người Thượng tới Mỹ sớm trước hoặc sau, tất cả đều có mẫu số chung là những khó khăn của bước đầu hội nhập với một môi trường và cảnh vực hoàn toàn xa lạ với họ. Cho dù từ những bộ lạc sắc tộc khác nhau nhưng họ đều xuất thân từ vùng rừng núi Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Ngôn ngữ của các nhóm sắc tộc Thượng này có gốc gác từ hai nhóm Mon-Khmer và Malayo-Polynesian. Đông nhất là người sắc tộc Rhadé.

Tưởng cần nên nhấn mạnh ở đây là những người Thượng Tây nguyên có nguồn gốc chủng tộc khác hẳn và không có liên hệ gì với người Hmong ở Lào sống phía tây dãy Trường Sơn và các sắc tộc thiểu số khác trên vùng thượng du miền Bắc Việt Nam.

Với những người Thượng đã vào Mỹ, đa số theo đạo Tin lành, một số khác khoảng một ngàn người theo đạo Thiên chúa. Các nhà thờ và trường đạo dần dà trở thành định chế sinh hoạt xã hội của người Thượng sinh sống ở Mỹ.

14 em học sinh Thượng trên đất Mỹ, tại trường học Brookstones, vùng Westerly Hills, Charlotte, North Carolina [nguồn: http://brookstoneschools.blogspot.com 16.09.2014]
Hình 17: 14 em học sinh Thượng trên đất Mỹ, tại trường học Brookstones, vùng Westerly Hills, Charlotte, North Carolina
[nguồn: http://brookstoneschools.blogspot.com 16.09.2014]

Cũng như với những người Chăm [sống ở Việt Nam hay bên Cam Bốt] khi chọn theo đạo Hồi, cho dù đó không phải là đạo gốc của họ, người Thượng khi chọn theo đạo Tin lành, đối với họ có ý nghĩa như tìm tới một sự cứu rỗi, xác định và tìm lại một thứ căn cước chủng tộc đang bị tiêu vong và giúp họ sống còn với đầy đủ nhân phẩm và cả bảo tồn văn hóa.

Đời sống gia đình và xã hội của người Thượng khi còn ở Việt Nam, giữ nét mẫu hệ, con cái mang họ mẹ. Người đàn bà đóng vai chủ động và quán xuyến mọi chuyện trong gia đình và thường chọn chồng trong cùng một sắc tộc với mình.

Nhưng với những người Thượng di cư vào Mỹ thì nếp sống ấy đã thật sự phải thay đổi: dù là đàn ông hay đàn bà thì cũng phải cùng nhau chia sẻ công việc trong gia đình và ngoài xã hội, và đã có những cuộc hôn nhân giữa các sắc tộc khác nhau, bắt nguồn từ một nét rất đặc thù của cộng đồng người Thượng trên đất Mỹ, đó là tình trạng “trai thừa gái thiếu”, nên đã có nhiều cuộc hôn nhân giữa người đàn ông Thượng với các phụ nữ thuộc ngoài chủng tộc như với người Lào, Cam Bốt, Việt Nam và ngay cả với người Mỹ.

Với thế hệ thứ nhất người Thượng tới Mỹ thường gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề hội nhập, do trình độ hiểu biết rất hạn chế lại thêm sự khác biệt quá lớn về phong tục và văn hóa nên đã có những va chạm với cộng đồng địa phương là điều không thể tránh, ví dụ như những vi phạm thường xuyên luật lệ ở Mỹ như say rượu lái xe, chạy xe không có bảo hiểm, các sinh hoạt nhà cửa vệ sinh thiếu tiêu chuẩn như cảnh phơi thịt cá khô trước nhà, đem bày hết đồ đạc cả ra ngoài sân…

Họ phải chấp nhận làm những công việc tay chân nặng nhọc trong các hãng xưởng, cả vợ và chồng đều phải đi làm, có người phải làm hai jobs với đồng lương tối thiểu để trả tiền nhà và nuôi đám con cái ăn học.

Với những người Thượng trẻ thuộc thế thệ thứ hai, họ có khả năng thích nghi mau chóng với nếp sống Mỹ quốc, từ trang phục cho tới cách ăn uống fast food, nói thông thạo tiếng Anh và được tới trường đi học.

Nếu lớp người trẻ này được hướng dẫn và không bị lạc lối, số có học sẽ có khả năng trở thành tầng lớp lãnh đạo Cộng Đồng Người Thượng Đôi Bờ trên đất Mỹ và trên đất Việt trong tương lai.

NGÔ THẾ VINH

California, 12/2003 cập nhật 03/2017

      Đọc xong Vòng Đai Xanh và bản thảo bài viết “những đứa con của rừng núi”, anh Dohamide viết thư cho tôi:

Thư anh Dohamide Đỗ Hải Minh gửi Ngô Thế Vinh, viết ngày 29.12.1994. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Hình 18: Thư anh Dohamide Đỗ Hải Minh gửi Ngô Thế Vinh, viết ngày 29.12.1994. [tư liệu Ngô Thế Vinh] 

Đỗ Hải Minh

2533 E. Park Lane # B

Anaheim, CA 92806, U.S.A

29 – XII – 1994

Kính Anh Vinh,

      Vừa nhận được sách in từ Washington D.C. gởi qua, cũng vừa nhận được 2 cuốn sách anh gửi tặng. Cảm động nhất là khi đọc qua quyển tiểu thuyết “Vòng Đai Xanh” của anh, vì vừa qua như anh đã rõ, cộng đồng người Chăm đã tổ chức lễ Ka tê cổ truyền ở San Jose, nhân đó anh em Thượng có đến dự. Đối với tôi, đây là lần đầu, sau 19 năm mới được gặp lại các anh em trong giới người thiểu số. Tâm trạng chung, người Thượng đều tỏ ra chán chường và bất mãn, nếu không nói là căm thù người Kinh, mà anh em nghĩ dù là Cộng Sản hay Quốc Gia thì đều có chánh sách tiêu diệt họ. Còn lại hai anh em K’Brink và K’Broi trước có học tại Mỹ, có quan điểm hoà dịu hơn, còn lại thì đều tỏ ra quyết liệt.

Trái, Vòng Đai Xanh, Nxb Thái Độ xuất bản lần đầu tiên tại Sài Gòn 1970, phải, Vòng Đai Xanh - The Green Belt Bilingual Edition Việt Ecology Press xuất bản 2021 tại Hoa Kỳ với bài viết “những đứa con của rừng núi” hay “Người Thượng đôi bờ”.
Hình 19: trái, Vòng Đai Xanh, Nxb Thái Độ xuất bản lần đầu tiên tại Sài Gòn 1970, phải, Vòng Đai Xanh – The Green Belt Bilingual Edition Việt Ecology Press xuất bản 2021 tại Hoa Kỳ với bài viết “những đứa con của rừng núi” hay “Người Thượng đôi bờ”.

Góc độ tiếp cận của anh ở đoạn mở đầu “những đứa con của rừng núi” khá độc đáo. Tôi định sau khi xem xong, tuần tới tôi sẽ chuyển cho anh K’Brink, để cho anh em Thượng thấy không phải tất cả người Kinh là xấu với họ. Anh K’Brink là người đích thân về tổ chức rước anh em Thượng cuối cùng từ trong rừng ra, sau bao nhiêu gian khổ kêu gọi, thuyết phục.

      Nhờ có anh Lê Ngộ Châu sang, tôi mới có dịp gặp anh; mong rằng từ đây anh em mình sẽ thỉnh thoảng liên lạc với nhau.

      Tôi sang đây quá trễ, nên đang còn loay hoay lo ổn định cuộc sống gia đình, nhưng đồng thời do những quan hệ trước đây với tổ chức Hồi giáo Thế giới tại Ả Rập Saudi, tôi tận dụng thì giờ tìm hiểu sâu về Hồi giáo – loạt sách tôi sẽ in ra trong giai đoạn này thích hợp với chính người Hồi giáo hơn. Dù sao, xin tặng anh, mong có dịp tham khảo. Xin cám ơn anh nhiều.

Thân,

Dohamide 

NHỮNG CỘI NGUỒN BẤT AN     

      Dohamide với suốt một cuộc đời đau đáu đi tìm về cội nguồn, chỉ mong sao phục hồi được nền văn hoá Champa như một căn cước của dân tộc Chăm nhưng rồi cuối đời Dohamide cũng phải đứng trước những “Cộng đồng Chăm Đôi bờ”.

      Ý thức về nhu cầu hòa nhập vào xã hội Việt Nam, Dohamide có cách nhìn ôn hoà, rộng mở và tin tưởng vào con đường văn hoá. Anh ao ước hai tập sách Dân tộc Chàm Lược sử cũng như tập Bangsa Champa được phổ biến rộng rãi trong các thế hệ thanh niên Chăm không chỉ ở hải ngoại mà cả ở trong nước, để họ không bị lôi cuốn vào phong trào “hận thù mất nước”, đang được nhóm đồng tộc Chăm cực đoan Champaka khích động theo chủ thuyết “dân tộc bản địa” – như một khuynh hướng phục quốc và ly khai, với những vận động quốc tế, họ kéo nhau đi trình diễn cả ở diễn đàn Liên Hiệp Quốc ở Genève.

      Họ phủ nhận hướng đi theo con đường hoà bình của Dohamide, và cho rằng Dohamide đã thoả hiệp nếu không muốn nói là đầu hàng. Điều ấy khiến Dohamide vô cùng nặng lòng vào những năm cuối đời.

trái, Hội nghị về Champa 2017 tại San Jose, California, để tưởng nhớ 185 năm Vương Quốc Champa bị xoá tên; phải, Po Dharma (1945-2019) nguyên chiến sĩ FULRO, du học Pháp 1972, tốt nghiệp tiến sĩ Đại học Sorbonne về Lịch sử và Văn Bản Học 1986, là thành viên khoa học Trường Viễn Đông Pháp (École française d’Extrême-Orient), Po Dharma là bộ óc trí tuệ của tổ chức IOC – Champa, nêu chủ thuyết “dân tộc bản địa” và đòi quyền tự trị cho sắc tộc Chăm.
Hình 20: trái, Hội nghị về Champa 2017 tại San Jose, California, để tưởng nhớ 185 năm Vương Quốc Champa bị xoá tên; phải, Po Dharma (1945-2019) nguyên chiến sĩ FULRO, du học Pháp 1972, tốt nghiệp tiến sĩ Đại học Sorbonne về Lịch sử và Văn Bản Học 1986, là thành viên khoa học Trường Viễn Đông Pháp (École française d’Extrême-Orient), Po Dharma là bộ óc trí tuệ của tổ chức IOC – Champa, nêu chủ thuyết “dân tộc bản địa” và đòi quyền tự trị cho sắc tộc Chăm.    

Người viết vẫn có những trao đổi với anh Dohamide và cả hai cùng nhau đồng ý rằng: chừng nào Việt Nam chưa là một đất nước dân chủ, chưa có một chính sách đối xử hợp lý, công bằng và nhân đạo với các sắc dân thiểu số, thì mọi cội nguồn bất an – roots of unrest, vẫn còn đó. Sự ổn định bằng trấn áp như hiện nay không phải là giải pháp dứt khoát và lâu dài cho một quốc gia phát triển trong bối cảnh toàn cầu theo một chiều hướng bền vững.

SALAMAT: LỜI CHÚC ĐẦU NĂM

      Dohamide là một khuôn mặt đa diện và cả rất bí ẩn, anh hoạt động không mỏi mệt trong rất nhiều lãnh vực từ tuổi thanh xuân cho tới những năm cuối đời: từ trong bộ máy chính quyền VNCH, với người Mỹ qua USAID, CORP, Air America, với nhà nước Cộng Sản sau 1975, với tư cách là thành viên Nhóm Nghiên Cứu Thứ Sáu, cùng những liên hệ với thế giới Hồi giáo nhưng đi xa hơn cả vấn đề tôn giáo.

      Với người viết, trong sự tin cậy, Dohamide đã cởi mở với mọi điều, kể cả những điều mà anh gọi là tế nhị và rất nhạy cảm. Bài viết này chỉ với trọng tâm là một Chân Dung Văn Hoá của Dohamide; riêng với những phần khác vẫn trong một vùng xám, người viết xem như “ngoài phần ghi chép – off records” để được Anh giữ và mang đi, chôn sâu dưới mảnh đất không phải là ngôi làng Koh Taboong, ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nơi anh đã được sinh ra và lớn lên – mà là trên lục địa Mỹ châu, nơi Anh chọn để thực sự được an nghỉ.

Một cái Tết cuối cùng trước đại dịch Covid-19, tới với anh Dohamide; sau lần mổ óc ở UCLA, anh Dohamide vẫn rất minh mẫn nhưng hoàn toàn mất thính giác, và cuộc nói chuyện trao đổi phải qua “bút đàm”. [photo by Phan Nhật Nam]
Hình 21: Một cái Tết cuối cùng trước đại dịch Covid-19, tới với anh Dohamide; sau lần mổ óc ở UCLA, anh Dohamide vẫn rất minh mẫn nhưng hoàn toàn mất thính giác, và cuộc nói chuyện trao đổi phải qua “bút đàm”. [photo by Phan Nhật Nam]  

      Một năm cũ 2021 lại sắp qua đi, gửi tới anh Dohamide, anh Dorohiêm bài viết này với tấm lòng tưởng nhớ, vẫn như thông lệ hàng năm khi tới thăm anh, không quên gửi tới anh câu chúc Tết tiếng Chăm:

      Salamat Thun BaHâu

      Chúc mừng Năm Mới

NGÔ THẾ VINH

Từ Cồn Tơ Lụa 2000

tới Little Saigon 2021

THAM KHẢO:

1/ Dohamide, Dorohiêm. Dân tộc Chàm Lược sử. Saigon 1965. Bangsa Champa, SEACAEF & VIET Foundation 2004

2/ Dohamide (Đỗ Hải Minh): Điểm Sách Rie Nakamura 2020 Về Dân Tộc Chăm

https://www.diendantheky.net/2020/09/dohamide-o-hai-minh-iem-sach-rie.html

3/ Dohamide. Vĩnh biệt Em Dorohiêm
http://thatsonchaudoc.com/banviet2/Dohamide_DoHaiMinh/GopNhat/BK_VinhBietEmDorohiem.htm

4/ Về hai người bạn Chàm của tôi. Lê Văn Cẩn – ĐS 10 QGHC. 8.1.2019 http://thatsonchaudoc.com/banviet2/TruyenSuuTam/BK_VeHaiNguoiBanChamCuaToi.htm

5/ Vài Hàng Luyến Tiếc Bạn Đồng Môn Mới Ra Đi. Trần Ngọc Tôn http://thatsonchaudoc.com/banviet2/TruyenSuuTam/BK_TranNgocTonLuyenTiecDoHaiMinh.htm

6/ Urang Cham. Dohamide và Dorohiêm. Inrasara: http://inrasara.com/2021/11/10/urang-cham-dohamide-va-dorohiem/

100 năm sinh hoạ sĩ Tạ Tỵ và giấc mộng con năm 2000

LGT: Tôi hân hạnh giới thiệu đến các bạn một bài viết đặc sắc về Hoạ sĩ Tạ Tỵ của Nhà văn Ngô Thế Vinh. Đã có nhiều tác giả viết về Tạ Tỵ, nhưng bài viết này theo tôi là đầy đủ nhứt về một hoạ sĩ tài hoa của Việt Nam. Bài viết như là một hải đồ về con người và sự nghiệp của Tạ Tỵ, từ khi ông còn học ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Phương (Hà Nội); tham gia kháng chiến chống Pháp; di cư vào Nam và phục vụ trong chế độ VNCH với hàm thiếu tá; sau biến cố 1975 đi tù cải tạo 6 năm; vượt biển và định cư ở Mĩ từ năm 1982; và về lại Việt Nam và qua đời năm 2004. Nói theo Trịnh Công Sơn, cuộc đời của Tạ Tỵ là một cõi đi về.

Trong giới văn nghệ sĩ, hiếm ai có một cuộc đời và sự nghiệp đa dạng như Tạ Tỵ. Ông nổi tiếng là một hoạ sĩ, nhưng ông còn là người lính của hai chiến tuyến khác nhau, là tù nhân, là người tị nạn, và cũng là nhà văn. Cá nhân tôi biết đến Tạ Tỵ qua cuốn Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn xuất bản trước năm 1975 và sau này là cuốn hồi kí Đáy Địa Ngục viết về những năm tháng ông đi tù cải tạo. Đó là những tác phẩm viết ra bởi ‘người trong cuộc’, nên chất chứa nhiều nỗi niềm về thân phận của người lính sau cuộc chiến và thân phận lưu vong. Cả hai tác phẩm hàm chứa những chứng từ mang tính lịch sử, rất đáng để thế hệ sau sử dụng làm chất liệu cho các nghiên cứu về nền văn nghệ Việt Nam. Văn phong của Tạ Tỵ giống như là một bức hoạ chân dung: sự tĩnh lặng và huyền bí.

Ở Việt Nam, hội hoạ không có một vị trí nổi bật và trang trọng như văn học. Nhưng là người tiên phong trong hội hoạ Việt Nam với những tác phẩm để đời, Tạ Tỵ xứng đáng là một tài sản quốc gia vậy. NVT

_________

100 năm sinh hoạ sĩ Tạ Tỵ và giấc mộng con năm 2000

Ngô Thế Vinh

Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà… Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho mình. Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Tạ Tỵ [thư gửi Ngô Thế Vinh viết ngày 29.2 & 27.7.2000]

**

Hình 1: trái, Tạ Tỵ 31 tuổi, sau 4 năm theo kháng chiến chống Pháp và về thành (Hà Nội, 1952); giữa, Thiếu Tá Tạ Tỵ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà; phải, chân dung Tạ Tỵ năm 2000. Sau 1975, ông đã phải đi tù cải tạo 6 năm, hồi ký Đáy Địa Ngục ghi lại kinh nghiệm ông đã trải qua trong những năm tháng nghiệt ngã tù đày với lao động khổ sai “ăn không đủ no, đói không đủ chết”; [nguồn: album gia đình Tạ Tỵ, photo by Phạm Phú Minh, Đáy Địa Ngục, Nxb Thằng Mõ 1985]

TIỂU SỬ

Tạ Tỵ là bút danh, Tạ Văn Tỵ là tên thật, sinh ngày 3 tháng 5 năm 1921 (tức ngày 26 tháng 3 năm Tân Dậu) tại Hà Nội, nhưng trên giấy khai sinh lại ghi là ngày 24 tháng 9 năm 1922, vì khai muộn một năm. Ngay từ khi còn là một sinh viên trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương / École Supérieure des Beaux-Arts de l’Indochine, Tạ Tỵ đã thành danh khá sớm.

Năm 1941, ở tuổi 20, do đoạt một giải thưởng tranh của nhà trường, Tạ Tỵ được đến thăm kinh đô Huế.

Năm 1943, Tạ Tỵ tốt nghiệp khoa Sơn Mài tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương nhưng dấu ấn Hội hoạ của ông không phải là những tác phẩm Sơn Mài. Tạ Tỵ luôn luôn đi tìm cái mới, và được xem là người đi tiên phong vào lãnh vực Lập Thể / Cubisme và Trừu Tượng / Abstrait của hội hoạ Việt Nam.

Và cũng năm 1943, sau khi vừa tốt nghiệp, Tạ Tỵ đoạt ngay một giải thưởng với bức tranh “Mùa Hạ” (tân ấn tượng / néo-impressionnisme) được giải thưởng tại phòng Triển lãm Duy nhất (Salon Unique) “vì có một phương pháp diễn tả theo khuynh hướng mới, tuy chưa hẳn là lập thể, nhưng các hình thể đã được biến cải theo sở thích riêng.” [1]

Năm 1946, trong cuộc triển lãm Hội hoạ Tháng Tám tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, với số lượng tác phẩm đông đảo, Tạ Tỵ đã tham dự với bức tranh sơn mài “Hoa Đăng”(siêu thực / surréalisme)được Hiệp Hội Báo Chí VN trao giải, nhưng tiền thưởng chưa lãnh thì ngay sau đó chiến tranh toàn quốc bùng nổ. [1]

Hình 2: Tác phẩm “Hoa Đăng” sơn mài (siêu thực / surrealisme)của Tạ Tỵ trong cuộc triển lãm Tháng Tám 1946 tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, được Hiệp Hội Báo Chí VN trao giải thưởng.

Năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, Tạ Tỵ đã cùng với nhiều văn nghệ sĩ yêu nước khác, hăng hái tham gia mặt trận kháng chiến chống Pháp và ông là giáo sư dạy Mỹ thuật đầu tiên trong Liên Khu 3. Tác phẩm “Nhớ Hà Nội” năm 1947 (20 × 25 cm) được Tạ Tỵ vẽ trong giai đoạn này.

Hình 3: Tác phẩm “Nhớ Hà Nội” (20 × 25 cm) được Tạ Tỵ vẽ năm 1947, giai đoạn theo kháng chiến trong Liên Khu Ba.

Năm 1948, trong một hội nghị Văn Hoá Văn Nghệ, Trường Chinh đã mạnh mẽ lên án: “Chủ nghĩa Lập Thể, Siêu Thực, Đa Đa là những cái nấm độc trên cái thân thể mục ruỗng của nền văn hoá đế quốc.” [Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam, 1948].

Tháng Năm 1950, sau bốn năm đi theo kháng chiến, thấy rõ bộ mặt thật của Việt Minh, cùng với cách suy nghĩ không hợp với họ, Tạ Tỵ đã cùng nhiều văn nghệ sĩ khác như Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Phạm Duy, Tam Lang Vũ Đình Chí, Hoàng Công Khanh đã dứt khoát từ bỏ khu chiến để trở về Hà Nội.

Từ đầu thập niên 1950, trở về với nếp sống văn hoá Hà Nội 36 phố phường với Năm Cửa Ô, Tạ Tỵ đã mạnh mẽ đi tiếp con đường sáng tạo với tự do đi tìm cái mới; ngoài vẽ tranh, vẽ ký / biếm hoạ chân dung (caricatures) các văn nghệ sĩ, ông còn cầm bút sáng tác: truyện, thơ, kịch, bút ký, viết nhận định văn học, trình bày sách báo… chứng tỏ Tạ Tỵ là một tài năng rất đa diện.

Năm 1951, ông mở cuộc triển lãm cá nhân đầu tiên mang tên Hội Hoạ Hiện Đại tại Hà Nội,trưng bày 60 bức tranh Lập thể.

Hình 4: trái, “Đàn bà” còn có tên là “Cô đơn”, phải, “Vàng và Tím” là hai tác phẩm tiêu biểu thời kỳ Lập Thể của Tạ Tỵ, 1951 – Tạ Tỵ gọi đó là chiều thứ tư (4ème dimension), chiều động trong kỹ thuật tạo hình. [1]

     

Năm 1953, Tạ Tỵ nhận được lệnh động viên, ông phải tạm xa Hà Nội và gia đình để vào Nam, gia nhập Khoá 3 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và ra trường với cấp bậc thiếu uý.  Ông phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà tại Tổng Cục Chiến tranh Chính trị cho tới khi giải ngũ, với cấp bậc sau cùng là Trung Tá.

Năm 1956, Tạ Tỵ triển lãm cá nhân lần thứ hai với 50 hoạ phẩm lập thể, tại Phòng Thông Tin Đô Thành Sài Gòn, nhưng là lần đầu tiên ở miền Nam, được đánh giá là thành công cả về nghệ thuật cũng như tài chánh.

Trong tập sách mỏng giới thiệu cuộc triển lãm (ngày 8/8/1956), Tạ Tỵ viết: “Mời bạn hãy vào – Cửa vườn tôi đã mở sau 5 năm trời khép kín – vườn của tôi sau khoảng thời gian giam cầm trong suy nghĩ, trong dằn vặt, trong giận hờn để tìm những cánh màu của tâm tư chắp nối lại và thêu dệt bằng tin tưởng, tạo thành một thế giới của hình thể, của sắc màu, qua bức tường vách ngăn của lý trí và rung động…” [5] 

Hình 5: “Nhịp Calypso” (1960), tranh lập thể sơn dầu trên canvas, sưu tập của Mặc Đỗ, bức tranh đã phải bỏ lại khi Mặc Đỗ âm thầm di tản khỏi Sài Gòn ngày 29/04/1975.

Tuy là họa sĩ Việt Nam tiên phong và thành công trong Hội Hoạ Lập Thể, nhưng ông vẫn luôn luôn có ý hướng đi tìm cái mới, từ thập niên 1960, Tạ Tỵ đã chuyển hướng sang tranh Trừu Tượng.

Năm 1961, ông triển lãm cá nhân lần thứ hai với 60 bức tranh trừu tượng và lập thể cũng tại Phòng Thông Tin Đô Thành Sài Gòn. Đánh dấu một bước thành công sáng tạo mới của Tạ Tỵ.

TẠ TỴ: TẠI SAO LẬP THỂ

Trong một Hồi ký viết ở hải ngoại Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi [Nxb Thằng Mõ 1990],Tạ Tỵ đã giải thích do cơ duyên nào mà anh đi vào Hội Hoạ Lập Thể:

 “Tôi bẩm sinh là một con người thích tiến bộ, thích cái gì mới. Khi còn học ở trường Mỹ Thuật, tôi không mấy thích lối vẽ chân phương theo quy luật của nhà trường bắt buộc. Tôi thường đến thư viện mượn sách đọc, lẽ dĩ nhiên, loại sách thuộc về mỹ thuật. Tôi mê các tác phẩm của Van Gogh, Gauguin và Matisse. Tôi nghiên cứu và tìm hiểu mỹ thuật tạo hình ở mỗi tác giả. Nhưng sau một thời gian, tôi thấy các nhà danh hoạ trên vẫn phải dựa vào thiên nhiên và sự vật cũng như con người để tạo dựng tác phẩm. Tôi nghiên cứu và tìm hiểu các hoạ phái khác nhau như Siêu Thực, DaDa và Lập Thể. Tôi thích trường phái Lập Thể qua các tác phẩm của G. Braque hơn là Picasso. Tôi mê chiều thứ tư (4ème  dimension) của hoạ phái này – mà Tạ Tỵ gọi đó là chiều động trong kỹ thuật tạo hình, vì nó làm cho tác phẩm trở nên sống động, chứ không trơ trơ như các hoạ phái khác.” [1]

TẠ TỴ: TẠI SAO TRỪU TƯỢNG

Trả lời Nguiễn Ngu Í Bách Khoa [Báo Bách Khoa, số 131, ngày 15-6-1962]:   

Hội hoạ Việt Nam hiện có nhiều xu hướng từ Ấn tượng tới Trừu tượng, nhưng tất cả đang ở giai đoạn tìm tòi và khai thác. Riêng tôi, từ 18 năm nay đã chọn con đường Hội hoạ mới. Tôi đã đi qua trường phái  Ấn tượng, Tân Ấn tượng, Lập thể, Siêu thực và trong 6 năm gần đây tôi vẽ tranh Trừu tượng

Sự nhầm lẫn và cũng là điều tai hại cho Nghệ thuật Hội hoạ là mỗi người yêu hội hoạ khi đặt chân vào phòng Triển lãm Hội hoạ Mới, hoặc đứng trước hoạ phẩm Trừu tượng, đều cố tìm xem hoạ sĩ vẽ cái gì, “nói” gì ở trong kích thước đó? Sự băn khoăn thắc mắc này nhiều khi gây khó chịu đến độ trầm trọng nếu người thưởng ngoạn không kiên tâm tìm hiểu.         

Nhưng đứng trước một hoạ phẩm Trừu tượng dù cho người thưởng ngoạn  có kiên tâm, thiện chí đến đâu, nếu không biết qua về kỹ thuật Tạo Hình do kinh nghiệm hoặc sách vở, báo chí chuyên môn về Hội hoạ, cũng đành lắc đầu chán nản trước bức trường thành cao vút ngăn đôi thông cảm. Sự kiện ấy có, vì chúng ta quen nhìn Hội họa với quan niệm thưởng ngoạn cũ. Hôm nay quan niệm về cái đẹp đã đổi khác, lẽ dĩ nhiên cái nhìn cũng phải thay đổi. Hôm nay đứng trước một hoạ phẩm trừu tượng, người thưởng ngoạn không nên và không bao giờ nên tìm hiểu hoạ sĩ đã vẽ gì trong kích thước đó, mà chỉ nên tìm hiểu mình đã nghĩ gì về tác phẩm trước mắt mình? Cảm giác đầu tiên nào đã đột nhập vào trí não mình để bắt nguồn cho rung động.

Những màu sắc và hình thể kia có phải là những dấu hiệu của riêng mình đã  in vào tiềm thức? Người hoạ sĩ không có lý do để hiện diện trong tác phẩm thuộc loại Trừu tượng, trừ cái tên ký ở góc tranh. Cái tên này cũng chỉ được dùng như một thứ nhãn hiệu, vì trong lúc sáng tạo, chính hoạ sĩ cũng là kẻ thưởng ngoạn có “quyền ưu tiên” vì họ có kỹ thuật, thế thôi. Trong Nghệ  thuật Hội hoạ hiện tại, không ai có quyền bắt ai lệ thuộc vào ý nghĩ, vào kỹ  thuật tạo hình do cá nhân đảm nhiệm. Mỗi người tự tìm lấy sự say mê của mình trong từng kích thước nhất định.” [2]

Hình 6: Nguiễn Ngu Í phỏng vấn Tạ Tỵ trên báo Bách Khoa số 131, ngày 15-6-1962, từ trái, bìa và hai trang báo Bách Khoa số 131; phải, chân dung nhà văn nhà báo Nguiễn Ngu Í, người thực hiện đợt phỏng vấn về Quan Niệm Hội Hoạ của khoảng 40 hoạ sĩ Việt Nam.   

           

Năm 1966, dự định trưng bày lần thứ ba tại Sài Gòn 50 hoạ phẩm Trừu tượng mới nhất nhưng không thành. Năm 1971, Tạ Tỵ lại dự định tổ chức phòng triển lãm tranh gồm 50 chân dung văn nghệ sĩ miền Nam nhưng rồi cũng dở dang do tình hình chiến sự sôi động lúc đó.

Và gần như theo chu kỳ, cứ mỗi 5 năm, Tạ Tỵ mới triển lãm một lần: 1951, 1956, 1961, 1966, 1971… Khi trao đổi với nhà văn Nguiễn Ngu Í, hoạ sĩ Tạ Tỵ giải thích:

“Sở dĩ tôi phải để một thời gian lâu như thế như anh biết những thì giờ tốt đẹp nhất trong một ngày để sáng tác tôi không được sử dụng, tôi chỉ còn làm việc quanh năm với ánh đèn, với muỗi [Tạ Tỵ vẫn còn làm việc toàn thời gian trong quân ngũ quân lực VNCH – ghi chú của người viết]; vả lại muốn mỗi phòng triển lãm của tôi ít nhất phải ghi lại trong tâm người thưởng ngoạn một chút kỷ niệm về sự cố gắng của cá nhân trong phạm vi Nghệ thuật. Muốn thâu được kết quả ấy, yếu tố thời gian là yếu tố quyết định.” [2]

Vào đầu thập niên 1960, Tạ Tỵ vẽ một loạt chân dung các văn nghệ sĩ Việt Nam với một phong cách rất độc đáo, anh nhạy bén bắt được cái thần ở từng khuôn mặt, và đây là một lãnh vực tài hoa khác của Tạ Tỵ mà chưa ai sánh được.

Hình 7: Chân dung văn nghệ sĩ qua nét vẽ Tạ Tỵ, từ trái trên Mặc Đỗ, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền; từ trái dưới Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Dương Nghiễm Mậu [nguồn: từ album gia đình Tạ Tỵ]. Đây cũng là sáu chân dung có trong Tuyển Tập Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hoá của Ngô Thế Vinh, Việt Ecology Press xuất bản 2017.

Tác phẩm của Tạ Tỵ còn được trưng bày tại các bảo tàng viện nghệ thuật quốc tế ở Tokyo, San Francisco, New YorkParis.

Bức tranh “Đàn bà” còn có tên là “Cô đơn” (1951) được nhà Sotheby’s đấu giá hồi tháng 4 năm 2000, và bán được với giá khá cao 19.550 Singapore dollars. Trong catalogue của Sotheby’s đã nhận xét bức tranh: “Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ Lập Thể của Tạ Tỵ. Tác giả sử dụng tài tình những màu sắc mạnh mẽ, đặt nhân vật ngay vào ngay trung tâm bức tranh, những hình thể kỷ hà, chẳng hạn như việc xử lý mái tóc không tuân theo luật đăng đối, đường nét mạnh bạo của chiếc cổ và sự sắp xếp của khăn quàng thành những mặt cắt của một hình kim cương… tất cả bố cục này tạo thành một bức tranh Lập Thể độc đáo.”

Bức Mùa hè đỏ lửa (1972, 350 x 170 cm), tranh sơn dầu, phong cách trừu tượng, được treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Sài Gòn từ năm 1998. Khi Tạ Tỵ trở về Việt Nam 2003, bức tranh được đổi tên Cất Cánh. Đây là bức tranh sơn dầu lớn nhất trong bộ sưu tập của nhà bảo tàng này.

Hình 8: từ phải, Tạ Tỵ, Phạm Đình Chương, Nguyễn Sĩ Tế, Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo trong một buổi họp mặt trước 1975 ở Sài Gòn. [nguồn: album gia đình Tạ Tỵ]

TẠ TỴ: TẠI SAO VIẾT

Trả lời câu hỏi ấy trên tạp chí Hợp Lưu (số 32, Xuân Đinh Sửu 1997, trang 216), khi Tạ Tỵ đã ở tuổi 76, ông tâm sự:

 Tôi sinh ra đời, hình như định mệnh đã an bài, bởi vậy tất cả những gì tôi làm ra đều có bàn tay của định mệnh dính vào. Lúc còn trẻ tôi yêu tất cả những thứ gì thuộc về văn chương nghệ thuật, nhưng tôi mê kéo vĩ cầm hơn cả. Vào năm 1936-37 gì đó, tôi được nghe tiếng đàn của nhạc sĩ Nguyễn Văn Giệp tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Anh chơi bản Danse Macabre với tiếng dương cầm phụ họa của nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiếu. Tất cả nhà hát đều yên lặng để thưởng thức tiếng đàn tuyệt vời của hai nhạc sĩ trứ danh nhất của đất Thăng Long thời đó. Tôi về nhà xin Mẹ tiền mua cây đàn và quyển Mazas, là cuốn sách học kéo violon vỡ lòng. Tôi học kéo đàn song song với học vẽ ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Vì mê học nhạc nên tôi quen với cố nhạc sĩ Đỗ Thế Phiệt. Sau mấy năm học thấy không có tiến bộ, tôi bỏ đàn, chuyên về vẽ…

Còn một trở ngại to lớn nữa là người họa sĩ chỉ vẽ tấm tranh duy nhất, nếu bán đi, người họa sĩ không còn gì ngoài tấm ảnh chụp giữ làm kỷ niệm. Vì nhìn thấy cái thế “yếu” của hội họa, vả lại, cuộc sống trong chiến tranh có rất nhiều sự việc tác động mạnh và sâu đậm trong tâm cảm mà hội họa bất lực, không thể nói bằng màu sắc được. Do đó, tôi phải nhờ tới văn chương cũng như thi ca để bày tỏ lập trường, cùng thái độ sống trước tập thể, trước xã hội.

Biết bao nhiêu đổ vỡ, tang thương do chiến tranh gây ra. Biết bao nhiêu tuổi trẻ đã lên đường và cũng có bao nhiêu vòng khăn tang đã quấn ngang đầu, bao nhiêu tiếng khóc than vật vã, với đôi tay bé nhỏ xanh xao của người góa phụ, ôm lấy chiếc quan tài phủ lá quốc kỳ với vòng hoa cườm có hàng chữ “Tổ Quốc Ghi Ơn”, nhưng tôi được biết, trong chiếc quan tài đó chỉ có chiếc bọc nylon ôm gọn thây người chiến sĩ đã nát bấy vì pháo địch, chỉ còn lại một đống thịt xương bầy nhầy với chiếc thẻ bài lẫn lộn trong vũng máu đông đặc vì được cất kỹ trong ô kéo của căn phòng chứa xác cực lạnh. Ngay cạnh đó, một đứa nhỏ chừng ba tuổi gầy ốm đứng nhìn ngơ ngác!

Còn biết bao nhiêu cuộc tình tan tác như những chiếc bong bóng thổi bằng bọt xà bông. Đại lộ kinh hoàng còn đó. Xác những chiếc xe tăng của Trung Cộng, của Liên Xô, của Mỹ còn nằm rải rác dọc theo đường số 1 như những con quái vật thời tiền sử và còn nhiều, nhiều nữa những dấu ấn của chiến tranh cần phải nói ra, nhưng hội họa quả tình bất lực trước vấn đề này. Chỉ có văn chương mới đủ sức khai quật những oan khuất chìm ở đáy sâu tâm cảm.[1]

VĂN HỌC: 

– Đã cộng tác với các tạp chí văn học tại miền Bắc và miền Nam từ năm 1950 đến 30-4-1975: Thế Kỷ, Đời Mới, Nguồn Sống Mới, Sáng Tạo, Văn, Văn Học, Hiện Đại, Nghệ Thuật, Bách Khoa và Tin Văn, và sau 1975: Thế Kỷ 21 tại Hoa Kỳ.

Những Tác Phẩm Đã Xuất Bản Tại Miền Nam trước 1975

  1. Những Viên Sỏi, tập truyện, Nam Chi Tùng Thư, 1962
  2. Yêu Và Thù, tập truyện, Phạm Quang Khai, 1970
  3. Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, nhận định văn học, Nam Chi Tùng Thư 1970.
  4. Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn, văn sử học, 1971
  5. Cho Cuộc Đời, thơ, Khai Phóng, 1971
  6. Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, nhận định văn học, Lá Bối, 1972, Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, 1991
  7. Bao Giờ, tập truyện, Gìn Vàng Giữ Ngọc xuất bản, 1972
  8. Ý Nghĩ, tạp văn, Khai Phóng, 1974.

Hình 9: Những Tác Phẩm Tạ Tỵ đã Xuất Bản Tại Miền Nam trước 1975, trên từ trái, Những viên sỏi, tập truyện, Nam Chi Tùng Thư, 1962. Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn, văn sử học, 1971. Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, nhận định văn học, Lá Bối, 1972.Bao Giờ, tập truyện, Gìn Vàng Giữ Ngọc xuất bản 1972. Riêng tác phẩm Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, do Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1970 ở Sài Gòn, đã được nhà xuất bản Hội Nhà Văn Việt Nam tái bản tại Hà Nội năm 1996, nhưng họ đã tuỳ tiện biên tập, cắt bỏ khuôn mặt văn nghệ Mai Thảo ra khỏi cuốn sách, thay vào Trịnh Công Sơn, mà không hề có phép của Tạ Tỵ. [tư liệu của Thành Tôn]

 

Những Tác Phẩm Xuất Bản Tại Hoa Kỳ

  1. Đáy Địa Ngục, hồi ký cải tạo, Cơ Sở Thằng Mõ, 1985
  2. Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đã Đi Qua Đời Tôi, hồi ký, Thằng Mõ, 1990
  3. Xóm Nhà Tôi, tập truyện viết trong những ngày tháng lưu vong nơi đất khách, Nxb Xuân Thu, 1992
  4. Mây Bay, thi phẩm, Miền Nam xuất bản, 1996

Hình 10: Những cuốn sách của Tạ Tỵ xuất bản ở hải ngoại, từ trái, Đáy Địa Ngục, Xóm Nhà Tôi, Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi. [tư liệu Thành Tôn]

Hình 11: từ trái, Một Chuyến Ngao Du, truyện, nhà xuất bản Xuân Thu, California 2000, với thủ bút đề tặng của tác giả. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Thơ Tạ Tỵ

Thương về năm cửa Ô xưa
Tôi đứng bên này vỹ tuyến
Thương về năm cửa Ô xưa
Quan Chưởng đêm tàn dẫn lối
Đê cao hun hút chợ Dừa
Cầu Rền mưa dầm lầy lội
Gió về đã buốt lòng chưa?
Yên Phụ đôi bờ sóng vỗ
Nhị Hà lấp lánh sao thưa
Cầu Giấy đường hoa phượng vĩ
Nhớ nhung biết mấy cho vừa…
Cửa Ô ơi, cửa Ô
Năm ngả đường đất nước
Trôi từ vạn nẻo sông hồ
Nắng mưa bốn hướng đổ vào lòng Hà Nội
Gục đầu nhớ tiếng võng đưa!…
Có biết chăng ai, mái tóc bồng bềnh chảy xuôi ý đẹp
Có nhớ chăng ai, lệ nào ướt đẫm tình người
Tê tái tiếng cười
Từng cánh hoa đời khép lại Thương về năm cửa Ô xưa!
 

Tạ Tỵ được giải ngũ vào tháng 6 năm 1974 theo quy chế sau 21 năm công vụ, ở tuổi 53, vẫn còn khoẻ mạnh, đang ở cái tuổi chín muồi của sáng tạo. Anh rất vui với ý nghĩ rằng từ nay sẽ có thời gian để phụng sự nghệ thuật. Nhưng rồi ngày 30/4/1975 đổ ập đến, tất cả mọi dự án về nghệ thuật đều tan biến. Đã thế, cho dù đã giải ngũ, anh vẫn bị bắt đi tù cải tạo. Cùng với bao nhiêu đồng đội và  thế hệ văn nghệ sĩ miền Nam, anh đã bị đày ải trong những nhà tù từ Nam ra Bắc, rồi nhà tù lớn là một đất nước Việt Nam CS, tổng cộng 6 năm (1975-1981), nhưng may mắn sống sót, trong khi đó nhiều đồng đội cùng với các nhà văn nhà báo miền Nam bạn anh thì đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường… hay vừa ra khỏi nhà tù thì chết như Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường.  

Vào đầu năm 1981, Tạ Tỵ được tha về với tấm thân tàn ma dại, tóc bạc răng long. Và nơi chương cuối cuốn hồi ký Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi, xuất bản tại Hoa Kỳ (1990), Tạ Tỵ viết: “Trước khi đi tù cải tạo tôi cân được 62 kg, khi ra tù chỉ còn đúng 35 kg. Tôi gầy như bộ xương biết đi. Răng rụng gần hết, còn vài cái kể như vô dụng trong vấn đề ăn uống. Trong tờ “Giấy Ra Trại”, Cộng sản ghi lý do: “Quá già yếu, không còn đủ sức lao động”! Họ tha và tin rằng, thế nào tôi cũng chết, có thể trên đường về, và có thể gặp vợ con rồi xuống đất !” Nhưng rồi Tạ Tỵ vẫn sống sót. [1]

Tạ Tỵ là bạn thân thiết với Lê Ngộ Châu từ hồi báo Bách Khoa, nên hai người vẫn gặp nhau luôn. “Khi mới được tha về, Lê Ngộ Châu bảo tôi phải đi chụp gấp tấm ảnh làm kỷ niệm, kẻo sau này, nhờ dinh dưỡng cậu khác đi làm sao có được cái hình hài này? Tôi nghe lời, hôm sau đến tiệm hình chụp một tấm. Mấy bữa sau, khi nhìn mình qua tấm ảnh, chính tôi cũng không nhận ra! Sao tiều tụy như vậy được? Anh chị Châu làm bữa cơm thịnh soạn mời tôi, gọi là bữa cơm “Mừng Người Về Từ Cõi Chết.” [1]

Sau một thời gian ra tù, được sự chăm sóc tích cực của gia đình, sức khoẻ của anh dần hồi phục. Tạ Tỵ vẫn nuôi ý chí đi tìm tự do. Chuyến vượt biên đầu tiên, vào đầu năm 1982, mới xuống tới Bạc Liêu bị đổ bể may kịp quay về mà không bị bắt lại vào tù. Phải đến giữa năm 1982, cũng là lần vượt biên thứ hai, Tạ Ty cùng gia đình đã xuống được một chiếc ghe mong manh chật ních người, ra khơi ngày 12/6/1982, lênh đênh trên biển đúng bảy ngày, đến ngày 19/6/1982 được tàu dầu Anh quốc vớt đưa vào đảo Pulau Bidong, Malaysia. Từ đó Tạ Tỵ bắt đầu cuộc đời tỵ nạn ở tuổi 61.[1]

ĐÁY ĐỊA NGỤC: HỒI KÝ VIẾT TRÊN ĐẢO

Ngay từ ngày đặt chân lên đảo, Tạ Tỵ đã cầm bút ghi lại kinh nghiệm những năm tù đày kinh hoàng mà anh và các đồng đội vừa trải qua. Cuốn Hồi ký Đáy Địa Ngục, dày 678 trang được khởi viết ngày 25/9/1982 và viết xong ngày 15/12/1982 tại trại Tỵ Nạn chuyển tiếp Sungai Besi, Malaysia, được Nxb Thằng Mõ, California xuất bản năm 1985 và tái bản một năm sau đó. Ngay trang mở đầu cuốn Hồi ký, Tạ Tỵ viết:

Cuốn “Đáy Địa Ngục” được thực hiện trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp, giữa những tiếng ồn ào, sinh động của một trại Tỵ Nạn trên vùng đất Mã Lai… Khoảng thời gian, từ ngày Cộng sản chiếm miền Nam, tính đến hôm nay, mới gần 8 năm. Quả thực không lâu so với cuộc luân hành miên viễn của thời gian, nhưng đích thực, đó là một chuỗi đau thương đan kết bằng máu và nước mắt của mỗi con người Việt Nam đã và đang sống trong một bối cảnh vô cùng khốn khổ trực diện với một chế độ mình không ưa thích, không muốn phục vụ, vẫn phải làm như nhiệt tình, thành khẩn!

Sau ngày 30-4-1975, Việt Nam là một nhà tù lớn, bên trong nó, có rất nhiều nhà tù nhỏ, được quây kín sau dãy Trường Sơn trùng điệp, sau những lũy tre dày đặc, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Không một ký giả nào thuộc Thế Giới Tự Do, kể cả các ký giả thuộc các nước Cộng sản anh em, được “tham quan” những vùng đất cấm đó. Đối với Cộng sản, cái gì cũng được giữ bí mật tối đa, cái gì cũng được che giấu bằng dối trá, lừa bịp!

Tôi đã trải qua 8 trại Tập Trung Cải Tạo, từ Nam ra Bắc. Tôi đã sống và đã chứng kiến bao nhiêu trạng thái bi thương…

Người tù chính trị Việt Nam sau ngày 30-4-1975, quả thực, một vết nhơ trên “tấm thảm lương tri nhân loại”. Họ được đối xử như những con vật, đôi khi không bằng con vật. Họ luôn luôn sống trong lo âu, hồi hộp, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy đến với họ, buổi sớm mai khi thức dậy, sau một đêm trằn trọc với ác mộng và muỗi rệp! Họ “ăn không đủ no, đói không đủ chết”, nên lúc nào miếng ăn cũng ám ảnh, giày vò họ, làm khổ sở, ngày này qua ngày khác, mùa nắng cũng như mùa mưa, mùa hạ cũng như mùa đông, không mùa nào họ có thể tìm thấy chút gì để tạo nên nguồn hy vọng. Nếu ai đã trải qua một lần trong bất cứ Trại Tập Trung Cải Tạo nào của Cộng sản Việt Nam, người đó có quyền coi thường mọi nhà tù trên Thế Giới!

… “Nhưng trang sử đã lật. Cái gì qua, phải qua. Nó là bài học vô cùng quý giá, miễn rằng bài học này đừng bao giờ ôn / lặp lại trong ngày mai.” [1] [hết trích dẫn]

Tạ Tỵ đã đặt chân tới Mỹ với tập bản thảo hồi ký Đáy Địa Ngục vừa được viết xong.

Hình 12: Tạ Tỵ và các thân hữu ở Little Saigon, hàng ngồi từ phải: Tạ Tỵ, Ngô Bảo; hàng đứng từ trái: Thanh Chương, Phan Diên, Phạm Quốc Bảo, Nguyễn Văn Định. [photo by Phạm Phú Minh, do Phạm Quốc Bảo nhận diện]

RA MẮT TUYỂN TẬP VĂN – THƠ – HOẠ TẠ TỴ 2001

Trong khoảng thời gian 21 năm sống tại California Hoa Kỳ, khi thì San Diego, khi thành phố Garden Grove, Tạ Tỵ tiếp tục sáng tác vẽ và viết; ông hoàn tất được một số tranh với phong cách trừu tượng và một số tác phẩm viết và xuất bản ở hải ngoại.

Tuyển Tập Văn – Thơ – Hoạ của Tạ Tỵ là cuốn sách cuối cùng được xuất bản và ra mắt tại Hoa Kỳ. Sách gồm bốn tập truyện: Những Viên Sỏi, Yêu và Thù, Bao Giờ, Xóm Cũ, và một tập thơ Mây Bay, đặc biệt có 12 phụ bản màu: gồm 6 bức tranh Sơn Dầu Trừu Tượng, tất cả được vẽ tại Hoa Kỳ và 6 Ký hoạ Bột màu / Gouache các Khuôn Mặt Văn Nghệ Sĩ.  

Hình 13: Buổi ra mắt sách Tuyển Tập Văn – Thơ – Hoạ Tạ Tỵ (2001) tại quán cà phê Factory rất đặc biệt và cực kỳ đơn giản của “lão ông Tạ Tỵ” ở tuổi 80 Quận Cam, Thủ đô Tỵ nạn, hay còn có tên gọi là Little Saigon. Hình ảnh một Tạ Tỵ với mái tóc bạc phơ, ngồi ký từng cuốn sách với vây quanh là đông đảo lớp người trẻ, xúm lại vui vẻ trò chuyện với bác Tạ Tỵ. [photo by Phạm Phú Minh]   
Ký hoạ chân dung Văn Nghệ Sĩ của Tạ Tỵ; trái, nhà thơ Vũ Hoàng Chương, Gouache 19” x 24”; phải, nhà văn, nhà báo, học giả Hồ Hữu Tường, Gouache 19” x 24”. Sau 1975, cả hai bị Cộng sản bắt đi tù cải tạo, và khi vừa ra tù chỉ vài ngày sau đó thì chết, Vũ Hoàng Chương (6/9/1976) và Hồ Hữu Tường (26/6/1980). [nguồn: Tuyển Tập Tạ Tỵ 2001]
Hình 14: Ký hoạ chân dung Văn Nghệ Sĩ của Tạ Tỵ; trái, nhà thơ Vũ Hoàng Chương, Gouache 19” x 24”; phải, nhà văn, nhà báo, học giả Hồ Hữu Tường, Gouache 19” x 24”. Sau 1975, cả hai bị Cộng sản bắt đi tù cải tạo, và khi vừa ra tù chỉ vài ngày sau đó thì chết, Vũ Hoàng Chương (6/9/1976) và Hồ Hữu Tường (26/6/1980). [nguồn: Tuyển Tập Tạ Tỵ 2001]

Hình 15a: Những bức tranh sơn dầu rất đẹp được vẽ tại hải ngoại theo phong cách trừu tượng của Tạ Tỵ, với bút pháp và màu sắc thật mạnh mẽ; trái, Trôi giạt, trừu tượng, sơn dầu 48” x 72” (1984); phải, Cơn Giận của Thượng Đế, trừu tượng, sơn dầu48” x 72” (1985) [nguồn: Tuyển Tập Tạ Tỵ 2001]

Hình 15b: trái, Ngày Hạ, trừu tượng sơn dầu 48” x 72” (1986); phải, Tạ Tỵ đứng trước bức tranh Những Mảnh Đời Tỵ Nạn, sơn dầu 48” x 60” (1995); có thể coi như bức tranh trừu tượng cuối đời của Tạ Tỵ. [nguồn: Tuyển Tập Tạ Tỵ 2001]

MỘT CHÚT RIÊNG TƯ: HOẠ SĨ TẠ TỴ VÀ GIẤC MỘNG CON NĂM 2000

Từ trước 1975, tôi đã được xem tranh, đọc thơ văn và cả sách nhận định văn học của Tạ Tỵ (Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, Nam Chi Tùng Thư Sài Gòn 1970, Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, Lá Bối Sài Gòn 1972), và không thể quên các caricatures chân dung văn nghệ sĩ được Tạ Tỵ phác thảo với những đường nét hết sức độc đáo.

Nhưng tôi chỉ thực sự được quen anh Tạ Tỵ trên đất Mỹ từ những năm 1980, khi cả hai cùng một lứa bên trời lận đận, trong hoàn cảnh tỵ nạn sau những năm tháng tù đày. Tạ Tỵ cùng thế hệ với Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng… Về tuổi tác Tạ Tỵ hơn tôi một thế hệ, đúng 20 năm nhưng tâm hồn thì trẻ trung, và cả khiêm cung, nên trong giao tiếp tôi vẫn gọi Tạ Tỵ là anh.

*

Tác phẩm Mùa hè đỏ lửa 1972, (350 x 170 cm), vẽ theo phong cách trừu tượng, hiện treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Sài Gòn từ năm 1998. Khi Tạ Tỵ trở về Việt Nam 2003, bức tranh được đổi tên Cất Cánh, đây là bức tranh sơn dầu lớn nhất trong bộ sưu tập của bảo tàng thành phố. [hình chụp tại Sài Gòn tháng 11/2019, tư liệu Ngô Thế Vinh]​
Hình 16: Tác phẩm Mùa hè đỏ lửa 1972, (350 x 170 cm), vẽ theo phong cách trừu tượng, hiện treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Sài Gòn từ năm 1998. Khi Tạ Tỵ trở về Việt Nam 2003, bức tranh được đổi tên Cất Cánh, đây là bức tranh sơn dầu lớn nhất trong bộ sưu tập của bảo tàng thành phố. [hình chụp tại Sài Gòn tháng 11/2019, tư liệu Ngô Thế Vinh]

Rồi Tạ Tỵ đã có dịp đọc “Giấc Mộng Con năm 2000”và anh nồng nhiệt chia sẻ với tôi về dự án một Công viên Văn hóa Việt Nam ở hải ngoại mà anh gọi đó là Giấc Mộng Lớn.

GIẤC MỘNG CON NĂM 2000

CÂU CHUYỆN CUỐI NĂM.  Người đàn ông nông dân ấy gốc lính cũ, hai mươi năm sau đã bước vào tuổi trung niên, chưa tới tuổi năm mươi nhưng cuộc sống lao động lam lũ khiến anh ta trông xanh xao và già sọm. Anh mất một bàn chân trái khi đã mãn lính do đạp phải mìn ngay trên ruộng nhà. Không cần là bác sĩ cũng biết là anh ta mang trên người đủ thứ bệnh tật: thiếu ăn suy dinh dưỡng, sốt rét kinh niên và thiếu máu. Tất cả sinh lực và nhân cách của anh là nơi đôi mắt sáng tuy hơi buồn nhưng luôn luôn nhìn thẳng vào mặt người đối diện. Hôm nay anh tới đây vì một lý do khác. Một mảng đen bầm nơi lưng không đau rỉ nước vàng từ bấy lâu, trị cách gì cũng không hết. Chầu chực lên trạm y tế huyện được y sĩ cách mạng cho ít viên thuốc tây, rồi đến thầy đông y cho bốc thuốc nam và cả châm cứu nữa mà bệnh thì vẫn không chuyển trong khi người anh cứ gầy rốc ra. Nay nghe có đoàn y tế thiện nguyện ở ngoại quốc về, anh cũng muốn tới thử coi, biết đâu anh lại được gặp ông thầy cũ – người y sĩ trưởng của anh năm nào. Và rồi anh chỉ gặp toàn những khuôn mặt trẻ lạ, nhưng anh vẫn cứ đưa lưng ra cho người ta khám. Một tiếng ồ rất đỗi kinh ngạc của cả toán. Tim người bác sĩ trẻ trưởng đoàn như lạc một nhịp. Không cần một chẩn đoán phức tạp, Toản nhận ra ngay đây là một dạng ung thư mêlanin ác tính – malignant melanoma, chắc chắn với di căn đã tràn lan. Dĩ nhiên căn bệnh có thể trị khỏi nếu phát hiện sớm; nhưng trường hợp này cho dù với phương tiện tiên tiến nhất trên đất Mỹ cũng đành bó tay. Chẳng phải là người bệnh mà là người thầy thuốc trẻ nói giọng buồn bã: Ông tới trễ quá, lẽ ra bệnh có thể trị khỏi… Bệnh nhân không tỏ vẻ bối rối, anh vẫn nhìn thẳng vào mặt người thầy thuốc, ánh mắt tím thẫm xuống vừa giận dữ vừa nghiêm khắc: Tới trễ? Chỉ có bác sĩ các ông là Những Người Tới Trễ chứ tôi cũng như mọi người dân vẫn ở đây từ bao giờ… Dứt khoát không chờ đợi một điều gì thêm ở đám thầy thuốc xa lạ ấy, anh quay lưng bước ra khập khễnh trên đôi nạng tre mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước, khắc khổ cam chịu và vẫn can trường như một người lính thuở nào.

                                                                      *

Hội nghị Y sĩ Thế giới lần thứ 5 sẽ là một Đại hội Y Nha Dược. Với Chính đó là một tin vui biểu hiện sức mạnh đoàn kết của ngành y ở hải ngoại. Buổi họp cuối cùng ở Palo Alto kết thúc quá nửa khuya, sáng hôm sau như thói quen của người có tuổi, Chính vẫn dậy rất sớm chuẩn bị cho một ngày đi Las Vegas thăm con. Chỉ còn mấy tháng nữa Toản — đứa con trai lớn của Chính, hoàn tất bốn năm Thường trú Giải phẫu tổng quát. Sau đó nó sẽ đi New York học tiếp thêm bốn năm về giải phẫu bổ hình, một ngành mà đã có lần Toản cho là một số các bác bạn của bố đã tha hóa — prostitution of plastic surgery, biến thành kỹ nghệ sửa sắc đẹp nâng mũi đệm mông.  Toản khỏe mạnh, cao lớn hơn bố, sống như một thanh niên sinh đẻ ở Mỹ, rất năng động xông xáo trong công việc cũng như giải trí vui chơi; suy nghĩ và hành động đơn giản.  Không phải chỉ cách suy nghĩ mà cách đặt vấn đề của tụi nó cũng khác xa với thế hệ của Chính. Sinh đẻ ở Việt Nam sống ở nước ngoài, là công dân hạng nhất hay hạng hai, chưa bao giờ là một “issue” đối với nó.

Tuy chỉ có một ngày để cho hai bố con gặp nhau hàn huyên, nhưng Toản vẫn lái xe đưa bố lên một khu trượt tuyết rất xa khu giải trí Las Vegas. Toản tâm sự với bố là không phải tình cờ mà nó chọn đi về chuyên khoa bổ hình mà chủ yếu là phẫu thuật bàn tay. Chẳng phải chỉ vì Toản có tâm hồn nghệ sĩ, là tay chơi guitare classique có hạng mà nó biết quý bàn tay của nó. Với Toản chức năng đôi bàn tay là một biểu tượng vô cùng quý giá của cuộc sống lao động và nghệ thuật. Khác với bố và các bạn đồng lứa, Toản may mắn được trời cho đôi bàn tay vàng. Ông giáo sư dạy Toản đã phải thốt ra như vậy. Trong mọi trường hợp từ thông thường tới những “cas” mổ đầy thử thách, qua từng nét rạch đường cắt rất tiết kiệm, trường hợp nào cũng được đánh giá như là đạt tới mức nghệ thuật — “state of art”. Từ lâu Toản đã bị thuyết phục bởi tên của một bác sĩ chỉnh hình Anh Paul Brand, phục vụ tại Ấn Độ, người mà không phải chỉ với tài năng mà còn cả với niềm tin và sự tận tụy can đảm đã có nhiều cống hiến to lớn trong lãnh vực phẫu thuật phục hồi bàn tay cho người bệnh Hansen, đem lại hy vọng cho hàng triệu người bệnh trên khắp thế giới. Toản đã thích thú theo dõi các công trình của Brand trong suốt bốn thập niên qua. Gần đây Toản cũng đã vô cùng xúc động khi lần đầu tiên được đọc một cuốn sách tiếng Việt xuất bản ở hải ngoại của một linh mục nói về thực trạng bi thảm của những trại cùi ở quê nhà nhất là ở miền Bắc. Toản tâm niệm sẽ không phải Brand hay một bác sĩ ngoại quốc nào khác mà chính Toản và các bạn sẽ là thành viên của Chiến dịch Phục hồi Hy vọng — Mission Restore Hope. Toản mơ một giấc mơ năm 2000, bệnh Hansen không còn là vấn đề y tế công cộng nơi quê nhà.

Toản tâm sự với bố là gần đây đã liên tiếp nhận được những thư và các cú điện thoại mời mọc từ Colorado, Boston, Houston để về làm việc tại Á châu, ưu tiên là ở Việt Nam với những điều kiện hết sức hấp dẫn: lương khởi đầu 6 digits nghĩa là trên trăm ngàn đô la một năm, đi kèm theo bao nhiêu những bảo đảm quyền lợi khác kể cả không phải đóng thuế khi làm việc ở hải ngoại. Toản có thái độ dứt khoát: nếu chỉ vì mục đích làm giàu, con chẳng cần phải trở về Việt Nam. Họ cũng cho con biết đã có những phái đoàn Bác sĩ Mỹ gốc Việt, không phải chỉ có nhóm lớn tiếng ồn ào như Lê Hoàng Bảo Long mà còn những toán khác “có đầu óc hơn” âm thầm lặng lẽ đi về chuẩn bị cho mạng lưới y tế thị trường này. Cơ sở đầu tiên sẽ là bệnh viện Thống Nhất, sẽ được tân trang và upgrade đúng tiêu chuẩn Mỹ và bác sĩ hoàn toàn được đào tạo tại Mỹ. Không có gì thay đổi là bệnh viện ấy vẫn ưu tiên điều trị cho các cán bộ cao cấp. Chỉ có khác và “đổi mới” cho phù hợp với kinh tế thị trường, đây còn là nơi chữa trị cho khách ngoại quốc có bảo hiểm giàu tiền bạc thuộc bốn biển năm châu. Nam Triều Tiên có, Tàu Đài Loan có, Tàu Hồng Kông có, Mỹ, Pháp, Úc, Gia Nã Đại, có đủ cả. Làm sao bảo đảm sức khỏe cho họ với tiêu chuẩn cao nhất để họ yên tâm khai thác làm ăn và cả hưởng thụ trên khắp ngõ ngách của Việt Nam từ ải Nam quan cho đến mũi Cà Mau. Và đây cũng là món lợi nhuận béo bở không phải chỉ có các hãng bảo hiểm Mỹ đang muốn nhảy vào mà phải kể tới đám bác sĩ Mỹ gốc Việt cũng đang nao nức rất muốn “về giúp Việt Nam”.  Chưa qua tuổi 30, Toản suy nghĩ trong sáng độc lập và tự tin trên bước đường dấn thân của nó. Không hẳn là Chính đã đồng ý, nhưng lại rất hiểu tính cứng cỏi độc lập của con, Chính không muốn có lần đụng độ thứ hai giữa hai bố con. Chính tạm yên tâm khi thấy con mình cho dù với chọn lựa nào cũng thôi thúc bởi những động lực trong sáng, nó không thể lẫn vào đám người cơ hội. Và theo một nghĩa nào đó, Chính thấy hơi ganh tỵ với tuổi trẻ và sự cả tin đến trong suốt của con; rồi cho đó như một ý nghĩ kỳ quái anh lắc đầu tự mỉm cười khi một mình lái xe đổ dốc trên con đường về…   

Hơn một lần viếng thăm Cali, nhưng mỗi chuyến đi đều đem lại cho Chính những cảm tưởng đổi mới của những cộng đồng Việt Nam rất sinh động. Thay vì chỉ hơn một giờ bay, Chính đã quyết định thuê một chiếc xe của hãng Hertz từ phi trường, đích thân lái từ Palo Alto về tới Little Saigon. Chuyến đi hướng về một thành phố trẻ trung của tương lai nhưng cũng lại là một cuộc hành trình ngược về quá khứ nhìn lại khoảng thời gian đã mất. Anh nghĩ cho dù trong bối cảnh lạnh lùng của thực tế chính trị, đương đầu với những vấn đề của Việt Nam tương lai ở ngưỡng cửa thế kỷ 21, không phải chỉ có vận dụng bộ óc mà phải là sự hoà hợp với rung động của con tim. Quỷ dữ không chỉ là bóng ma cộng sản mà ngay chính cõi lòng sao vẫn cứ chai đá của chúng ta.

Tuy chỉ là câu nói đùa của Thiện nhưng sao vẫn cứ ám ảnh Chính mãi. Rằng nếu có tên quá khích điên khùng bắn chết Lê Hoàng Bảo Long, chắc Little Saigon sẽ buồn bã biết chừng nào. Chắc rồi cũng phải tìm cho ra một Lê Hoàng Bảo Long thứ hai. Không có chống cộng thì còn đâu là sự sinh động của Little Saigon. Chỉ có điều cộng sản thì ẩn hiện, lúc nào mục tiêu cũng di động và xảo quyệt, vô hình trung bọn chúng đã khiến các tay xạ thủ chống cộng cũng di chuyển để rồi tự nguyện sắp theo đội hình vòng tròn tự lúc nào và dĩ nhiên ngay từ loạt súng đầu tiên tổn thất có thể kiểm kê  được là nơi chính các đồng bạn… Chính có dự định sẽ gặp Thiện — tác giả của Project 2000, nhằm kết hợp toàn y giới ở hải ngoại mà Chính cho là táo bạo và hấp dẫn với quan niệm “vận dụng và chuyển hoá tài lực của thế giới thành tài lực của Việt Nam, khai thông những hưng thịnh của thế giới chuyển đổ về quê hương, thực hiện vận mạng Việt Nam bằng những phương tiện của thế giới”…  Dự trù hình thành một tổ hợp vô vị lợi, mỗi y nha dược sĩ đóng 2000 Mỹ kim như một phần khấu trừ thuế rất nhỏ trong phần thuế khóa rất lớn mà họ đóng góp hàng năm trên các vùng đất tạm dung đang cưu mang họ, thì với một ngàn người tham gia số tiền hành sự đã lên đến hai triệu đô la tiền mặt, với tiềm năng ấy thì không có việc gì mà Hội y nha dược Thế giới không làm được, từ đáp ứng tức thời như cứu trợ đồng bào nạn nhân trong bạo loạn ở Los Angeles, nạn nhân bão lụt thiên tai ở đồng bằng sông Cửu Long, đến các công trình dài hạn như xây dựng Convention Center – Nhà Văn hoá Công viên Việt Nam cạnh thủ đô Little Sài gòn, tham gia dứt điểm một dự án y tế của OMS thanh toán bệnh Hansen ở Việt Nam vào năm 2000… Chính thấy rằng chỉ ngay trong trái tim Tiểu Sài Gòn ấy giữa đa số thầm lặng đã có biết bao nhiêu người có lòng có cái tâm thành: ông Đại tá chỉ huy đơn vị cũ với thành tích 14 năm tù mới sang được tới Mỹ trong tình trạng sức khỏe suy kiệt chẳng biết lo thân đã ngồi viết ngay thư đầu tiên liên lạc với Chính yêu cầu anh với uy tín sẵn có giúp ông vận động dựng lại được bức tượng Thương Tiếc để mọi người không quên những người lính đã chết. Tiến người bạn đồng môn, gốc tráng sinh Bạch Mã chỉ có hai niềm say mê: phục hồi phong trào Hướng Đạo Việt Nam tại hải ngoại cho giới trẻ và thiết lập một bệnh viện Việt Nam đầu tiên trên đất Mỹ. Nguyễn lớp đàn anh của Chính, tuổi ngót 60 rồi mà vẫn còn độc thân, vẫn bền bỉ trong bấy nhiêu năm liền là người bạn thiết tận tụy của thuyền nhân và cũng là thầy thuốc miễn phí của giới văn nghệ sĩ các gia đình H.O.  Liên một bác sĩ muộn màng mới từ đảo qua đang sống mái ngày đêm đèn sách để trở lại hành nghề nhưng vẫn tích cực mơ ước thực hiện một tượng đài vĩ đại Mẹ Bồng Con lao vào đại dương theo nước non ngàn dặm ra đi  — biểu tượng cho một cuộc di dân khổng lồ của hai triệu người Việt đi khai sinh một siêu Việt Nam trong lòng thế giới… Và còn biết bao nhiêu, bao nhiêu những điển hình và ý nghĩ tốt đẹp khác nữa, vậy mà — Chính tự hỏi,  tại sao anh và các bạn vẫn lạc nhau trong bóng đêm của “kiêu khí, đố kỵ và mê chướng”,  lại vẫn theo ngôn từ của Thiện.

Bao nhiêu chục năm rồi, Chính vẫn là con người trăn trở, vẫn là trí thức chứng nhân của những bi kịch của một thời nhiễu nhương và lừa dối hào nhoáng. Giữa rất nhiều ồn ào và tiếng động của ngôn từ sa đọa và những thực tế chính trị giả dối, nhiều lúc Chính cũng muốn tĩnh lặng, từ bỏ những suy nghĩ khúc mắc, chỉ làm khổ chính anh và cảm tưởng như cũng chẳng ích gì cho ai; nhưng như vậy thì anh đâu còn là Chính nữa. Trước sau anh vẫn là anh, con người của xác tín. Dùng ngôn từ của điện toán, thì con người anh đã được thảo chương – programmed, chẳng thể nào mà nói đến chuyện đổi thay, chỉ có thể anh sẽ nhạy cảm hơn, chấp nhận đối thoại với những khác biệt mà anh tin rằng vẫn có thể có đoàn kết, cho dù đó là một liên kết nhiều màu sắc — rainbow coalition, và theo anh sự đa dạng chính là chất men của sáng tạo. Anh hiểu rằng số người còn theo và ủng hộ anh ngày càng ít đi. Không ra mặt chống anh nhưng họ tách ra và mỗi người chọn đi theo hướng riêng của họ. Riêng anh chắc hẳn rằng trong suốt phần cuộc đời còn lại, anh sẽ vẫn cứ đi trên con đường thẳng băng đã vạch ra cho dù quạnh quẽ. Sự mau quên và thỏa hiệp của những người Việt hải ngoại — mà anh cho là thương tổn tới nhân cách chính trị và quyền tỵ nạn của họ, cộng thêm với sự vui mừng quá độ của người dân trong nước trước những điều được gọi là “đổi mới” chỉ làm cho anh thêm đau lòng. Rồi ra ai thì cũng tìm cách thích nghi để mà tồn tại, cuộc sống ngồn ngộn bản năng thì vẫn cứ dễ dàng thay da đổi màu và bừng bừng đi tới. Số rất ít người cứng rắn nguyên tắc và nhất quán như anh hình như đang có nguy cơ trở thành một chủng loại hiếm hoi sắp bị tiêu diệt — endangered species. Chính còn lại bà mẹ già bên Việt Nam, mái tóc đã trắng bạc như sương. Anh mơ một giấc mơ đơn giản, cũng chỉ mong đất nước thanh bình để kịp về thăm mẹ, về thăm ngôi làng cũ, ngắm đàn trẻ thơ nô đùa nơi sân trường làng, và hạnh phúc biết bao nhiêu khi được trở lại khám bệnh chăm sóc cho những nông dân thân thuộc bao giờ cũng đôn hậu và chất phác mà y phí có khi chỉ là một nải chuối, ít trái cây hay mấy hột gà tươi. Ước mơ có gì là cao xa đâu nhưng sao vẫn ở ngoài tầm tay và có vẻ như còn rất xa vời. Bởi vì anh vẫn dứt khoát tự nhủ lòng mình anh sẽ không thể và không bao giờ trở lại quê hương như một kẻ bàng quan, một khách du lịch hay tệ hơn nữa như một tên mại bản với xênh xang áo gấm về làng. Mặc dầu rất muốn gặp mẹ nhưng anh vẫn không thể nào về với tâm cảnh và ngoại cảnh bây giờ. 

Kể từ giữa thập niên 70, cùng với sự sụp đổ của miền Nam, là một làn sóng ồ ạt dân tỵ nạn Đông Dương rải ra khắp nước Mỹ, nhưng đông đảo nhất vẫn là tiểu bang Cali. Khó khăn của những người tới sớm không phải là ít. Từ ngoài các căn cứ Pendleton, Fort Chaffee không phải chỉ có những bảo trợ người Mỹ giàu lòng bác ái tới giúp đỡ họ mà cả không thiếu những người điạ phương kỳ thị thù ghét trù ẻo và muốn đuổi họ về nước. “We Don’t Want them, May They Catch Pneumonia And Die.  Và trong đám người tỵ nạn ấy đã có các đồng nghiệp của Chính.  Cho tới nay con số bác sĩ Việt Nam lên tới 2000 chỉ riêng ở Mỹ, chưa kể một số không ít khác sống ở Canada, Pháp và Úc châu và một số nước khác. Hơn 2500 bác sĩ trên tổng số 3000 của toàn miền Nam đã thoát ra khỏi xứ, không khác một cuộc tổng đình công của toàn ngành y tế, liên tục kéo dài từ 75 tới nay. Chính cũng biết rất rõ anh là một trong số ít người đã vận động và lãnh đạo một cách có hiệu quả cuộc đình công dài bất tận một cách không tiền khoáng hậu ấy.                                                                                                                             

Chính sẽ lần lượt ghé thăm: San Jose thung lũng điện tử hoa vàng, Los Angeles thành phố thiên thần nhưng lại sắp kết nghĩa với thành phố mang tên Hồ Chí Minh, Orange thủ đô tỵ nạn chống cộng với Sài Gòn Nhỏ và San Diego nơi nổi tiếng khí hậu tốt nhất thế giới – đều là những nơi có đông đảo người Việt, và con số ấy tiếp tục gia tăng không phải chỉ bởi những người mới tới; mà còn do hiện tượng “di dân lần thứ hai” của những người Việt đã tới sinh sống ở những tiểu bang khác, cuối cùng rồi cũng lựa chọn trở về Cali nơi có nắng ấm, có khí hậu nhiệt đới giống Việt Nam như ở Đà lạt, họ nói với nhau như thế.

Tiêu chuẩn hoá, đó là đặc tính rất Mỹ. Thành phố lớn nhỏ nào ở Mỹ thì cũng rất giống nhau, với những trạm xăng, các siêu thị và những tiệm fast food McDonald’s. Đi vào những phố chợ Việt Nam sầm uất ngay trên đường Bolsa là thấy những tiệm phở, các siêu thị lớn nhỏ, phòng mạch bác sĩ, hiệu thuốc tây, các văn phòng luật sư và dĩ nhiên cả những tòa báo.

Các đồng nghiệp của Chính đã có mặt ngay từ đầu trong số đông đảo những người tới sớm. Họ biểu tượng cho một tập thể trí thức khoa bảng, được sự giúp đỡ của chương trình tỵ nạn như mọi người, đa số đã mau chóng trở lại hành nghề trong những điều kiện hết sức thuận lợi. Sau đó phải chi ai cũng có trí nhớ tốt về những cảm xúc đầu tiên khi dứt bỏ hết mọi thứ bất kể sống chết ra đi. Chính còn nhớ như in về những ngày ở trên đảo, Ngạn đã nhiều lần tâm sự là chỉ mong có ngày đặt chân tới Mỹ. Anh chẳng bao giờ còn mơ ước tới một nơi nào xa hơn nữa, cũng chẳng hề có cao vọng trở lại nghề cũ. Mà hạnh phúc, nếu có, là được hít thở không khí tự do, được sống như một con người và được khởi sự lại từ đầu, gây dựng mái gia đình bằng sức lao động của tay chân, hy sinh cho tương lai thế hệ những đứa con. Nhưng sự thể lại tốt hơn với mong đợi, chính Ngạn bằng trí thông minh nghị lực làm việc và dĩ nhiên cả may mắn nữa, chỉ trong một thời gian ngắn anh là một trong số những người trở lại hành nghề rất sớm. Là bác sĩ ở Mỹ có nghĩa là đã thuộc vào thành phần xã hội trung lưu trên cao, địa vị hoàn cảnh của họ là ước mơ ngay cả đối với rất nhiều người dân Mỹ bản xứ. Nhưng Ngạn và một số người khác đã không dừng lại ở đó. Và điều gì phải đến đã đến. Hậu quả là một cuộc ruồng bố được mệnh danh là “gian lận y tế lớn nhất trong lịch sử tiểu bang Cali”. Để trở thành tin tức hàng đầu nơi trang nhất của báo chí và các đài truyền hình khắp nước Mỹ. Mới chín năm từ ngày sụp đổ cả miền Nam đang còn là một cơn ác mộng chưa nguôi, biến cố tháng Hai 1984 là một cơn mộng dữ thứ hai nhưng với bản chất hoàn toàn khác. Chưa bao giờ hai chữ Việt Nam lại được nhắc tới nhiều như thế trong suốt tuần lễ. Cũng chưa bao giờ quá khứ bị đối xử tàn nhẫn đến như thế. Cảnh tượng hàng loạt bác sĩ dược sĩ trong đó có Ngạn bị các cảnh sát sắc phục còng tay ngoài đường, bêu trước nắng gió đã bị báo chí Tivi Mỹ khai thác triệt để.  Ai cũng cảm thấy bị thiệt hại về mặt thanh danh, cộng thêm với những cảm giác bất an và sợ hãi. Rõ ràng sau đó đã có một làn sóng nguyền rủa của người dân bản xứ nhắm chung vào người Việt tỵ nạn. Trong các xưởng hãng, bọn sỗ sàng trực tiếp thì xách mé gọi các đồng nghiệp Việt Nam là đồ ăn cắp, hoặc gián tiếp hơn họ cắt những bản tin với hình ảnh đăng trên báo Mỹ đem dán lên tường chỗ có đông các công nhân Việt Nam làm việc. Những người dân Việt bình thường lương thiện, tới Mỹ với hai bàn tay trắng, đang tạo dựng lại cuộc sống từ bước đầu số không, bằng tất cả ý chí và lao động cần mẫn của đôi bàn tay, nay bỗng dưng trở thành nạn nhân oan khiên của kỳ thị và cả khinh bỉ. Có người uất ức quá đã phải la lên: hỡi các ông trí thức khoa bảng ơi, ngay từ trong nước bao giờ và ở đâu thì các ông cũng là người sung sướng, sao các ông không có mặt ở đây để nhận lãnh sự nhục nhã này… Chuyện xảy ra đã hơn mười năm rồi mà vẫn tưởng như mới hôm qua, như một flashback nặng nề diễn ra trong đầu óc Chính. Hiện giờ anh cố chủ động thoát ra khỏi những ngưng đọng của ký ức về một giai đoạn bi ai quá khứ. Đưa tay bấm nút tự động hạ mở kính xe, gió biển thổi cuộn vào trong lòng xe vỗ phần phật. Trời xanh biển xanh, vẫn màu xanh thiên thanh ấy, có gì khác nhau đâu giữa hai bờ đại dương này. Khổ hải vượng dương, hồi đầu thị ngạn. Ở đâu thì nỗi khổ cũng mênh mông, nhìn lại chẳng thấy đâu là bờ.  Con đường 101 dọc theo bờ biển Thái Bình dương lúc này lại gợi nhớ Quốc lộ 1 bên kia đại dương trên đất nước thân yêu của chàng. Vẫn những giọt nước ấy là nước mắt và làm nên biển cả, những dải cát sáng long lanh như thủy tinh, những ruộng muối trắng, những hàng dừa xanh. Quê hương của trí nhớ đó sẽ đẹp đẽ biết bao nhiêu nếu không có những khúc phim hồi tưởng của “dọc đường số 1”, của “đại lộ kinh hoàng”, của “những dải cát thấm máu” ở những ngày cuối tháng Ba 1975.

Little Saigon vẫn được coi là thủ đô của những người Việt tỵ nạn. Theo nghĩa nào đó là một Sài Gòn nối dài. Nếu khảo sát về địa dư chí, thì như một điều trớ trêu của lịch sử, tên người Việt Nam đầu tiên đến ở quận Cam rất sớm này lại là một người Việt xấu xí — có tên là Phạm Xuân Ẩn, một đảng viên cộng sản. Bề ngoài anh ta là một ký giả của tuần báo Times trong suốt 10 năm, nhưng điều mà không ai được biết là từ lâu anh vốn là một điệp viên cao cấp của Hà Nội. Ẩn đã từng được học bổng của Bộ Ngoại giao đi du học tại Mỹ vào cuối những năm 50, học xong Ẩn đi tham quan khắp nước Mỹ rồi trở về sống ở quận Cam; sau đó trở lại Sài Gòn làm cho hãng thông tấn Reuters của Anh, rồi tuần báo Times của Mỹ cho tới những ngày cuối của miền Nam. Mãi sau này người ta mới được biết Ẩn đã gia nhập phong trào Việt Minh rất sớm từ những năm 40, khởi từ vai trò một giao liên chẳng có gì là quan trọng để rồi cuối cùng trở thành một điệp viên chiến lược qua mắt được bao nhiêu mạng lưới CIA với danh hiệu phóng viên rất an toàn của một tờ báo Mỹ uy tín… Hiện giờ đã có tới khoảng ba trăm ngàn người Việt đang chiếm chỗ của Ẩn trước kia. Còn riêng Ẩn thì lại đang sống lặng lẽ ở Sài Gòn, tiếp tục là chứng nhân cho cuộc cách mạng thất bại mà Ẩn đã trung thành và toàn tâm phục vụ trong suốt hơn 40 năm. Trở về với thực tại của quận Cam hôm nay, nếu Ẩn có dịp trở lại đây chắc cũng chẳng thể nào nhận ra chốn cũ. Biến từ một khu phố chết với những vườn cam xác xơ, nay trở thành một Sài Gòn Nhỏ trẻ trung và sầm uất. Con em của những người Việt mới tới, ngay từ thế hệ di dân thứ nhất đã rất thành công trong học vấn và nâng tiêu chuẩn giáo dục địa phương cao thêm một bước mới. Chúng tốt nghiệp từ đủ khắp các ngành. Hơn cả giấc mộng Đông Du, chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy hai thập niên, nước Việt Nam tương lai có cả một đội ngũ chuyên viên tài ba để có thể trải ra cùng khắp.  

Trong kiếp sống lưu dân, chưa làm được gì trực tiếp cho quê hương nhưng  Chính vẫn có thể mơ một Giấc Mộng Con Năm 2000. Trải qua bao nhiêu hội nghị, Chính có cảm tưởng anh và các bạn vẫn như những người không nhà cho dù các nơi tạm trú đều là những đệ nhất khách sạn không dưới bốn sao.  Chuyến đi thực tế này, dự định rằng là bước khởi đầu vận động hình thành không phải chỉ là một mái nhà cho hội y sĩ, mà bao quát hơn là một convention center, một toà Nhà Văn hoá, một Viện Bảo tàng, một Công viên Việt Nam. Đó phải là công trình biểu tượng có tầm vóc, sẽ được thực hiện ưu tiên qua từng giai đoạn. Nếu nghĩ rằng ngôi Đình là biểu tượng cho cái thiện của làng, thì khu Công viên Văn hoá ấy là biểu tượng cho cái gốc tốt đẹp không thể thiếu của các thế hệ di dân Việt Nam từ những ngày đầu đặt chân tới lục địa mới của cơ hội này. Nó sẽ như một mẫu số chung rộng rãi cho một cộng đồng hải ngoại đang rất phân hóa, giúp đám trẻ hãnh tiến hướng Việt tìm lại được cái căn cước đích thực của tụi nó. Dự phỏng rằng Công viên Văn hóa sẽ được thiết lập trong vùng tây nam Hoa kỳ, tọa lạc trên một diện tích rộng lớn phía bờ nam của xa lộ 22 và 405 tiếp giáp với khu Little Saigon. Đó là nơi có khả năng giới thiệu một cách sinh động những nét đặc thù của văn hóa Việt qua những bước tái thể hiện các giai đoạn lịch sử hào hùng và cả bi thảm của dân tộc Việt từ buổi sơ khai lập quốc. Đây không phải thuần chỉ là công trình của một Uỷ ban Đặc nhiệm, gồm tập hợp những tinh hoa trí tuệ của mọi ngành sinh hoạt. Đó phải là một công trình của toàn thể những người Việt tự do ở hải ngọai, không phân biệt màu sắc cá nhân phe nhóm. Bước khởi đầu đơn giản chỉ một đô la cho mỗi đầu người mỗi năm, thì chúng ta đã có hơn một triệu Mỹ kim cộng thêm với hai triệu Mỹ kim nữa của Hội y nha dược, Hội chuyên gia và các giới doanh thương. Sẽ không phải là nhỏ với ba triệu đô la mỗi năm để làm nền móng khởi đầu cho Dự Án 2000 ấy. Ngũ niên đầu là giai đoạn sở hữu một khu đất đủ lớn cho nhu cầu quy hoạch Công viên Văn hoá với một convention center là công trình xây cất đầu tiên: đó như một cái nôi cho sinh hoạt cộng đồng văn hoá và nghệ thuật.  Chính cứ vẫn phải nghe một điệp khúc đến nhàm chán rằng người Việt Nam không đủ khả năng tạo dựng những công trình lớn có tầm vóc. Viện cớ rằng do những cuộc chiến tranh tàn phá lại cộng thêm với khí hậu ẩm mục của một Á châu nhiệt đới gió mùa, đã không cho phép tồn tại một công trình nhân tạo lớn lao nào. Nhưng bây giờ là trên đất nước Mỹ và Chính muốn chứng minh điều đó không đúng. Yếu tố chính vẫn là con người. Làm sao có được một giấc mơ đáng gọi là giấc mơ.  Để rồi cái cần thiết là chất xi măng hàn gắn và nối kết những đổ vỡ trong lòng… Chính đã hơn một lần chứng tỏ khả năng lãnh đạo một tập thể trí tuệ nhất quán không làm gì trong suốt hai thập niên qua; bây giờ thì anh đang đứng trước một thử thách ngược lại, vận dụng sức mạnh cũng của tập thể ấy để phải làm một cái gì nếu không phải ở trong nước thì cũng ở hải ngoại, trong một kế hoạch ngũ niên cuối cùng của thế kỷ trước khi bước sang thế kỷ 21. Một ngũ niên có ý nghĩa của kế hoạch và hành động thay vì buông xuôi.

Chỉ qua một vài bước thăm dò, Chính cảm nhận được ngay rằng quả là dễ dàng để mà đồng ý với nhau khỏi phải làm gì. Nhưng vấn đề bỗng trở nên phức tạp hơn nhiều khi bước vào một dự án cụ thể đòi hỏi sự tham gia và đóng góp của mỗi người, kéo theo bao nhiêu câu hỏi “tại sao và bởi vì” từ ngay chính những người bạn tưởng là đã rất thân thiết của anh đã cùng đi với nhau suốt một chặng đường. Hội nghị Palo Alto sẽ là một trắc nghiệm thách đố không phải của riêng anh mà là của toàn thể y giới Việt Nam hải ngoại.

Thay vì đứng ngoài bàng quan, hội Y sĩ Thế giới sẽ tiên phong trực tiếp tham gia ngay từ bước đầu hình thành Công viên Văn hoá ấy. Đó là một chuẩn bị thao dượt, như một ấn bản gốc cho mô hình của Viện Bảo tàng Chiến tranh Việt Nam của ISAW. Người Mỹ có dự án ISAW (Institute for the Study of American Wars) thiết lập một Quảng trường Hào hùng tại Maryland gồm một chuỗi viện bảo tàng liên quan tới bảy cuộc chiến tranh, mà người Mỹ đã trực tiếp can dự kể từ ngày lập quốc. Dĩ nhiên trong đó có chiến tranh Việt Nam, cũng là cuộc chiến tranh duy nhất có chính nghĩa mà miền Nam Việt Nam và Mỹ đã bị thua. Cung cấp dữ kiện đi tìm đáp số cho những câu hỏi vấn nạn tại sao sẽ phải là nội dung của viện bảo tàng tương lai này. Hai triệu người thoát ra khỏi nước bằng một cuộc di dân vĩ đại, họ không thể chấp nhận cuộc thất trận lần thứ hai khác lâu dài và vĩnh viễn tại Valor Park với lặp lại những gian dối lịch sử cũng vẫn do người cộng sản chủ động sắp xếp. Không phải chỉ là vấn đề ai thắng ai; nhưng đó là nhân cách chính trị của hai triệu người di dân tỵ nạn đang phấn đấu cho một thể chế chính trị tự do nơi quê nhà. Và Chính quan niệm những bước hình thành khâu Viện Bảo tàng Việt Nam tại ISAW phải được khởi đầu từ dự án khu Công viên Văn hoá Việt Nam năm 2000 ngay giữa thủ đô tỵ nạn. Đó là một phác thảo và chọn lọc tất cả các hình ảnh tài liệu và chứng tích của các giai đoạn Việt Nam tranh đấu sử. Đó là nơi giúp thế hệ trẻ hướng Việt tìm lại khoảng thời gian đã mất, giúp chúng hiểu được tại sao chúng lại hiện diện trên lục địa mới này.

Giữa hai bố con Chính đang âm thầm diễn ra tranh chấp về trận địa của những giấc mơ. Giấc mơ của Toản thì xa hàng vạn dặm mãi tận bên quê nhà. Giấc mơ nào là không thể được, bên trong hay bên ngoài? Hiện thực của giấc mơ nào đi nữa không phải chỉ do hùng tâm của một người mà là ý chí của cả một tập thể cùng nhìn về một hướng, cùng trông đợi và ước ao niềm vui của sự thành tựu. Riêng Chính thì đang ao ước không phải để có một ngôi đền thờ phụng, mà là một mái ấm của Trăm Họ Trăm Con, nơi ấy sưu tập và lưu trữ những giá trị của quá khứ, nơi hội tụ diễn ra sức sống sinh động của hiện tại, và là một điểm tựa thách đố hướng về tương lai, chốn hành hương cho mỗi người Việt Nam đang sống bất cứ ở đâu trong lòng của thế giới.  NGÔ THẾ VINH                                                                                                                                                                    Little Saigon, 01/1995

Trái, thư viết ngày 1/2/1995; phải, nhà văn Ngô Thế Vinh nhìn bởi Tạ Tỵ Garden Grove, California, Jan 1996. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Hình 17a: trái, thư viết ngày 1/2/1995; phải, nhà văn Ngô Thế Vinh nhìn bởi Tạ Tỵ Garden Grove, California, Jan 1996. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

      Trong một thư riêng gửi đi từ Garden Grove ngày 1/2/1995, anh Tạ Tỵ viết:

Anh Ngô Thế Vinh,

Trước hết, nhân dịp đầu năm mới Ất Hợi, tôi xin gửi đến anh cũng như gia đình, một năm mới an khang thịnh vượng, gặp nhiều may mắn, sau, xin chân thành cám ơn anh đã có lòng quý mến mà gửi cho tập bản thảo “Giấc mộng LỚN năm 2000”.

“Tôi chia sẻ rất nhiều với anh về những điều anh viết, dù rằng tuổi tôi đã cao, cái sự nhìn thấy những điều mình mơ ước chắc cũng khó mà thực hiện, nhưng đó cũng chẳng sao, vì tất cả đều cho mai sau và cái mai sau đó so với sự luân chuyển của thời gian cũng như lịch sử nó chẳng đáng gì. Ngọn lửa đã nhúm lên rồi, chỉ cần có thêm nhiều nguyên liệu tạo nên sự bùng cháy trường kỳ trong lòng mỗi người tỵ nạn có tâm huyết, bất luận trí thức hay bình dân. Mong lắm thay!  Hy vọng, hy vọng và hy vọng!  Mong anh đừng bao giờ để có người nói: “Các ông là những người đến muộn.”

Anh Tạ Tỵ cũng đã hào hứng hứa hẹn, là khi Công Viên Văn Hoá ấy hình thành, anh sẽ tặng bộ sưu tập tranh quý giá của anh, cùng với một bức tranh tường Mural 5m x 3m “Gửi Cho Thế Hệ Mai Sau”.     

Trái, thư viết ngày 29/2/2000: Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải luỵ phà!...; phải, thư viết ngày 27/7/2000: Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho mình? Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Hình 17b: trái, thư viết ngày 29/2/2000: Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải luỵ phà!…; phải, thư viết ngày 27/7/2000: Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho mình? Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời  [tư liệu Ngô Thế Vinh]

San Diego, Feb 29, 2000

Thân gửi Anh Ngô Thế Vinh,

Rất cám ơn anh đã gửi cho 2 số báo Đi Tới. Nhìn qua, tuy chưa đọc nhưng đã thấy rất có giá trị về phương diện Sử học và Địa lý. Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà!…

Hôm nào rảnh rỗi mời anh xuống dưới San Diego, anh em mình tiếp nối giấc mơ café, ngồi nhìn ra biển, ở một quán nào đó chưa biết! Riêng anh, luôn luôn khoẻ mạnh, viết nhiều. Tạ Tỵ

Nhưng rồi, khá bất ngờ vào ngày 27/7/2000 từ San Diego cũng trong một thư riêng khác anh Tạ Tỵ cho biết quyết định sẽ về sống ở Việt Nam.

San Diego, July 27, 2000

Thân gửi Anh Ngô Thế Vinh,

Trước hết, xin gửi nơi đây lời cầu chúc anh cùng gia đình luôn luôn an mạnh.

Sau, xin báo tin để anh được biết đến tháng 10 này [năm 2000], chúng tôi sẽ về Việt Nam để sống… chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết trước cái gì sẽ xảy ra cho đời mình? Nhưng dù sao tôi cũng muốn được an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Nếu có dịp nào, anh gặp anh Bùi Khiết, anh cho tôi gửi lời thăm anh ấy. Anh Khiết là người bạn tốt, rất tốt với tôi. Chúc anh sáng tác được nhiều tác phẩm hay để đời thế là tôi vui rồi. Về Việt Nam, tôi vĩnh viễn rửa tay gác bút, chờ ngày đi vào cõi Hư Không. Nhớ các anh lắm. Tạ Tỵ

Dù anh Tạ Tỵ đã có quyết định về sống ở Việt Nam từ tháng 7 năm 2000, nhưng rồi lần lữa thêm 3 năm nữa vì lý do sức khoẻ và chăm sóc y tế. Tới năm 2003, sau khi vợ anh mất, Tạ Tỵ đã một mình âm thầm trở về Sài Gòn, sống những tháng ngày cuối đời, cũng vẫn trong căn nhà cũ, cùng với gia đình người con gái út Tạ Thuỳ Châu.

Chỉ một năm sau, anh Tạ Tỵ mất, ngày 24 tháng 8 năm 2004, hưởng thọ 83 tuổi. Bạn bè văn nghệ cũ còn ở lại Sài Gòn đều tới tiễn đưa anh. Đặc biệt có thêm  một vòng hoa viếng của Đinh Cường từ Mỹ, do Dương Nghiễm Mậu – cũng là người anh em cột chèo với Đinh Cường đại diện đem tới.

Anh Tạ Tỵ đã toại nguyện, anh được an nghỉ nơi quê nhà, “tấm thân tứ đại” của anh được hỏa táng để trở về với cát bụi, nhưng tên tuổi Tạ Tỵ và các tác phẩm của anh thì vẫn trường tồn trong suốt dòng chảy của văn hóa dân tộc.

CON CÁ HỒI VỀ NGUỒN

Tạ Tỵ là hình ảnh con cá Hồi dũng mãnh sau những tháng năm vẫy vùng ngoài đại dương, đến cuối đời sức cùng lực kiệt, vẫn với một bộ nhớ không suy suyển, để từ biển rộng trở lại con sông dài, bất chấp những ghềnh thác, chỉ để được trở về nguồn – nơi mảnh đất có tên gọi rất thiêng liêng là Việt Nam, nơi anh đã được sinh ra và lớn lên, nơi vẫn còn đó những con người đã từng đày ải anh tới “đáy địa ngục” nhưng rồi bất kể những gì có thể xảy ra cho anh, con cá hồi Tạ Tỵ cũng đã trở về nơi quê hương cội nguồn.  

Tạ Tỵ là hình ảnh con cá Hồi sau những tháng năm vùng vẫy ngoài đại dương, đến cuối đời sức cùng lực kiệt, vẫn với một bộ nhớ không suy suyển, đã bất chấp những ghềnh thác, để từ biển rộng trở lại con sông dài, chỉ để được trở về nguồn.
Hình 18: Tạ Tỵ là hình ảnh con cá Hồi sau những tháng năm vùng vẫy ngoài đại dương, đến cuối đời sức cùng lực kiệt, vẫn với một bộ nhớ không suy suyển, đã bất chấp những ghềnh thác, để từ biển rộng trở lại con sông dài, chỉ để được trở về nguồn.

NGÔ THẾ VINH

100 năm sinh [1921-2021]

Và ngày giỗ thứ 17 của Tạ Tỵ

[24/08/2004 – 24/08/2021]

Tham khảo:

1/ Tạ Tỵ. Hồi ký Đáy Địa Ngục, Nxb Thằng Mõ 1986;  Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi, Nxb Thằng Mõ 1990; Tuyển Tập Văn Thơ Hoạ Tạ Tỵ, Nxb Thằng Mõ 2001.

2/ Nguiễn Ngu Í phỏng vấn Tạ Tỵ. Báo Bách Khoa, số 131, ngày 15-6-1962

3/ Tạ Tỵ, Vì sao tôi viết. Hợp Lưu số 32, p. 216,  Xuân Đinh Sửu 1997

4/ Đinh Cường, Đi Vào Cõi Tạo Hình: Tạ Tỵ người hoạ sĩ luôn ưu tư về cái mới, p.86-94. Văn Mới 2015

5/ Văn Quang. Tạ Tỵ – vườn xưa đã khép. Lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự, ngày 26/8/2004

6/ Ngô Thế Vinh. Tuyển Tập I Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hoá, Nxb Việt Ecology Press 2017

In retrospect: Nguyễn Văn Trung nhìn lại một hành trình trí thức lận đận

Tôi rất hân hạnh giới thiệu bài viết mới nhứt của Nhà văn Ngô Thế Vinh viết về Gs Nguyễn Văn Trung, một nhân vật khoa bảng nổi tiếng thời trước 1975. Có lẽ đây là bài viết đầy đủ nhứt về ông, kèm theo nhiều tư liệu quí báu trước và sau 1975. Vắn tắt về Gs Trung: sanh năm 1930 tại Hà Nam; tốt nghiệp tiến sĩ triết học từ ĐH Louvain (Bỉ) năm 1961; dạy triết và văn ở ĐH Văn Khoa Sài Gòn và ĐH Huế; sau 1975 thì không còn dạy học, chỉ làm nghiên cứu ở Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp TPHCM; 1993 sang định cư ở Canada. Ông cũng là người gây nhiều ảnh hưởng cho cá nhân tôi thời trước 1975, những suy nghĩ ‘cánh tả’ thời đó của tôi cũng xuất phát từ những bài viết và sách của ông. Ông là một trí thức đích thực hiểu theo nghĩapublic intellectual‘, nhưng hành trình trí thức của ông rất lận đận trong một Việt Nam với nhiều chao đảo. Bài viết của Bs Ngô Thế Vinh thuật lại những lận đận đó như là một bài học kinh nghiệm cho thế hệ trí thức tương lai. NVT

________

“… những cố gắng suy nghĩ của một người vẫn ước muốn tự đặt cho mình một kỷ luật đồng thời cũng là một lý tưởng là phải tìm kiếm không ngừng, bằng cách tự phủ nhận, bất mãn với quãng đường mình vừa qua và cứ như thế mãi mãi…” [Cùng bạn độc giả, Lược Khảo Văn Học I] [1] Nguyễn Văn Trung

NGÔ THẾ VINH

Trái, Nguyễn Văn Trung, Đại học Văn Khoa Sài Gòn 1969; phải, Nguyễn Văn Trung 50 năm sau, Montréal tháng 8/2019. [nguồn: trái, album gia đình Nguyễn Quốc Linh, phải, photo by Phan Nguyên]
Hình 1: trái, Nguyễn Văn Trung, Đại học Văn Khoa Sài Gòn 1969; phải, Nguyễn Văn Trung 50 năm sau, Montréal tháng 8/2019. [nguồn: trái, album gia đình Nguyễn Quốc Linh, phải, photo by Phan Nguyên]

TIỂU SỬ

      Nguyễn Văn Trung sinh ngày 26-9-1930, tại làng Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; còn có bút hiệu là Phan Mai và Hoàng Thái Linh. Xuất thân trường Dòng Puginier và chủng viện Hoàng Nguyên trước khi chuyển qua học Chu Văn An, Hà Nội. Từ 1950 đến 1955 ông được gửi đi du học Âu châu, ban đầu ở Pháp rồi qua Bỉ, đậu cử nhân triết học Đại học Louvain, Bỉ. Năm 1955 về Sài Gòn dạy trường trung học Chu Văn An, và sau đó là  Đại học Huế.

      Năm 1961 ông trở lại Bỉ, trình luận án tiến sĩ về Phật Học cũng tại Đại học Louvain với đề tài: “La Conception Bouddhique du devenir, Essai sur la notion du devenir selon la Stharivanâda.

      Về nước ông dạy Triết và Văn ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn và Đại học Huế. Tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ông là Trưởng ban Triết Tây phương, có thời gian được bầu làm Khoa trưởng Đại học Văn khoa Sài Gòn (1969).

      Sau 1975, không được trở lại giảng dạy, ông chỉ có thể làm công việc nghiên cứu văn học và triết học tại Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp TP. HCM, với một chuyển hướng quan trọng, ông tập trung vào nghiên cứu văn hoá miền châu thổ Sông Cửu Long với thành quả là bộ sách Lục Châu Học, ông cũng có công phát hiện cuốn sách quốc ngữ đầu tiên: Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, do cơ sở J. Linage Saigon xuất bản năm 1887, tiến tới phủ nhận tác phẩm Tố Tâm xuất bản năm 1925 ở ngoài Bắc bấy lâu vẫn được xem là áng văn quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam.   

       Mười tám năm sau 75, từ cuối 1993 Nguyễn Văn Trung đã cùng với gia đình rời Việt Nam, sang đoàn tụ với người con trai lớn Nguyễn Quốc Bảo là boat people đang định cư tại Montréal, Canada. Và sau đó, Nguyễn Văn Trung vẫn có những chuyến về thăm Việt Nam, sang Mỹ và Pháp.

Trái, Nguyễn Văn Trung, và Trần Thị Minh Chi, Sài Gòn 1960s; phải, vợ chồng Nguyễn Văn Trung nửa thế kỷ sau, Montréal Hè 2019. Chị Minh Chi Nguyễn Văn Trung thì nay cũng đã mất. [Nguồn: trái, từ album gia đình Nguyễn Quốc Linh, phải, photo by Phan Nguyên, E.E.]
Hình 2: trái, Nguyễn Văn Trung, và Trần Thị Minh Chi, Sài Gòn 1960s;  phải, vợ chồng Nguyễn Văn Trung nửa thế kỷ sau, Montréal Hè 2019. Chị Minh Chi Nguyễn Văn Trung thì nay cũng đã mất.  [Nguồn: trái, từ album gia đình Nguyễn Quốc Linh, phải, photo by Phan Nguyên, E.E.]

      Trong loạt bài Nhìn những chặng đường đã đi qua, khi đã qua khá xa tuổi “cổ lai hy”, Nguyễn Văn Trung viết: “… tôi sống một đời sống ít nhiều khắc khổ, một cách tự nguyện, không nghiện rượu, thuốc lá, cà phê, chỉ nghiện hay say mê một thứ: cầm bút viết, không hẳn vì người đọc mà trước hết vì chủ yếu tôi sống thì phải viết, như phải ăn phải thở, thế thôi.” [3]  Nhu cầu viết với Nguyễn Văn Trung như một phong cách sống, chỉ có điều những tập “Nhận Định” 8- 9-10 và những trang viết của ông về sau này, do tuổi tác đã không còn những nét sắc sảo cuốn hút  như phong độ của tuổi thanh xuân.

      Ở miền Nam giai đoạn 1955-1975, Nguyễn Văn Trung không chỉ là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu phê bình mà ông còn là một nhà báo, viết mấy trăm bài báo đủ mọi thể loại, là một cây viết phân tích bình luận nổi tiếng về chính trị, xã hội và văn hoá; rất có ảnh hưởng trên tầng lớp tuổi trẻ thanh niên sinh viên, cùng các bước nhập cuộc với các hoạt động xã hội và dấn thân.

          Trong giới trí thức Công giáo, nổi trội có ba người là Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung và Nguyễn Ngọc Lan được xem là nhóm Công giáo khuynh tả, phản chiến, kêu gọi hòa bình, hòa hợp và hoà giải dân tộc – cụm từ thời thượng gọi họ là Thành phần thứ Ba. Nguyễn Văn Trung đã cùng một số đồng nghiệp tham gia tuyệt thực đòi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trả tự do cho các sinh viên tranh đấu – trong đó có cả đám sinh viên cộng sản nằm vùng và ông cũng từng là thành viên trong Chủ tịch Đoàn Ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam (1970).

TÁC PHẨM

        Nguyễn Văn Trung có một sự nghiệp trước tác phong phú và đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực: từ sách giáo khoa, tới sách nghiên cứu triết học, văn học, văn hoá xã hội.

Tác phẩm đã xuất bản trước 1975

 Sách giáo khoa: Triết học tổng quát (Vĩnh Bảo, 1957). Luận lý học (tủ sách Á Châu, 1957). Đạo đức học (tủ sách Á Châu, 1957). Luận triết học tập I (Nxb Nam Sơn). Phương pháp làm luận triết học (Nxb Nam Sơn).

 Tiểu luận: Nhận định I (Nxb Nguyễn Du, 1958). Nhận định II (Nxb Đại Học, 1959). Nhận định III (Nxb Nam Sơn, 1963). Nhận định IV ( Nxb Nam Sơn, 1966). Nhận định V (Nxb Nam Sơn, 1969). Nhận định VI (Nxb Nam Sơn, 1972).

 Lý luận văn học: Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết (Cơ sở xuất bản Tự Do, 1962). Lược khảo văn học tập I: những vấn đề tổng quát (Nxb Nam Sơn, 1963). Lược khảo văn học II: ngôn ngữ văn chương và kịch (Nxb Nam Sơn, 1965). Lược khảo văn học III: nghiên cứu và phê bình văn học (Nxb Nam, Sơn 1968). 

Văn học và chính trị: Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam thực chất và huyền thoại (Nxb Nam Sơn, 1963). Chữ và văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc (Nxb Nam Sơn, 1974). Trường hợp Phạm Quỳnh (Nxb Nam Sơn, 1974). Chủ đích Nam Phong (Nxb Trí Đăng, 1975). Vụ án truyện Kiều (tập hợp những bài viết trong vụ tranh luận về truyện Kiều giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh năm 1924, Sài Gòn 1965). 

Triết học:  Ca tụng thân xác (Nxb Nam Sơn, 1967). Hành trình trí thức của Karl Marx (Nxb Nam Sơn, 1969). Đưa vào triết học (Nxb Nam Sơn, 1970). Góp phần phê phán giáo dục và đại học (Nxb Trình Bầy, 1967). Ngôn ngữ và thân xác (Nxb Trình Bầy, 1968). La conception bouddhique du devenir, luận án tiến sĩ (Imprimerie Xã Hội, Việt Nam, 1962). Danh từ triết học (cùng với LM Cao Văn Luận, Đào Văn Tập, Trần Văn Tuyên, LM Xuân Corpet (Nxb Đại Học Huế, 1958). 

Tôn giáo: Biện chứng giải thoát trong Phật giáo (Nxb Đại học Huế, 1958). Người công giáo trước thời đại (nhiều tác giả) (Đạo và Đời, 1961). Lương tâm công giáo và công bằng xã hội (Nxb Nam Sơn, 1963). 

Một số sách Nguyễn Văn Trung trước 1975, do Nam Sơn xuất bản và sau này do Xuân Thu tái bản ở hải ngoại khi Nguyễn Văn Trung còn ở lại Việt Nam.
Hình 3: Một số sách Nguyễn Văn Trung trước 1975, do Nam Sơn xuất bản và sau này do Xuân Thu tái bản ở hải ngoại khi Nguyễn Văn Trung còn ở lại Việt Nam.     

      Tác phẩm đã xuất bản sau 1975

      Câu đố Việt Nam (nxb TP. HCM, 1986). Những áng văn quốc ngữ đầu tiên: Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (Đại học Sư phạm TP. HCM, 1987; Nxb Hội Nhà Văn). Về sách báo của tác giả công giáo thế kỷ XVII- XIX (nhiều tác giả, Nxb TP. HCM, 1993). Chủ đích Nam Phong (1975), Trương Vĩnh Ký – nhà văn hóa (1993),Hồ sơ Lục châu học: Tìm hiểu con người ở vùng đất mới(2015).

Một số sách Nguyễn Văn Trung xuất bản trước 1975, sau này tái bản ở trong nước từ sau năm 2000. [tư liệu Trần Huy Bích]
Hình 4: Một số sách Nguyễn Văn Trung xuất bản trước 1975, sau này tái bản ở trong nước từ sau năm 2000. [tư liệu Trần Huy Bích]

Các bản thảo soạn sau 75, chưa in:  Ngôn ngữ và văn học dân gianĂn mặc theo truyền thống Việt NamĐạo Chúa vào Việt NamHồ sơ về hàng giám mục Việt Nam Nhận định VII, VIII.  Viết thêm ở hải ngoại Nhận định IX và X, còn dở dang.

      Nguyễn Trọng Văn cũng là một giáo sư triết,  trên số Bách Khoa 264 (1-1-1968) trong bài viết: Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung, khi nhận định về ảnh hưởng của các giáo sư đại học đối với nền văn học miền Nam, tuy là một bài viết đả kích Nguyễn Văn Trung nặng nề nhưng Nguyễn Trọng Văn – cũng đã phải công nhận: “Ông Trung là người có công trong việc giới thiệu những trào lưu tư tưởng mới của Tây Phương với độc giả Việt Nam… Ông trình bày một cách gọn gàng, mạch lạc. Những triết học hiện sinh, tiểu thuyết mới, những danh từ có tính cách văn nghệ, triết lý dần dần được du nhập và phổ biến. Những Hiện tượng luận, đối thoại, tha nhân, phản kháng, vong thân, ngụy tín, huyền thoại, thông cảm, những Alain Robbe Grillet, Nathalie Sarraute, Michel Butor, Sartre, Camus… đã được Nguyễn Văn Trung trình bày hàng chục năm trước trong Sáng Tạo, Bách Khoa, Thế Kỷ Hai Mươi

GS Nguyễn Văn Trung rất gần gũi với sinh hoạt sinh viên, ngoài những giờ học trong giảng đường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, mấy thầy trò còn tổ chức những buổi hội thảo “bỏ túi” qua các chuyến đi dã ngoại ngoài trời, khi thì rừng cao su gần Đường Sơn Quán, khi thì khuôn viên La San Mai Thôn quận Thủ Đức. Hình trên là một buổi sinh hoạt dã ngoại tại La San Mai Thôn mùa Hè năm 1974, GS Nguyễn Văn Trung đeo kính ngồi phía sau nơi góc trái. [nguồn: Văn Khoa ngày tháng cũ, 04/ 2017 Huỳnh Như Phương]
Hình 5: GS Nguyễn Văn Trung rất gần gũi với sinh hoạt sinh viên, ngoài những giờ học trong giảng đường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, mấy thầy trò còn tổ chức những buổi hội thảo “bỏ túi” qua các chuyến đi dã ngoại ngoài trời, khi thì rừng cao su gần Đường Sơn Quán, khi thì khuôn viên La San Mai Thôn quận Thủ Đức. Hình trên là một buổi sinh hoạt dã ngoại tại La San Mai Thôn mùa Hè năm 1974, GS Nguyễn Văn Trung đeo kính ngồi phía sau nơi góc trái. [nguồn: Văn Khoa ngày tháng cũ, 04/ 2017 Huỳnh Như Phương]

Võ Phiến trong cuốn Văn Học Miền Nam Tổng Quan (Nxb Văn Nghệ, 1986), thời kỳ 1954-1975, được viết ở hải ngoại sau này, ông đã phải công nhận Nguyễn Văn Trung là một cây viết có nhiều ảnh hưởng trong suốt thời kỳ 20 năm văn học của miền Nam, qua nhận định: “Một giáo sư trẻ tuổi mới từ Âu châu về, là Nguyễn Văn Trung bắt đầu viết những bài tiểu luận triết học rất được giới thanh niên sinh viên và văn nghệ sĩ chú ý theo dõi.  Quốc gia, cộng sản, tư bản, Mác-xít, Khổng-Phật Đông phương… thanh niên đã ngột ngạt về những thứ ấy, họ mong đợi một cái gì mới, một lối thoát nào đó. Mong đợi mơ hồ mà khẩn cấp. Khao khát triết lý, một khao khát thời đại. Ông Nguyễn đáp ứng đúng vào chỗ trông chờ ấy. Ông được hoan nghênh. Các “nhận định” của ông, giới trẻ đọc, phổ biến, bàn tán, suy luận… Vả lại Nguyễn Văn Trung không chỉ viết về triết học, nhiều lần ông quan tâm đến các vấn đề văn học. Nhà xuất bản Nam Sơn in 3 tập Lược Khảo Văn Học, và nhà xuất bản Tự Do sau này có in của ông cuốn Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, cho nên càng dễ hiểu cái cảm tình của giới văn nghệ đối với ông lúc bấy giờ.” [5]

NGUYỄN VĂN TRUNG NHÀ BÁO

      Nguyễn Văn Trung đã có công sáng lập và điều hành tạp chí Đại Học ở Huế, và sau này là các tạp chí Hành Trình, Đất Nước,Trình Bầy và cộng tác với nhiều tờ báo như Bách Khoa, Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn, Văn Học, Nghiên Cứu Văn Học, Thái Độ, Đối Diện, Tin Sáng, Sống Đạo, Dân Chủ Mới, cả viết cho tờ Tân Văn của Nguyễn Ngọc Lương với bút hiệu Nguyễn Nguyên, mà ông rất biết là một tay cộng sản nằm vùng … Chỉ riêng trên báo Bách Khoa, Nguyễn Văn Trung đã rất sớm giới thiệu Triết học Tây Phương với giới độc giả, ông có khoảng 50 bài viết đủ các thể loại trên tờ Bách Khoa với tên thật và cả bút hiệu Phan Mai và Hoàng Thái Linh.

      Ông cũng là thành viên chủ trương nhà xuất bản Nam Sơn cùng với Trịnh Viết Đức và nhà xuất bản Trình Bầy sau này cùng với Thế Nguyên. Nam Sơn là nơi xuất bản hầu hết các tác phẩm đủ thể loại của Nguyễn Văn Trung trước 1975, cũng là nơi in tờ tạp chí Đại Học của Viện Đại Học Huế giai đoạn đầu – trước khi Đại Học Huế có nhà in riêng; Nam Sơn cũng là nơi in “chui” tờ tạp chí Hành Trình không giấy phép cho tới khi đình bản.

TẬP SAN ĐẠI HỌC

            Đại Học Huế được thành lập và khai giảng vào tháng 9/1957, như một đáp ứng nguyện vọng của nhân sĩ Huế muốn có một đại học ở miền Trung, dự trù với đủ các khoa cơ bản như Đại học Sư phạm, Khoa học, Văn khoa, Luật khoa và cả Đại học Y khoa về sau này… Viện trưởng đầu tiên là GS Nguyễn Quang Trình từ tháng 3/1957- 7/1957, sau đó là LM Cao Văn Luận, Cha Luận có văn bằng cử nhân Triết Đại học Sorbonne 1942, tốt nghiệp trường Á Đông Sinh ngữ 1946, và đang là một giáo sư uy tín giảng dạy môn Triết bên trường Quốc Học Huế. Cha Luận được đánh giá là người có tầm nhìn xa. Ngay từ đầu ông đã có kế hoạch đào tạo một ban giảng huấn tại chỗ bằng cách cử các thành phần sinh viên ưu tú đi du học, Ngoài ra ông còn có uy tín và khả năng thu hút nhân tài từ nhiều nguồn, từ ngoại quốc đến trong nước, về giảng dạy nơi ngôi trường Đại học Huế còn rất non trẻ và sơ khai này.

Tập san Đại Học của Viện Đại Học Huế, ra được 40 số; trái: bìa số Đại Học 1 ra mắt tháng 2/1958; phải: bìa số Đại Học 40 cũng là số cuối cùng tháng 8/1964. [tư liệu Nguyễn Văn Trung]
Hình 6: Tập san Đại Học của Viện Đại Học Huế, ra được 40 số; trái: bìa số Đại Học 1 ra mắt tháng 2/1958; phải: bìa số Đại Học 40 cũng là số cuối cùng tháng 8/1964. [tư liệu Nguyễn Văn Trung]

      Trong nước, thuở ban đầu, từ Sài Gòn ra Huế giảng dạy mới có hai người: Nguyễn Văn Trung lúc đó có học vị cử nhân Triết đại học Louvain từ Bỉ về, và Nguyễn Văn Trường có bằng Cao học Toán đại học Toulouse Pháp. Đây chính là cái nôi để các nhà giáo dục trẻ trau giồi kinh nghiệm và lớn lên cùng với những bước phát triển của Đại học Huế.

      Không ai khác, chính Nguyễn Văn Trung đã đề nghị với cha Luận cho xuất bản một tờ tập san lấy tên Đại Học, ra mắt hai tháng một kỳ như một sứ mệnh văn hoá, một diễn đàn tư tưởng và học thuật, phổ biến bên trong và cả ngoài phạm vi Đại học Huế. Đề nghị trên được Cha Cao Văn Luận đồng ý ngay. Có thể nói Đại Học là một tập san định kỳ đầu tiên do một Viện Đại học miền Nam được xuất bản. Ban đầu tờ báo phải gửi vào in tại nhà xuất bản Nam Sơn ở Sài Gòn, sau này tạp chí Đại Học có nhà in riêng, và có số độc giả đủ đông để nuôi sống tờ báo. Tạp chí Đại Học đình bản ở số 40 nhưng thực tế chỉ có 38 số vì có hai số đôi là 4 & 5, 35 & 36. 

      Tập san Đại Học sống được 6 năm từ tháng 2/1958 tới tháng 11/1963. Nguyễn Văn Trung là chủ bút từ tháng 2/1958 tới 7/1961.

      Là trí thức Công giáo, nhưng Nguyễn Văn Trung đã phê phán mạnh mẽ giáo hội Công giáo miền Nam, ông bị coi như một kẻ “rối đạo” – L’Enfant terrible de l’Église. Ông đã phải trả giá cho thái độ này. Điển hình là, do áp lực từ giới Công giáo bảo thủ, đứng đầu là TGM Ngô Đình Thục, ra lệnh cho Bộ trưởng Giáo dục Trần Hữu Thế quyết định không cho Nguyễn Văn Trung được tiếp tục dạy học ở Huế và cả ở Viện Đại học Đà Lạt. Nguyễn Văn Trung đã phải về lại Sài Gòn, và chủ bút thứ hai của tập san Đại Học là GS Trần Văn Toàn từ tháng 7/1961. Không có Nguyễn Văn Trung, tập san Đại Học giảm sức hấp dẫn của giai đoạn đầu. Nhưng rồi do chính trị sôi động ở miền Trung, tới tháng 8/1964 tập san Đại Học phải âm thầm đóng cửa sau sáu năm hoạt động.

      Tạp chí Đại Học cũng là cơ quan ngôn luận cổ suý mạnh mẽ cho việc chuyển ngữ,  dùng tiếng Việt trong giảng dạy các khoa ngành ở đại học. Tạp chí Đại Học không đơn thuần là tờ báo của Viện Đại học Huế, nhưng có ảnh hưởng lan rộng ra ngoài phạm vi đại học. Nó đáp ứng được thứ “văn hoá đọc” không chỉ của giới thanh niên sinh viên mà của cả dân miền Trung, lan toả vào tới trong Nam. 

      Toàn bộ tạp chí Đại Học, gồm khoảng hơn 6.000 trang báo với hơn 350 bài viết thuộc đủ các thể loại: triết học, sử địa, luật học, ngôn ngữ học, ngữ pháp học, văn học và cả y dược với rất nhiều tên tuổi lừng danh cộng tác, nay hầu hết đã là “người trăm năm cũ” như: GS Hoàng Xuân Hãn, GS Bửu Hội, GS Trần Kính Hoà / Chen Ching Ho, GS Nguyễn Phương, GS Nguyễn Khắc Hoạch, GS Nguyễn Nam Châu, LM Bửu Dưỡng, LM Nguyễn Văn Thích, LM Thanh Lãng, các học giả Nguyễn Bạt Tụy, Nguyễn Hiến Lê, GS Dược khoa Đặng Vũ Biền, GS Y khoa Lê Khắc Quyến…

       Sau hơn nửa thế kỷ, trước nguy cơ bị mối mọt mục nát với thời gian, toàn bộ 40 số báo Đại Học đã được phục hoạt bằng kỹ thuật “số hoá” hay dưới dạng DVD. Ngày nay, khi nhắc tới tạp chí Đại Học trong khoảng thời gian 1958 – 1964, như nhắc tới “một niềm tự hào về một đứa con tinh thần sáng giá” của Viện Đại Học Huế, hơn thế nữa của 20 năm sinh hoạt văn hoá phong phú và đa dạng của miền Nam. Sáng lập và điều hành hơn nửa “chặng đường của 6 năm tạp chí Đại Học”, với sứ mệnh văn hoá ấy, công lao của Nguyễn Văn Trung không thể không được xứng đáng ghi nhận. 

Hình 7: Từ trái, bìa báo Hành Trình số 10, tháng 6-1966 cũng là số Hành Trình cuối cùng; bìa báo Đất Nước số 3, tháng 1-1968; bìa báo Trình Bầy số 2, tháng 8-1970. [4] [tư liệu Nguyễn Văn Lục]
Hình 7: từ trái, bìa báo Hành Trình số 10, tháng 6-1966 cũng là số Hành Trình cuối cùng; bìa báo Đất Nước số 3, tháng 1-1968; bìa báo Trình Bầy số 2, tháng 8-1970. [4] [tư liệu Nguyễn Văn Lục]

 TẠP CHÍ HÀNH TRÌNH

      Sau biến cố 1963, trong niềm vui và tin tưởng chấm dứt được một chế độ độc tài, mở đường cho một không khí có tự do hơn. Nhưng thực tế thì tình hình miền Nam rất  xáo trộn, khiến không ai có thể thờ ơ với những vấn đề thời cuộc. Đó là lúc GS Trần Ngọc Ninh, GS Ngô Gia Hy và GS Nguyễn Văn Trung ra mắt tờ Tìm Hiểu in ronéo,  nhưng rồi thấy ngay được sự hạn chế nếu chỉ sinh hoạt trong giới giáo sư đại học, thấy có nhu cầu cần mở rộng ra cho cả giới trẻ. [2]  Đó là lý do tờ Hành Trình được ra đời, không phải chỉ có những phân tích thời cuộc, mà còn có cả phần thơ văn của mọi giới phản ánh những suy tư và tầm nhìn đa dạng trước cuộc sống. Hành Trình với chủ trương: làm cách mạng xã hội không cộng sản. Cùng với Nguyễn Văn Trung, là nhóm trí thức Công giáo thiên tả như Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần… Nguyễn Văn Trung đứng tên chính thức xin phép ra báo, kéo dài hơn một năm vẫn chưa được cấp giấy phép. Và Hành Trình vẫn cứ ra mắt từ tháng 10/1964 dưới dạng in ronéo không qua kiểm duyệt của Nha Thông tin Báo chí. Chính hình thức báo chui này lại có sức hấp dẫn của nó, báo được giới thanh niên sinh viên tìm đọc, báo bán rất chạy, khởi đầu in 100 số rồi lên tới 1000 số, vẫn thiếu phải in tiếp. Về công lao in ấn và tài trợ là của Trịnh Viết Đức, lúc đó đang là giám đốc nhà xuất bản Nam Sơn.

      Những người viết cho Hành Trình gồm nhóm linh mục như Đỗ Phùng Khoan, tức linh mục Nguyễn Huy Lịch, Trương Cẩm Xuyên, tức linh mục Trương Đình Hòe, Hương Khê, tức linh mục Trương Bá Cần, linh mục Nguyễn Ngọc Lan, trí thức công giáo như giáo sư Nguyễn Văn Trung, giáo sư Trần Văn Toàn; cùng với các nhà văn nhà thơ như Võ Hồng Ngự, tức nhà thơ Diễm Châu, Trần Trọng Phủ, tức nhà văn Thế Nguyên,  Thảo Trường, Thái Lãng, Nguyễn Vũ Văn, Lê Tất Hữu, Thế Uyên, Nguyễn Quốc Thái, Lê Uyên Nguyên, Vân Đỳnh, Bùi Khải Nguyên. Trong số những người kể trên, sau này có một số đi theo cộng sản.

      Hành Trình bị tịch thu liên tiếp, và chỉ sống được hơn một năm, ra được 10 số với số cuối cùng là tháng 6/1966. Tuy ngắn ngủi, nhưng Hành Trình đã tạo được tiếng vang trong và ngoài nước, cả ra tới miền Bắc.[4]

      Sau này, có dịp nhìn lại, những người chủ trương là tham dự vào Hành Trình họ có những cảm xúc lẫn lộn / mixed feelings: có phần hãnh diện về chặng đường đã trải qua, có phần chua xót về những ảo tưởng mà họ đã đặt quá nhiều kỳ vọng vào.

      Những vấn đề Hành Trình đặt ra có tính cách phê phán triệt để và toàn diện, nhưng đã không đề ra được một đường hướng nào. Với quan điểm hình thành một chủ nghĩa xã hội không cộng sản mang tính cách ảo tưởng về một con đường thứ ba. Nhóm Hành Trình đã từng bị phê phán là không hiểu bản chất chủ nghĩa cộng sản và những âm mưu thâm độc của họ. Phải chăng Nguyễn Văn Trung thực sự không biết là chẳng thể có một con đường thứ ba nào giữa một cuộc “chiến tranh triệt tiêu mất còn – zero-sum game” giữa cộng sản và tư bản. Trong một chừng mực nào đó, Hành Trình đã làm lợi cho cộng sản.

TẠP CHÍ ĐẤT NƯỚC

      Hành Trình tự đóng cửa tháng 6/1966, một phần do áp lực của chính quyền tịch thu báo, mà còn có lý do nội tại: Trịnh Viết Đức, ông bầu của Hành Trình phải lên đường nhập ngũ. Đó là lý do tờ Đất Nước thay thế Hành Trình. Ban biên tập vẫn với chủ nhiệm là Nguyễn Văn Trung; chủ trương biên tập là Lý Chánh Trung, và Thế Nguyên nay là Thư ký tòa soạn. Thế Nguyên có nhà in, nên có khả năng thay thế Trịnh Viết Đức để lo in tờ Đất Nước. Khác với tờ Hành Trình, thành phần ban biên tập cho Đất Nước nay thực sự là một vùng xôi đậu: với khuynh hướng nghiêng về cộng sản như Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Thế Nguyên… [4]

      Thêm một sự kiện rất đặc biệt, Nguyễn Văn Trung đã mời được một cây bút chủ lực cho tờ Đất Nước, đó là nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan, một Nguyên Sa hoàn toàn mới với thái độ nhập cuộc dấn thân với các bài thơ rất mới lạ như Tắm, Sân Bắn, hay tập truyện Vài Ngày làm việc ở Chung Sự Vụ tức là khu nhà xác của Nghĩa trang Quân Đội. Cùng với Nguyên Sa, còn có nhiều cây bút cộng tác khác với đủ các thành phần và khuynh hướng phức tạp có gốc quân đội VNCH như: Thảo Trường, Du Tử Lê, Đinh Phụng Tiến, Luân Hoán; lẫn lộn với cả thành phần thiên cộng hay cộng sản nằm vùng như Thái Lãng, Ngụy Ngữ, Tôn Thấp Lập, Phạm Thế Mỹ, Ngô Kha, Trần Hữu Lục,  Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương… Với tờ Đất Nước, miền Nam gần như đã thất thủ trên một mảng truyền thông và báo chí.  

TẠP CHÍ TRÌNH BẦY

      Tờ Trình Bầy xuất hiện vào tháng 08-1970, do Thế Nguyên (còn có bút hiệu khác là Trần Trọng Phủ) làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Tổng thư ký là Diễm Châu (còn có bút hiệu khác là Võ Hồng Ngự). Hoàng Ngọc Biên, phụ trách mỹ thuật cho tờ Trình Bầy. Sang tới Trình Bầy thì Nguyễn Văn Trung không còn có vai trò quan trọng hay ảnh hưởng rõ rệt nào trên nội dung 42 số báo Trình Bầy. Vẫn có tên Nguyễn Văn Trung  trong ban biên tập cùng với : Lý Chánh Trung, Thanh Lãng, Đỗ Long Vân, Phạm Cao Dương, Nguyên Sa, Nguyễn Khắc Ngữ, Trần Tuấn Nhậm, Diễm Châu, Nguyễn Quốc Thái, Tôn Thất Lập, Thế Nguyên, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đồng, Trần Đỗ Dũng, Hoàng Ngọc Nguyên (còn có bút hiệu khác là Thuận Giao), Du Tử Lê, Cao Thanh Tùng.

Những mẫu bìa rất mỹ thuật của 42 số báo Trình Bầy đều do Hoàng Ngọc Biên vẽ và thiết kế. Hoàng Ngọc Biên và Diễm Châu (1937-2006), là hai bạn đồng hành trí tuệ trong Nhóm Trình Bầy, Thế Nguyên đứng tên Chủ nhiệm. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Hình 8: Những mẫu bìa rất mỹ thuật của 42 số báo Trình Bầy đều do Hoàng Ngọc Biên vẽ và thiết kế. Hoàng Ngọc Biên và Diễm Châu (1937-2006), là hai bạn đồng hành trí tuệ trong Nhóm Trình Bầy, Thế Nguyên đứng tên Chủ nhiệm. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

      Diễm Châu, sinh ở Hải Phòng, di cư vào Nam 1954.  Quen Thế Nguyên từ trại học

sinh di cư Phú Thọ. Diễm Châu tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm ban Anh Văn, được tu nghiệp ở Mỹ sau đó trở về Sài Gòn, tìm gặp Hoàng Ngọc Biên thuyết phục cùng làm tờ báo Trình Bầy. Biên đã cùng Diễm Châu, ngồi nhiều tuần lễ bên một vách tường café vỉa hè đường Sương Nguyệt Anh, Sài Gòn,soạn bài Phi lộ với tiêu đề “Con Đường Đi Tới” cho số báo ra mắt. Trích dẫn:  

 … “Con đường đi tới là con đường mưu cầu một nền hòa bình, trong đó mỗi một người Việt Nam, không kỳ thị ý thức hệ, sẽ có một chỗ đứng xứng đáng với phẩm giá con người trên quê hương mình.” [6]

       … “Không thể có hòa bình vô điều kiện. Một nền hòa bình Việt Nam nhất định sẽ không thể chấp nhận bất cứ một sự hiện diện nào của các lực lượng nước ngoài và đồng thời cũng không thể chấp nhận bất cứ một cơ cấu, một định chế hay một thế lực nào trong nước ngăn cản công cuộc giải phóng con người Việt Nam.”  [Hết trích dẫn]

      Trình Bầy là một tờ báo thiên tả, phản chiến giữa giông bão của cuộc chiến tranh quốc cộng. Tờ báo đã quy tụ được nhiều cây viết thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau thời bấy giờ. Không phải chỉ có ở tờ báo Bách Khoa, Trình Bầy thực sự là một vùng xôi đậu với tên tuổi những nhà văn nhà thơ như Nguyên Sa, Diễm Châu, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đăng Thường, Trùng Dương, Thảo Trường, Nguyễn Mộng Giác, Du Tử Lê, Mai Trung Tĩnh, Nguyễn Quốc Thái, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Ngô Thế Vinh… nhiều người xuất thân từ quân đội, bên cạnh đó là những cây bút thiên cộng Ngô Kha, Ngụy Ngữ, Thái Lãng… hay cộng sản như Nguyễn Nguyên – bút hiệu của Nguyễn Ngọc Lương, chủ trương tờ Tin Văn, giống như trường hợp Vũ Hạnh nằm vùng bên tờ báo Bách Khoa.

      Trình Bầy hoạt động liên tục trong hai năm 1970 – 1972, ra được 42 số báo cho tới khi bị đình bản. Để rồi, thực tế sau 30/4/1975 là sự vỡ mộng của những người trí thức thiên tả theo ngôn ngữ thời thượng thì đó là thành phần thứ ba, trong số đó có Diễm Châu và Hoàng Ngọc Biên. Bởi vì sau thống nhất, không phải chỉ có miền Bắc mà nay là cả một đất nước phải sống trong một định chế bóp nghẹt mọi tự do của con người. Trí thức thiên tả nếu không bị tù đày thì cũng bị trù dập bạc đãi và chỉ là những kẻ đứng bên lề. Cuối cùng họ trở thành những kẻ lưu vong nếu không ở nước ngoài thì cũng ngay trên chính quê hương mình. Diễm Châu sang Pháp 1983, Hoàng Ngọc Biên đi định cư ở Mỹ 1991. Ra hải ngoại rồi, cả Hoàng Ngọc Biên, Diễm Châu và Nguyễn Đăng Thường đều cố giữ sức sống cho cơ sở Trình Bầy. Manchette Trình Bầy đối với họ như hình ảnh một giấc mộng lỡ. Và trong sự thức tỉnh muộn màng, Diễm Châu trở thành rất hữu khuynh cho tới khi anh mất năm 2006. Riêng Thế Nguyên sau 1975, thảm thiết hơn, hoàn toàn bị thất sủng, sau đó chết trong lặng lẽ.

NHỮNG GIÔNG BÃO TRONG TÁCH TRÀ

[1]: PHẠM CÔNG THIỆN VIẾT VỀ NVT 1966

      Năm 1961, Nguyễn Văn Trung từ Sài Gòn sang Đại học Công giáo Louvain [Université catholique de Louvain], Bruxelles để bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài Phật học: La Conception Bouddhique du Devenir, (Essai sur la notion du devenir selon la Stharivanâda). Nguyễn Văn Trung được đào tạo và lớn lên trong nền tảng học thuật Tây phương thấm đẫm văn minh Thiên chúa giáo, không giỏi chữ Hán, không thông thạo tiếng Sanskrit nên bị hạn chế trong việc tìm tới nguồn tài liệu gốc, kiến thức Phật học của ông chủ yếu dựa vào sách báo tiếng Pháp – được viết theo quan điểm các học giả Tây phương. Đây cũng chính là điểm yếu của Nguyễn Văn Trung và luận án của ông đã là đối tượng cho nhiều nguồn chỉ trích nhất là từ giới Phật giáo.  

      Đó cũng là nguồn cơn, khởi đầu cho vụ va chạm giữa Phạm Công Thiện và Nguyễn Văn Trung. Câu chuyện không lớn, dù hiểu theo chiều hướng nào, tích cực hay tiêu cực, nhưng cũng nên có trong bài viết này như thêm mấy nét chấm phá về chân dung phức tạp và đa dạng của Nguyễn Văn Trung, người viết ghi lại đây như một “dật sự” văn học, và không thêm vào đó một nhận định riêng tư nào.

      Trong loạt bài Những chặng đường đã qua, Nguyễn Văn Trung viết:  “Sau đảo chánh 1963, ông Phạm Công Thiện xuất bản cuốn Hố thẳm tư tưởng, dành một chương phê phán luận án tiến sĩ của tôi với một thái độ khinh bỉ, trịch thượng, mạt sát thậm tệ. Cuốn sách bán chạy, dư luận bàn tán sôi nổi vụ “ông Phạm Công Thiện phê phán ông Nguyễn Văn Trung”, chờ đợi tôi lên tiếng đối đáp; nhưng cho đến nay tôi vẫn giữ im lặng, không có một lời nói công khai nào…


      Trong sách, ông Thiện đã phủ nhận tất cả các triết gia: “Ngay đến Heraclite, Parmenide và Empédocle, bây giờ tao còn xem thường, tao coi ba tên ấy như là ba tên thủ phạm của nền văn minh hiện đại, chưa nói đến Socrate, đó là một tên ngu dại nhất mà ta đã gặp trong đời sống tâm linh của ta”. Ông coi những nghệ sĩ như Goethe Dante như những thằng hề ngu xuẩn. Ông muốn mửa màu đen trên những người làm văn nghệ ở Paris. Còn về J.P. Sartre và S. de Beauvoir, “nếu họ muốn xin gặp tao, tao sẽ không cho gặp mà còn chửi vào mặt họ”… Về Thiền tông “Tao đã gửi Thiền tông vào một phong bì tối khẩn đề địa chỉ của bất cứ ngôi chùa nào trên thế giới. Về dạy học, thời gian tao học ở Hoa kỳ, tao đã bỏ học vì tao thấy những trường Đại học mà tao học như Yale, Columbia chỉ toàn là những nơi sản xuất những thằng ngu xuẩn, ngay đến giáo sư của tao chỉ là những thằng ngu xuẩn nhất đời, tao có thể dạy họ hơn là họ dạy tao… Bây giờ nếu có Phật Thích Ca hay Chúa Giê su hiện ra đứng giảng trước mặt tao, tao cũng không nghe theo nữa. Tao chỉ dạy tao. Tao là học trò của tao và chỉ có tao làm thầy cho tao. Tao không muốn làm thầy ai hết và cũng không để ai làm thầy tao. Còn các Văn Sĩ ở Sài Gòn, đọc các bài thơ của các anh, tôi thấy ngay sự nghèo nàn của tâm hồn anh, sự quờ quạng lúng túng, sự lặp đi lặp lại vô ý thức hay có ý thức: trí thức “mười lăm xu”, ái quốc nhân đạo “ba mươi lăm xu”, triết lý tôn giáo “bốn mươi lăm xu”

      Nếu những đại triết gia, văn hào, thánh hiền còn bị ông coi là những tên ngu xuẩn, và tác phẩm của họ đáng vứt vào cầu tiêu thì tôi bị ông kết án là “tượng trưng cho sự nô lệ, nông cạn phá sản của giới trí thức Việt Nam hiện nay” có gì lạ. Trong thư ngỏ, tôi nói với ông Thiện tôi không hề cảm thấy bị xúc phạm về thái độ mạt sát khinh bỉ của ông, và hơn nữa chấp nhận thái độ phản kháng phủ nhận triệt để của ông với điều kiện: qua đời sống, ông cho thấy ông đã vươn tới một thái độ tâm linh siêu nhiên vượt khỏi mọi giới hạn ngôn từ, khen chê, xưng tụng hay chửi thề. Bày tỏ sự bất nhã, bất kính ngay cả với Phật Chúa chính vì để cho thấy khả năng phản bội của ngôn từ. Xưng tụng tôn thờ mà thực ra là xúc phạm, và nói lời phạm thượng, xúc phạm lại bày tỏ sự tôn kính thực sự… 

     
      Tôi gửi thư ngỏ kèm những bức thư ông Phạm Công Thiện gửi cho tôi về tòa soạn báo Đại Học (Huế), nhờ Lê Ngộ Châu chuyển, thay vì tôi có thể đăng công khai. Mấy bữa sau, tôi và ông Thiện gặp nhau ở tòa báo Bách Khoa với sự chứng kiến của anh Lê Ngộ Châu. Trong bữa gặp gỡ đó, ông Thiện thú nhận với tôi đại ý như sau: Tôi viết bài phê bình anh để thỏa mãn những uất ức bất mãn của giới Phật giáo coi anh là tiêu biểu cho trí thức Việt Nam nói chung và trí thức Công giáo nói riêng. Tôi xin hứa với anh sẽ bỏ bài đó trong lần tái bản sách sắp tới. Ông Phạm Công Thiện đã giữ lời hứa. Lần tái bản Hố thẳm tư tuởng sau này, Phạm Công Thiện tự ý bỏ bài phê bình đó… [3] 

      Phạm Công Thiện đã mất ở tuổi 70 (2011), Nguyễn Văn Trung thì nay cũng đã bước qua tuổi 90, ngồi xe lăn, đôi lần vào rồi ra khỏi viện dưỡng lão. Khi nhắc tới chuyện cũ, có còn nhớ hay không, anh vẫn chỉ đáp lại bằng một nụ cười – của trẻ thơ.    

Trái, từ phải Phạm Công Thiện, Thi Vũ Võ Văn Ái, Ỷ Lan Penelope Faulkner, Võ Phiến [tư liệu của Viễn Phố]; giữa, bìa cuốn Hố Thẳm của Tư Tưởng, Nxb An Tiêm Sài Gòn, 1966. Phạm Công Thiện đã dành nguyên một chương sách đả phá nặng nề luận án tiến sĩ về đề tài Phật học của Nguyễn Văn Trung; phải, bìa tập luận án của Nguyễn Văn Trung, có trong một số thư viện với tiêu đề: La Conception Bouddhique du Devenir, (Essai sur la notion du devenir selon la Sthaviravâda).
Hình 9: trái,từ phải Phạm Công Thiện, Thi Vũ Võ Văn Ái, Ỷ Lan Penelope Faulkner, Võ Phiến [tư liệu của Viễn Phố]; giữa, bìa cuốn Hố Thẳm của Tư Tưởng, Nxb An Tiêm Sài Gòn, 1966. Phạm Công Thiện đã dành nguyên một chương sách đả phá nặng nề luận án tiến sĩ về đề tài Phật học của Nguyễn Văn Trung; phải, bìa tập luận án của Nguyễn Văn Trung, có trong một số thư viện với tiêu đề: La Conception Bouddhique du Devenir, (Essai sur la notion du devenir selon la Sthaviravâda).

[2]: CHIẾN DỊCH BÃI NHIỆM NGUYỄN VĂN TRUNG 1969

      Tinh hình miền Nam sau 1963, vô cùng rối ren với những vụ khủng bố, Việt Cộng thảm sát Bác sĩ Lê Minh Trí, Giáo sư Y khoa Trần Anh, Giáo sư Quốc Gia Hành Chánh Nguyễn Văn Bông, nhà báo Từ Chung và ám sát hụt nhà báo Chu Tử, sinh viên Bùi Hồng Sĩ… Cũng để hiểu tại sao trong giai đoạn này không ai muốn nhận chức Khoa Trưởng Đại học Văn Khoa. Khoảng 1969, sau khi GS Nguyễn Khắc Hoạch từ chức, Hội đồng Khoa bầu Nguyễn Văn Trung, ông đã can đảm nhận và muốn có một cải cách. Vì tình trạng Văn khoa cùng với Luật khoa là hai nơi có sĩ số sinh viên  đông nhất. Đa số không vào được các trường chuyên môn thì vào hai đại học này. Riêng ở Văn Khoa, số sinh viên hàng năm  lên đến cả 100.000, số nhập học năm dự bị lên đến 3000, nhưng chỉ có một nửa số dự thi và một phần tư thi đậu. Số không thi và thi rớt lên đến 75%. Đó là một khủng hoảng bế tắc, cần một sự cải tổ.

      Nhưng bất cứ một dự án cải tổ về chương trình, về văn bằng, về ngạch trật giáo sư, mỗi bước cải cách đều có đụng chạm đến phía này phía kia, nhóm này nhóm nọ là không tránh được.

Hội đồng Khoa Đại học Văn Khoa Sài Gòn, thời gian khoảng 1969, từ trái GS Vũ Khắc Khoan, GS Bùi Xuân Bào, GS Lê Văn, [người thứ 4 không nhận ra], GS Nguyễn Văn Trung. [GS Bùi Xuân Bào, GS Lê Văn là do GS Lê Xuân Khoa nhận diện]
Hình 10: Hội đồng Khoa Đại học Văn Khoa Sài Gòn, thời gian khoảng 1969, từ trái GS Vũ Khắc Khoan, GS Bùi Xuân Bào, GS Lê Văn, [người thứ 4 không nhận ra], GS Nguyễn Văn Trung. [GS Bùi Xuân Bào, GS Lê Văn là do GS Lê Xuân Khoa nhận diện]

       Trong các khoa, lúc đó có một nhóm sử địa, sinh viên vẫn phải mua cours do mấy sinh viên đứng ra in, lấy 800 đồng một năm. Do muốn chấm dứt tình trạng lạm dụng bán cours đó, Khoa trưởng muốn tổ chức một ban ấn loát riêng của nhà trường, với một giá phải chăng. Vì đụng chạm tới quyền lợi của họ, ông đã bị nhóm sinh viên này phản ứng dữ dội, lại được thêm tờ báo Con Ong số 87 bên ngoài hỗ trợ, mạt sát các GS Nguyễn Văn Trung, Bùi Xuân Bào, Thanh Lãng thậm tệ.  Nguyễn Văn Trung còn bị nhóm sinh viên Sử Địa đòi bãi nhiệm việc dạy học ở Sài gòn, khiến Linh Mục Cao Văn Luận phải trực tiếp can thiệp, Nguyên Sa Trần Bích Lan bênh vực Nguyễn Văn Trung phản đối bằng cách từ nhiệm dạy ở Văn Khoa.

      Lúc đó, chỉ có hai người được báo Con Ong khen là GS Lý Chánh Trung và Lê Trung Nhiên. Lý Chánh Trung đã từ chối nhận lời khen này. Lý Chánh Trung viết: Trong một số báo như vậy, giữa những lời chửi bới, tôi cảm thấy nhục nhã khi được các anh khen, cũng như tôi sẽ cảm thấy nhục nhã nếu được báo Con Ong ca ngợi.” Đồng thời, Lý Chánh Trung cho rằng các sinh viên có quyền phản biện nhưng không có quyền dùng giọng điệu như Con Ong viết về các thầy của anh rằng: Họ rúc đầu vào mu rùa, tối mắt vì cái lá đa.” Không ai có thể chấp nhận được điều đó. Bài viết của Lý Chánh Trung có nhan đề: Giông tố trong một tách trà hay là cuộc khủng hoảng Văn khoa”, bài được đăng trên báo Tiếng nói Dân tộc ngày  26-11-1969. Sau đó, mọi “tiếng động và giận dữ” cũng tạm lắng xuống, nhưng các đợt sóng ngầm thì không.[4]

      Hội Đồng khoa cùng với khoa trưởng Nguyễn Văn Trung vẫn quyết tâm các bước  cải tổ Đại học Văn khoa. Bản đề nghị cải tổ có được 28 thành viên Hội đồng khoa ký tên và chỉ hai tuần sau, Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục ký ban hành quy chế mới.

[3]: KẺ RỐI ĐẠO VỚI ĐỨC TIN

      Nguyễn Văn Trung là người gốc Công giáo, nhưng ông bị người đồng đạo tố cáo, lên án là kẻ “rối đạo” hoặc mạnh mẽ hơn nữa kết tội ông là kẻ phản đạo, thân Cộng hoặc là Cộng sản.

      Những người Phật giáo thì lại không tách ông ra khỏi khối Công giáo, xem những gì Nguyễn Văn Trung viết liên quan đến Phật giáo đều mang quan điểm Thiên Chúa giáo, có tính chất xuyên tạc, đả kích nhằm triệt hạ Phật giáo.

      Trước 1963, giai đoạn chín năm Đệ Nhất VNCH, giới công giáo bảo thủ đứng đầu là TGM Ngô Đình Thục sẵn có đố kỵ với Nguyễn Văn Trung, nên khi TGM Ngô Đình Thục khi ra Huế, Đức cha đã yêu cầu Tổng trưởng Giáo dục lúc bấy giờ là Trần Hữu Thế, đuổi ông Trung ra khỏi Huế. Cả Viện trưởng Đại Học Đà Lạt cũng bị ảnh hưởng, LM Nguyễn Văn Lập đã không cho mời ông Trung. Như vậy sẽ không ngạc nhiên khi suốt bốn khoá Đại Học Sư phạm ban Triết chương trình 3 năm của Viện Đại Học Đà Lạt – theo nhà báo Phạm Phú Minh, tốt nghiệp Đại học Sư Phạm Triết Đà Lạt khoá IV, cho biết là đã không có một giờ giảng dạy nào của Nguyễn Văn Trung, trong khi đó người đồng nhiệm với ông Trung là Lý Chánh Trung thì vẫn được ưu đãi đặc biệt.

      Trong cuộc đời cầm bút của tôi gần 50 năm, đặc biệt thời kỳ 1955-1975, tôi đã viết khá nhiều, nhưng bị phê bình, đả kích, mạ lỵ, mạt sát cũng khá nhiều. Có lẽ tôi thuộc số ít nhà cầm bút ở miền Nam là kẻ bị cáo trạng nhiều hơn cả, từ tất cả các bên, các giới xã hội, chính trị, tôn giáo trong một tình cảnh VN bị phân chia thành hai miền thù địch chiến tranh và riêng miền Nam có phân hoá đố kỵ giữa các phe phái, giới nhóm với nhau. Tôi còn giữ được hầu hết sách báo phê bình đả kích tôi, góp lại thành một tập trên 500 trang mang tựa đề: «Người cầm bút, kẻ bị cáo».

      … Chẳng hạn có người lên án tôi là người chống Cộng tinh vi hay ngược lại tôi là người Cộng Sản, thân Cộng, có những lời nói hành động có lợi cho Cộng Sản.

      … Trong ý định nhìn lại những chặng đường đã đi qua, nghĩa là những gì tôi viết liên quan đến các giới Việt Nam, tôi không phiền trách tố cáo lại ai, để phân trần tự biện minh, mà chỉ cố gắng tìm hiểu phần trách nhiệm của tôi đã gây ra mọi sự do chính những lựa chọn căn bản có ý thức của tôi và nhất là do những lệch lạc hay thiếu sót đã không thực hiện đúng, đầy đủ của những lựa chọn đó… [3]

[4]: CÔNG TÁC TRÍ VẬN HẢI NGOẠI

      Ra hải ngoại rồi, Nguyễn Văn Trung cũng vẫn gặp những rắc rối. Sự kiện ra nước ngoài mà vẫn hay đi đây đi đó (nhiều lần sang Hoa Kỳ, Pháp, về Việt Nam) tạo ra nghi ngờ ông được “cử đi công tác trí vận”, vì một người không đi làm, không hưởng trợ cấp nào, tại sao có tiền mà đi?… Lúc đó, Đức Ông Hoài, phụ trách Phong Trào Giáo Dân ở hải ngoại, một chức do Roma đặt ra, viết tâm thư trong đó có nhắc đến Nguyễn Văn Trung, khẳng định ông Trung được cộng sản sai đi. Tâm thư chỉ phổ biến trong nội bộ Công giáo. Người Công giáo đi hồi 75 chỉ nghe tiếng Nguyễn Văn Trung là người hay phê phán, đả kích giáo hội, đặc biệt về hai điều: liên hệ với chế độ thực dân, mất gốc về văn hoá… ” [3]

      Trước và sau 1975, kể cả ở hải ngoại, những ai quen biết với giáo sư Nguyễn Văn Trung cũng biết rằng chưa bao giờ ông là người giàu có, nếu không muốn nói là  có một sống khá đạm bạc. Ông đã từng từ chối căn nhà cấp cho giới giáo sư đại học ở Thủ Đức. Nếu muốn, Nguyễn Văn Trung vẫn có thể có một cuộc sống khá giả hơn.

      Chuyện đi đây đi đó của Nguyễn Văn Trung từ khi ra hải ngoại: ông vẫn về lại Việt Nam, ông còn một người con gái lớn có gia đình sinh sống ở Việt Nam. Thực ra, những chuyến đi Mỹ hay đi Pháp, vé máy bay di chuyển, nơi ăn chốn ở là do bạn bè hay đám học trò cũ giúp ông.

Thư tay Nguyễn Văn Trung gửi Ngô Thế Vinh viết ngày 7/ 8/ 2004. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Hình 11: Thư tay Nguyễn Văn Trung gửi Ngô Thế Vinh viết ngày 7/ 8/ 2004. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

      Một trong những thư tay từ Montreal viết ngày 7-8-2004, Nguyễn Văn Trung tâm sự: Anh Vinh thân, Tôi đi hơn 2 tháng về Sài Gòn. Mới trở lại Montréal hôm 4/8/2004. Kỳ này sang Cali sẽ liên lạc gặp Vinh. Có nhiều thông tin và đề nghị sau chuyến về nước. Tôi đợi đầu tháng 9, chích một mũi thuốc chống ung thư prostate tái phát, đây là mũi thứ hai, Lupron Dépôt, 1500 đôla – may có chính phủ trả.

      Tôi hay đi đây đi đó, đều do bạn bè, sinh viên cũ lo mua vé cho. Bạn bè ở Cali tôi đã nhờ nhiều trong những chuyến đi trước. Ngại xin họ lần này, anh Vinh có thể chia sẻ việc mua vé gửi cho tôi trong một chuyến. Từ sau 75, tôi viết nhiều biên khảo về văn hoá VN, chưa in được vì không có tài chánh, chỉ có những bản chụp photocopy có thể tặng anh Vinh 1, 2 tập. Thân mến, và mong gặp. Nguyễn Văn Trung.

      Trong một thư khác, ông viết: “Tôi chưa dự định đi Cali lần nữa, vì bây giờ tôi bận quét nhà, làm bếp, giặt giũ… do cô nhà tôi – vợ ông Trung, phải về Sài Gòn giúp một cháu sắp sinh con, ở lại bên đó chắc phải một năm.” 

      Cảnh sống “hàn nho phong vị phú” như vậy, mà ông được gán cho sứ mạng Cộng sản gửi ông đi cho công tác trí vận hải ngoại. Một người bạn biết và hiểu ông Trung đã nhận định: Cuộc đời của ông Trung nhiều lận đận lắm cho cả đến bây giờ, người tacác nhóm chống cộng cực đoan, vẫn tẩy chay bằng cách cô lập ông ấy. Và dĩ nhiên, người Cộng sản cũng chẳng tin gì Nguyễn Văn Trung.

      Trong cuốn Nhận Định VII chưa xuất bản, với nội dung hai chương đầu, Nguyễn Văn Trung đưa ra một nhận định rốt ráo: “Tôi coi đảng Cộng sản như một tổ chức tôn giáo, lý thuyết Cộng sản như một lý thuyết tôn giáo. Theo lối nhìn của tôi về triết học và tôn giáo thì đảng Cộng sản là một tổ chức chính trị mang tính cách tôn giáo… cái lầm than của đảng Cộng sản nằm ở cái cao cả của nó, là vì thế.”

NGUYỄN VĂN TRUNG VÀ NHỮNG BƯỚC LỠ

      Nhưng trong suốt hơn 40 năm cầm bút,  trong các phát biểu, trong một số những  bài phê bình và nhận định, Nguyễn Văn Trung cũng đã phạm phải những bước đi quá đà – nếu không muốn nói là thiên lệch và cả sai lầm và ông đã là đối tượng cho nhiều chỉ trích như: 

      _ Chữ quốc ngữ với Alexandre de Rhodes thời kỳ đầu Pháp thuộc, với những thành quả đóng góp to lớn cho dân tộc đã bị ông phủ nhận, cho đó là mưu đồ của thực dân Pháp muốn tách rời người Công giáo ra khỏi cộng đồng dân tộc.

      _ Trường hợp Trương Vĩnh Ký rồi tới Phạm Quỳnh và chủ đích Nam Phong, với vụ án Truyện Kiều, ông tố cáo Phạm Quỳnh là tay sai của Pháp nhằm ru ngủ giới thanh niên trí thức thời đó với khẩu hiệu “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”

      _ Những nhận định về Cộng sản, Nguyễn Văn Trung thú nhận là có nhiều nhận định của ông trước 1975 về Cộng sản là sai và ông sẵn sàng từ bỏ nó. Chỉ có điều trong các bước sai lạc lúc đó, ông luôn luôn cho rằng ông có sự trung thực.

      _ Khi nghiên cứu về Lục Châu Học, rồi nhìn lại những chặng đường đã qua, ông biết nhận các sai lầm, như với định kiến cho rằng “người Công giáo Việt Nam có liên hệ với thực dân đế quốc và cả lai căng về văn hoá,”

      Khi biết mình sai, Nguyễn Văn Trung đã có can đảm tự phủ nhận các luận điểm cũ và hết lòng chứng minh ngược lại qua các biên khảo, bài viết về sau này như: Vấn Đề Công Giáo Đặt cho Dân Tộc” (1988), Đạo Chúa ở Việt Nam (1999)…

      Đúng như Nguyễn Văn Trung đã từng nói: “với một lý tưởng là phải tìm kiếm không ngừng, bằng cách tự phủ nhận, bất mãn với quãng đường mình vừa qua.” [1]  Nguyễn Văn Trung biết phục thiện và sẵn sàng nhìn nhận những sai lầm trong quá khứ.

      Nhưng Nguyễn Văn Trung cũng đã than phiền là cho dù đã sửa sai như vậy nhưng ông vẫn cứ tiếp tục bị chỉ trích từ nhiều phía về những luận điểm cũ mà ông phát biểu trước kia.

MỘT CHÚT RIÊNG TƯ

      Hình ảnh đầu tiên của Nguyễn Văn Trung thời rất trẻ mà tôi gặp là nơi hành lang  trường Quốc Học Huế khoảng 1957, khi ấy Nguyễn Văn Trung mới 27 tuổi có nét mặt của một thư sinh mặt trắng với cặp kính cận dày, ăn mặc giản dị với sơ mi trắng, quần màu sậm, mang dép săng-đan – lúc đó, trông Nguyễn Văn Trung không khác với đám học sinh đang ở năm cuối bậc trung học. Anh Trung hơn tôi ngót một giáp.

      Tôi vẫn đọc và theo dõi những bước đi của anh Nguyễn Văn Trung và thỉnh thoảng trong những hoàn cảnh khác nhau của miền Nam, tôi vẫn gặp lại anh. Khi viết cuốn Vòng Đai Xanh vào thập niên 1960s, anh là nguồn cảm hứng cho tôi khi sáng tạo ra nhân vật Hoàng Thái Trung. 

     Sau này, ra đến hải ngoại, bao nhiêu năm sau gặp lại vẫn là hình ảnh của một Nguyễn Văn Trung của thập niên 1950s vẫn sơ mi trắng, quần màu sậm, không còn mang dép săng-đan mà mang giày do khí hậu lạnh ở Bắc Mỹ, và mái tóc anh đã nhuốm thêm màu thời gian. Vẫn nụ cười ấy của thời trai trẻ, anh hào hứng kể lại những ngày tháng cũ, anh Trung bật mí cho biết hiện anh còn giữ một danh sách in ronéo cảnh cáo và lên án tử hình một số sinh viên các phân khoa mà ông gác dan trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trao cho anh, trong danh sách đen ấy có Ngô Thế Vinh, và anh còn hỏi tôi có muốn không, anh có thể tặng tôi một bản. Anh Trung còn kể khi về Sài Gòn hồi 1995, khi gặp mấy sinh viên cũ cho biết Bùi Hồng Sĩ có về Việt Nam và gặp lại người ám sát hụt anh. Sang Hoa Kỳ, khi gặp lại Bùi Hồng Sĩ, anh ấy xác nhận có về gặp người đã giết hụt anh. Anh Trung cho biết đã không hỏi thêm vì tôn trọng sự gặp gỡ này và muốn để cho những người trong cuộc thuật lại sự hòa giải giữa họ.

      Nhắc lại lần gặp anh ở California năm 1995, Nguyễn Văn Trung viết: “ Tôi cũng gặp lại BS Ngô Thế Vinh, sau 1975 đi học tập cải tạo rồi được đi Hoa Kỳ. 

      Nguyễn Văn Trung đưa ra quan điểm hậu thuẫn “về giúp Việt Nam về y tế”, anh đã đụng ngay vào một vùng rất nhạy cảm, gợi lại nỗi đau của một tập thể chống Cộng tỵ nạn, đặc biệt là với Y giới ở hải ngoại.

      Nguyễn Văn Trung khi viết về 20 năm văn học ở hải ngoại, cũng đã gây ra một cuộc tranh luận gây xôn xao về đề tài “Văn Học Hải Ngoại”, “Văn Học và Chính Trị” trên tạp chí Văn Học 112, 113, 124 (1995-1996) do nhà văn Nguyễn Mộng Giác làm chủ bút. [2]

      Cũng dễ hiểu vì sao, Nguyễn Văn Trung bị gán cho nhãn hiệu là được Cộng sản gửi đi làm “công tác trí vận ở hải ngoại”. Ông gần như bị cô lập và rồi cả rơi vào quên lãng.

Nguyễn Văn Trung tới thăm GS Trần Ngọc Ninh (tháng 7/1994), từ phải: Ngô Thế Vinh, Nguyễn Văn Trung, Trần Ngọc Ninh, Võ Phiến. Sau chính biến 11.11.1963, Nguyễn Văn Trung đã cùng với GS Trần Ngọc Ninh, GS Ngô Gia Hy ra tờ Tìm Hiểu in ronéo, quan tâm tới những vấn đề chính trị xã hội và có thể nói Tìm Hiểu là tiền thân của tập san Hành Trình sau này với phương châm: Làm cách mạng xã hội không cộng sản. [ tư liệu Ngô Thế Vinh ]
Hình 12: Nguyễn Văn Trung tới thăm GS Trần Ngọc Ninh (tháng 7/1994), từ phải: Ngô Thế Vinh, Nguyễn Văn Trung, Trần Ngọc Ninh, Võ Phiến. Sau chính biến 11.11.1963, Nguyễn Văn Trung đã cùng với GS Trần Ngọc Ninh, GS Ngô Gia Hy ra tờ Tìm Hiểu in ronéo, quan tâm tới những vấn đề chính trị xã hội và có thể nói Tìm Hiểu là tiền thân của tập san Hành Trình sau này với phương châm: Làm cách mạng xã hội không cộng sản. [ tư liệu Ngô Thế Vinh ]

      Cũng sau bao nhiêu năm (1994) gặp lại, bất ngờ anh Nguyễn Văn Trung hỏi tôi: “nhân vật Hoàng Thái Trung trong Vòng Đai Xanh, có phải Vinh viết về “moa” không?” Tôi chỉ cười, không xác nhận hay phủ nhận trước câu hỏi của anh Trung. Và nay nhân bài viết về Chân Dung Văn Hoá Nguyễn Văn Trung, gửi tới bạn đọc đoạn trích dẫn trong Vòng Đai Xanh [Nxb Thái Độ, Sài Gòn 1970], Chương 17, khung cảnh là cố đô Huế sôi động gần như vô chính phủ, với nhóm sinh viên tranh đấu đang chiếm đài phát thanh ở những năm 1960s, với một nhân vật hư cấu có tên Hoàng Thái Trung.

      VÒNG ĐAI XANH / CHƯƠNG 17

      Và nhân vật Hoàng Thái Trung / trích dẫn

     

     Vy dẫn tôi vào phía trong Đài phát thanh [Huế]. Đủ các lãnh tụ sinh viên và thành phần Ủy ban tranh đấu đang làm việc rộn rịp ở đó. Trên một chiếc bàn vuông dài, bừa bãi những tài liệu và báo chí. Mọi tư tưởng được tự do phóng thả: tư bản luận, chủ nghĩa Mác-xít, tinh thần quốc gia dân tộc, triết lý Phật giáo. Những điều vừa tìm thấy ở sách vở, cả những suy tư và khám phá mới đều được nói ra. Đài phát thanh bấy lâu vẫn bị chủ lực sinh viên chi phối nắm giữ. Không khí làm việc thật hứng khởi và đầy vẻ cách mạng. Những bài viết ra đều rất ít sửa chữa và đem phát thanh ngay: những ý kiến trái ngược nhau trên cùng một quan điểm cũng bởi tại chỗ đó. Làm sao Sài Gòn có thể phán quyết về họ khi không cùng ở trong những điều kiện sinh hoạt như thế. Và đây cũng là một trường hợp trong rất nhiều trường hợp khó xử của tướng Thuyết. Tôi đặt vấn đề đó ra với Vy, có lẽ hắn cũng ý thức được những khó khăn, hắn đưa ra một quan điểm chiết trung:

     – Vấn đề cho cả hai phía là đừng bao giờ đẩy nhau vào sát chân tường, chính tôi cũng đã nói với các anh em trong Ủy ban nhưng phần lớn họ thì quá trẻ và quá nhiều hăng hái, thật khó mà bảo họ đừng tiến tới.

     Tôi ở lại nói chuyện với bọn họ đến xế chiều, sau đó Vy rủ tôi xuống tắm dưới sông Hương. Buổi tối về nhà Vy, cùng với tôi có một nhạc sĩ nổi danh về dân ca. Căn nhà cổ xưa ba gian nhoi giữa một vườn cỏ hoang mọc tới gối. Trong nhà đã tối thui ngay từ chạng vạng, không có điện không có những tiện nghi tối thiểu của một xã hội văn minh. Ngoài những sách vở, Vy như đã không sống trong cái thời đại của mình. Tôi không thể hiểu được cái mức độ ẩn nhẫn để hắn có thể sống trong cái tịch mịch của côn trùng và cỏ cây bên một dòng sông phẳng lặng như tờ. Mới chín giờ mà tưởng như đã rất khuya, hai chúng tôi nói chuyện tới gần bốn giờ rưỡi sáng. Ở phần của giấc ngủ còn lại tôi nghe xa gần như trong giấc mơ tiếng ếch nhái và những cơn sóng nhỏ do một chiếc thuyền nào đó vừa đi qua vỗ róc rách vào những tảng đá trong bờ.

     Buổi sáng hôm sau tại đại hí viện, tướng Thuyết đã đọc một bài diễn văn tuyệt tác trước một đại hội đông đảo sinh viên. Bài diễn văn đã phải ngắt đi nhiều lần bằng những tràng pháo tay rung chuyển cả nhà hát lớn. Với đề tài triết lý hai cuộc cách mạng, ông Tướng đã thành công trong mục đích khích động máu nóng của tuổi trẻ và giải quyết được những mâu thuẫn nội tại giữa những khó khăn éo le của thực tế. Sự xuất hiện của ông Tướng sẽ thật hoàn hảo đúng như dự liệu của nhà văn nếu không có những bộ sắc phục của đám Cảnh sát Dã chiến bố trí quanh nhà hát lớn. Đang từ  những phút cảm tình hoan hô chuyển ngay sang cái không khí công kích căng thẳng là điều không ai có thể ngờ. Ông Tướng giận dữ, đám sinh viên phẫn uất, cả hai bên đều bị tự ái tổn thương khó mà cứu vãn và ngay sau đó Đại hội bị giải tán trước con mắt buồn rầu của nhà văn và nhất là ông Giáo sư. Ông Tướng thì lên trực thăng bỏ ngay vào Đà Nẵng, không biết những ngày sắp tới sẽ thế nào. Tôi gặp lại ông Hoàng Thái Trung ở đó. Như một con thoi ông phải dạy cùng một lúc cả ba đại học, hiện tại thì ông đang ở tuần lễ thứ hai ngoài Huế. Khi nhắc tới bài diễn văn của ông Tướng, ông Trung bày tỏ sự khâm phục đối với ngòi bút đượm sinh khí và đầy lửa của nhà văn và cũng lại tỏ ý hoài nghi về vai trò chánh trị tương lai của tướng Thuyết:

     –  Làm sao anh biết bài diễn văn là của nhà văn?

     –  Có bài diễn văn nào ông Tướng đọc mà không phải của ông ta, vả lại văn là người, cái bút pháp đặc nhựa lôi cuốn ấy chẳng thể không phải của nhà văn.

     Ông Trung hỏi tôi về những cuộc biểu tình ở Sài Gòn. Ông cũng hỏi thăm về tình trạng của nhà sư Pháp Viên với nhiều nỗi lo ngại. Tôi bảo đó cũng là mối quan tâm lớn của tướng Thuyết, đang có vận động cho nhà sư được thả ra và không biết là ngày nào. Ông Trung nhắc tới dự định làm báo ở Huế và hỏi tôi:

     –  Khi nào anh mới định ra nhận dạy ngoài này? Có lẽ anh em mình tính chuyện ra lại một tờ báo.

     –  Tôi cũng chưa hứa chắc với bên Mỹ Thuật nhưng có thể là sau Tết.

Tôi cũng thích được ra đây đổi một không khí yên tĩnh và hy vọng vẽ trở lại.

     – Có lẽ tất cả phải đi lại từ bước đầu.

     Tôi nói với ông Trung về dự định viết một cuốn sách khảo cứu cao nguyên mà quan điểm đưa ra là người Thượng người Kinh có cùng một nguồn gốc. Đó là điều rất trái ý với ông Mục sư. Ông Trung tỏ vẻ tán đồng và có những khuyến khích:

     – Vấn đề này được tôi tham khảo với nhiều công phu tìm kiếm, khi phải giảng dạy cho sinh viên ở Văn khoa, tôi cố gắng đưa ra phổ biến những quan niệm mới như thế.

     Tôi lại nhắc tới đề nghị của một tờ báo sinh viên về việc thiết lập một Viện Nghiên cứu các Sắc tộc và một phân khoa Nhân Chủng trực thuộc Viện Đại học. Tôi nói:

     – Với sự hướng dẫn của giáo sư, sự góp công nghiên cứu của lớp người trẻ hăng hái ở đại học là điều quá cần thiết. Hy vọng năm mười năm sau khi cần tìm biết về vấn đề nhân chủng, khu đại học Nhân văn có thể cung cấp những cuốn sách giá trị do chính người Việt Nam viết.

     Ông Trung có vẻ rất quan tâm tới đề nghị này và cũng cho biết bao nhiêu khó khăn đặt ra sau đó. Sáng kiến không thể khởi đầu từ ông khi mà chánh quyền và cả những đồng nghiệp đã cô lập ông, coi ông như thành phần trí thức thiên tả và đối lập. Điều mà ông có thể làm là những cố gắng cá nhân vùng vẫy.

     Buổi tối về nhà ông Trung và ở lại trong cư xá giáo sư đại học trên Bến Ngự. Từ một lầu ba căn phòng có một cửa trông ra sông. Bên kia cầu dốc Nam Giao như chìm sâu vào bóng đêm âm u. Tiếng côn trùng rên rỉ đều đều, tiếng cạp muỗi của những con ễnh ương dưới sông chỉ gợi nỗi nhớ của những trang lịch sử ảm đạm buồn rầu. Làm sao người ta có thể nung chí trong sự nẫu nà như vậy để mà trở thành phi thường như bộ óc của nhà sư Pháp Viên. Tôi cũng liên tưởng tới cái vẻ hứng chịu của những người đàn ông Huế qua lối nhìn cay đắng của Nguyện. Lúc này thì tôi đang nghĩ và nhớ tới Nguyện với thiết tha và hy vọng. Một mai tôi ra đây, ở một căn phòng như vậy, liệu con sơn ca có nghỉ cánh bay để sống những ngày giờ hạnh phúc. Trong óc tôi lại hiện rõ khuôn mặt rạng rỡ của Nguyện nổi bật trên một nền thật tăm tối. Với không khí này tôi hy vọng vẽ trở lại. Ở một căn phòng đầy sách báo bừa bãi tôi hỏi ông Trung:

     –  Sao anh không đem chị theo, có bàn tay người đàn bà đời sống cũng trở nên dễ chịu.

     –  Thì dĩ nhiên rồi nhưng phải cái tôi dạy nhiều nơi, chỗ ở ngoài này cũng chưa nhất định, nhà tôi lại bận con nhỏ nên cũng muốn thu xếp ở luôn trong đó. Nếu đời sống có nhiều ân hận thì phải kể trong đó chuyện tôi lấy vợ sớm.

     Câu chuyện của ông Trung khiến tôi có cảm tưởng anh sống trong một cảnh gia đình không có hạnh phúc. Tôn trọng đời sống riêng tư của ông, tôi không nói ra những thắc mắc. Vừa rót dòng cà phê nóng vào từng chiếc ly sứ trắng, ông Trung nói:

     – Trí tuệ tôi lúc này bị ngưng trệ, ngòi bút đuổi chạy một cách khó khăn. Nhìn lại những gì đã viết tôi chỉ thấy co quắp buồn chán, lẽ ra tôi phải biết sớm hơn để ngừng lại ở đó. Tất cả vấn đề phải duyệt xét lại, xét lại từ đầu để tìm ra những đường hướng mới.

     Dưới con mắt của đám sinh viên trẻ, ông Trung được coi như thần tượng, một trí thức dấn thân, chữ của ông Trung. Vậy mà ông cũng có những nỗi băn khoăn thất vọng. Ông Trung cô đơn trong sự yêu mến của nhiều người khác. Đôi mắt sáng và buồn của ông soi qua một làn kính trắng dày, trông ông Trung trơ trọi như một ảnh tượng đẫm nét bơ vơ trong một không gian bạc màu. Tôi muốn kéo ông ra khỏi cái vũng nhiều buồn thảm khi nói tới đám nhà báo sinh viên vẫn thường chỉ trích ông. Đi vào nhận định, ông Trung luôn luôn giữ nguyên phong độ sắc bén:

     –  Tôi đã nói là tất cả vấn đề phải duyệt xét lại, xét lại từ đầu. Tôi tự thấy có trách nhiệm là đã gây một sức đề kháng và chống đối tiêu cực trong quần chúng. Cái lối chống đối để khỏi phải xây dựng đó chính là một trở ngại cho những mục tiêu xây dựng quốc gia. Tôi đã tới thăm tòa soạn của họ, biết rõ cái không khí sinh hoạt dân chủ phóng túng của những cây bút tài tử này và hiểu rõ họ có thể đi tới đâu. Tôi thì vẫn thích những tay nhà báo này, tôi có ý nghĩ họ như một chất men cho những sinh hoạt quốc gia.

     Ông Trung bảo:

     – Nhận đối thoại với họ là không biết sẽ đưa mình tới đâu, nhiều khi tôi cũng thấy rát mặt vì họ chỉ trích nhưng tôi hiểu họ thêm hơn sau đó. Vả lại né tránh theo tôi cũng là một khuyết điểm lớn của giới đàn anh, như con đà điểu chúi đầu xuống cát nhưng rồi vẫn phải đối đầu với mọi sự thật.

     Những giọt cà phê đã bắt đầu nguội lạnh và để lại một dư vị đắng trên đầu lưỡi. Giọng ông Trung lúc nào cũng giữ được vẻ tha thiết, ông nói với họ mà như độc thoại với nội tâm của chính mình và ông thì cũng đang tìm kiếm loay hoay như chính bọn nó. Lập trường của ông đã có những dấu hiệu thay đổi và nghiêng về một lựa chọn. Ông Trung có vẻ hết kiên nhẫn, sức mạnh ông là ở tư tưởng ngòi bút mà xem ra sau này ông lại tin vào hiệu quả của hành động. Cũng như Kux nhận định, sức mạnh Phật giáo không ở nơi khí giới bạo động mà xem ra đám môn đồ lại muốn đi tới cái đích đó.

     Có vợ chồng ông giáo sư luật khoa sang chơi, tôi đã có lần gặp ông trong nhóm cố vấn ông Tướng. Chúng tôi nói đủ mọi chuyện đến thật khuya. Khi vào giường ngủ mỗi thớ thịt đều tê mỏi, tâm hồn cũng tê mỏi, tôi không còn muốn làm thêm một cử động nào nữa. Buổi sáng tôi trở dậy rất sớm khi bầu trời còn đầy sương. Lao xao những tiếng động trên mặt sông và dưới bến. Của những người đàn bà gồng gánh đi chợ, của những cô gái Huế xuống sông gánh nước. Từ cửa sổ nhìn xuống những lá cây ướt rũ sương, dưới bến những người con gái áo trắng đang ngồi giặt vui vẻ nói chuyện hay se sẽ cất lên tiếng hát. Phía Từ Đàm xa xa vẳng lại tiếng chuông chùa ru êm ả những đám mây và làm bặt cả những tiếng chim ca hót. Có lẽ Nguyện sẽ nghe tôi ra sống ở đây ít lâu, trong cái u tịch của thế giới lăng tẩm này để tìm lại không khí cho hội họa và hạnh phúc. VĐX _ NGÔ THẾ VINH

NGUYỄN VĂN TRUNG NGƯỜI ĐỨNG NGOÀI NẮNG

      Người đứng ở ngoài nắng – là cụm từ Mai Thảo khi viết về Nhật Tiến, nhưng vẫn hoàn toàn đúng với Nguyễn Văn Trung.  Với khung cảnh văn hoá miền Nam sau 1954 đã là một vận hội để Nguyễn Văn Trung bay bổng trong sự nghiệp, trải qua hơn bốn thập niên cầm bút của một trí thức dấn thân, Nguyễn Văn Trung đã nhìn nhận là “Không có Việt Nam Cộng Hoà không có Nguyễn Văn Trung hay sự nghiệp văn hoá của một người trí thức cầm bút.”

Trái, những dòng chữ viết khó khăn của Nguyễn Văn Trung thời điểm 15/10/2021: “… để đón nhận trong một tinh thần đối thoại những cố gắng suy nghĩ của một người vẫn ước muốn tự đặt cho mình một kỷ luật đồng thời cũng là một lý tưởng là phải tìm kiếm không ngừng, bằng cách tự phủ nhận, bất mãn với quãng đường mình vừa qua và cứ thế mãi mãi…” [1] Cùng bạn độc giả, mở đầu cuốn Lược Khảo Văn Học I; giữa, chữ ký của Nguyễn Văn Trung 1969, khi là Khoa trưởng Đại học Văn Khoa Sài Gòn; phải, mẫu chữ ký 2021 khi đã là lưu dân sống ở Montréal, Canada. Từ 2011, Nguyễn Văn Trung hầu như không còn đọc hay viết được gì, do mắt yếu và tay run – đam mê một đời mà nay không còn theo đuổi được nữa. [tư liệu Nguyễn Quốc Linh]
Hình 13: trái, những dòng chữ viết khó khăn của Nguyễn Văn Trung thời điểm 15/10/2021: “… để đón nhận trong một tinh thần đối thoại những cố gắng suy nghĩ của một người vẫn ước muốn tự đặt cho mình một kỷ luật đồng thời cũng là một lý tưởng là phải tìm kiếm không ngừng, bằng cách tự phủ nhận, bất mãn với quãng đường mình vừa qua và cứ thế mãi mãi…” [1] Cùng bạn độc giả, mở đầu cuốn Lược  Khảo Văn Học I; giữa,chữ ký của Nguyễn Văn Trung 1969, khi là Khoa trưởng Đại học Văn Khoa Sài Gòn; phải, mẫu chữ ký 2021 khi đã là lưu dân sống ở Montréal, Canada. Từ 2011, Nguyễn Văn Trung hầu như không còn đọc hay viết được gì, do mắt yếu và tay run – đam mê một đời mà nay không còn theo đuổi được nữa. [tư liệu Nguyễn Quốc Linh]

      Vẫn với quan niệm: “Người trí thức không phải là người có kiến thức đại học hoặc sau đại học, mà là một người có kiến thức chuyên sâu nhờ đọc sách và kinh nghiệm tiếp xúc. Thực ra, điều cốt yếu đáng nói không phải là vốn kiến thức, mà là thái độ trí thức đối với các vốn ấy và, nhất là, đối với những vấn đề cuộc sống trước mặt đặt ra.” [3] 

      Và trong cuộc hành trình trí thức ấy, những điều Nguyễn Văn Trung viết luôn luôn mở ra các cuộc tranh luận – mà anh gọi là đối thoại, từ đó cũng đã tạo ra  không thiếu những chỉ trích và cả lên án gay gắt từ mọi phía. Phật giáo hay Công giáo, Cộng sản hay Quốc gia, giữa Chiến tranh và Hoà bình hay với thành phần thứ Ba, Nguyễn Văn Trung luôn luôn đã phải trả giá cho những điều anh phát biểu – giữa hỗn mang của thời cuộc, không có trắng và đen mà chỉ là trong một vùng xám giữa đúng và sai – nhưng có điều chắc chắn đó là tiếng nói lương tâm trong chọn lựa dấn thân của Nguyễn Văn Trung. Anh cất lên tiếng nói cho những điều mà lúc đó anh thực tâm tin tưởng, và anh đã phải chịu nhiều ngộ nhận và oan khiên đến cả vùi dập.

Trái, Nguyễn Văn Trung nay ngồi xe lăn, sống với người con trai út. Trong hình, hàng đứng từ phải, Nguyễn Văn Lục em Nguyễn Văn Trung và con trai Anh Trung. [photo by Nguyễn Quốc Linh, ngày 10/10/2021], giữa, Nguyễn Văn Trung, ký hoạ của Phan Nguyên; phải: dấu tay và thủ bút của Nguyễn Văn Trung, Montréal Canada 24/ 08/ 2019: Lục Châu Học là công trình nghiên cứu đồ sộ cuối đời của Nguyễn Văn Trung, được ông còn nhớ tới và hãnh diện. [tư liệu Phan Nguyên, E.E.]
Hình 14: trái, Nguyễn Văn Trung nay ngồi xe lăn, sống với người con trai út. Trong hình,  hàng đứng từ phải, Nguyễn Văn Lục em Nguyễn Văn Trung và con trai Anh Trung.  [photo by Nguyễn Quốc Linh, ngày 10/10/2021], giữa, Nguyễn Văn Trung, ký hoạ của Phan Nguyên; phải: dấu tay và thủ bút của Nguyễn Văn Trung, Montréal Canada 24/ 08/ 2019: Lục Châu Học là công trình nghiên cứu đồ sộ cuối đời của  Nguyễn Văn Trung, được ông còn nhớ tới và hãnh diện. [tư liệu Phan Nguyên, E.E.]

     Được sống với niềm đam mê viết của mình, trải qua nhiều thập niên cầm bút, với bao nhiêu là hào hứng nhưng cũng là những chặng đường bầm dập và lận đận của Nguyễn Văn Trung cho tới cuối đời. Nay tới tuổi 91, trong sự quên lãng, anh đang rũ bỏ ký ức không còn nhớ, không còn ham muốn tích luỹ thêm bất cứ một điều gì. Anh luôn luôn cười và như một “lão ngoan đồng”, anh đang hồn nhiên trở lại sống như một đứa trẻ. 

NGÔ THẾ VINH

California, 1995 – 2021

THAM KHẢO:

1/ Nguyễn Văn Trung, Lược Khảo Văn Học I Những vấn đề tổng quát (Nam Sơn 1963), II Ngôn ngữ văn chương và kịch (Nam Sơn 1965), III Nghiên cứu và phê bình văn học (Nam Sơn 1968). Nxb Tổng Hợp TP HCM tái bản, 2018

2/ Nguyễn Văn Trung, Văn Học Hải Ngoại. Văn Học, số 112, tháng 8, 1995. Mai Kim Ngọc, Văn Học và Chính trị, nhân đọc Văn Học Hải Ngoại của Nguyễn Văn Trung. Văn Học, số 113, tháng 9/1995. Nguyễn Văn Trung, Trao đổi với nhà văn Mai Kim Ngọc. Văn Học, số 124, tháng 8/1996

3/ Nguyễn Văn Trung, Nhìn lại những chặng đường đã đi qua. Kỳ 1: tha thứ và xin tha thứ. Kỳ 2: những lựa chọn căn bản. Kỳ 3: nhìn nhận lại diện mạo một nền văn học. Kỳ  4: Ông Phạm Công Thiện. Kỳ 5: Văn hoá văn nghệ trong vòng tay chính trị. Thông Luận, 04/ 09/ 2007

4/ Nguyễn Văn Lục, Tóm Lược về sự hình thành của Tạp chí Đại Học [10/2015]. Về các tờ báo Hành Trình, Đất Nước và Trình Bầy, Phần I [27/03/2015] & Phần II [28/03/2015], Đàn Chim Việt Online.

5/ Võ Phiến, Văn Học Miền Nam Tổng Quan. Giai đoạn 1954-1963, Đại Học với Nguyễn Văn Trung. Nxb Văn Nghệ Hoa Kỳ, 1987

6/ Ngô Thế Vinh, Tuyển tập I Chân dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hoá. Hoàng Ngọc Biên, với con đường tiểu thuyết mới và thời gian tìm thấy lại. Việt Ecology Press xuất bản 2017. Vòng Đai Xanh, Nxb Thái Độ, 1970