Gia đình Bách Khoa và một Lê Ngộ Châu khác (Ngô Thế Vinh)

Lời giới thiệu. Tôi hân hạnh giới thiệu một bài viết khác rất công phu về người chủ trì Tạp chí Bách Khoa ở miền Nam trước năm 1975. Tác giả không ai khác hơn là anh bạn vong niên của tôi: Bs Ngô Thế Vinh. Chế độ VNCH ở miền Nam tồn tại chỉ vỏn vẹn 2 thập niên, nhưng đã để lại một di sản văn hoá – nghệ thuật tương đối đồ sộ mà thế hệ sau sẽ còn tìm hiểu và nghiên cứu thêm. Một nhóm người có những đóng góp lớn vào cái di sản văn nghệ đó là những người trí thức từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Có thể kể đến nhiều người lừng danh như Mai Thảo, Du Tử Lê, Dương Nghiễm Mậu, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Đăng Thục, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh, v.v. Và, không thể không nhắc đến Lê Ngộ Châu. Ông (Lê Ngộ Châu) có lẽ không nổi danh như những người tôi đề cập, nhưng lại là người quan trọng, vì ông làm cho họ nổi tiếng qua Tạp chí Bách Khoa. (Người ta gọi Bách Khoa là báo, nhưng thời đó tôi xem đó là Tạp chí.) Thời đó, Bách Khoa là một diễn đàn trí thức quan trọng nhứt nhì ở miền Nam.

Bài viết của Bs Ngô Thế Vinh, một cây bút từng đóng góp cho Bách Khoa, cung cấp cho chúng ta (cả tôi nữa) nhiều thông tin hết sức thú vị về lịch sử hình thành và phát triển của Bách Khoa. Từ người sáng lập Huỳnh Văn Lang và Hoàng Minh Tuynh đến vai trò của Lê Ngộ Châu được tác giả mô tả chi tiết về số tiền để lập ra tạp chí và điều hành. Ông là ‘linh hồn’ của Bách Khoa. Cá nhân tôi đọc mà thấy cuốn hút theo dòng lịch sử của Bách Khoa và hành trình của ông Lê Ngộ Châu (mất ngày 24/9/2006 ở Sài Gòn). Tôi nghĩ đối với các bạn đang nghiên cứu về văn học thì đây là một bài viết không thể thiếu được trong nguồn tài liệu tham khảo của các bạn. Tôi rất hân hạnh giới thiệu đến các bạn. NVT

_______

GIA ĐÌNH BÁCH KHOA VÀ MỘT LÊ NGỘ CHÂU KHÁC

NGÔ THẾ VINH

Hình 1:Lê Ngộ Châu sống và làm việc ngay tại toà soạn Bách Khoa, 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn. Trước và sau 1975, chưa ai được nghe anh Lê Châu kể lể về những tháng năm thăng trầm với tờ báo Bách Khoa. Tranh luận về “công lao Bách Khoa” nếu có, là  từ bên ngoài, và không là mối bận tâm của Lê Châu.[tư liệu Ngô Thế Vinh, hình chụp 05/03/1984]

TIỂU SỬ LÊ NGỘ CHÂU

      Tuổi Quý Hợi, sinh ngày 30/12/1923 tại làng Phú Tài, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam vùng đồng bằng sông Hồng. Có thời gian theo kháng chiến chống Pháp. Tới năm 1951 Lê Ngộ Châu hồi cư về Hà Nội, dạy học, làm hiệu trưởng một trường trung học tư thục ở tuổi 29. Di cư vào Nam 1954, gia nhập Hội Văn hoá Bình dân với một hệ thống Trường Bách khoa Bình Dân ở các tỉnh miền Nam và Hội VHBD có xuất bản một nội san với tên Bách Khoa Bình Dân.

LỊCH SỬ BÁO BÁCH KHOA

      — 1957 một tạp chí có tên Bách Khoa do hai ông Huỳnh Văn Lang, Hoàng Minh Tuynh sáng lập, xuất bản mỗi tháng hai kỳ, với quan niệm là: “Diễn đàn chung của tất cả những người tha thiết đến các vấn đề Chính trị, Kinh tế, Văn hoá, Xã hội.”

      Nguồn tài chánh ban đầu của Bách Khoa là do đóng góp của một nhóm 30 người, gồm những nhà giáo, nhà báo, chuyên viên hay công tư chức cao cấp thời bấy giờ; mỗi người góp 1.000 đồng (lương tháng hàng giám đốc lúc đó khoảng 5.000 đồng) , tổng cộng được 29.500 đồng, một số tiền phải nói là khá lớn (theo TS Phạm Đỗ Chí, thì 1 US$ = 35 VN$ và số tiền ấy tương đương với hơn 20 lạng vàng theo thời giá 1957 lúc bấy giờ). Tên của họ được in nơi bìa sau của những số báo Bách Khoa giai đoạn đầu, có thể kể: Lê Đình Chân, Tăng Văn Chỉ, Đỗ Trọng Chu, Lê Thành Cường, Trần Lưu Dy, Lê Phát Đạt, Nguyễn Văn Đạt, Nguyễn Lê Giang, Phạm Ngọc Thuần Giao, Nguyễn Hữu Hạnh, Lê Văn Hoàng, Nguyễn Văn Khải, Phạm Duy Lân, Nguyễn Quang Lệ, Trần Long, Bùi Bá Lư, Dương Chí Sanh, Nguyễn Huy Thanh, Bùi Kiến Thành, Hoàng Khắc Thành, Phạm Ngọc Thảo, Bùi Văn Thịnh, Nguyễn Tấn Thịnh,Vũ Ngọc Tiến, Võ Thu Tịnh, Nguyễn Tấn Trung, Phạm Kim Tương, Hoàng Minh Tuynh, Bùi Công Văn. (Chỉ có 29 tên, một người đóng 500 đồng, không được nêu tên trong danh sách này).[5]

      Có tác giả cho rằng nhóm 30 người đó họ chỉ góp tiền chứ “không tham gia viết lách gì cho Bách Khoa” điều này không hoàn toàn đúng, vì chúng ta có thể thấy ngay từ mấy số đầu Bách Khoa đã có các bài viết mà tác giả cũng có tên trong danh sách những người góp vốn cho Bách Khoa như: Phạm Ngọc Thảo (Thế nào là Quân đội mạnh, BK số 1), Hoàng Minh Tuynh (Nên để trẻ được tự do hay nên nghiêm khắc với trẻ), Bùi Văn Thịnh (Một giai đoạn mới chính sách kinh tế, BK số 1 & 2], Đỗ Trọng Chu (Trung cộng tấn công Hoa  kiều ở Đông Nam Á, BK số 2), Phạm Duy Lân (Bao giờ trời lại sáng, BK số 3, Chiến tranh tương lai, BK số 24), Nguyễn Huy Thanh (Vấn đề tài trợ những tiểu xí nghiệp, BK số 3, Quỹ tiết kiệm, BK số 5), Tăng Văn Chỉ (Quân bình giá vật, một biện pháp tạm thời và rất cần để chấn hưng kinh tế, BK số 6), Võ Thu Tịnh (Tìm hiểu quốc cơ: Pantja Sila của cộng hoà Nam Dương, BK số 7)…

      Chủ nhiệm ban đầu của Bách Khoa là Huỳnh Văn Lang, sinh ngày 26/7/1922, hơn Lê Ngộ Châu một tuổi, gốc người Nam quê ở Trà Vinh, vùng đất cực nam hạ lưu sông Cửu Long, là con một đại điền chủ giàu có, trong một gia đình Thiên Chúa giáo  toàn tòng, từng được du học Pháp, Canada và  Mỹ rất sớm, HVL được ông Ngô Đình Diệm mời về và là nhân vật số 2 của đảng Cần Lao với chức danh Tổng bí thư Liên Kỳ Bộ Nam Bắc Việt, là một đảng của chính quyền thời bấy giờ. Do HVL lúc đó đang làm Giám đốc Viện Hối Đoái, nên tờ báo Bách Khoa có những thuận lợi, dễ dàng lấy được nhiều trang quảng cáo đắt giá từ các ngân hàng, và các công ty thương mại lớn như Shell, BGI, Air Vietnam, Air France… nên trong mấy năm đầu, với sẵn một số vốn lớn và có tiền quảng cáo hàng tháng, báo Bách Khoa có khả năng sống độc lập về tài chánh.

Hình 2: Bách Khoa số 1, mẫu bìa trước rất đơn giản, chỉ là Mục lục các bài viết, bìa sau là danh sách tên 29 người đóng góp tiền mỗi người 1.000 đồng, có một người đóng 500 đồng,tổng cộng được 29.500 đồng, là số vốn khá lớn khởi đầu cho tạp chí Bách Khoa. Không chỉ góp tiền, một số còn viết bài cho Bách Khoa. [5]

      Theo ông Huỳnh Văn Lang thì:  “Người thư ký toà soạn ban đầu của Bách Khoa là bà Phạm Ngọc Thảo hay Phạm Thị Nhiệm, là em gái của GS trường Petrus Ký Phạm Thiều đã tập kết ra Bắc. Bà Phạm Ngọc Thảo là người đã mời được một số cây bút cộng tác ban đầu cho Bách Khoa như học giả Nguyễn Hiến Lê, BS Nguyễn Văn Ba, BS Dương Quỳnh Hoa và nhứt là nhà văn Nguiễn Ngu Í, rồi chính anh Nguiễn Ngu Í, đã giới thiệu thêm Bùi Giáng, Nguyễn Thị Hoàng và nhiều tác giả khác. Bà Thảo cũng có viết một ít bài trong các số báo đầu với bút hiệu là Minh Phong.” [6]

       Như vậy, trong khoảng năm đầu 1957-1958, Lê Ngộ Châu chưa thực sự có vai trò quan trọng trong toà soạn báo Bách Khoa. Nhưng rồi sau này, phải tới Số Kỷ niệm Mười năm, Bách Khoa 241-242  [15/1/1957-15/1/1967], chúng ta mới biết đích thực được ngọn nguồn của tờ Bách Khoa. Ngay nơi trang mở đầu, sau khi nhắc lại mấy câu thay lời phi lộ trên số Bách Khoa số ra mắt, có lẽ không ai khác hơn là Lê Ngộ Châu trong vai chủ nhiệm thay thế ông Huỳnh Văn Lang đã viết những dòng chữ như sau và ký tên Bách Khoa Thời Đại:

      “Hồi ấy chiến tranh chấm dứt từ lâu, tiếng súng bình định ở một vài địa phương không còn nữa, Quốc hội Lập hiến được bầu, Hiến pháp đương soạn thảo, những người có nhiệt tâm thiện chí ai cũng náo nức muốn đem trí óc, sức lực của mình cố gắng làm cho miền Nam tự do thực giàu mạnh, phương sách hiệu quả nhất để ngăn ngừa cộng sản nảy nở và xâm nhập. Một nhóm anh em gồm một số trí thức, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, công tư chức, trong trào lưu hăng say đó, cũng muốn có một diễn đàn độc lập để góp ý với chính quyền, bày tỏ nhận xét, cảm nghĩ của mình trong công cuộc hàn  gắn vết thương chiến tranh và phục hưng xứ sở. Diễn đàn ấy, tạp chí với ý hướng ấy, xin xuất bản trong nửa năm trời mà vẫn không được phép. Về sau đành phải mượn lại giấy phép một nội san của Hội Văn Hoá Bình Dân – tờ Bách Khoa Bình Dân – nên vì vậy tờ báo của quý bạn mới mang danh hiệu Bách Khoa và mãi tới ngày 15/1/1957 mới ra mắt bạn đọc được.”

      Và như vậy đã rất rõ, đâu là cội nguồn của tờ báo, Bách Khoa đã phải khởi đầu bằng giấy phép của một “nội san” thuộc Hội Văn Hoá Bình Dân.

      Sự kiện nhóm sáng lập Bách Khoa, trong suốt nửa năm mà không xin được giấy phép ra báo – khi mới bước vào năm thứ hai của nền đệ Nhất Cộng Hoà, đã hé lộ ra ý hướng của một  nền “dân chủ tập trung” của chính quyền thời bấy giờ  và hầu như được mọi người chấp nhận – và cũng còn quá sớm để nói tới manh nha một chế độ độc tài về sau này.

      — 1957, địa chỉ ban đầu của toà soạn Bách Khoa là 55 Bà Huyện Thanh Quan, Phòng 42, Sài Gòn, địa chỉ thứ hai là nhà in Văn Hoá cũng là nơi in báo Bách Khoa, 412-414 Trần Hưng Đạo, Sài Gòn,và phải từ số báo 40 (1/9/1958), Bách Khoa mới chính thức có một toà soạn:160 Phan Đình Phùng, Sài Gòn, được coi như một địa chỉ dấu ấn / landmark lâu dài nhất của Bách Khoa trong lịch sử báo chí miền Nam.

      — 1958, khi Huỳnh Văn Lang đi tu nghiệp ở Mỹ, Lê Ngộ Châu được ông Hoàng Minh Tuynh – lúc đó đang làm Phó Giám đốc Viện Hối Đoái, giới thiệu với chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang vào làm cho Bách Khoa như một thư ký toà soạn. Trên thực tế từ đây, Lê Ngộ Châu là người trực tiếp điều hành tờ Bách Khoa, cho dù chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang vẫn đứng tên.

      — 1963, sau cuộc đảo chánh 1/11/1963 của quân đội, hai anh em ông Ngô Đình Diệm / Ngô Đình Nhu bị thảm sát, chấm dứt 9 năm nền Đệ Nhất Cộng Hoà, ông Huỳnh Văn Lang bị bắt vì có liên hệ làm kinh tài cho Đảng Cần Lao; một thời gian sau cho tới tháng 2 năm 1965, ông HVL mới không còn đứng tên chủ nhiệm trên manchette Bách Khoa.

      — 1965, trong số Kỷ niệm 8 năm, cũng là số Xuân Ất Tỵ, Bách Khoa 193-194 đã có nhiều bước cải tiến: nội dung ngày càng đa dạng và cân bằng hơn, với quan niệm của chủ nhiệm Lê Ngộ Châu là: “tờ báo trong năm ra nhiều số đặc biệt hướng về một chủ điểm như số xuất bản trong dịp đản sinh đức Phật… Và thay vì ra một số về tôn giáo thì Bách Khoa đăng một loạt bài trong nhiều kỳ lên tiếp về các tôn giáo đã phát sinh hay bắt rễ trên đất nước chúng ta mà ít người biết rõ, từ đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo đến đạo Ba-Hai, Hồi Giáo… Thay vì ra một số về cuộc đời sự nghiệp các nhà văn hiện tại, thì Bách Khoa giới thiệu cùng bạn đọc trên mỗi số báo về “Sống và Viết Với” của một nhà văn, vấn đề góp lại sau này thành được một tác phẩm mấy trăm trang chứ không phải chỉ thu gọn trong mấy chục trang của một số đặc biệt.”       Về hình thức, Bách Khoa có một vóc dáng mới mẻ, các trang báo trình bày sáng sủa, với những mẫu bìa nghệ thuật do các hoạ sĩ danh tiếng thiết kế như Phạm Tăng, Tạ Tỵ, cùng với các hoạ sĩ trẻ tài năng như Lâm Triết (huy chương vàng Triển lãm Hội Hoạ Mùa Xuân 1962), Nghiêu Đề (huy chương bạc Triển lãm Hội Hoạ Mùa Xuân 1961), và hoạ sĩ Văn Thanh sau này.

Hình 3a: từ trái, những mẫu bìa đẹp của Bách Khoa của các hoạ sĩ danh tiếng: Tạ Tỵ, Phạm Tăng, Văn Thanh. [5]



Hình 3b: mẫu bìa của hai hoạ sĩ trẻ tài ba; từ trái Nghiêu Đề, huy chương bạc 1961, và Lâm Triết huy chương vàng 1962 trong các cuộc Triển lãm Hội Hoạ Mùa Xuân 1961-1962. [5]

BÁCH KHOA VỚI NHIỀU TÊN GỌI

      Tuỳ vị trí mỗi người khi đến với Bách Khoa mà đặt cho những tên gọi khác nhau, thông thường nhất là “nhóm” Bách Khoa, nhà văn nhà báo Nguiễn Ngu Í thì dí dỏm gọi đó là động” Bách Khoa, với số nhà văn trẻ khởi nghiệp và thành danh từ Bách Khoa thì gọi đó là “lò” Bách Khoa – cũng là nhóm chữ của nhà văn nữ Trùng Dương trong bài viết: Bách Khoa, nơi từ đó [2] nhưng có lẽ tiếng gọi phổ quát và thân thương nhất vẫn là “gia đình” Bách Khoa, do cái không khí thân ái ấm cúng mà anh chị Lê Ngộ Châu – Nghiêm Ngọc Huân đã tạo được cho những ai đã từng đến và sinh hoạt với toà soạn Bách Khoa.

      Lê Ngộ Châu đã mở ra một con đường thênh thang cho Bách Khoa. Và kể từ số 195 Tân Niên 15/2/1965 tờ báo nay mang một tên mới với thêm hai chữ thời đại: Bách Khoa Thời Đại và chính thức đứng tên chủ nhiệm là Lê Ngộ Châu, vẫn là người tiếp tục điều hành và mở mang tờ Bách Khoa. Những cuộc phỏng vấn như một kho dữ liệu quý giá không chỉ với các nhà văn, nhà thơ mà còn mở rộng ra các lãnh vực văn hoá nghệ thuật khác như giới hoạ sĩ, nhạc sĩ, nhà nghiên cứu… vẫn do Nguiễn Ngu Í với kiến thức và tài hoa thực hiện, là một mặt mạnh khác của Bách Khoa.

Hình 4: Hình bìa Bách Khoa số 195 (15/2/1965), với một tên mới Bách Khoa Thời Đại.

Từ địa chỉ 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn, với thời gian, nhà báo Lê Ngộ Châu trong vai trò một chủ nhiệm kiêm chủ bút tài năng của Bách Khoa, tên tuổi anh càng ngày càng toả sáng. Các cây bút cộng tác lâu năm với Bách Khoa và cả những cây viết mới về sau này, đã có cùng một nhận định: Lê Ngộ Châu là người có kiến thức rộng, khiêm tốn và trầm tĩnh trong cách ứng xử, được xem như “linh hồn” của báo Bách Khoa cho tới năm 1975.

      Tuy Bách Khoa từng được đánh giá là một vùng xôi đậu: quốc cộng và cả thành phần thứ ba – theo ngôn từ của nhà thơ Nguyên Sa. Ví von của Nguyên Sa đúng cho cả hai thời kỳ của Bách Khoa.

      — Thời kỳ đầu, với chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang, đã có Phạm Ngọc Thảo sinh năm 1922 [cùng năm sinh với Huỳnh Văn Lang], một cây viết chuyên về các vấn đề quân sự cho Bách Khoa, là một cán bộ CS cao cấp nằm vùng, một chuyên viên khuynh đảo, có liên hệ tới 2 cuộc đảo chánh của cả 2 nền Cộng Hoà [mất năm 1965]; BS Dương Quỳnh Hoa sinh năm 1930, tốt nghiệp ĐH Y khoa Paris, gia nhập Đảng CS Pháp rồi Đảng CS Đông Dương, có viết bài về Y khoa cho Bách Khoa trong mấy số đầu, sau này bà DQH đã tham gia sáng lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và giữ chức Bộ trưởng Y tế của Chính phủ Các mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam, sau 1975 bà từ bỏ đảng CS [mất năm 2006], Phan Lạc Tuyên sinh năm 1930 là nhân vật quân sự quan trọng số 3 tham gia cuộc đảo chánh thất bại 11/11/1960 của nhóm Nguyễn Chánh Thi – Vương văn Đông, Phan Lạc Tuyên là nhà thơ với bài Tình quê hương Anh về qua xóm nhỏ được Đan Thọ phổ nhạc rất nổi tiếng khắp miền Nam lúc bấy giờ. Sau này Phan Lạc Tuyên theo CS ra Bắc, được du học Ba Lan tốt nghiệp Tiến sĩ Dân tộc học, đi theo con đường học thuật, nghiên cứu Phật học rồi xuất gia với pháp danh Nguyên Tuệ [mất năm 2011].

      Thời kỳ hai, với chủ nhiệm Lê Ngộ Châu, cũng là lâu dài nhất, nhóm Bách Khoa đã có Người Tù Võ Phiến chống cộng, bên cạnh Bút Máu Vũ Hạnh / Cô Phương Thảo cán bộ CS nằm vùng, cùng với các cây bút có khuynh hướng trung dung hay còn được gọi là thành phần thứ ba như học giả Nguyễn Hiến Lê, LM Nguyễn Ngọc Lan, nhà báo Nguiễn Ngu Í / Nguyễn Hữu Ngư… Lê Ngộ Châu đi ra từ kháng chiến cũng được xem như thành phần thứ ba, nhưng LNC đã khéo léo dung hoà được mọi khuynh hướng chính trị, tôn giáo khác biệt để Bách Khoa càng ngày càng quy tụ được nhiều cây bút có uy tín thuộc cả ba miền Nam, Trung, Bắc, thuộc các thế hệ già trẻ tiếp nối.

      Về nội dung, với 3 tiết mục chính: Biên khảo, Nghị luận, Văn nghệ có thể nói Bách Khoa đã  giới thiệu được khá đầy đủ các khía cạnh của xã hội miền Nam, cả tiếp cận với các phong trào tư tưởng mới từ Tây phương, từ văn học, khoa học tới triết học trong và ngoài nước qua ngót hai thập niên [từ 1957 tới 1975], xuyên suốt hai nền Cộng Hoà miền Nam Việt Nam.

      Đáng kể hơn nữa, Lê Ngộ Châu còn phát hiện thêm những cây viết trẻ và đa số đều thành danh những năm về sau này. Với các cây bút nam như Lê Tất Điều, Trần Hoài Thư, Hoàng Ngọc Tuấn, Thế Uyên, Nguyễn Mộng Giác, và các cây bút nữ như Tuý Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ…

      Lê Ngộ Châu tuy không phải là văn gia – chữ của Võ Phiến, nhưng anh là một chủ nhiệm quản trị giỏi, một chủ bút cũng rất bén nhạy với thơ văn. Vào khoảng năm 1970 khi toà soạn Bách Khoa vừa nhận được bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu Định, một tên tuổi còn xa lạ với Lê Ngộ Châu nhưng do thấy bài thơ quá hay với hình ảnh nhẹ nhàng về phố núi Pleiku, Lê Châu đã nhờ Trí Đăng chở tới nhà nhạc sĩ  Phạm Duy – cũng là bạn thân của Lê Châu từ hồi Kháng Chiến trong Liên Khu Tư, lúc đó Phạm Duy đang ở cư xá Chu Mạnh Trinh ngã tư Phú Nhuận gần hồ tắm Chi Lăng, nơi quy tụ nhiều gia đình nghệ sĩ tới ở như Năm Châu, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Minh Trang, Kim Tước… và Lê Châu đề nghị Phạm Duy phổ nhạc. Chỉ hai ngày sau Phạm Duy đã chắp cánh cho bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ bằng một bản nhạc cùng tên và được phát ngay trên đài Phát thanh Sài Gòn với giọng ca vượt thời gian của Thái Thanh. Phổ nhạc thơ là một khía cạnh tài năng khác trong gia tài âm nhạc của Phạm Duy.

NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG BÁCH KHOA:

      — Số 1 Bách Khoa: số ra mắt 15/1/1957, là một bán nguyệt san, ngay nơi trang nhất có đăng, Thay Lời Phi Lộ:

      “Xây dựng nước nhà về toàn diện là nhiệm vụ chung của mọi người, trong đó việc góp phần sáng kiến cá nhân, dù đúng, dù sai, đều có ích lợi, miễn là tư tưởng ấy xuất phát từ một ý muốn tốt và thành thực. Một quốc gia nếu chỉ có một nền kinh tế vững chắc chưa đủ. Thêm một trình độ chính trị cao cũng chưa hoàn toàn. Một quốc gia cần phải là một tổ hợp tất cả: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Xây dựng một nước Việt Nam hẳn là xây dựng đủ các ngành, các khoa, các phương diện. Với quan niệm như thế, tạp chí Bách Khoa ra đời.” [5]

      Thay Lời Phi Lộ đó như là một tuyên ngôn của tờ Bách Khoa, đồng thời cũng phản ánh đường lối của nhóm Bách Khoa lúc bấy giờ.

      Mấy số báo Bách Khoa đầu tiên chủ yếu là đăng các bài của nhóm chuyên viên trong Hội Nghiên cứu Kinh tế Tài chánh của ông Huỳnh Văn Lang.

      Học giả Nguyễn Hiến Lê, trong cuốn hồi ký Đời Viết văn của tôi – Chương 20, ông viết: “Trong lịch sử báo chí nước nhà, tờ Bách Khoa có một địa vị đặc biệt. Không nhận trợ cấp của chính quyền, không ủng hộ chính quyền mà sống được mười tám năm, từ 1957 đến 1975.” [hết trích dẫn]

      Nhận định của học giả Nguyễn Hiến Lê: “Bách Khoa không ủng hộ chính quyền” là không hoàn toàn đúng ở giai đoạn một của tờ báo Bách Khoa [ từ 1957 tới 1963 ] khi ông Huỳnh Văn Lang còn đứng tên trực tiếp điều hành tờ báo.

      Ở giai đoạn một, thái độ thân chính quyền là phần rất đậm nét của tạp chí Bách Khoa, điều đó không có gì đáng ngạc nhiên vì hai ông Huỳnh Văn Lang, Hoàng Minh Tuynh  và nhóm chủ chương đang là các công chức cao cấp của chính quyền thời bấy giờ. Ngay từ Bách Khoa số 1, nơi cuối các trang báo trống thường là nơi trích dẫn các danh ngôn cổ kim, thì đã có 5 trang (trang 8, 29, 39, 43, 62) là các câu trích dẫn tư tưởng Ngô Đình Diệm từ những bài diễn văn đâu đó của vị Tổng thống đương thời:

      — BK1 trang 8, ngay phía dưới câu trích dẫn của Đức Hồng Y Saliège, là tư tưởng của TT Ngô Đình Diệm : “Chúng ta quyết tâm xây dựng Quốc gia Việt Nam trên những nền tảng mới. Lấy nhân dân là cương vị, lấy tự do dân chủ là phương châm, lấy công lý xã hội làm tiêu chuẩn.”

      –BK1, trang 29: “Những chủ nghĩa cá nhân tư lợi không đếm xỉa gì tới công lý xã hội, cũng như chủ nghĩa độc tài chuyên chế không đếm xỉa gì tới phẩm giá và tự do của con người , đều là những con đường dẫn tới đoạ đày, nô lệ.” TT Ngô Đình Diệm

      BK1, trang 39: “Những cố gắng của chúng ta phải nhằm mục phiêu cải thiện đời sống quốc dân, nâng đỡ các giới cần lao, nhất là nông dân, san bằng những nỗi bất công, trừ diệt mọi mầm áp bức.” TT Ngô Đình Diệm

      — BK1, trang 43 cũng ngay phía dưới câu trích dẫn của Đức Hồng Y Saliège, là tư tưởng của TT Ngô Đình Diệm:“Các anh em phải tận tâm săn sóc tới cuộc sinh hoạt hàng ngày của đồng bào, luôn luôn tìm hiểu nhu cầu và nguyện vọng của đồng bào, để ân cần giúp đỡ về mọi phương diện.”

      — BK1 trang 62: “Dân muốn thì quân nghe, quân làm thì dân giúp. Tình đồng bào và quân đội quả là tình cá nước. Quân dân nhất trí là nền tảng của chính nghĩa.” TT Ngô Đình Diệm

      Và nhất là mấy bài Quan điểm trên báo Bách Khoa ký tên Chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang phản ảnh rất rõ quan điểm của chính quyền đệ Nhất Cộng Hoà mà ông HVL đang tham gia, như:

      Trên số Bách Khoa 43 (15/10/1958), chuẩn bị chào mừng cái Tết thứ Ba của nền đệ Nhất  Cộng Hoà [26/10/1955 – 26/10/1958], ông Huỳnh Văn Lang có một bài viết với tiêu đề “Những Kẻ Phá Hoại Chế Độ” , ông HVL đã bộc trực chấp bút viết: “Họ không phải là những người của bên kia, mà là những người bên này của mặt trận. Họ âm thầm sinh hoạt, gián tiếp tàn phá, ít người lưu ý. Họ càng nguy hại hơn nữa không phải ở cái chỗ người xung quanh không quan tâm tới họ, mà họ lại còn lầm lẫn cho mình vẫn là chiến sĩ của chính nghĩa, là rường cột của chế độ có khi là ân nhân của đồng bào nữa.” Và ai cũng hiểu rằng lúc ấy ông Huỳnh Văn Lang đang  lên án gay gắt mấy đảng phái quốc gia – những phe phái không cùng chính kiến với chính quyền TT Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ.

      Cũng trong năm 1958 đó, độc giả Bách Khoa đã không thể không chú ý tới mấy Thông báo của Nhóm Văn Hoá Ngày Nay do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chủ trương, và thông báo này đã đăng liên tiếp trên các số Bách Khoa 31, 33, 34 với nội dung như sau:

      Nhóm Văn Hoá Ngày Nay “Đã nộp đơn xin ra dưới hình thức một tuần báo, nhưng sau mấy tháng chưa được phép, sợ các độc giả mong chờ nên chúng tôi dự định cho ra thành từng tập, kiểu “Loại Giai Phẩm” (trích Bách Khoa số 31, 15/4/1958). [5]

      Một tên tuổi văn hoá và chính trị lớn như Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, lúc ấy Nhất Linh cũng đang là hội viên danh dự và cũng là cố vấn Hội Văn Bút Việt Nam, và ngay giữa năm thứ tư thịnh vượng của nền đệ Nhất Cộng Hoà mà cũng không xin được giấy phép ra một tuần báo văn chương, sự kiện ấy rất đáng được ghi nhận và quan tâm. Nhưng giữa bối cảnh “Sáng Dội Miền Nam” (tên một tạp chí ảnh rất đẹp của ông Võ Đức Diên thời đệ Nhất Cộng Hoà) lúc ấy, và với chính sách một nền dân chủ tập trung hầu như vẫn được dân chúng miền Nam mặc nhiên chấp nhận.

      Trên số Bách Khoa 97 (15/1/1961), cũng là năm thứ Sáu của nền đệ Nhất Cộng Hoà, và là số Kỷ Niệm Đệ Tứ Chu Niên của tờ  Bách Khoa, ông Huỳnh Văn Lang đã có một bài viết với tiêu đề “Những Kẻ Phản Loạn” giọng điệu rất gay gắt lên án cuộc đảo chánh 11/11/1960 của nhóm sĩ quan cấp tá: Nguyễn Chánh Thi / Đại tá – Vương Văn Đông / Trung tá, có cả sĩ quan cấp uý Phan Lạc Tuyên, một cây bút của Bách Khoa lúc bấy giờ, cùng với đám chính khách đối lập thuộc Mặt trận Quốc dân Đoàn kết có tên Nhất Linh Nguyễn Tường Tam ủng hộ cuộc đảo chính. Do ông HVL lúc ấy đang là một “công thần của chế độ” đã không ngần ngại gọi ngay họ là bọn “phản quốc”, một tuyên án có trước cả Toà Án Quân Sự Đặc Biệt với Trung tá quân pháp Lê Nguyên Phu Uỷ là viên Chính Phủ được thiết lập sau này. Bị kết tội danh “phản quốc” cũng là một trong những nguyên nhân đưa tới tuẫn tiết của văn hào Nhất Linh ba năm sau,1963]. [5]

Hình 5: (1) Từ Bách Khoa số 1(15/01/1957) tới số 5 (15/03/1957), với địa chỉ toà soạn 55 Bà Huyện Thanh Quan, Phòng 42, Sài Gòn,in tại nhà in An Ninh, 44 Nguyễn An Ninh, Sài Gòn. (2) Từ Bách Khoa số 6 (1/4/1957) tới số 39, toà soạn dời về địa chỉ nhà Văn Hoá in 412-414 Trần Hưng Đạo, Sài Gòn. (3) Bắt đầu từ BK số 40 (1/9/1958), lần thứ ba toà soạn Bách Khoa dọn về 160 Phan Đình Phùng, Sài Gòn, một địa chỉ in đậm “dấu ấn” của Lê Ngộ Châu xuyên suốt cho tới số 426 (19/4/1975), cũng là số báo cuối cùng, chấm dứt cuộc hành trình 18 năm của Bách Khoa. [5]

Ba năm sau cuộc đảo chánh lần thứ nhất thất bại (11/11/1960), do thấy rõ nguy cơ một cuộc đảo chánh quân sự khác lật đổ chế độ Gia đình Họ Ngô sẽ xảy ra, không ai khác hơn chính ông Huỳnh Văn Lang nhân vật số 2 của đảng Cần Lao, lại manh nha “phản loạn” – chữ mà ông đã gán cho nhóm đảo chánh 11/11/1960 trước đó.

      Huỳnh Văn Lang đã cùng với Phạm Ngọc Thảo (là một tay khuynh đảo “hai mang,” cấp bậc Đại tá của quân đội cả 2 bên). Hai người bắt đầu đi liên lạc vận động với một số tướng lãnh thân tín thuộc đảng Cần Lao như các tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Đỗ Cao Trí… để lập một kế hoạch đảo chính chế độ Ngô Đình Diệm, với mục đích loại trừ vợ chồng ông cố vấn Ngô Đình Nhu, Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục và ông Ngô Đình Cẩn ngoài miền Trung nhưng giữ lại cụ Diệm – người mà ông HVL vẫn tôn vinh coi như là biểu tượng của chính nghĩa. Huỳnh Văn Lang đã nói với tướng Nguyễn Khánh là: mình đảo chính “ông cụ” để giữ “ông cụ”. [Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Một Chương Hồi ký, Tập Ba (trang 208 – 219). Tác giả Xuất bản 2001] [7]

      Với kế hoạch “đảo chánh nửa vời” ấy nhằm phân hoá một gia đình Họ Ngô vốn có truyền thống đoàn kết sắt son từ bao nhiêu thế hệ, phải nói là người chủ trương cuộc chính biến ấy đã quá “lãng mạn hoặc ngây thơ” và cũng chứng tỏ ông Huỳnh Văn Lang đã chẳng hiểu gì TT Ngô Đình Diệm, người mà ông được gần gũi và phục vụ trung thành trong suốt 9 năm và dĩ nhiên mưu đồ “đảo chánh” ấy của nhóm Lang – Thảo đã bất thành ngay từ trong trứng nước. [7]

      Để rồi chỉ ít lâu sau, một vụ chính biến quân sự khác nổ ra vào ngày 1/11/1963 của nhóm tướng lãnh Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu do họ biết chớp lấy thời cơ của một tình hình đã chín muồi, đưa tới cái chết bi thảm của cả hai anh em ông Diệm ông Nhu, chấm dứt nền đệ Nhất Cộng Hoà.

      Hai tuần lễ sau, trên tờ Bách Khoa số 165 [15/11/1963], là một bài viết dĩ nhiên không phải của Huỳnh Văn Lang mà của một người ký tên Tiểu Dân –người dân bé nhỏ, với tiêu đề: Cảm nghĩ về sự cáo chung của một chế độ độc tài”– đó là một bài viết với văn phong trầm tĩnh, đã không nêu đích danh lên án hoặc kết tội bất cứ ai. Mở đầu bài viết với mấy dòng chữ“Một chế độ lỗi thời, phản tiến hoá, vừa bị đào thải. Một chế độ mới hướng về Tự Do thực sự, Dân chủ chân chính đang được xây dựng.”

      Bài viết dài 6 trang là một phân tích bài học của 9 năm về nền đệ Nhất Cộng Hoà, với nhận định rằng:“Nếu không đớn hèn thụ động thoả hiệp đầu hàng, thì không bao giờ có được chế độ độc tài. Nếu có chế độ độc tài như đã xảy ra trong 9 năm đau buồn – thì chính chúng ta bất cứ ai cũng đều có một phần trách nhiệm không nhỏ.” Và đây là câu kết luận của bài viết: “Một dân tộc thế nào thì có một chính quyền thế ấy.” “Và ta nên nghiền ngẫm chân lý này để đấu tranh xây dựng một  chế độ chân chính Dân Chủ và thực sự Tự Do.”[5]

NHỮNG KHÓ KHĂN VỀ TÀI CHÁNH CỦA BÁCH KHOA

      Tạp chí Bách Khoa trước và sau đổi tên 5 lần, dù có những tên khác nhau nhưng cơ bản tờ báo luôn luôn có hai chữ Bách Khoa xuyên suốt từ số 1 tới số 426. [6]

1/ Bách Khoa từ số 1 (15/1/1957) tới số 193-194 (15/1/1965];

3/ Bách Khoa Thời Đại từ số 195 (15/ 2/1965) đến số 312 (1/1/1970)

4/ Bách Khoa (trở lại tên BK), từ số 313-314 [15/1-1/2/1970) tới số 377 (15/9/1972]

5/ Bách Khoa Đặc San số 378 (1/10/1972) tới số 379 (15/10/1972)

6/ Bách Khoa Giai Phẩm số 380 (1/11/1972 tới số 426 (19/4/1975)

      Sở dĩ có sự thay đổi tên gọi như trên nhiều phần vì lý do chính trị: từ chế độ cũ / đệ Nhất Cộng Hoà sang chế độ mới / đệ Nhị Cộng Hoà, và cả do những đường lối thay đổi rất bất thường của các Bộ Thông tin và chính sách kiểm duyệt báo chí thời bấy giờ.

      Viết về tờ báo Bách Khoa, ai cũng nghĩ đó là tờ báo không nhận nguồn trợ cấp từ chính quyền điều đó đúng, nhưng nếu nói Bách Khoa không có khó khăn về tài chánh thì sai – vì kể từ sau đảo chính 1963, khi ông Huỳnh Văn Lang vướng vào vòng lao lý, nguồn thu nhập về quảng cáo không còn như trước, rồi thêm tình trạng lạm phát khiến mọi chi phí cho việc in ấn mỗi số Bách Khoa ngày một gia tăng, số độc giả Bách Khoa cũng lên xuống bất thường do thiên tai lũ lụt ngoài Trung, do biến động chính trị và tình hình chiến sự lan rộng khiến  đường bộ mất an ninh và Bách Khoa không phát hành ra miền Trung được – mà ai cũng biết miền Trung tuy nghèo nhưng lại là vùng có số độc giả tiêu thụ sách báo lớn nhất của cả nước. Nhà thơ Thành Tôn bấy lâu vẫn tình nguyện giúp phát hành sách báo ở miền Trung trong nhiều năm cũng đã cho biết như vậy.

      Khi Bách Khoa thực sự bước vào những giai đoạn khó khăn về tài chính. Lê Châu đã phải bươn trải, thay đổi nhà in, tìm nơi in với giá rẻ, và giảm thiểu mọi chi tiêu ở toà soạn để Bách Khoa có thể sống còn, đây là một khía cạnh “tài năng khác” của Lê Ngộ Châu ít được ai biết tới. Một điểm son khác của Bách Khoa, dù trong tình trạng thiếu hụt nào, chưa bao giờ Bách Khoa không chu toàn phần nhuận bút với các cây bút cộng tác trong nước.

      Bách Khoa giai đoạn đầu, báo in ở (1) Nhà in An Ninh, 44 Nguyễn An Ninh Sài Gòn, rồi một nhà in khác (2) Nhà in Văn Hoá 412-414 Trần Hưng Đạo Sài Gòn,

      Bách Khoa giai đoạn hai, chuyển qua (3) Nhà in Tương Lai, 133 đường Võ Tánh Sài Gòn, rồi cuối cùng là (4) Nhà in Trí Đăng, 21 Nguyễn Thiện Thuật Sài Gòn, từ số 332 tới 426 [1/11/1970 – 19/4/1975].

      Trên số BK 221 (15/3/1966), giữa những tin chiến sự nóng bỏng như: chiến tranh mở rộng ra miền Bắc, trận đánh lớn Đồng Xoài; toà soạn Bách Khoa ra thông báo: “vì giao thông đường bộ gián đoạn, báo chuyển ra miền Trung từ nay phải hoàn toàn gửi bằng đường hàng không, nên độc giả báo dài hạn, báo biếu xin gửi thêm 20đ tiền tem.”

      Nhà in Tương Lai trên đường Võ Tánh trước kia do trúng thầu in vé Số Quốc gia có lợi nhuận lớn, nên trong nhiều năm nhận in thêm Bách Khoa với giá rất phải chăng; nhưng khi mất nguồn thu nhập này, Tương Lai không còn có thể in Bách Khoa với giá thấp như trước, Bách Khoa đứng trước nguy cơ “xập tiệm”.

      May lúc đó có nhà văn nhà báo Nguiễn Ngu Í vốn là bạn thân lâu năm của anh Trí Đăng từ hồi còn ở Quảng Ngãi, giới thiệu Lê Ngộ Châu với nhà xuất bản Trí Đăng. Anh Trí Đăng, tên thật là Nguyễn Liên tuy gốc nhà giáo có bằng Cao học Triết Đại học Văn Khoa Sài Gòn nhưng lại thích hoạt động trong ngành xuất bản. Anh có nhà in lớn, lại đang thành công trong công việc xuất bản sách giáo khoa, nên Trí Đăng đã nhận in Bách Khoa với giá vốn nhưng anh LNC vẫn chưa hết khó khăn cho dù đã giảm thiểu tối đa mọi chi phí ở toà soạn, với nhân sự chỉ còn 3 người: vợ chồng Lê Châu – Nghiêm Ngọc Huân và một thư ký.

      Bách Khoa đang phát hành mỗi kỳ hơn 4 ngàn số báo, với 1000 độc giả dài hạn và khoảng 100 độc giả ở nước ngoài, nay số phát hành có lúc  xuống chỉ còn 1 ngàn, sau có tăng dần nhưng cũng không thể nào trở lại con số ban đầu. Giá báo phải tăng từ 8$ lên 12$  rồi 15$… Tới một lúc, để có thể sống còn, Bách Khoa phải cùng với các tạp chí khác như Văn, Tân Văn, Phổ Thông, Văn Học, đồng loạt tăng lên 20$ một số báo.

      Rồi từ số BK 378 [tháng 10 năm  1972], với Sắc luật 007* nghiệt ngã và kỳ quái, nhiều tờ báo đã phải đóng cửa và Bách Khoa đã  phải ra với hình thức Giai Phẩm, giá mỗi số Bách Khoa vẫn tăng liên tục từ 50$, 70$, 100$ rồi 120$, rồi 150$ từ số Giai phẩm 405, rồi 200$ từ số 406.

      * Sắc Luật 007/ 72 do TT Nguyễn Văn Thiệu ký ngày 5/8/1972, bắt buộc mỗi nhật báo phải đóng ký quỹ 20 triệu đồng (80 VN$ tương đương với 1US$ lúc đó), còn báo định kỳ tuần san, bán nguyệt san phải đóng ký quỹ 10 triệu đồng nếu tờ báo nào không nộp đủ số tiền đó, sẽ bị rút giấy phép ra báo. Sắc luật 007 còn có thêm quy định tờ báo nào bị tịch thu lần 2 sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. Chỉ riêng khoản  phải đóng ký quỹ 10 triệu đồng, Bách Khoa vĩnh viễn từ đây không thể nào có giấy phép và chỉ có thể ra từng tập với số kiểm duyệt như một “giai phẩm”.

      Ngày Ký Giả đi ăn mày cuối năm Dần [8/9/1974], với hình ảnh một học giả Hồ Hữu Tường nón lá và bị gậy đi giữa đông đảo đoàn ký giả thuộc thế hệ trẻ hơn ông là một bi hài kịch cuối cùng của tự do báo chí miền Nam, mấy tháng trước ngày mất nước 30/4/1975. 

Hình 6: trái, hình bìa số Giai phẩm Xuân Ất Mão 1974 của hoạ sĩ  Văn Thanh; phải, trang sinh hoạt Bách Khoa với hình ảnh một học giả Hồ Hữu Tường đội nón lá và bị gậy đi giữa đông đảo đoàn ký giả thuộc thế hệ trẻ hơn ông là một bi hài kịch cuối cùng của tự do báo chí miền Nam, mấy tháng trước ngày mất nước 30/4/1975. [5]

      Trong số giai phẩm Xuân Ất Mão – cũng là số kỷ niệm 18 năm, Nhóm Chủ trương Bách Khoa viết: “Với số này, Bách Khoa đã bước sang năm 19 bằng những bước thực là chật vật và cực nhọc. Nói về giá giấy và chi phí ấn loát đã leo thang nhiều bậc thật dài, nói về mãi lực bạn đọc giảm sút đều đều, tháng này qua tháng khác… Cảm tình của bạn đọc có sức mạnh gây được niềm tin tưởng cho những anh em đã cộng tác và làm nên tờ Bách Khoa ngày nay, để hy vọng Bách Khoa còn đứng vững được trong những tháng sắp tới của năm mới, mặc dầu tình hình chiến sự đương khẩn trương hơn lúc nào hết, tình trng kinh tế mỗi ngày một khó khăn và tương lai của ngành xuất bản và báo chí thì tối tăm như đêm ba mươi Tết…” Đó là trang mở đầu ảm đạm của số giai phẩm Xuân Ất Mão – thay vì là một thiệp chúc Tết vui tươi.

      Thêm một may mắn nữa, Lê Ngộ Châu gặp được một quý nhân hỗ trợ: đó là nhà giáo Phạm Tấn Kiệt, bút hiệu Long Điền hay Phạm Long Điền, (do quê anh  ở quận Long Điền, Bà Rịa Vũng Tàu), Long Điền cũng từng viết một số bài cho Bách Khoa [từ 1974] với các đề tài như: Cụ Phan Văn Trường với tập Hồi Ký “Một chuyện âm mưu của người An-nam tại Paris [BK 405], Nhân Kỷ niệm Phan Chu Trinh, nhắc lại Vụ án Nguyễn An Ninh 48 năm về trước (1926) [BK 408-409], Thuyết Pháp Việt Đề Huề và nhóm La Cloche fêlée [BK 410]… Viết về nghiên cứu văn hoá, nhưng anh Long Điền Phạm Tấn Kiệt lại có bằng cử nhân Vật lý Đại học Khoa học Sài Gòn, tốt nghiệp Đại học Sư phạm, là Giám đốc Nha Nghiên Cứu và Kế hoạch Bộ Giáo dục, và ở cương vị ấy Phạm Long Điền đã có một “hành động rất nghĩa hiệp” vượt qua nguyên tắc, linh hoạt giúp Bách Khoa có được “bông giấy” từ Bộ Kinh Tế, với quy chế Bách Khoa được “in như một tài liệu sách giáo khoa”.

      Lê Ngộ Châu duy trì được tờ Bách Khoa sống còn là nhờ phần giúp đỡ “vô vị lợi” của nhà giáo Phạm Long Điền. Và chính nhà in Trí Đăng đã sử dụng nguồn giấy “bonus” này để in báo Bách Khoa. Tình hình tài chính Bách Khoa phần nào tạm ổn định từ đây, và Giai phẩm Bách Khoa đã sống cho tới Tháng 4/1975.

      *Anh Long Điền Phạm Tấn Kiệt bị kẹt ở lại ở Việt Nam sau 1975, do anh là một công chức cao cấp bộ Giáo Dục VNCH, cả hai vợ chồng là nhà giáo nhưng không được đi dạy học trở lại, sống rất khổ cực cho tới khi được con gái – là thuyền nhân, bảo lãnh sang định cư bên Canada và anh Long Điền đã mất sớm sau đó.



Hình 7: Toà soạn Bách Khoa 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn, những năm đầu tiên, từ phải: với chủ nhiệm Lê Ngộ Châu (2006), Vũ Hạnh “Bút Máu”cán bộ cộng sản nằm vùng, học giả Nguyễn Hiến Lê (1984), kịch tác gia Vi Huyền Đắc “Kim Tiền” (1976), nhà báo Lê Phương Chi (2012), Võ Phiến “Người Tù” chống cộng (2015). Bách Khoa từng được nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan (1998) ví như một vùng xôi đậu. (nguồn: Chân Dung VHNT & VH 2017) [1

Hình 8: trái và giữa, bìa 2 số Bách Khoa Tết Mậu Thân 265 & 266 và Tân Niên 267 & 268 năm 1968 với chủ đề “Những người cầm bút viết trong khói lửa đầu năm”; Bách Khoa 426 ra ngày 19/04/1975, với hình bìa là một không ảnh chụp đoàn xe trên đường di tản hỗn loạn từ Cao nguyên về Nha Trang và đây cũng là số báo Bách Khoa cuối cùng. Bách Khoa có tuổi thọ 18 năm – bằng tuổi thọ báo Nam Phong của Phạm Quỳnh, trải qua 2 nền Cộng Hoà đầy biến động của miền Nam Việt Nam. [5]

      Từ nhà in Trí Đăng, anh Nguyễn Liên có nhận xét về anh Lê Ngộ Châu như sau: Điều hành tờ Bách Khoa trong bấy nhiêu năm, tuy anh Châu không có bài viết nào ký tên mình ngoài một bút danh chung “Bách Khoa”, nhưng tất cả các bài vở gửi đến đều được anh Châu trân trọng đọc. Khi tiếp nhận các bài vở đưa đến nhà in chúng tôi, nhìn bản thảo, tôi biết như thế. Bài nào được chọn đăng, đều có bút tích của anh Lê Châu sửa lại cho hoàn chỉnh, anh không bao giờ nói ra điều đó với ai.

      Với những tác giả mới, anh Lê Ngộ Châu có sự nhạy bén phát hiện tài năng và rồi cả gợi ý đề tài cho người viết. Anh Châu ẩn nhẫn làm công việc toà soạn bằng cái lòng chân thật yêu chữ nghĩa.  Kể cả các bài của những cây bút đã nổi danh vẫn được anh Châu chỉnh sửa, ngay với tác giả  khó tính như Bình Nguyên Lộc, vẫn được anh Châu edit lại, và anh BNL đã không có một lời than phiền. Ngoài ra, trong giao tế anh Châu rất ân cần với từng người. Với các người viết trẻ; anh vẫn thân ái “anh tôi” rồi, anh Châu nhớ cả ngày sinh, ngày giỗ của từng gia đình anh em, anh viết thơ tay thăm hỏi tới những người lính cầm bút nơi tiền đồn phương xa và trước sau anh được mọi người thương mến là như vậy.

Hình 9: Hình chụp tháng 7/1994 tại Universal Studio Hollywood, Universal City, California: từ phải, anh chị Nguyễn Liên / Trí Đăng, anh Lê Ngộ Châu, anh chị Võ Phiến. Nhà in Nhà Xuất bản Trí Đăng đã in báo Bách Khoa trong nhiều năm cho tới số báo cuốicùng, số 426 ngày 19/4/1975. [tư liệu Viễn Phố]

Nhà báo Nguiễn Ngu Í trong một chuyến đi xông đất “Tìm hiểu Nỗi lòng của Ban Biên Tập Bách Khoa”, khi tới thăm anh Lê Châu, phụ trách toà soạn báo… Trăm Khoa nhân dịp kỷ niệm 5 năm báo Bách Khoa, anh Nguiễn Ngu Í đã rất duyên dáng ghi lại cuộc nói chuyện với Lê Ngộ Châu:

      “Tân niên ! Quấy ry anh [Lê Ngộ Châu] lúc này, không để anh thoát khỏi – dù chỉ trong giây lát – cái bề bộn, cái bận rộn, cái cứ như thế mãi cũng là một điều nên làm.

      – Này anh, người ta đồn “động Bách Khoa” là một động của ông già bà cả trên dưới 40, một nhóm người cửa đóng then gài… kín mít, chỉ chơi riêng với nhau.

      Mặt lúc nào cũng tươi của anh lại càng tươi, vì thấy câu hỏi sao mà dễ trả lời thế. Anh lấy một số Báck Khoa kỉ niệm có sẵn trước mặt đưa cho tôi và nói:

      – Đây, anh xem lại, tác giả số bài đăng trên số Bách Khoa có những người trên bốn mươi mà cũng có rất nhiều người dưới ba mươi, hai mươi…

Ngừng một chút anh lại tiếp:

      – Tuy nhiên trẻ già, mới cũ, đâu có phải chỉ tuỳ thuộc ở số tuổi. Chính anh đã từng dự trại Hè Sinh viên mà trẻ trung hơn cả nhiều anh chị em sinh viên đấy! Chỉ cần xem lại những số Bách Khoa kỉ niệm trong 5 năm qua cũng đủ thấy một số lớn cây bút lúc đầu đã lần lần nhường chỗ cho mấy cây bút tới sau và mỗi năm Bách Khoa lại được thêm một số cây bút cộng tác khác với năm trước.

      Thêm nữa anh còn lạ gì, để tránh thành kiến chủ quan, Bách Khoa không có một chủ bút, mà có cả một “tập đoàn chủ bút”. Anh em trong toà soạn và những bạn bè cộng tác thường xuyên chia nhau đọc bài hợp với sở trường hoặc ngành chuyên môn của mình, rồi sau đó tập thể quyết định đăng hay không. Như vậy tinh thần bè phái trong Bách Khoa không thể có, mà thực tế Bách Khoa lúc nào cũng mở rất rộng cửa để mời đón các bạn cộng tác mới, nhất là các bạn văn nghệ, vì chúng ta vẫn mong muốn tờ báo “phản ánh được mọi xu hướng nghệ thuật dị biệt ngày nay.”

      – Anh được đọc tất cả các bài gửi về, anh có gặp những vui buồn gì ? Và anh đọc nhiều bài thế có thấy mệt không ?

      – Cái mệt phải đành thôi, tôi xin miễn nói. Nghề nào cũng có cái mệt của nghề ấy. Thấy bài đến nhiều là mình đã vui rồi, vui vì được nhiều người tìm đến,và khi mở bao mở bì ra đọc là lòng hồi hộp, chỉ mong gặp được bài hay để đăng mà thôi. Và tự nhiên nếu không được cái may mắn ấy, thì sao khỏi buồn đôi chút. Ân hận nhất là vì số trang có hạn và báo nửa tháng mới có một kỳ, nên nhiều bài thực giá trị mà vẫn phải để lần lữa mãi không sao đăng được ngay vì kẹt nhiều bài, mà cũng vì chủ trương của Bách Khoa vốn vẫn dành ưu tiên cho các bài có tính thời sự.

      – Sao rồi chẳng ai được đọc bài nào kí tên anh cả ?

      – Tôi có nhiệm vụ làm cho tờ báo thành hình, và đăng được đa số bài các anh em cùng các bạn xa gần gửi đến. Tất nhiên khi nào phải có thừa chỗ mới đến lượt tôi được.

(hết trích, BK 123, 15/2/1962, trang 106-109) [5]

      “Tập đoàn chủ bút”: đó chỉ là cách nói khiêm cung của Lê Châu, anh muốn nói tới tinh thần làm việc hài hoà của các thành viên trong toà soạn Bách Khoa. Thực ra, anh Châu rất nhậy bén khi đọc tất cả các bài viết và  tìm ra các bài hay để chọn đăng, chỉ trừ một vài bài có nội dung chuyên môn cao thì anh mới tham khảo một chuyên gia khác có thẩm quyền để có được một “ý kiến thứ hai” nhưng chọn đăng hay không quyết định cuối cùng vẫn là chủ nhiệm Lê Châu.

      Kinh nghiệm của người viết [Ngô Thế Vinh], trong bài “Đàm Thoại với Ngô Thế Vinh từ Vòng Đai Xanh tới Mặt Trận ở Sài Gòn”, đăng trong số Bách Khoa 370, ngày 1/6/1972 là do anh chính chủ nhiệm Lê Ngộ Châu thực hiện tại toà soạn nhưng khi báo ra chỉ ghi là Bách Khoa (khiến sau này, có nhà nghiên cứu văn học cũng tưởng rằng đó là bài PV của nhà báo Nguiễn Ngu Í, vì anh Nguiễn Ngu Í là người thường xuyên thực hiện các cuộc phỏng vấn cho báo Bách Khoa trong nhiều năm).

      Ai cũng thấy rằng nếu không có cái “nhẫn” và tài điều hành khéo léo của anh Lê Ngộ Châu thì tờ Bách Khoa đã không thể tồn tại lâu đến như vậy. Bộ báo đồ sộ 426 số Bách Khoa sẽ là nguồn tư liệu quý giá để tham khảo về văn hoá, xã hội, rất có giá trị cho các thế hệ sau về một giai đoạn lịch sử đầy biến động của Miền Nam. 

MỘT BÁCK KHOA TAN TÁC SAU 1975

      Trước ngày mất Sài Gòn, Võ Phiến và Lê Tất Điều do có làm việc cho Đài Mẹ Việt Nam nên được kể trong số nhân viên của Đài được Mỹ lo cho di tản trước. Chứng kiến một Võ Phiến hai lần khóc khi phải ra đi vì biết không có ngày trở về, lần thứ nhất với Lê Ngộ Châu nơi toà soạn Bách Khoa ngày 23/4/1975, rồi lần thứ hai với Lê Tất Điều trên con tàu Challenger ngày 29/4/1975 khi rời đảo Phú Quốc. Một số những văn nghệ sĩ khác cũng may mắn thoát đi được, có thể kể thêm như Viên Linh Hóa Thân, Túy Hồng Tôi Nhìn Tôi Trên Vách, Thanh Nam Bóng Nhỏ Đường Dài, Vũ Khắc Khoan Thần Tháp Rùa, Nghiêm Xuân Hồng Người Viễn Khách Thứ 10, Mặc Đỗ Siu Cô Nương nhóm Quan Điểm, rồi cả Phạm Duy Con Đường Cái Quan

      Thế còn những người ở lại thì sao?

      Ngày 5 tháng 5, 1975, Lê Ngộ Châu đã kinh hoàng khi nghe tin một trong những cây viết lâu năm của Bách Khoa, Phạm Việt Châu tác giả loạt bàiTrăm Việt Trên Vùng Định Mệnh đã tuẫn tiết ngay tại tư gia khi cộng sản tiến chiếm Sài Gòn. Cái chết rất sớm và tức tưởi của một học giả có viễn kiến về lịch sử dân tộc, với sức sáng tạo đang sung mãn mới bước vào tuổi 43, đã như một hồi chuông báo tử cho rất nhiều tang thương diễn ra sau đó.

      Rồi cũng vào một ngày đầu tháng 5, 1975, khi chưa đi trình diện cải tạo, người viết tới thăm anh Lê Ngộ Châu, và đã gặp hai đứa con Vũ Hạnh trong bộ bà ba đen, tay cuốn băng đỏ, tới tòa báo Bách Khoa. Trước khách lạ, đứa con gái bằng một giọng hãnh tiến, nói với anh chị Lê Ngộ Châu: “Tụi con mới từ Hóc Môn về, cả đêm qua đi kích tới sáng.” Hình ảnh của đám nằm vùng cùng với đám “cách mạng 30” không khác một “phó bản” của một đám Vệ binh Đỏ của Mao trong cuộc cách mạng văn hoá, chúng đi reo rắc kinh hoàng giữa một Sài Gòn đang hoảng loạn lúc bấy giờ. Cũng chính những đám này là thành phần kích động chủ lực trong chiến dịch lùng và diệt tàn dư văn hóa Mỹ Nguỵ”, chúng dẫm đạp những cuốn sách, nổi lửa đốt từng chồng sách rồi tới cả tới những kho sách. Những cuốn sách mà đa phần chúng chưa hề đọc, trong đó có cả một tủ sách “Học Làm Người” của học giả Nguyễn Hiến Lê.

      — Hoạ sĩ lập thể Tạ Tỵ, BS Trần Văn Tích hai người có bài viết trên số báo Bách Khoa 426 cuối cùng không thoát đi được, đã cùng với hầu như toàn thể các văn nghệ sĩ miền Nam, lần lượt trước sau bị bắt đưa vào các trại tù cải tạo của CS.

      — Nhà thơ nhà giáo Vũ Hoàng Chương, cùng thời với thi sĩ Hoàng Cầm, Hữu Loan  ngoài miền Bắc, có nhiều bài thơ đặc sắc đăng trên Bách Khoa cho tới 1975, cũng bị CS bắt giam tù trong khám Chí Hoà, và chỉ được thả ra khi sắp chết, và ông đã chết tại nhà 5 ngày sau.

      — Học giả Nguyễn Hiến Lê, người viết nhiều nhất trên Bách Khoa, tới 1975 đã xuất bản tác phẩm thứ 100, bắt đầu phải sống qua những trải nghiệm đắng cay và vỡ mộng với những người cộng sản và mặt trận giải phóng mà bao năm trước đó ông đã không dấu mối thiện cảm và cả sự ngưỡng mộ. 

      — Lê Ngộ Châu, tuy không bị bắt đi tù cải tạo nhưng bị vô hiệu hoá, thư viện phong phú của Bách Khoa một đời ông dày công sưu tập cũng không giữ được và cuối cùng cũng phải nộp cho Hai Khuynh tức Nguyễn Huy Khánh, là một trong “ngũ hổ tướng” của Thành uỷ Sài Gòn lúc bấy giờ. Sau này, cũng những cuốn sách ấy với cả thủ bút các tác giả ký tặng anh, đã được thấy bày bán nơi mấy tiệm sách cũ, mà các khách tìm mua có cả những  học giả từ miền Bắc vào. Nhà văn Thế Phong, trước 1975 nổi tiếng với Đại Nam Văn Hiến Xuất Bản Cục, in ronéo, đã kể lại cũng chính Thế Phong tìm mua lại được hầu như toàn bộ tác phẩm của mình xuất bản trước 1975 với thủ bút đề tặng Lê Ngộ Châu. Ai cũng hiểu rằng đó là niềm đau sót  sâu thẳm của Lê Ngộ Châu mà anh không bao giờ anh nói ra.  

Hình 10: Sau 1975 nhiều khách từ Hà Nội vào Nam đều muốn tới thăm toà soạn Bách Khoa 160 Phan Đình Phùng, Sài Gòn; hình trái, chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu (2006), học giả Đào Duy Anh (1988), ông Nguyễn Hùng Trương (2005), giám đốc nhà sách Khai Trí, 62 đường Lê Lợi Sài Gòn; hình phải, Lê Ngộ Châu, nhà thơ Cù Huy Cận (2005), tác giả Lửa Thiêng, đảng viên cộng sản kỳ cựu và là Bộ trưởng Văn hoá Giáo dục chính phủ CHXHCN Việt Nam. [tư liệu của Viễn Phố]

Vũ Hạnh, tên thật Nguyễn Đức Dũng còn có thêm bút hiệu cô Phương Thảo, tuy được biết từ lâu là một cán bộ CS nằm vùng trong Bách Khoa, từng bị bắt vào tù nhiều lần, nhưng đều được các văn hữu “với tấm lòng” cứu ra, trong số đó phải kể tới Linh mục Thanh Lãng chủ tịch Văn bút, chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã vận động để Vũ Hạnh được thả ra để rồi sau đó Vũ Hạnh lại công khai hoạt động. Sau 30/04/1975 Vũ Hạnh chính thức lộ diện là một cán bộ cộng sản và như một hung thần, Vũ Hạnh lập thêm công trạng bằng cả một danh sách chỉ điểm cho “cách mạng” truy lùng bỏ tù hầu hết các văn nghệ sĩ miền Nam còn kẹt ở lại, trong đó có cả những người đã từng ký tên đòi trả tự do cho Vũ Hạnh khi đang trong vòng lao lý.

Sau 1975, nhiều nhà văn nhà báo miền Nam ấy đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường… hay vừa ra khỏi nhà tù thì chết như Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng Chương. Nếu còn sống sót, đều nhất loạt phải gác bút: Dương Nghiễm Mậu Nhan Sắc sống bằng nghề sơn mài, Lê Xuyên Chú Tư Cầu ngồi bán thuốc lá lẻ ở đầu đường, Trần Lê Nguyễn tác giả kịch Bão Thời Đại thì đứng sạp bán báo để độ nhật, Nguyễn Mộng Giác Đường Một Chiều làm công nhân sản xuất mì sợi, Trần Hoài Thư Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi ba năm ở tù ra trở thành Người Bán Cà Rem Dạo.

       Vũ Hạnh, tuổi đã ngoài 80 rồi 90, như một đao phủ bao nhiêu năm sau vẫn không nương tay tiếp tục viết các bài đấu tố những người cầm bút còn ở lại. Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên, là những nạn nhân điển hình khi  Công ty Phương Nam cho in lại mấy cuốn sách chỉ có tính cách văn học của Dương Nghiễm Mậu.

Vũ Hạnh của Bút Máu viết: “Sách của Dương Nghiễm Mậu thì nổi bật tính phản động tha hóa lớp trẻ hầu đưa đẩy họ vào sự chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của bọn đế quốc xâm lược, còn sách của Lê Xuyên là tính đồi trụy.” Vũ Hạnh viết tiếp: “Vì những lẽ đó, rất nhiều bức xúc, phẫn nộ của các bạn đọc khi thấy Công ty Phương Nam ấn hành sách của ông Dương Nghiễm Mậu… Đem những vũ khí độc hại ra sơn phết lại, rêu rao bày bán là một xúc phạm nặng nề đối với danh dự đất nước.” Và rồi cũng Vũ Hạnh kể lể: “các tác giả Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên sống lại ở thành phố này vẫn được đối xử bình đẳng, không hề gặp bất cứ sự quấy phiền nào.” (Sài Gòn Giải Phóng, 22/4/2007).

“Ngày Xưa Vũ Hạnh” cộng sản nằm vùng vẫn được sống thênh thang, vẫn được đối xử như một nhà văn, được quyền tự do phát biểu (Lý Đợi, talawas 10.5.2007) “Ngày Nay Vũ Hạnh” bên thắng cuộc – tên bộ sách của Huy Đức, thì vô cảm vênh váo, là tiếng nói hung hãn nhất trong Hội đồng đánh giá Văn Học Miền Nam tại Thư Viện Quốc Gia. Vẫn một cliché, vẫn một khẩu hiệu tung hô không suy suyển: “tác giả là gốc ngụy, nội dung tác phẩm là nô dịch phản động đồi trụy”. Vũ Hạnh xấp xỉ tuổi Võ Phiến, nay sắp bước vào cái tuổi 90 vẫn cứ nhân danh “đảng ta, chèo lái con thuyền chở đạo” vẫn không ngừng truy đuổi cả những thế hệ nhà văn trẻ nối tiếp có khuynh hướng tự do, điển hình qua bài viết phê phán Nhã Thuyên và Nhóm Mở Miệng với hai cây bút nổi trội là Lý Đợi và Bùi Chát (Thấy gì từ một luận văn sai lạc, Văn Nghệ 29/2013).

Có lẽ tấn thảm kịch của Vũ Hạnh cũng như những người cộng sản tha hóa bước vào Thế Kỷ 21 là sự “ngụy tín / mauvaise foi” họ sống với hai bộ mặt, vẫn không ngừng hô hào cổ võ cho điều mà họ không còn chút tin tưởng.  Vũ Hạnh vẫn không ngưng nặng lời chửi rủa Mỹ, nhưng rồi vẫn gửi con cái trưởng thành sang sống ở Mỹ; Vũ Hạnh vẫn được ra vào nước Mỹ như một con người tự do.

Vũ Hạnh, trong một lần qua Mỹ thăm con ở nam California, đã viết thơ cho anh Trí Đăng tha thiết ngỏ ý muốn được gặp Võ Phiến, nhưng lời yêu cầu ấy đã bị Võ Phiến và gia đình dứt khoát từ chối.

NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA LÊ NGỘ CHÂU

      Tên tuổi Lê Ngộ Châu, nơi địa chỉ 160 Phan Đình Phùng đối với nhiều người là một  điểm hẹn đáng tin cậy. “Từ Calfornia, khi cần tìm lại một số bài viết từ trước 1975, tôi – người viết nghĩ ngay tới Lê Ngộ Châu và được anh cho biết sau 1975, tủ sách đầy đủ của toà soạn Bách Khoa anh đã không còn giữ lại được nhưng anh vẫn hứa sẽ cố giúp. Anh hỏi nhiều người, cuối cùng anh nhờ được LM Nguyễn Ngọc Lan, Dòng Chúa Cứu Thế và sau đó tôi đã có được đầy đủ các bài viết trên bộ báo Trình Bày; và rồi tuyển tập truyện ngắn Mặt Trận ở Sài Gòn do Văn Nghệ của anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết xuất bản lần đầu tiên ở hải ngoại 1996 do có sự nhiệt tình giúp đỡ của anh Lê Châu.”

      Đỗ Nghê / Đỗ Hồng Ngọc là cháu của nhà văn Nguyễn Ngu Í, vẫn còn nhớ tới lời khuyên của anh Lê Châu: “Anh Ngọc viết được gì thì viết ngay bây giờ đi (lúc đó Đỗ Nghê 60 tuổi, anh Lê Ngộ Châu đã 80), đừng để như tôi, biết bao nhiêu chuyện hay thú vị ở toà soạn Bách Khoa, định viết mà rồi không còn viết được nữa.”

      Tuy nói vậy, nhưng từ nhiều năm trước, mỗi lần có dịp gặp anh Lê Châu tôi đều có nhắc như một gợi ý là anh nên viết một hồi ký hành trình 18 năm với Bách Khoa, thì anh Châu chỉ dí dỏm trả lời bằng một câu hỏi khác: “Anh Vinh khi về bên đó hỏi Võ Phiến có cho tôi viết hay không?”  Ý tại ngôn ngoại, ai cũng hiểu rằng anh Châu muốn nói tới những quan hệ linh tinh giữa các nhà văn nam nữ và Bách Khoa thì như một trạm giao liên và Lê Châu thì rất kín đáo, không bao giờ nói ra.

      Chuyện dật sự bây giờ mới kể, là sau khi đã phải “hiến” thư viện Bách Khoa cho Hai Khuynh, Lê Châu nghĩ tới tình huống căn nhà 160 Phan Đình Phùng nơi anh cư ngụ bất cứ lúc nào có thể bị công an tới khám xét. Chuyện sau 1975 mà ai cũng biết, ngay như với Giáo sư Y khoa Phạm Biểu Tâm, một tên tuổi lớn của trí thức miền Nam mà chế độ mới đang rất cần ông trong những năm đầu nhưng họ vẫn không bao giờ tin ông. Bằng cớ là căn nhà của GS Tâm trên đường Ngô Thời Nhiệm, giữa thanh thiên bạch nhật, ít nhất đã hai lần bị công an thành phố xông vào lục xét. Và cứ sau một lần như vậy, không phát hiện được gì thì Thành Ủy đã lại đứng ra xin lỗi coi đó chỉ là hành động sai trái của thuộc cấp. Sự giải thích ấy thật ra chỉ là hai bản mặt của chế độ.

      Không thể nói anh Lê Ngộ Châu không hiểu cộng sản, nên còn bao nhiêu thư từ chung và riêng của Bách Khoa đã giữ gìn bấy lâu, anh cẩn thận xếp để vào trong hai hộp giấy, đem tới gửi nơi nhà chị Nguyễn Khoa Diệu Chi, vợ nhà văn Nguyễn Mộng Giác bên Thị Nghè. Năm 1990, khi chị Diệu Chi và con gái sắp đi đoàn tụ với chồng bên Mỹ, hàng trăm bức thư cả chung và riêng ấy – như một phần lịch sử của Bách Khoa, có tính văn học hay không, thì tất cả cũng đã trở thành tro than, thả về cho người trăm năm cũ.

      Trần Hoài Thư viết về chủ nhiệm Bách Khoa: Lê Ngộ Châu mà tôi được biết trong vài lần ghé thăm tòa soạn Bách Khoa: (1) Mỗi tác giả đều có một hồ sơ riêng (folder), bài không đăng, có thể lấy lại từ tòa sọan. (2) Ông không ngại đọc bản thảo viết tay quá xấu, như trường hợp cá nhân tôi, vì ngón tay cầm viết bị miểng lựu đạn cắt nên chữ viết rất khó đọc, vậy mà ông không nề hà. Ông cầm cái kính lúp soi từng hàng chữ, rồi sửa lại chi chít, trước khi đưa chị Châu đánh máy, anh không hề than một tiếng… Điều đó chứng tỏ ông rất trân trọng sự đóng góp của người viết. Tôi nghĩ nếu Bách Khoa không có ông Ngộ Châu thì không biết có Hoàng Ngọc Tuấn, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Trùng Dương, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ? Riêng bản thân tôi, tôi sẽ nói nếu không có Bách Khoa, không có ông Ngộ Châu thì chắc chắn tôi sẽ không có dịp đi vào con đường chữ nghĩa như ngày hôm nay.” [2]

VẪN MỘT LÊ NGỘ CHÂU CỦA HÒA GIẢI

Năm 1994, Lê Ngộ Châu đưa người con gái thứ hai sang Mỹ định cư. Với 18 năm điều hành tờ Bách Khoa, anh Châu có rất nhiều bạn và Võ Phiến có lẽ là người anh thân thiết nhất. Trong chỗ rất riêng tư, khi biết giữa Võ Phiến và Nguyễn Mộng Giác, có vấn đề” trong sự chuyển tiếp tờ Văn Học Nghệ Thuật sang tờ Văn Học. Cả hai cùng là người Bình Định,nhưng với cái tình đồng hương ấy cũng không sao tránh được trục trặc trong điều hành tờ Văn Học, khi mà Võ Phiến còn đứng tên chủ nhiệm và Nguyễn Mộng Giác là chủ bút. Rất bén nhạy, Lê Ngộ Châu cảm thấy ngay được sự “nghẽn mạch” giữa hai anh em. Anh sốt sắng đóng vai “hòa giải” – vẫn chữ của Lê Ngộ Châu.

Rồi như một cái cớ, tôi tổ chức buổi họp mặt tiếp đón anh Lê Ngộ Châu tại một clubhouse, nơi tôi cư ngụ trên đường Bellflower, Long Beach. Dĩ nhiên có anh Võ Phiến và Nguyễn Mộng Giác và có khoảng hai chục thân hữu quen biết anh Lê Ngộ Châu và tạp chí Văn Học có mặt hôm đó: các anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, Từ Mai Trần Huy Bích, Trúc Chi, Thạch Hãn Lê Thọ Giáo, Khánh Trường, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy… Chỉ riêng cái tình “tha hương ngộ cố tri” ấy, qua những trao đổi, như từ bao giờ anh Lê Ngộ Châu vẫn lối nói chuyện vui dí dỏm và duyên dáng, anh đã như một chất xi-măng nối kết mọi người. Và cũng để hiểu tại sao, trong suốt 18 năm, anh Lê Ngộ Châu đã điều hợp được tờ Bách Khoa, vốn là một vùng xôi đậu phức tạp như vậy.

Đó là lần thăm Mỹ duy nhất 1994 của anh Lê Ngộ Châu, cũng như giám đốc Nhà sách Khai Trí, nhưng rồi cả hai đều chọn trở về sống ở Sài Gòn. Năm 2001, trong dịp trở lại thăm Đồng Bằng Sông Cửu Long, tôi gặp lại anh Lê Ngộ Châu nơi tòa soạn Bách Khoa ngày nào, anh vẫn nhớ và nhắc tới buổi gặp gỡ “hoà giải” hôm đó.

Hình 11: Ngô Thế Vinh tổ chức buổi họp mặt tiếp đón tiếp anh Lê Ngộ Châu 30/10/1994 tại một clubhouse trên đường Bellflower Long Beach, từ trái: Nghiêu Đề (1999), Võ Phiến (2015), Bùi Vĩnh Phúc, Hoàng Khởi Phong, Hà Thúc Sinh, Nguyễn Mộng Giác (2012), Trúc Chi Tôn Thất Kỳ, Như Phong Lê Văn Tiến (2001), Lê Ngộ Châu (2006), Lưu Trung Khảo (2015), Trần Huy Bích. [photo by Ngô Thế Vinh]

Hình 12: Hình chụp tháng 7/1994 tại nhà anh chị Võ Phiến, từ trái, Ngô Thế Vinh, Lê Tất Điều, anh chị Võ Phiến, anh Lê Ngộ Châu, Gs Trần Ngọc Ninh, Nguyễn Mạnh. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Hình 13: Chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu tới thăm nhà văn Linh Bảo tại Thành phố Giữa Đường / Midway City  (1995); từ phải, Ngô Thế Vinh, Linh Bảo, Lê Ngộ Châu, Võ Phiến. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Hình 14: Anh Lê Ngộ Châu trong chuyến thăm bạn hữu ở California (1994), từ trái, Dohamide / Đỗ Hải Minh (cây bút chuyên khảo về văn minh Champa trên Bách Khoa ngày nào), Lê Ngộ Châu, Ngô Thế Vinh, Võ Phiến. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Hình 15: Sau lần gặp anh Lê Ngộ Châu ở Mỹ (1994), 5 năm sau gặp lại anh tại toà soạn Bách Khoa 160 Phan Đình Phùng, Sài Gòn, anh Lê Châu còn rất tráng kiện và minh mẫn ở tuổi 76; từ phải: Lê Ngộ Châu và Ngô Thế Vinh. [photo by Nghiêm Ngọc Huân 11/1999]

HÀNH TRÌNH ĐI TÌM BÁCH KHOA [6]

Hình 16a: Khi toàn bộ báo 426 số báo Bách Khoa được sưu tập và số hoá (2017) thì Lê Ngộ Châu đã mất trước đó 11 năm, thọ 84 tuổi (1923-2006), với thời gian, tên tuổi Lê Ngộ Châu vẫn toả sáng, được các cây bút cộng tác xem Lê Ngộ Châu như “linh hồn” của báo Bách Khoa cho tới năm 1975. [5]

Hình 16b: trái, đĩa DVD chứa toàn bộ 426 số báo Bách Khoa được số hoá / digitalized hoàn tất ngày 15/10/2017 do công trình sưu tập của chị Phạm Lệ Hương [6], là một thủ thư lâu năm và anh Phạm Phú Minh chủ bút Diễn đàn Thế Kỷ. [5] phải, Phạm Lệ Hương và Phạm Phú Minh đang cắt bánh mừng bộ đĩa Bách Khoa đã thành tựu. Sau đó bộ báo Bách Khoa được lưu trữ / phổ biến miễn phí trên Thư viện Người Việt Online với link https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/BachKhoa.php  [tư liệu Ngô Thế Vinh]

      Phục hồi Di sản Văn học Miền Nam là mối ưu tư của nhiều người, trong đó có phần tìm lại toàn bộ báo Bách Khoa và đó là công lao của hai khuôn mặt rất quen thuộc trong sinh hoạt văn học ở hải ngoại: chị Phạm Lệ-Hương và anh Phạm Phú Minh. Cả hai đã rất thành công trong việc tổ chức cuộc Hội Thảo về Tự Lực Văn Đoàn, Hội Thảo Trương Vĩnh Ký với việc xuất bản cuốn Kỷ yếu TLVĐ, Kỷ yếu Triển Lãm và Hội Thào Trương Vĩnh Ký là những tài liệu được đánh giá rất cao cả ở bên trong và ngoài nước. Cuộc hành trình đi tìm Bách Khoa không đơn giản, với công sức đóng góp của nhiều người khác nữa nhưng kết quả cuối cùng là toàn bộ 426 số báo Bách Khoa được sưu tập trọn vẹn, được số hoá và upload lên internet. Kể từ đây, Bách Khoa đã phục sinh, để cùng sống với những thế hệ mai sau xa hơn cả “tam bách dư niên hậu”. [6]

*

      Lê Ngộ Châu mất ngày 24/9/2006 năm Bính Tuất tại Sài Gòn, thọ 84 tuổi. Linh cữu được quàn tại Nhà tang lễ Thành phố trên đường Lê Quý Đôn Quận 3 Sài Gòn. Ông được an táng trong khu đất riêng của chùa Phổ Chiếu, Gò Vấp. [Hình 17b] Lê Ngộ Châu đã để lại rất nhiều tiếc thương cho những người từng được quen biết và làm việc với ông. Nguyễn Minh Hoàng, một dịch giả cộng tác viên lâu năm của Bách Khoa ngày nào, đã viết hai câu thơ viếng cảm động trong sổ tang của gia đình Lê Ngộ Châu:

Duyên nợ Bách Khoa, anh vội ra đi, mây chiều gió sớm,       

Cuộc đời dâu biển, tôi còn ở lại, ra ngẩn vào ngơ…

Hình 17a: Bà Nghiêm Ngọc Huân Lê Ngộ Châu, và các ông Lê Phương Chi, Trần Văn Chánh, Dũ Lan Lê Anh Dũng tại nhà tang lễ Thành phố Chủ Nhật 24/09/2006. [4]

Mang Viên Long, một nhà thơ trẻ miền Trung từng viết cho Bách Khoa, nay  vẫn còn nhớ ngày anh Lê Ngộ Châu mất: “Hôm nay – gần đến ngày giỗ thứ 5 của Anh, nơi chốn quê nhà quạnh hiu này – tôi lại nhớ anh: “Một nhà báo chân chính, tài năng , và vô cùng độ lượng đã suốt đời hy sinh cho sự nghiệp văn học! Xin được thắp cho anh một nén hương muộn nhưng rất chí tình.”

Hình 17b: mộ bia Lê Ngộ Châu, anh được chôn cất trong nghĩa trang gia đình nơi sân sau ngôi chùa Phổ Chiếu, địa chỉ : 93/1023 Nguyễn Văn Lượng, P.6, Quận Gò Vấp, Sài Gòn. [photo by L.A. 05/2021]

      Bài viết này như một tưởng niệm 98 năm sinh của anh Lê Ngộ Châu. Để kết luận, có thể nói rằng: nếu không có chủ nhiệm sáng lập Huỳnh Văn Lang, sẽ không có một tờ báo mang tên Bách Khoa từ 1957. Nhưng nếu không có được cái “nhẫn” và tài năng điều hành toà soạn 160 Phan Đình Phùng của Lê Ngộ Châu, sẽ không có một tạp chí Bách Khoa khởi sắc với 426 số báo với tuổi thọ 18 năm cho tới 1975 và cũng sẽ  không có một bộ báo Bách Khoa như một công trình văn hoá đồ sộ của miền Nam để lưu lại cho các thế hệ mai sau và chúng tôi vẫn mãi biết ơn Anh.

NGÔ THẾ VINH

California 26/06/2021

[Tưởng niệm 98 năm sinh Lê Ngộ Châu]

THAM KHẢO:

 1/Ngô Thế Vinh. Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hoá.

Việt Ecology Press 2017

2/Trần Hoài Thư. Thư Quán Bản Thảo số 48, chủ đề viết về tạp chí Bách Khoa

https://tranhoaithu42.com/tqbt-so-48-tap-chi-bach-khoa/

3/Đặng Tiến. Ông Lê Ngộ Châu, 160 Phan Đình Phùng.

https://damau.org/9238/le-ngo-chau-160-phan-dinh-phung

4/Dũ Lan Lê Anh Dũng. Vĩnh biệt ông Bách Khoa Lê Ngộ Châu. http://vietsciences.free.fr   

5/ Phạm Phú Minh. Bách Khoa điện tử Toàn tập [từ số 1 tới 426], Thư Viện Người Việt Online. https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/BachKhoa.php

6/ Phạm, Lệ-Hương. Hành trình đi tìm Bách Khoa. Phỏng vấn cá nhân.

Huntington Beach 21/6/2021. – p.16

7/ Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Một Chương Hồi ký, Tập Ba ([trang 208 – 219). Tác giả Xuất bản 2001

Đọc sách "Mặt trận ở Sài Gòn" của Ngô Thế Vinh

Mặt trận ở Sài Gòn là một tuyển tập 12 truyện ngắn của Nhà văn Ngô Thế Vinh viết về kí ức thời chiến tranh vào thập niên 1970s, chủ yếu ở vùng núi rừng Tây Nguyên. Tuy có nhiều chứng nhân trong cuộc chiến, nhưng tác giả là một chứng nhân hiếm hoi ghi lại một giai đoạn chiến sự khốc liệt qua các câu chuyện được hư cấu hoá. Điểm đặc biệt của tập truyện ngắn này là có phiên bản tiếng Anh do một học giả ẩn danh dịch, có lẽ muốn chuyển tải đến độc giả nước ngoài về cái nhìn và suy tư của người lính phía VNCH.

Hình bìa sách “Mặt trận ở Sài Gòn” (có thể đặt mua qua amazon.com)

Tập truyện ngắn được sáng tác từ những năm chiến tranh trong thập niên 1960s và 1970s, và thập niên 1990s sau khi tác giả đã định cư ở Mĩ. Có truyện viết từ trước 1975, nhưng sau này ra hải ngoại tác giả viết tiếp. Đó là những câu chuyện về những lần giáp trận với những người anh em bên kia chiến tuyến, những trận mưa bom đạn từ trên không, và những cái chết không toàn thân của biết bao người lính của cả hai bên chiến tuyến. Đó là những câu chuyện về những người lính khi ra trận thì gan dạ, can trường, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng sâu thẳm trong nội tâm thì đầy trăn trở về thời cuộc và giàu nhân văn tính. Ngay cả trong bộ đồ rằn ri xem ra dữ dằn, nhưng qua hành vi và cách nói thì họ chỉ là những thư sinh nho nhã, đôn hậu. Hay như người y tá trưởng được lưu dung sau 1975 trong Tổng Y Viện Cộng Hoà vẫn cần mẫn chăm sóc cho những người lính bên kia chiến tuyến để rồi cũng bị sa thảy về quê và sống trong nghèo nàn, đau khổ. Trong tác phẩm này, Ngô Thế Vinh viết về những cuộc hành quân trên vùng rừng núi Cao Nguyên, qua Campuchia, về thành phố Sài Gòn. Những nơi họ đã đi qua để lại nhiều kí ức và những suy tư về thời cuộc và quê hương, về thân phận tuổi trẻ và tương lai.

Có những suy tư được bộc lộ rất thật, như trong truyện Mặt trận ở Sài Gòn mà tác giả lấy làm tựa đề quyển sách. Thật ra, truyện này đã được đăng trên tạp chí Trình Bầy số 34 trước 1975, và đã làm tác giả gặp rắc rối với chánh quyền VNCH lúc đó. Trong Mặt trận ở Sài Gòn, tác giả thuật lại một nhóm lính biệt cách từ rừng núi Tây Nguyên về nơi phồn hoa Sài Gòn, như là những kẻ về từ ‘cõi chết’. Họ phải đối diện với những phong trào sinh viên biểu tình phản chiến, và bị dằng co một bên là lí tưởng xã hội và một bên là nhiệm vụ bảo vệ sự ổn định của xã hội. Người lính chợt nhận ra rằng họ không chỉ đối diện với cái chết trong rừng sâu núi thẩm, mà còn trực diện với một trận tuyến xã hội với quá nhiều bất công và thối nát. Đó là một “xã hội trên cao, lộng lẫy sáng choang và thản nhiên hạnh phúc” ở những người miệng thì kêu gào chiến tranh nhưng họ lại đứng ngoài cuộc chiến. Vậy thì người lính bảo vệ cái gì đây. Không lẽ bào vệ “cho một con thuyền xã hội xa hoa ngao du trên dòng sông loang máu, nổi trôi đầy những xác chết đồng loại.” Chiến trường của người lính bây giờ là ngay tại Sài Gòn này, nhưng họ là những chiến binh ngoài chiến trường, chớ không phải ‘chiến sĩ xã hội.’ Tác phẩm này đã làm tác giả gặp rắc rối với chánh quyền VNCH lúc đó. Toà án quân sự VNCH nhận định rằng truyện ngắn “có luận điệu phương hại trật tự công cộng và làm suy giảm kỷ luật, tinh thần chiến đấu quân đội“.

Chiến tranh thường là mảnh đất màu mỡ cho tuổi trẻ và những suy tư về dân tộc và quê hương. Cuộc chiến Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Những xung đột giữa các học thuyết chánh trị ngoại lai dẫn đến những cái chết thảm cho hàng triệu người giúp cho thanh niên Việt Nam thường trưởng thành trước tuổi. Người lính đối diện trước hiểm nguy và cái chết trong giây phút, họ càng suy nghĩ về bản thân hơn. Tác giả Ngô Thế Vinh nhận xét rất đúng rằng “Trong suốt chiều dài và rộng của lịch sử, tuổi trẻ Việt Nam đã được nuôi sống bằng những gieo trồng tang thương và nỗi chết. Tuổi đó không tính bằng tháng năm mà bằng những đổi thay không gian cùng với gót giày chiến binh của họ — đã và đang còn dẫm nát từng ngọn cỏ xanh còn sót lại trên quê hương.”

Cũng trong truyện Nước Mắt của Đức Phật (viết ở thị trấn Krek, Campuchia, 1971) tác giả viết về một lần hành quân sang Campuchia, và ngay từ lúc đặt chân đến xứ Chùa Tháp đã gặp ngay những phản ứng kém thân thiện của người bản xứ. Qua lời nói của một nhà sư, tác giả muốn nói lên tình cảnh éo le của Campuchia: trở thành một đấu trường trong sự xung đột giữa hai phe người Việt, và tác giả tự hỏi “Trong cái mênh mang của cơn say lịch sử, có nghĩ được rằng cuộc chiến đang diễn ra giữa những người Việt lại có thể xoá nhoà một nền văn minh Angkor cổ kính.”

Trong Mặt trận ở Sài Gòn, tác giả còn dành nhiều trang viết về những người đồng minh Mĩ. Những viên sĩ quan cố vấn và giới kí giả với những hành xử tốt và xấu đều được Ngô Thế Vinh ghi chép cẩn thận qua những câu chuyện tưởng như là hư cấu. Chẳng hạn như câu chuyện về một viên kí giả tên Davenport (trong Dấu Ngoặc Lịch Sử) tuy mới vào nghề nhưng đã được gởi đến Việt Nam, và anh ta đã thể hiện được câu nói dân gian “Nhà báo nói láo ăn tiền”. Davenport chỉ ngồi trong một quán bar, có máy lạnh, bên cạnh một cô thư kí riêng (có lẽ kiêm thông dịch viên), vậy mà anh ta viết báo cáo mô tả y như thật rằng Kontum đang sống trong những ngày nghẹt thở, dân chúng hoảng loạn tìm đường chạy trốn, đường bay Sài Gòn – Kontum đã bị Hàng Không Việt Nam huỷ bỏ, v.v. Nhưng trong thực tế thì Kontum vẫn sinh hoạt bình thường, người dân vẫn sống yên ổn, và các chuyến bay của Hàng Không Việt Nam vẫn diễn ra hàng ngày! Trong Chiến Trường Tạm Yên Tĩnh, Ngô Thế Vinh viết về một nhân vật Larry, mới tốt nghiệp trường y bên Mĩ, anh chán ghét xã hội Mĩ xung phong vào đoàn y sĩ thiện nguyện đến Việt Nam chuyên giúp người dân và nạn nhân chiến tranh. Là người Mĩ nhưng Larry ít giao du với người Mĩ đồng hương, anh chỉ dành thời gian cho chuyên môn và viết sách. Hai nhân vật tương phản phản ảnh phần nào sự đa dạng trong nhân cách của đồng minh Mĩ tại Việt Nam trong thời chiến.

Đọc truyện của Ngô Thế Vinh, người đọc có thể cảm thấy như đọc những kí ức vụn được lấp ghép lại thành một tác phẩm. Có lúc tác giả viết về vùng Đất Khổ, nhưng lại liên tưởng đến chuyện của 30 năm trước về nhân vật Kim Đồng của Tô Hoài, rồi ngay sau đó tác giả viết về một Sài Gòn đã mất tên vào năm 1981. Kim Đồng là tượng trưng cho giấc mơ cách mạng đẹp đẽ, nhưng 30 năm sau bao nhiêu thế hệ Kim Đồng nhân danh ‘giấc mơ Việt Nam’ cầm súng M16 hay AK tiêu diệt lẫn nhau. Ba mươi năm dài làm biến dạng tiếng Việt. Chữ và nghĩa không còn nhứt quán với nhau.

Cuộc xung đột ý thức hệ giữa tự do và giáo điều còn tạo nên một cộng đồng dân tộc mà từ suy tư, hành vi đến ngôn ngữ của họ rất khác với người anh em bên kia chiến tuyến. Hai người anh em cùng nói tiếng Việt, nhưng là loại tiếng Việt khác phiên bản. Trong Nước Mắt của Đức Phật, tác giả viết rằng “Trong 30 năm điều mà chúng tôi không tự biết – là mọi suy tư của mỗi người Việt đã được điều kiện hoá để họ không còn thấy nhau. Nói chuyện với một tù binh cộng sản Bắc Việt tôi đã không thể tưởng tượng rằng giữa người Việt nói tiếng mẹ đẻ nhưng chúng tôi đã không còn chung một ngôn ngữ.” Câu văn ngắn đó thiết tưởng vẫn còn áp dụng cho đến ngày nay.

Một cuộc xung đột ý thức khác cũng diễn ra trong cộng đồng người Việt ở Mĩ. Sau 1975, như chúng ta biết, có hàng triệu người Việt đã liều mạng bỏ nước ra đi, và một số đông đã được tiếp nhận định cư ở Mĩ. Một thế hệ mới hình thành trên đất Mĩ, và thế hệ mới có những cái nhìn về Việt Nam khác với cha ông họ. Họ tuy rất bất bình trước những bất bình đẳng ở Việt Nam, nhưng họ sẵn sàng bỏ thời gian về quê giúp đỡ đồng bào hơn là cái nhìn cứng nhắc, thậm chí ‘một đi không trở lại’ như thế hệ cha ông. Những cuộc xung đột trong gia đình xảy ra, như giữa nhân vật Bs Toản và thân phụ của anh về Việt Nam: anh nghĩ về tương lai bên quê nhà, còn cha ông thì cứ khắc khoải về quá khứ chiến tranh và chia rẽ. Tuy nhiên, truyện Giấc Mộng Con Năm 2000 có thể xem là một câu chuyện kết thúc có hậu, khi có những người y sĩ nghĩ đến những dự án văn hoá để ghi lại những thành tựu của một cuộc di dân vĩ đại.

Đọc sách của Ngô Thế Vinh, bạn đọc sẽ bắt gặp những chữ nghĩa ngày xưa. Đó là những chữ chưa bị biến dạng về nghĩa, đó là cách đánh vần theo cách nói của người miền Nam (dù anh là người gốc Thanh Hoá). Người đọc sẽ quay về với những danh từ quen thuộc như “chánh phủ”, “chiến hữu”, “kích xúc”, hay những động từ hết sức dễ hiểu như “men” (trong ‘men dần ra quốc lộ’). Có những đoạn tác giả viết thật xúc động, nhưng đoạn viết về người lính Bắc Việt bị chết: “Ngồi bệt xuống đất bên xác hắn, người tôi nặng trĩu mỏi mệt. Tôi đưa tay vuốt mắt hắn, mi mắt còn ấm nóng khép lại dễ dàng. Một cử chỉ mà tôi không thể làm cho thằng em khi nó bị tử trận ở Pleime …”

Ngô Thế Vinh không phải là một cái tên xa lạ trên văn đàn Việt Nam. Là bác sĩ (tốt nghiệp Đại học Y Khoa Sài Gòn năm 1968), từng làm y sĩ trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù trong quân đội VNCH. Ngay từ thời sinh viên, anh đã viết văn, và từng làm chủ bút báo sinh viên Tình Thương thời thập niên 1960s. Ngay thời gian đó, tác giả đã là một cây bút thành danh với những tác phẩm nổi tiếng như Bóng Đêm (1964), Gió Mùa Đông (1965), và đặc biệt là Vòng Đai Xanh (1970), tác phẩm đem về cho anh giải thưởng Văn học 1971. Sau này, khi ra hải ngoại, Ngô Thế Vinh viết cuốn sách nổi tiếng Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng (1996) và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch (2007). Tác phẩm Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng là một cảnh báo trước về tai hoạ cho sông Cửu Long do những con đập do Trung Cộng xây dựng trên thượng nguồn, và những xung đột trên Biển Đông. Có thể nói là tác giả là người đi trước thời cuộc.

Chẳng những đi trước thời cuộc, mà qua những trang viết thấm dẫm nhân văn tính trong tuyển tập này (như chuyện về cái chết của một anh lính cộng sản Bắc Việt, hay nhân vật lính Mĩ tên Jim bị rối loạn tâm thần sau cuộc chiến), tác giả còn thể hiện mình là một người trí thức vượt lên mọi chánh kiến.

Từ trái sang phải: Bs Ngô Thế Vinh, tôi, Gs Lê Xuân Khoa, Ks Phạm Phan Long, và Ks Ngô Minh Triết (hình chụp ở Laguna Beach, Nam California, 2018)

Nhưng Ngô Thế Vinh là một chứng nhân của chiến tranh, chứng nhân của “những bi kịch của một thời nhiễu nhương và lừa dối hào nhoáng.” Anh đã chắt chiu những trải nghiệm thực tế trong chiến trận ở núi rừng Tây Nguyên và đúc kết lại thành những tác phẩm mang tính ‘sử thuyết’ hay một dạng historicity, hơn là tiểu thuyết. Thật vậy, nói là truyện ngắn, nhưng người đọc có thể cảm nhận được đó là những ghi chép bằng một ngòi bút điêu luyện miêu tả một cách sinh động những tình huống xảy ra, cùng những quan sát tinh tế. Truyện ngắn hay truyện dài của Ngô Thế Vinh chỉ là cái cớ hoặc là cái diễn đàn để cung cấp chứng từ. Các nhân vật trong truyện (ví dụ như bác sĩ Phan) cũng có thể là chính tác giả hay được tác giả mượn để nêu lên những trăn trở cùng những suy tư khắc khoải trước chiến cuộc.

Nhà văn Nguyễn Thanh Việt từng viết rằng tất cả các cuộc chiến đều diễn ra hai lần; lần thứ nhất là ở chiến trường, lần thứ hai là ở kí ức. Những kí ức được ghi chép lại trong Mặt Trận ở Sài Gòn chính là một cuộc chiến nội tâm vậy. Chính tác giả trong Một Bức Tường Khác (1991) cũng tự hỏi mình đến bao giờ “mới thực sự thoát ra khỏi cuộc chiến đã vào quá khứ 17 năm rồi“. Có lẽ tác giả sẽ không bao giờ thoát khỏi cuộc chiến kí ức. Tuy nhiên, có khi đó là một cái hay, vì những kí ức đó được viết xuống như là những chứng từ về một cuộc chiến mà có lẽ nhiều thế hệ người Việt và người ngoại quốc sau này sẽ còn dùng để hiểu biết đúng và công tâm hơn về cuộc chiến tương tàn kéo dài suốt 20 năm.

“Chút rượu hồng đây xin rưới xuống,

Giải oan cho cuộc bể dâu này.”

(Tô Thùy Yên)

Từ một ĐBSCL đang ngập mặn đi thăm nhà máy khử mặn Carlsbad lớn nhất nước Mỹ

LGT: Chuyến về quê vừa qua, tôi nghe bà con than phiền về tình trạng nước mặn xâm nhập vào các con sông (làng tôi cách biển chừng 25 km). Điều đáng nói là người dân gần như chấp nhận đó là một thực tế và ‘sống chung với mặn’, vì họ không có khả năng nào khác. Nếu có một nhà máy khử nước mặn thì hay biết mấy. Xin giới thiệu đến các bạn một bài viết mới của Bs Ngô Thế Vinh về nhà máy khử nước mặn Carlsbad ở Mĩ. NVT

====

Từ một ĐBSCL đang ngập mặn đi thăm nhà máy khử mặn Carlsbad lớn nhất nước Mỹ

NGÔ THẾ VINH

Gửi 20 triệu cư dân ĐBSCL

sống trong cảnh hạn mặn

và thiếu nguồn nước ngọt

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

 

blank

Hình 1_ TỪ NGUỒN NƯỚC BIỂN. Poseidon Water / Carlsbad Desalination Plant, nhà máy khử mặn từ nguồn nước biển qua kỹ thuật thẩm thấu đảo nghịch / reverse osmosis mỗi ngày sản xuất / cung cấp 50 triệu gallons nước/ ngày (190,000 mét khối), là nguồn nước uống tinh khiết cho 400,000 ngàn cư dân Quận San Diego. Nhóm Bạn Cửu Long đi thăm khu nhà máy khử mặn Carlsbad lớn nhất nước Mỹ;  từ phải: Ngô Thế Vinh, Jessica H. Jones Director of Communications, Phạm Phan Long. [photo by Ngô Minh Triết] (1)

 

 blank

Hình 2_ TỪ NGUỒN NƯỚC THẢI. Thăm 2 khu Nhà máy: (1) Xử lý Nước Thải / Waste Water Treatment Plant thanh lọc từ nguồn nước thải và mỗi ngày sản xuất / cung cấp 100 triệu gallons / ngày (378,000 mét khối) nước sạch cho cư dân Quận Cam; (2) Hệ thống Bổ sung Tầng Nước ngầm / Ground Water Replenishement System (GWRS). Ms. Becky Mudd (giữa) đặc trách giao tế cộng đồng, KS Phạm Phan Long (phải), Ngô Thế Vinh (trái). [photo by Nguyễn Đăng Anh Thi] (4)

 

NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI 2020

Cách đây 27 năm, kể từ 1993, Liên Hiệp Quốc đã chọn ngày 22 tháng 3 mỗi năm là Ngày Nước Thế Giới / World Water Day, do sáng kiến từ Hội nghị Môi Sinh và Phát Triển/ United Nations Conference on Environment and Development/ UNCED tại Rio de Janeiro, Brazil [1992].

Và mỗi năm Liên Hiệp Quốc đều chọn ra một “chủ đề” cho Ngày Nước Thế Giới để tập trung vận động qua những cuộc hội thảo, qua các phương tiện truyền thông và giáo dục xoay quanh chủ đề này.

Có thể nói, nước là biểu hiện của sự sống, vì thế mỗi khi tìm ra tín hiệu có nước trên một vì tinh tú xa xôi thì các nhà khoa học thiên văn đã lạc quan cho rằng có thể có sự sống và sinh vật ở trên đó. Trái đất này sẽ là một hành tinh chết nếu không có nước. Trong lịch sử nhân loại, đã có những nền văn minh cổ đại bị tiêu vong không chỉ vì dịch bệnh mà do thiếu nước.

Nhưng trước mắt, thiếu nước đang là một vấn nạn ngày càng trầm trọng của thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Ngày Nước Thế Giới, như cơ hội để mọi người quan tâm tới tầm quan trọng của nguồn nước ngọt / freshwater và cùng nhau vận động hỗ trợ cho những phương cách quản lý bền vững các nguồn nước ấy.

Khan hiếm nguồn nước có thể ảnh hưởng trên an toàn lương thực thế giới, gây bất ổn về chính trị và là nguyên nhân đưa tới những cuộc tỵ nạn môi sinh ồ ạt. Với các đặc tính của Biến đổi Khí hậu – climate change, bao gồm những tình huống cực đoan về nguồn nước trong tương lai: hoặc là hạn hán khốc liệt hay là thiên tai bão lụt xảy ra nhiều hơn và tàn phá hơn.

Từ 2019, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guteres đã chủ toạ một Hội nghị Thượng đỉnh về Khí hậu – a Climate Summit để khẩn trương có những hành động thực thi Thoả ước Paris – Paris Agreement. Năm 2020 để chuẩn bị cho Ngày Nước Thế Giới – World Water Day, mỗi quốc gia đều nêu rõ chương trình hành động nhằm đối phó với vấn đề nước với chủ đề nước và trong tình trạng biến đổi khí hậu.

Và như truyền thống hàng năm, Ngày Nước Thế Giới  2020 sẽ diễn ra vào ngày 22 tháng 03 với chủ đề về Nước và Biến Đổi Khí Hậu; cuộc vận động sẽ được điều hợp bởi toán chuyên gia của LHQ. (2)

 

      Với biến đổi khí hậu, ĐBSCL được đánh giá là một trong những vùng châu thổ dễ bị tổn thương nhất, với nghịch lý: dư thừa nước mặn, nước bẩn nhưng rất thiếu nước sạch và nguồn nước ngọt phù sa.  

 

NHÀ MÁY KHỬ MẶN CARLSBAD

Được khánh thành ngày 14 tháng 12 năm 2015 tại thị trấn Carlsbsd, California nằm cận phía bắc nhà máy điện Encina Power Station. Địa chỉ 4600 Carlsbad Bld.

Carlsbad, CA 92008. Dự án US$ 784 triệu USD được thực hiện với tiền cổ phiếu – bond. Và sau đó bán lại cho tư nhân với giá 1 tỷ USD. Nhà máy mỗi ngày sản xuất 50 triệu gallons nước ngọt [tương đương với 190,000 mét khối nước], từ nguồn nước biển, đủ cung cấp nước cho 400,000 ngàn cư dân Quận hạt San Diego; với giá thành ½ xu [half a penny] cho một gallon. The San Diego County Water Authhority – SDCWA đã gọi nơi đây là “nhà máy khử mặn nước biển lớn nhất nước, với kỹ thuật tiên tiến nhất, và sử dụng năng lượng hiệu quả nhất – energy efficient.”

Dự án xây nhà máy khử mặn tại quận hạt San Diego bắt đầu từ 1993 sau 5 năm tiểu bang California bị khô hạn – drought. Kỹ thuật màng – membrane technology cho nhà máy đã được General Atomics La Jolla tiên phong áp dụng trước đó.

blank

Hình 3_ Nhà máy Khử mặn Carlsbad trên một diện tích 4 mẫu Anh – four-acre site, địa chỉ 4600 Carlsbad Bld. Carlsbad, CA 92008. Được khánh thành ngày 14 tháng 12 năm 2015, kế cận nhà máy điện không còn hoạt động Encina Power Station, sát bên vịnh Agua Hedionda Lagoon Thái Bình Dương. Vận hành nhà máy không cần nhiều công nhân do kỹ thuật tự động hoá – automation. (1,2)

Với viễn kiến, đây sẽ là nơi sản xuất nguồn nước ngọt bổ sung cho nguồn nước nhập từ sông Colorado, từ vùng châu thổ Sacramento bắc California, cùng với nguồn nước mưa và từ tầng nước ngầm / groundwater…

Ban đầu các nhà hoạt động hoạt động môi sinh – environmentalists đã mạnh mẽ chống đối dự án này, nêu ra những lý do: tiêu phí năng lượng – energy consumption, nước thải quá mặn – brine discharge, và cả lấy nguồn nước biển có thể làm chết cá. Đã có năm vụ kiện lớn chống dự án xây dựng nhà máy khử mặn nhưng đều không thành công.

Nhà máy được khởi công xây dựng từ tháng 12 năm 2012 – tức là 19 năm sau từ ngày hình thành dự án (1993- 2012), dự trù hoàn tất sau 4 năm 2016, nhưng đã được hoàn tất sớm hơn một năm do tình trạng hạn hán liên tục của California. Cho dù đã xây cất xong, nhà máy được chạy thử nghiệm 6 tháng trước khi bắt đầu cung cấp nguồn nước cho San Diego.

Nhà máy được tập đoàn Poseidon Water điều hành, và xây dựng công trình bao gồm một số công ty kỹ thuật chính như: GHD Group, IDE Americas Inc. – chi nhánh của một công ty Do Thái: Israel-based IDE Technology.

Nước ngọt từ nhà máy được chuyển xuống San Diego bằng một đường ống dài 16 km đường kính 1.4 m, để đưa nước về SDCWA tại San Marcos là trung tâm phân phối nước cho toàn vùng San Diego.

NHÀ MÁY CARLSBAD HOẠT ĐỘNG RA SAO?

Nhà máy lọc nước biển Carlsbad được cho xây ngay bên cạnh nhà máy nhiệt  điện không còn hoạt động và nhờ đó được sử dụng đầm nước/ lagoon và máy bơm nước biển và hệ thống thải nước ra biển chung với nhà máy điện mà không cần xây thêm.

Lấy 380,000 mét khối nước biển/ ngày từ nguồn nước làm mát máy điện / cooling water từ nhà máy nhiệt điện Encina Power Plant ngay kế cận, bước đầu được lọc qua các tầng đá vụn – gravel, cát và than đá cứng nhằm làm loại bỏ các hạt tạp chất và những hạt lơ lửng.

Sau đó được khử mặn qua hệ thống lọc theo kỹ thuật “thẩm thấu đảo nghịch / hay thẩm nghịch – reverse osmosis.” Nửa nguồn nước mặn này: 190,000 mét khối được chuyển thành nguồn nước uống tinh khiết, nửa còn lại được với độ mặn cao mà từ chuyên môn gọi là concentrated brine; do có độ mặn cao hơn 20% so với nước biển, nên lượng nước mặn đậm đặc này cần được pha loãng trước khi được đổ ra biển. Do nhà máy điện Encina Power Station đã ngưng hoạt động từ 2017,  Poseidon Water đã thay thế đảm trách giai đoạn pha loãng này.

blank

Hình 4_ Jessica H. Jones giải thích: nước biển được bơm vào nhà máy; trước hết phải qua giai đoạn gạn lọc các tạp chất và những hạt lơ lửng – suspended particles qua các tầng đá vụn, cát và tầng than đá cứng anthracite – hard coal, trước khi bước sang giai đoạn 2 thanh lọc khử mặn. (1,2)

 

blank

Hình 5_ Tiếp theo đó, nước biển được lọc khử mặn với kỹ thuật “thẩm thấu đảo nghịch – reverse osmosis qua các tấm màng lọc”. Các lỗ của màng lọc có kích thước cực nhỏ chỉ bằng 1 phần triệu đường kính của sợi tóc. (1,2)

Tuy đi vào hoạt động đã 5 năm nhưng ban kỹ thuật vẫn luôn luôn quan tâm theo dõi ảnh hưởng của nhà máy trên môi trường. Ví dụ, một cuộc khảo sát tháng Giêng, 2019 ghi nhận nước thải từ nhà máy đã tăng độ mặn nước biển vùng cận duyên – offshore nhưng không quá 10% không gây ảnh hưởng đáng kể tới các giống loài thuỷ sinh trong vùng.

blank

Hình 6_ Jessica đang giới thiệu mẫu màng lọc – reverse osmosis membranes dùng trong giai đoạn khử mặn từ nước biển. Khi được hỏi về độ bền của màng lọc là bao lâu? Câu trả lời của Jessica là “10 năm”, tuổi thọ ấy đối với chúng tôi là điều khá ngạc nhiên. Từ phải: Jessica, Ngô Thế Vinh, KS Ngô Minh Triết, và khách tham quan. [photo by Phạm Phan Long]

KHÔNG HOÀN TOÀN THUẬN BUỒM XUÔI GIÓ

Để cân bằng tác động trên môi trường – to offset environment impact, 27 mẫu đất (hectare) sình lầy – wetlands, được quy hoạch trong vịnh San Diego, hệ thống pin mặt trời – solar panels sẽ được lắp ráp trên nóc nhà máy, và lượng khí thải carbon – carbon emission sẽ được mua lại.

Nhóm Bảo vệ Bờ biển San Diego – San Diego Coastkeeper (2015) cũng đã kiện nhà máy nước SDCWA do những mối quan tâm về môi sinh, cho rằng nhà máy đã vi phạm California Environmental Quality Act do xử dụng nhiều năng lượng và gây hậu quả nhà kính – greenhouse effect từ nhà máy này. Họ không chống dự án khử mặn Carlsbad nhưng đòi hỏi nhà máy phải có những nỗ lực giảm thiểu thích đáng các hậu quả tiêu cực trên môi trường – proper mitigation, và yêu cầu trên đã được SDCWA quan tâm và đáp ứng.

Do tiêu chuẩn về môi trường của California được coi là khắt khe nhất nước Mỹ, nói chung chi phí của họ còn cao vì ngoài tổn phí nhà máy như bơm nước từ khoảng cách xa 16 km tới các thành phố tiêu dùng; còn phải kể tới các công trình vét nạo đáy biển, trồng rừng, Net Zero carbon footprint, nuôi trồng / farming hải sản tại trong đầm – lagoon, chuyển dịch hải sinh vật / cấy lại sang vùng biển khác gần San Diego, và cả chi phí cho PR Campaign liên tục để vận động ủng hộ của dân chúng.

PHẨM CHẤT NƯỚC VÀ GIÁ THÀNH

Nhà máy Khử Mặn Carlsbad đã hoạt động được 5 năm, tạo được uy tín do chất lượng nguồn nước cung cấp từ nhà máy này. Hiện nay, nhà máy mỗi ngày sản xuất 50 triệu gallons nước ngọt [190,000 mét khối nước], từ nước biển, đủ cung cấp nước cho 400,000 ngàn cư dân Quận hạt San Diego; với giá thành ½ xu [half a penny] cố định trong 30 năm cho một gallon. [So với giá mua nước từ sông Colorado là ¾ xu/ gallon và có thể sẽ còn tăng thêm trong tương lai].

The San Diego County Water Authhority – SDCWA đã gọi nơi đây là “nhà máy khử mặn nước biển lớn nhất nước, với kỹ thuật tiên tiến nhất, và sử dụng năng lượng hiệu quả nhất – energy efficient.”

 

            Được biết chuyến đi thăm của chúng tôi là mấy tours cuối cùng trong năm nay. Sau đó nhà máy khử mặn Carlsbad không còn chương trình tham quan nào khác, do Poseidon Water sẽ sớm khởi động một kế hoạch xây dựng giai đoạn 2  mở rộng và tăng công xuất nhà máy.

 

*
blank

Hình 7_ Với nguồn nước mặn gần như vô tận từ Thái Bình Dương, qua các công đoạn khử cặn rồi khử mặn, cuối cùng là nguồn nước uống tinh khiết. Poseidon Water sản xuất 50 triệu gallon – 190,000 mét khối nước ngọt / ngày, giá thành 1/2 xu / gallon và các thành phố mua nước qua SDCWA và trả tiền theo công tơ. [photo by Phạm Phan Long]  

ĐBSCL MỘT CÁI TẾT NGÃ MẶN VÀ BƯỚC CÔNG NGHIỆP HOÁ

Những ngày trước Tết, Anh Dohamide/ Đỗ Hải Minh gốc người Chăm, sinh trưởng ở Châu Đốc báo tin: Bến Tre đang ngập mặn nặng. Tuy sống ở hải ngoại, ở tuổi 86 không còn khoẻ nữa mà anh vẫn luôn luôn nặng lòng với quê nhà.

TS Phạm Đỗ Chí gửi cho tôi mấy dòng Tản mạn cuối năm của Lưu Trọng Văn:

Hôm nay 29 tết rồi. Sóc Trăng nước ngọt không về, nước mặn tràn bờ, nước giếng khoan sâu lòng đất không đủ cho người dùng, đâu đến lượt cây…

 

      Dự án 14 nhà nhiệt máy điện ở ĐBSCL, tuy chỉ mới 3 nhà máy hoạt động, mà đã gây tình trạng ô nhiễm đất đai với tràn ngập than sỉ, ô nhiễm không khí với khói và bụi mịn… Ưu tư với thảm trạng môi trường ấy, KS Phạm Phan Long, Hội Sinh Thái Việt / VEF cho rằng: với  nguồn Năng Lượng tái Tạo – NLTT từ mặt trời, từ gió sẽ quá rẻ bắt buộc các nhà máy nhiệt điện rồi ra sẽ phải đóng cửa và qua điển hình Nhà máy Khử Mặn Carlsbad được xây dựng trên nền của nhà máy điện than Encina Power Station, thì sau này các khu nhà máy nhiệt điện nơi ĐBSCL sẽ là những địa điểm rất thuận lợi để xây dựng nhà máy lọc nước biển, nước thải.

Bước vào Thế kỷ 21, nhân loại không thiếu giải pháp kỹ thuật bền vững và khả thi kinh tế cho NLTT và nguồn nước, chỉ thiếu chính sách, quy hoạch và lãnh đạo có bản lãnh có tầm nhìn chiến lược.

 

blank

Hình 8_ Trước nạn ngập mặn nặng toàn tỉnh Bến Tre, sáng 10.01.2020 một buổi hội thảo giới thiệu túi trữ nước ngọt (có sức chứa từ 1 tới 100 mét khối) theo Chương trình Khoa Học & Công Nghệ Cấp Nhà Nước [sic] do công ty nhựa Tân Đại Hưng sản xuất [trên, SGGP Online 11.01.2020]. Người dân Bến Tre có dịp tìm hiểu thêm “giải pháp hữu hiệu” để ứng phó với tình trạng hạn mặn địa phương [dưới: báo điện tử Bộ TN & MT 12.01.2020]. 

Một nước Mỹ giàu mạnh như hiện nay có phần công lao rất lớn từ sáng kiến đầu tư của tư nhân. Họ biết tìm nguồn lợi nhuận cho cả mục đích công ích. Đứng trong khu nhà máy Khử Mặn Carlsbad lớn nhất nước Mỹ, được hình thành với 100% vốn từ tư nhân; không thể không trạnh nghĩ nhìn về Việt Nam, về ĐBSCL, nghĩ đến những đại gia của Việt Nam hiện nay. Đa số khởi nghiệp bằng đầu tư bất động sản từ đất đai của dân chúng, hoặc họ có đặc quyền khai thác nguồn tài nguyên nào đó của đất nước và rồi trở thành tỷ phú USD. Và có bao giờ họ nghĩ được rằng, sẽ trả ơn phần nào cho đất nước và người dân đã nuôi dưỡng họ bằng đất đai có thấm đẫm mồ hôi và nước mắt để họ có được ngày hôm nay.

Rồi nhìn về phía Nhà nước, với bao nhiêu công trình xây cất lãng phí hàng tỷ USD, điển hình như cống đập Cửa Ba Lai và các hệ thống ngăn mặn cùng khắp ĐBSCL, có thể nói là một thất bại toàn diện. Sau bài học thất bại của cống đập Ba Lai, và rồi sắp tới đây, là một công trình khác lớn hơn thế nữa: Cái Lớn Cái Bé.

Nhà nước nên có sáng kiến thực tiễn hơn: dùng số tiền  tỷ USD ấy để xây dựng những dự án thật sự công ích. Khởi đầu là một tỷ USD cho xây một nhà máy khử mặn / Desalination Plant, một tỷ đồng khác xây dựng một nhà máy thanh lọc nước thải / Waste Water Treatment Plant, đó là những gì khẩn cấp nhất mà 20 triệu cư dân  ĐBSCL đang thiếu nước ngọt giữa cơn hạn ngập mặn và nguồn nước ô nhiễm trầm trọng như hiện nay.

Đó mới thực sự là bước công nghiệp hoá chứ không phải với những túi nhựa chứa nước ngọt đang bán ra cho nông dân mà vẫn được gán cho danh hiệu Công trình Khoa Học & Công Nghệ Cấp Nhà Nước. [sic]

Nếu điều ấy là hiện thực, thì Việt Nam sẽ là quốc gia tiên phong trong vùng Đông Nam Á ứng dụng các bước công nghiệp hiện đại đối phó với biến đổi khí hậu và các bước khai thác huỷ hoại và từ những con đập Mekong thượng nguồn.

Nhóm Bạn Cửu Long gửi bài viết này tới 20 triệu cư dân 13 tỉnh Miền Tây đang sống những ngày thiếu nước, kể cả nước uống. Và cũng để thấy rằng vẫn có đó những giải pháp để sống còn nếu có được một cấp lãnh đạo biết lo cho dân và cả có một tầm nhìn chiến lược.

NGÔ THẾ VINH

Carlsbad Desalination Plant 14.01.2020

California, Little Saigon Mùng Một Tết

THAM KHẢO:

1/ Claude “Bud” Lewis Carlsbad Desalination Plant, Wikipedia https://en.wikipedia.org/wiki/Claude_%22Bud%22_Lewis_Carlsbad_Desalination_Plant

2/ Carlsbad Deslination Project. Enhancing Water Reliability for San Diego County. https://www.carlsbaddesal.com/uploads/1/0/0/4/100463770/pw_tour_boards_48x96_012916_webv4.pdf

3/ World Water Day 2020: Water and Climate Change. UN Water 22 March World Water Day https://www.worldwaterweek.org/event/8398-world-water-day-2020-water-and-climate-change

4/ Ngày Nước Thế giới 2017 với chủ đề Nước Thải. Đi Thăm Khu nhà máy xử lý Nước thải và Hệ thống bổ sung tầng nước ngầm tại Quận Cam. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 23.03.2017 http://vietecology.org/Article/Article/266

Việt Nam thất thủ chiến lược trên địa bàn Sông Cửu Long (Ngô Thế Vinh)

LGT: Xin trân trọng giới thiệu bài viết mới nhất của Nhà văn Bác sĩ Ngô Thế Vinh bàn về tác động của những con đập trên sông Cửu Long. Tác giả là người đã cảnh báo về sự cạn kiệt của sông Cửu Long hơn 20 năm trước qua cuốn sách sưu khảo “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng”. Những gì xảy ra gần đây có đúng với những gì tác giả dự báo hơn hai thập niên trước. Qua theo dõi tình hình, tác giả rất bức xúc trước những gì đã và đang xảy ra trên dòng sông huyền thoại và là nguồn sống của hàng trăm triệu người. Ít khi nào tôi thấy tác giả, một người nho nhã, dùng chữ ‘thất thủ’ trong bài viết, nhưng tôi tôn trọng ý kiến của tác giả. NVT

Ngô Thế Vinh
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

Dẫn nhập:

Vậy mà đã 62 năm kể từ khi Liên Hiệp Quốc khai sinh Ủy Ban Sông Mekong [1957] và cũng đã 24 năm từ ngày thành lập Ủy Hội Sông Mekong[1995]. Tính đến nay 2019, Bắc Kinh đã xây xong 11 con đập thủy điện khổng lồ/mega-dams (6, 7) chắn ngang dòng chính sông Lancang Jiang, tên Trung Quốc của con sông Mekong chảy trong lãnh thổ TQ với lượng điện sản xuất đã lên tới 21,300 MW và TQ vẫn đang tiếp tục xây thêm 19 con đập khác; Thái Lan ngoài các con đập phụ lưu, còn có kế hoạch chuyển dòng lấy nước từ sông Mekong, và nayhai nước Lào và Cambodiacòn có thêm dự án 12 đập dòng chính hạ lưu. Ngoài ra còn hàng trăm con đập phụ lưu đã và đang xây trên khắp lưu vực Sông Mekong, kể cả trên Cao nguyên Trung phần Việt Nam.

Khi mà hai con đập lớn nhất Nọa Trác Ðộ/Nuozhado 5,850 MW và Tiểu Loan/Xiaowan4,200 MW đãhoạt động phát điện toàn công suất, có thể nói về tổng thể Trung Quốc đã hoàn tất phần lớn nhất kế hoạch thủy điện bậc thềm Vân Nam với 40 tỉ mét khối nước dự trữ trong các hồ chứa, tích luỹ trên 50% lưu lượng dòng chảy trung bình hàng năm và chặn 90% phù sa từ thượng nguồn,đủ cho TQ nắm quyền sinh sát toàn lưu vực sông Mekong.

Không hề có dấu hiệu nào các dự án xây đập thủy điện trên suốt dọc chiều dài sông Lancang-Mekong sẽ chậm lại. Với 11 con đập Vân Nam, nay thêm 4 con đập dòng chính ở Lào: đập Xayaburi và Don Sahong đã hoàn tất (2019), đâp Pak Beng và Pak Lay đang triển khai, các quốc gia trong lưu vực dưới Sông Mekong đang phảihứng chịu những hậu quả nhãn tiền:

1/ Bắc Thái Lan, Tháng 7 vừa qua, do khúc sông Mekong cạn dòng với cá chết, đồng lúa khô cháy, Thủ Tướng Thái Lan phải kêu gọi TQ cứu nguy xả nước từ con đập Cảnh Hồng, Thái cũng yêu cầu Lào tạm ngưng hoạt động phát điện từ con đập Xayaburi; mà cũng Thái Lan là khách hàng chính mua điện từ cả hai con đập này. (4)

2/ Biển Hồ trái tim của Cambodia mực nước xuống thấp nhất,có nơi trơ đáy cho dù đã quá giữa mùa mưa; do mất nhịp đập của lũ/Mekong flood pulse, con sông Tonle Sap không thể đổi chiều, đưa nước chảy ngược lên Biển Hồ, như vậy có thể sẽ không còn Lễ hội Nước Bon Om Tuk truyền thống hàng năm nơi Quatre Bras, Phnom Penh.

3/ Ðồng Bằng Sông Cửu Long, năm nay 2019 cho đến tháng 7 qua cuối tháng 8 nước lũ thượng nguồn đổ về vẫn quá ít, mực nước ở Tân Châu và Châu Ðốc xuống cực thấp – phá cả kỷ lục thấp nhất của năm hạn hán 2016, không chỉ ngư dân mất nguồn cá mà nông dân thì thấy trước không có đủ nước cho vụ lúa sắp tới và còn phải hứng chịu thêm một thảm họa kép: do không có sức đẩy của nguồn nước ngọtthượng nguồn, nạn nhiễm mặn sẽ trầm trọng hơn và đang lấn sâu hơn nữa vào vùng châu thổ. (5) 

Câu hỏi khẩn thiết đặt ra là: 70 triệu cư dân trong Lưu vực Sông Mekong và ngót 20 triệu dân vùng ÐBSCL sẽ phải làm gì để thích nghi và sống còn, trước khi tình thế không thể đảo nghịch?

Ủy Hội Sông Mekong/MRC bao gồm Ủy Ban Sông Mekong Việt Nam trong ngót một phần tư thế kỷ qua đã chứng tỏ vô hiệu, nếu không muốn nói là gián tiếp đồng lõa cho các dự án đập thủy điện hiện nay. Chính Việt Nam cũng xây các đập thủy điện trên các phụ lưu Sông Mekong, cũng là khách hàng quan trọng mua thủy điện của Lào và Cambodia và cả đầu tư góp vốn cho các dự án xây đập của hai quốc gia này…

BS Ngô Thế Vinh, tác giả cuốn CLCD BÐDS xuất bản từ năm 2000, cùng với nhóm Bạn Cửu Long, từng theo dõi và lên tiếng báo động liên tục về một Lưu Vực Sông Mekong và ÐBSCL trước nguy cơ. (1) Và đây là một bài viết cập nhật tháng 8, 2019, với một nhận định khá bi đát là: Việt Nam đã bị thất thủ chiến lược trên địa bàn Sông Mekong – và ÐBSCL đang đứng trước nguy cơ bị tan rã.

Việt Ecology Foundation

KHỞI ÐI TỪ MỘT SAI LẦM CHIẾN LƯỢC

Qua ngót một phần tư thế kỷ, kể tử ngày 5 tháng 4 năm 1995 khi Ngoại Trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đại diện cho Việt Nam đặt bút ký Hiệp Ðịnh về Hợp Tác Phát triển Bền vững Lưu vực Sông Mekong, Việt Nam đã phạm một sai lầm chiến lược làtừ bỏ quyền phủ quyết /Veto Power, một điều khoản hết sức quan trọng đã có trong Hiệp Ðịnh Ùy Ban Sông Mekong 1957 (Mekong River Committee) vì Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn. Người viết cách đây ngót 2 thập niên đã đưa ra nhận định là Ủy Hội Sông Mekong 1995 (Mekong River Commission) là một “biến thể và xuống cấp” so với Ủy Ban Sông Mekong 1957 thời Việt Nam Cộng Hòa trước đây.

Rồi trải qua bao nhiêu Hội nghị Thượng đỉnh từ cấp Thủ Tướng tới hàng Bộ trưởng, vẫn không có một nỗ lực cụ thể hay tiếng nói mạnh mẽ nào từ Việt Nam để cùng các quốc gia trong lưu vựcthực hiện những điều tối thiểu đã giao kết trong Hiệp Ðịnh về Hợp Tác Phát triển Bền vững Lưu vực Sông Mekong 1995. Và không phải là ngẫu nhiên mà ÐBSCL mới mau chóng phải đối đầu với một thảm họa môi sinh như hôm nay.

CẢNH ÐỒNG SÀNG DỊ MỘNG

Khi mà trong mỗi kế hoạch khai thác Sông Mekong đã ẩn chứa những mâu thuẫn sâu xa về quyền lợi giữa các nước thành viên nếu chỉ đứng trên quan điểm quốc gia hạn hẹp. Không dễ gì vượt qua trở ngại ấy nếu không có được một mẫu số chung – một Tinh Thần Sông Mekong, với không khí đối thoại cởi mở dẫn tới sự tin cậy để cùng nhau tính toán từng bước thận trọng trên quan điểm phát triển bền vững/sustainable development cho toàn lưu vực.

Cho dù từ những thập niên 1950, 1960 Ủy Ban Sông Mekong 1957 đã có những kế hoạch vĩ mô xây dựng các đập thủy điện lớn trên sông Mekong nhằm thăng tiến kinh tế cho cho vùng hạ lưu nhưng đã bị gián đoạn do cuộc Chiến tranh Việt Nam, khiến cho con sông Mekong vẫn còn giữ được vẻ hoang dã và cả sự nguyên vẹn thêm một thời gian nữa.

Và để rồi, bắt đầu từ thập niên 1970, Trung Quốc như một “kẻ đến sau”nhưng đãnhanh chóng có cả một kế hoạch vĩ mô khai thác nguồn thủy điện phong phú của sông Lancang-Mekong với hàng loạt các dự án đập khổng lồ trên khúc sông chiếm hơn nửa chiều dài Sông Mekong 4,800 km nằm trong lãnh thổ Trung Quốc. Và kết quả Bắc Kinh, tuy là “kẻ đến sau nhưng đã về trước”và tính đến nay, Trung Quốc hoàn tất 11 con đập khổng lồ trên khúc sông Lancang-Mekong (6,7) bắt nguồn từ Tây Tạng xuống Vân Nam và Trung Quốc hiện nay đã nắm trong tay 40 tỉ mét khối nước của con Sông Lancang-Mekong.

TỪ NHỮNG QUAN ÐIỂM ÐỐI NGHỊCH

Quan điểm từ Trung Quốc: ngay từ đầu Bắc Kinh đã từ chối không muốn tham gia vào Ủy Hội Sông Mekong bao gồm 4 nước: Lào, Thái, Cambodia và Việt Nam, để hoàn toàn không bị ràng buộc vào những điều khoản trong Hiệp Ðịnh về Hợp Tác Phát triển Bền vững Lưu vực Sông Mekong 1995,với mục đích Bắc Kinh có toàn quyền tự do khai khác con Sông Lancang-Mekong [Lancang Jiang tên Trung Quốc của con Sông Mekong] chảy trong lãnh thổ Trung Quốc, bất chấp hậu quảtiêu cực xuyên biên giới/transboundary negative effectsra sao đối với các quốc gia hạ nguồn. Ðiển hình là hai trận hạn hán khốc liệt 2016 rồi 2019 nơi vùng hạ lưu trong khi Trung Quốc vẫn giữ một khối nước rất lớn trong các hồ chứa thủy điện của mình.

Trận hạn hán tháng 4, 2016, khi mà Trung Quốc tiếp tục trữ nước trong các con đập, trực tiếp nhất là trong hồ chứa con đập Cảnh Hồng khiến mực nước xuống hạ lưu thấp tới mức kỷ lục, không chỉ ở vùng Ðông Bắc Thái nằm ngay dưới chân chuỗi đập Vân Nam chịu tác động trực tiếp, mà ngay ở nơi xa nhất cuối nguồn với ngót 20 triệu cư dân nơi ÐBSCL cũng vô cùng khốn đốn vì thiếu nước. Ðiều khá hài hước, là Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng lúc đó chỉ còn biết kêu cứu Bắc Kinh xả nước từ hồ chứa đập Cảnh Hồng, điều mà trong thâm tâm Trung Quốc chẳng hề muốn làm, và rõ ràng Việt Nam hoàn toàn bị “thất thủ chiến lược” trước trận chiến môi sinh / ecological warfare” vô cùng thâm độc của Trung Quốc.

Trận hạn hán tháng 7, 2019, Trung Quốc lại một lần nữa không hề báo trước, giữa mùa mưa ít vẫn tiếp tục lấy nước vào các hồ chứa khiến cư dân Bắc Thái bị ngay một trận hạn hán của thế kỷ, đồng ruộng khô cháy, khúc Sông Mekong trơ đáy với cá chết. Lần này thì đến lượt Thủ Tướng Thái Lan Prayut Chan-o-cha phải kêu gọi Bắc Kinh xả nước từ đập Cảnh Hồng để cứu cho nông và ngư dân vùng Bắc Thái. (4) Không chỉ có vậy, như một chuỗi phản ứng dây chuyền, ba nước Lào – Cambodia – Việt Nam chịu những hậu quả hạn hán khốc liệt không kém. Biển Hồ chưa bao giờ cạn nước đến như thế, có nơi trơ đáy khiến ghe thuyền mắc cạn [Hình 5], không phải chỉ hơn 1.5 triệu cư dân Cambodia sống quanh Biển Hồ khốn đốn vì hạn hán mà ÐBSCL cũng đang chịu những “cơn đau thắt ngực” do trái tim Biển Hồ đang bị thiếu nước trầm trọng.

Những con đập thủy điện trên dòng chính Sông Mekong: chỉ với 11 con đập trên Sông Lancang-Mekong thượng nguồn, TQ đã lưu trữ 40 tỉ mét khối nước, sản xuất 21,300 MW điện; riêng Lào đang hiện thực giấc mơ trở thành “Bình điện Á Châu/ Asia’s Battery” hay “xứ Kuwait Thủy điện Ðông Nam Á,” Lào cũng lưu trữ 30 tỉ mét khối nước hàng năm. [Nguồn: Michael Buckley, cập nhật 2019]

Và rồi là những ngụy biện của Trung Quốc: để tự bào chữa cho các con đập thủy điện khổng lồ Vân Nam, các công trình sư Tàu đã lý luận rằng các hồ chứa đập thủy điện ở thượng lưu có chức năng rất hữu ích: điều hoà dòng chảy con sông Mekong cho các quốc gia hạ nguồn: giữ nước trong Mùa Mưa làm giảm thiệt hại do lũ lụt nơi hạ nguồn và rồi trong mùa khô cũng vẫn những hồ chứa các con đập ấy xả nước xuống hạ lưu nhiều hơn lưu lượng tự nhiên& Lý luận giản đơn và ngụy biện ấy cho đến nay vẫn khiến một số người tin – kể cả giới khoa bảng; nhưng thực tế thì không diễn ra như vậy, và chuỗi đập VânNam đang mang tới thảm họa chứ không hề mang lại những lợi ích mà Bắc Kinh luôn rêu rao.

KS Phạm Phan Long, Việt Ecology Foundation trong bài viết mới đây trên VOA, đã nhận định: “Do Biến đổi Khí Hậu, mưa ít dần trên lưu vực là có thật nhưng hạn hán sớm hơn và khắc nghiệt hơn khi thiếu mưa là do vận hành các hồ chứa thủy điện, chính chúng có khả năng gây ra hạn hán cả khi có mưa, chưa kể vào những năm ít mưa, tích trữ nước gây hạn hán càng thêm kinh khủng.” (3)

…Rất sớm, từ hơn 10 năm trước (05/2009), Chương Trình Môi Sinh Liên Hiệp Quốc đã phải lên tiếng cảnh báo rằng “chuỗi đập Vân Nam là mối đe dọa duy nhất – lớn nhất/the single greatest threat” đối với tương lai và sự phồn vinh của con Sông Mekong, sẽ giết chết nhịp đập thiên nhiên của dòng sông/Mekong flood pulse, với con Sông Tonle Sap chảy hai chiều vốn như một hiện tượng thiên nhiên kỳ quan của thế giới.

Aviva Imhoff , nguyên giám đốc truyền thông Mạng Lưới Sông Quốc Tế IRN, cũng đưa ra nhận định: Trung Quốc đang hành xử một cách hết sức vô trách nhiệm. Chuỗi đập Vân Nam sẽ gây ra những tác hại vô lường nơi hạ lưu, gây rối loạn toàn hệ sinh thái con sông Mekong xa xuống tới Biển Hồ, nó như một chuông báo tử cho ngư nghiệp và nguồn cá vốn là thực phẩm của ngót 70 triệu cư dân sống ven sông.

-Quan điểm từ Thái Lan: ngoài việc xây đập thủy điện trên các phụ lưu như đập Pak Mun 136 MW (1994) trên sông Mun,vàcả kế hoạch chuyển dòng lấy nước từ Sông Mekong vào những hồ chứa nhằm cung cấp nước cho các cánh đồng lúa ở miền Trung và Ðông Bắc Thái.Cũng chính công ty Thái Lan Ch. Karchang đãgiúp Lào xây con đập dòng chính đầu tiên Xayaburi vùng hạ lưu, và quan trọng hơn nữa Thái Lan là khách hàng chính mua 95% lượng thủy điện của Làoqua Công ty EGAT / Electricity Generating Authority of Thailand,như thêm động lực tạo thuận cho Vientiane phát triển thêm về thủy điện trên khắp nước Lào. Và cần nói thêm, chính Thái Lan cũng là khách hàngchính mua thủy điện của TQ từ con đập Cảnh Hồng 1,750 MWhoạt động từ 2008.Cảnh Hồng hiện đang là con đập thủ phạm trực tiếp gây họakhiến cư dân các tỉnh Bắc Thái đang phải kêu trời.

-Quan điểm từ Lào: là một quốc gia tương đối nghèo nhất trong vùng, với những người Lào thấy được tiềm năng thủy điện phong phú của con Sông Mae Nam Khong [tên Lào-Thái của Sông Mekong], Lào nuôi giấc mơ canh tân, họ muốn biến đất nước Lào trở thành một xứ“Kuwait về thủy điện Ðông Nam Á” hay “Bình điện ÁChâu/Asia’s Battery.” Nam Ngum 150 MW là con đập thủy điện phụ lưu đầu tiên của Lào và được hoàn tất rất sớm từ 1971 giữa giông bão của cuộc chiến tranh Việt Nam. [Hình 3]

Sau đó, trong suốt hơn bốn thập niên, Lào đã và đang liên tục xây vô số các đập thủy điện trên những phụ lưu Sông Mekong, trong đó phải kể các con đập phụ lưu rất lớn như Nam Theun-2 900 MW,Theun Hinboun& và nay tớikế hoạch triển khaixây 9 con đập dòng chính trên Sông Mae Nam Khong màcon Domino đầu tiên là đập Xayaburi, tới con đập thứ hai Don Sahong và còn tiếp tục xây tiếp các con đập khác: Pak Bengcon đập thứ ba đang xây,và Pak Lay dự án thủy điện dòng chính thứ tư, đã qua giai đoạn tham vấn rất tượng trưng và chắc chắn Lào sẽ tiến hành xây những con đập dòng chínhbất chấp những tác hại tiêu cực xuyên biên giới đặc biệt là Ðồng Bằng Sông Cửu Long ra sao.

Không chỉ Trung Quốc lưu giữ 40 tỉ mét khối nước hay 53% vũ lượng hàng năm của lưu vực Lancang-Mekong; Lào cũng cất giữ 30 tỉ mét khối nước hay 18% vũ lượng hàng năm của lưu vực dưới Sông Mae Nam Khong, tên khúc SôngMekong trên đất Lào. Cũng phải kể ảnh hưởng tác hại của hệ thống đập thủy điện phụ lưu của Lào đối với hai quốc gia dưới nguồn là Cambodia và Việt Nam rất đáng kể kể đối với tình trạng dòng chảy, lượng phù sa và nguồn cá trong lưu vực sông Mekong.

Nam Ngum, con đập thủy điện phụ lưu đầu tiên của Lào 1971, (biểu ngữ giăng ngang con đập đánh dấu 25 năm thống nhất nước Lào [photo by Ngô Thế Vinh 2000]

-Quan điểm từ Cambodia: Hun Sen, Thủ tướng lâu năm nhất của Cambodia và của cả thế giới, đã luôn luôn phủ nhận ảnh hưởng tác hại của các con đập thủy điện thượng nguồn đối với dòng chảy Sông Tonle Thom (tên Cambodia của con Mekong) và chấp nhận vô điều kiện kế hoạch xây đập của Trung Quốc trên thượng nguồn, cho dù chính sách ấy đi ngược với tất cả tiếng nói của các nhà bảo vệ môi sinh và ngót 70 triêu cư dân ven sông.

Cứ 4 năm một lần, năm 2018 TT Nguyễn Xuân Phúc lại dẫn một phái đoàn đi dự Hội Nghị Thượng Ðỉnh Ủy Hội Sông Mekong [MRC Summit], đem theo một bài diễn văn viết sẵn với ngôn từ rất hoa mĩ; [hai cuộc họp Thượng Ðỉnh trước 2010, 2014 nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu phái đoàn VN]; và như từ bao giờ khi các bài diễn văn được đọc xong, là lúc 4 nguyên thủ quốc gia Mekong cùng bước lên sân khấu nối vòng tay trong tay cho báo chí chụp hình PR, sau đó ai về nhà ấy, để rồi 4 năm sau là một Hội Nghị Thượng Ðỉnh khác, với cùng một kịch bản, vẫn những khẩu hiệu trống rỗng, trong khi Con Sông Mekong, Biển Hồ, ÐBSCL thì đang chết dần. Hà Nội thì chưa bao giờ có được tiếng nói mạnh mẽ – nhất là với Trung Quốc và cả Lào, để bảo vệ nguồn nước ngọt và phù sa sinh tử của mình, cho dù biết rõ Việt Nam là một quốc gia nạn nhân cuối nguồn. [Nguồn: ảnh MRC Việt Nam].

Rất sớm, từ tháng 7 năm 2005, Thủ tướng Hun Sen, khi sang dự Hội Nghị Thượng Ðỉnh Côn Minh, đã tỏ ra thỏa mãn với tình hình khai thác con Sông Mekong, theo ông chẳng có vấn đề gì phải quan tâm. Ông công khai lên tiếng ủng hộ Bắc Kinh, đối với kế hoạch khai thác sông Mekong, ông còn cho rằng các ý kiến chỉ trích chỉ để chứng tỏ họ chú ý tới môi sinh, và họ dùng đó như thứ rào cản nhằm ngăn sự hợp tác nên có giữa 6 quốc gia. (Hunsen backed China’s often-criticized development plans for the Mekong River, AFP Phnom Penh, June 29, 2005)

Năm năm sau, tháng 11 năm 2010, TT Hun Sen, sau Hội Nghị Thượng Ðỉnh ACMECS* ở Phnom Penh, đã lên tiếng bác bỏ mọi mối quan ngại về ảnh hưởng của các đập thủy điện trên thượng nguồn đối với dòng chảy Sông Mekong. Ông khẳng định rằng chu kỳ lũ lụt hay hạn hán là hậu quả của thay đổi khí hậu/climate change chứ chẳng liên hệ gì tới chuỗi những con đập thủy điện của Trung Quốc. (The Phnom Penh Post, Nov 17, 2010)

Trái hẳn với nhận định của TT Hunsen,cần nên ghi lại nơi đây những sự kiện phải nói là bi quan, liên quan tới Biển Hồ, Sông Tonle Sap và con Sông Mekong ngay trong thập niên đầu của thế kỷ 21:

Trên trang web World Wide Fund for Nature, đã ghi nhận: mực nước con sông Mekong tụt thấp xuống tới mức báo động kể từ 2004 và trở thành những hàng tin trang nhất trên báo chí. “Trung Quốc làm kiệt mạch sống sông Mekong_ New Scientist”; “Sông Mekong cạn dòng vì các con đập Trung Quốc_ Reuters AlertNet”; “Xây đập và con sông chết dần_ The Guardian”; “Sông cạn do các con đập Trung Quốc_ Bangkok Post”. Hầu hết đều mạnh mẽ quy trách cho việc xây các con đập thủy điện của Trung Quốc trên khúc sông thượng nguồn.

Theo Fred Pearce, tác giả cuốn sách “Khi Những Con Sông Cạn Dòng, Nước – Khủng Hoảng của Thế Kỷ 21” xuất bản 2006, trong chương viết về con sông Mekong, đã có ghi nhận:

…“Cuối năm 2003 và đầu năm 2004 là thời gian tuyệt vọng trên Biển Hồ. Cơn lũ về thấp hơn. Thời điểm con sông Tonle Sap chảy ngược vào Biển Hồ đến trễ hơn và cũng chấm dứt sớm hơn. Thay vì 5 tháng con sông đổi dòng nay chỉ còn có 3 tháng. Rừng lũ thiếu ngập lũ và cá thì không đủ thời gian để tăng trưởng… Và mùa thu hoạch cá chưa bao giờ thấp như vậy. Tại sao? Ða số ngư dân đổ tại con sông cạn dòng. Khi con nước cạn trước Hoàng cung, thì sẽ không có cá dưới sông.”

Không ai tin rằng, ông Thủ tướng Hun Sen lại có thể không biết tới “Hồi Chuông báo Tử” ấy, nhưng ông Hun Sen đã cố tình phủ nhận điều này do nhu cầu chính trị ngắn hạn “lấy lòng Trung Quốc” trong thời gian cầm quyền. Nhưng rồi ra, cái giá rất cao phải trả sẽ là tương lai của dân tộc Cam Bốt và cả nền văn minh xứ Chùa Tháp.

Biển Hồ thiếu nước ghe mắc cạn, Anh Tư Tiến phải nhẩy xuống lội nước cho ghe nhẹ bớt không bị đụng đáy… Do ảnh hưởng chuỗi đập thủy điện thượng nguồn, Biển Hồ đang bị co cụm và ngày một cạn dần. [Nguồn: Hình của Tưởng Năng Tiến]

Mới đây, tháng 10, 2017, TT Hun Sen khi chủ trì lễ khánh thành đập thủy điện Hạ-Sesan-2 ở Stung Treng, với công suất 400 MW và diện tích hồ chứa 340 km2 gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singapore trở thành con đập lớn nhất trong số 7 đập thủy điện của Cambodia do Công ty Hydrolancang của Trung Quốc nắm 51% cổ phần, Tập đoàn Hoàng gia Cambodia nắm 39% cổ phần và Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam (EVN) nắm 10% cổ phần, và đáng nói là nguồn điện của đập Hạ-Sesan-2 sẽ được xuất cảng sang Việt Nam.

-Quan điểm từ Việt Nam: một Việt Nam vừa thỏa hiệp vừa bị động từ 1975, 1995 và cho tới nay. Việt Nam cũng đã xây các hồ chứa đập thủy điện trên các phụ lưu Sông Mekongtrên cao nguyên Trung phần, như con đập Yali 720 MW (1996) trên sông Krong B’Lah ranh giới 2 tình Kontum và Gia Lai; các con đập khác trên sông Sesan và Seprok là phụ lưu Sông Mekong. Con đập Yali đã bị các cộng đồng cư dân các tỉnh đông bắc Cambodia lên án do làm cạn kiệtnguồn cá và cả những lần xả nước từ hồ chứa mà không thông báo trướcđã bất ngờ gây lũ lụt, làm tổn thất tài sản và cả nhân mạng cho cư dân Cambodia phía dưới con đập. Hồ chứa những con đập phụ lưu của Việt Nam chẳng phải là vô can trong tình trạng thiếu nước khô hạn nơi ÐBSCL.

Một “chiến lược không chiến lược” lại có chính sách “nước đôi / double standard”, một mặt Việt Nam cần nước, mặt khác lại có chính sách đi mua thủy điện của Lào, của Cambodia và đi xa hơn nữa là đầu tư vào các công trình thủy điện của Lào như dự án đập dòng chính Luang Prabang của PetroVietnam, đập thủy điện Hạ Sesan-2 của Cambodia.

Trước những tác hại hiển nhiên của các con đập trên ÐBSCL: biến đổi dòng chảy, mất nguồn nước, mất nguồn phù sa và cá… Nhà nước Việt Nam luôn luôn bị chi phối bởi các nhóm lợi ích, không những đã không có tiếng nói quyết liệt ngăn chặn mà còn góp vốn đầu tư thực hiện dự án tai hại ấy, có thể ví như một hành động cầm súng tự bắn vào chân mình/ shoot oneself in the foot.

-Quan điểm từ MRC: trải qua 24 năm từ ngày thành lập, Ủy Hội Sông Mekong trải qua nhiều giám đốc điều hành, đã chứng minh MRC là một tổ chức không hiệu lực, tới mức đi tới nhận định: Hiệp Ðịnh Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông Mekong 1995 hầu như đã tan vỡ.

Trong quá khứ và cả đến hiện nay, Ủy Hội Sông Mekong đã khá thụ động trước sự bộc phát của các dự án đập thủy điện Hạ Lưu. Các nhà hoạt động môi sinh kêu gọi tinh thần trách nhiệm của tổ chức liên chánh phủ này. “Ủy Hội cần chứng tỏ là một tổ chức hữu ích cho quần chúng, chứ không phải là cho các nhà đầu tư”, Surichai Wankaew, giám đốc Viện Nghiên cứu Xã hội Ðại học Chulalongkorn, Thái Lan nói tiếp “Nhiệm vụ Ủy Hội thay đổi, thay vì ‘tạo thuận/ facilitation’ cho việc xây đập, thì nay phải là ‘diễn đàn / platform’ cho cư dân bị ảnh hưởng nói lên mối quan tâm của họ.” Cũng trước đó, đã có hơn 200 tổ chức môi sinh từ 30 quốc gia yêu cầu Ủy Hội và các nhà tài trợ ngưng ngay các dự án xây đập.

Một kháng thư gửi Ủy Hội Sông Mekong và các Cơ quan Tài trợ nhân cuộc họp tại Siem Reap vào ngày 15/11/2007: “Chúng tôi, những nhóm công dân viết lá thư này để bày tỏ mối quan tâm về sự tái phục hoạt các chương trình xây đập trong vùng Hạ lưu sông Mekong, cùng với sự bất lực của Ủy Hội thực hiện Thỏa ước Mekong 1995 trong tình hình nghiêm trọng hiện nay. Lẽ ra Ủy Hội có thể lên tiếng khuyến cáo ngăn chặn các dự án xây đập của các quốc gia ven sông nhưng họ thì vẫn cứ im lặng một cách đáng ngạc nhiên.

Giám đốc Ðiều hành Ban Thư ký Ủy hội Sông Mekong (CEO/MRC Secretariat) hiện nay là TS Phạm Tuấn Phan, sinh quán Hà Nội, (là anh của Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh kiêm ủy viên Bộ Chính Trị Việt Nam) có bằng tiến sĩ vật lý và điện toán từ Ðại học Belarus thuộc Liên Xô cũ, một học vị ít liên quan tới lãnh vực môi sinh, thủy học và các hệ sinh thái sông ngòi. Ông Phan mang hai căn cước: căn cước của một công dân Việt Nam và căn cước của một công dân Mekong.Tại một Diễn đàn Khu vực liên quan tới Dự án thủy điện Pak Beng, con đập thủy điện dòng chính thứ ba của Lào họp tại Luang Prabang ngày 22.2.2017, TS Phạm Tuấn Phan, khi trao đổi với phóng viên Lê Quỳnh, báo Người Ðô Thị đã phát biểu: “Thủy điện không khiến dòng Sông Mekong sẽ chết. Tôi nghĩ chúng ta nên hiu rõ điu này trưc đã.” [Hình 6]

Phát biểu của ông không những rất thiếu cơ sở khoa học, đi ngược lại quan điểm của bao nhiêu tổ chức bảo vệ môi sinh quốc tế và ngay trong lưu vực Sông Mekongtừ bao năm nay. TS Phạm Tuấn Phan đã và đang gây tác hại cho nỗ lực bảo vệ Sông Mekong bấy lâu và cả rất thiếu trách nhiệm với các cộng đồng cư dân ven sông Mekong, trong đó có ngót 20 triệu cư dân trên chính vùng đất mẹ của ông, nơi mà “những người nông dân ÐBSCL đang khốn đốn muốn chết”, một số không ít đã bỏ đi tha phương cầu thực là điều rất dễ thấy.

Trước nguy cơ: mất nguồn nước ngọt, mất nguồn phù sa, và cả vùng châu thổ phì nhiêu đang chìm dần trong biển mặn. Hậu duệ của những thế hệ dũng mãnh tiên phong khai phá trong cuộc Nam Tiến cách đây mới ba trăm năm, thì nay đang bị bất động, không được quyền cất tiếng nói và đang phải tủi nhục chấp nhận lùi bước trước thảm hoạ bị xoá đi cả một nền Văn Minh Miệt Vườn và trong một tương lai không xa, rồi ra trên tầm vóc quốc gia, sẽ có những đợt tỵ nạn môi sinh/ ecological refugees vào giữa thế kỷ 21 này.

Tại Diễn đàn Khu vực liên quan tới Dự án thủy điện Pak Beng – con đập dòng chính thứ ba của Lào,họp tại Luang Prabang ngày 22.2.2017, các nhà báo đang phỏng vấn TS Phạm Tuấn Phan,Giám đốc Ðiều hành Ban Thư ký Uỷ hội Sông Mekong.Khi trao đổi với phóng viên Lê Quỳnh, báo Người Ðô Thị (người đang cầm máy ghi âm), ôngPhạm Tuấn Phan đã mạnh mẽ phát biểu: “Thủy điện không khiến dòng Sông Mekong sẽ chết. Tôi nghĩ chúng ta nên hiểu rõ điều này trước đã.”Chắc chắn ông Phạm Tuấn Phan sẽ không nói câu đó nếu ông hiểu thế nào là “Dòng chảy Môi trường/Environmental Flow”để giữ cho con Sông Mekong không chết. [Photo by Thiện Ý]

Mới đây, tạp chí Khoa học Nature 2018 có bài nghiên cứu nhan đề: Potential Disruption of Flood Dynamics in the Lower Mekong River Basin Due to Upstream Flow Regulation /Tiềm năng Phá vỡ Ðộng lực Lũ lụt Vùng Hạ lưu Sông Mekong là do điều tiết Dòng chảy từ Thượng nguồn.

“Lưu vực Sông Mekong / Mekong River Basin đang trải qua những biến đổi vô lường do gia tốc xây thêm những hồ chứa thủy điện lớn mới đây. Khi mà tình trạng thủy học Lưu vực Sông Mekong được hiểu rõ và ảnh hưởng của một số những con đập hiện nay đã được khảo sát.Chúng tôi dùng mô hình thủy-động-lực-học/hydrodynamic model simulations, chứng minh được rằng những hậu quả điều tiết dòng chảy từ thượng nguồn là có thể tiên lượng được dọc theo dòng chính Sông Mekong, và cơ chế điều tiết dòng chảy con Sông Tone Sáp và các phân lưu / distributaries nơi ÐBSCL có khả năng bị gián đoạn. Nghiên cứu cho thấy dòng chảy ngược / reversal của con Sông Tonle Sap có thể bị mất nếu nhịp đập của lũ / Mekong flood pulse trên sông Mekong giảm khoảng 50% và trễ đi một tháng.” (2)

Với Bắc Kinh, con chủ bài đang khống chế toàn lưu vực Sông Mekong và cả các Công ty xây đập đa phần là từ Trung Quốc, chắc chắn cảhai chánh phủ Trung Quốc vàLào phải cám ơnphát biểucổ võ thủy điện/pro-damscủa ông Phạm Tuấn Phan,như một tiếng nói có quyền lực từ Uỷ Hội Sông Mekongđang gián tiếp bênh vực họ– không khác quan điểm bấy lâu của TT Hunsen.

Lẽ ra, ở vị trí lãnh đạo một tổ chức đa quốc gia như MRC, TS Phạm Tuấn Phan nên ở vị trí trung lập chứ không phải là xếp hàng và chọn phe bênh vực thủy điện như ông đã làm, chức năng của ông cao hơn thế, lãnh đạo MRC như một tổ chức điều hợp giúp cho các quốc gia trong toàn lưu vực từng bước thực hiện được những bước “phát triển bền vững”như tinh thần cốt lõi của Hiệp Ðịnh về Hợp Tác Phát triển Bền vững Lưu vực Sông Mekong 1995.

NĂM NAY 2019 KHÔNG CÒN MÙA NƯỚC NỔI

Nhịp điệu ngàn năm của con sông Mekong. Hệ sinh thái vùng châu thổ Sông Cửu Long được cân bằng một cách tự nhiên với “mùa nước nổi” và “mùa nước giựt”. Mùa Nước Nổi thường hiền hoà khác hẳn với lũ lụt tàn phá dữ dội như ở miền Bắc hoặc miền Trung Việt Nam.

Vào mùa nước nổi, mực nước hai con Sông Tiền Sông Hậu có đặc tính dâng cao lên từ từ, tràn qua các bờ sông rạch, làm ngập các cánh đồng. Nước lũ có nhiều công dụng hữu ích không những chỉ rửa phèn, rửa tạp chất cho đất mà còn để lắng xuống một lượng phù sa như một thứ phân bón thiên nhiên tuyệt hảo “trời cho” khiến đất đai thêm phần màu mỡ, biến ÐBSCL thành vựa lúa, vựa cây trái trù phú của cả nước và Việt Nam đã từng đứng thứ hai trên thế giới về xuất cảng lúa gạo chỉ đứng sau Thái Lan.

Cùng với con nước đỏ ngầu mang đẫm phù sa, là các loại cá lội theo con nước vào ruộng đồng đẻ trứng, cho đến thời kỳ nước thấp thì nước từ trong đồng ruộng chảy ra, cùng với vô số cá từng đàn, ùa theo nhau tràn vào các kinh rạch để ra sông lớn. Do chưa bận mùa cấy trồng, người nông dân đóng đáy bắt cá suốt dọc theo các kinh rạch này, và trong mấy thập niên trước đây cá nhiều tới mức lưới không chịu nổi phải giở lên thả cá cho đi bớt; bằng không thì sẽ bị rách lưới. (1)

Ðó là chuyện quá khứ, nay mọi sự đã đổi thay. Từ hai thập niên qua, hiện tượng cân bằng sinh thái tự nhiên đó hầu như đang dần dần biến mất. Và “mùa nước nổi” càng ngày càng giảm cả về cường độ lẫn tần suất. Hiện tượng đó không thể đổ cho thiên tai mà là “nhân tai” một thứ thảm hoạ môi sinh/ecological disaster do chính con người gây ra – mà thủ phạm chính là chuỗi đập thủy điện dòng chính khổng lồ Vân Nam của Trung Quốc trên Sông Lancang-Mekong và sẽ trầm trọng thêm với những con đập của Lào.

Sinh hoạt trong Mùa Nước Nổi 2000, nông dân rộn rã đóng đáy bắt cá suốt dọc theo các kinh rạch, nước lũ rửa sạch ruộng đồng, đem về phù sa, hứa hẹn cho một vụ được mùa gieo trồng. [photo by Ngô Thế Vinh]

Từ đầu tháng 6 hàng năm, vào mùa mưa nước lũ từ thượng nguồn sông Mekong đổ về, bắt đầu từ các tỉnh đầu nguồn ÐBSCL báo hiệu cho mùa nước nổi cao điểm vào khoảng cuối tháng 9 đầu tháng 10. Nhưng năm nay 2019, mọi chuyện không diễn ra theo chu kỳ như thế và có nguy cơ sắp tới sẽ không còn mùa Nước Nổi. Khi mà vùng Ðông Bắc Thái Lan đang phải chịu một trận hạn hán thế kỷ, ảnh vệ tinh chỉ rõ mực nước Sông Mekong Vùng Tam Giác Vàng chưa bao giờ xuống thấp đến như thế.

Theo phóng viên Bình Nguyên, báo điện tử Cần Thơ, 4 tháng 8, 2019: “Những ngày cuối tháng 7, 2019 chúng tôi đi dọc tuyến biên giới An Giang, Ðồng Tháp. Thông thường, những năm trước, đây là lúc nước lũ đã tràn đồng, trên đó là cảnh đánh bắt cá đồng của người dân. Giờ đây, cũng dọc theo những cánh đồng đó là ruộng nứt nẻ, những chiếc ghe nằm chỏng trơ trên bãi bồi…”(5)

Theo Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu độc lập lâu năm về sinh thái ÐBSCL, cho biết:“Một năm trung bình sông Mekong có tổng lượng nước là 475 tỉ m3, trong đó lượng mưa tại chỗ ở ÐBSCL chỉ chiếm 11% số đó. Vì vậy, mực nước ở ÐBSCL phụ thuộc lớn vào lượng nước từ phía trên chảy về. Nước ở lưu vực Mekong ít thì nước ở ÐBSCL giảm, kéo theo đỉnh lũ thấp vào khoảng giữa tháng 10 ở ÐBSCL và xâm nhập mặn sẽ lấn sâu vào khoảng tháng 3 dương lịch, sau Tết Nguyên Đán”

“Kinh nghiệm cho thấy như năm 2016 là năm khô hạn cực đoan thì ít có biện pháp nào để đối phó. Dù có công trình cống đập ngăn mặn thì cũng không có tác dụng ngăn mặn, vì bên trong không đủ nước thì ngăn mặn vô ích& Năm nay mùa lũ không về thì nguồn thủy sản tự nhiên sẽ giảm, cuộc mưu sinh của những người dân đánh bắt thủy sản tự nhiên sẽ gặp khó khăn. Sau một năm khô hạn như thế thì năm sau dù có lũ trở lại cá vẫn sẽ ít vì chưa kịp phục hồi”- Vẫn ông Thiện nói. (5)

Theo Tiến Sĩ Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu về biến đổi khí hậu, Ðại học Cần Thơ, mực nước trên sông Mekong qua ÐBSCL thấp so với cùng kỳ. Ðó là chỉ dấu cho thấy mùa lũ sắp tới nếu có cũng sẽ rất thấp và dẫn tới các hệ quả là phù sa ngày càng ít dần, lượng thủy sản ít, không có đủ nước ngọt để đẩy mặn ra xa và không rửa được phèn và tạp chất khác trong đất. Qua đó làm ảnh hưởng đến năng suất lúa và cây trồng. Về giải pháp là cần khuyến cáo ngay việc giảm tối đa diện tích sản xuất lúa, trữ nước mưa nhiều nhất có thể… Ngoài ra là chọn những giống cây trồng ít sử dụng nước để gieo trồng.” (5) [Hết lược dẫn]

Không có đủ nguồn nước ngọt, trong một tương lai gần, Ðồng Bằng Sông Cửu Long không còn là vựa lúa và cả nước mất đi nguồn lương thực rất quan trọng, nói chi tới một Việt Nam chỉ mới hai thập niện trước đây thôi, đã từng là quốc gia xuất cảng lúa gạo lớn thứ hai của thế giới, chỉ đứng sau có Thái Lan.

MỘT HIỆP ƯỚC 1995 MỘT TINH THẦN SÔNG MEKONG

Người ta hy vọng với những kinh nghiệm đã có từ Ủy Hội Sông Mekong tích lũy từ nhiều năm, sẽ giúp cho TS Phạm Tuấn Phan – một công dân đầu tiên từ lưu vực Sông Mekong đảm nhiệm chức Giám đốc MRC, có được sự hiểu biết về những vấn đề mang tính quyết định đối với tổ chức này, sẽ giúp ông lãnh đạo một cách hiệu quả vào thời điểm cam go trên một vùng chính trị địa dư/geopolitics đang có rất nhiều biến động và cả phân hóa như hiện nay.

Hai thử thách trước mắt và bước thứ ba lâu dài của TS Phạm Tuấn Phan, cũng là của toàn cơ chế Ủy Hội Sông Mekong sau quá trình hoạt động hơn 24 năm [1995-2019] là:

(1) Thuyết phục các quốc gia thành viên Ủy Hội Sông Mekong tôn trọng tinh thần “Hiệp Ước Hợp Tác Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông Mekong” 1995: “Các quốc gia thành viên ký kết đồng ý là “bằng mọi cố gắng phòng tránh, làm nhẹ hay giảm thiểu những hậu quả tác hại trên môi trường… do phát triển và xử dụng Lưu vực Sông Mekong.” Theo Ðiều 6, 7 Mekong 1995.

(2) Thuyết phục được chánh phủ Lào và cả Cambodia tôn trọng một trật tự vùng, bằng cách không vội vã thực hiện tất cả các dự án đập dòng chính trên lãnh thổ Lào và Cambodia để có thêm thời gian nghiên cứu thêm và bổ xung những khiếm khuyết.

(3) Thực hiện “Kế hoạch Chiến lược / MRC Strategic Plan”, tăng cường và mở rộng hợp tác với các quốc gia thượng nguồn Lancang-Mekong trên quy mô “Toàn Lưu Vực”, chủ yếu bao gồm cả Trung Quốc, quốc gia sở hữu hơn nửa chiều dài con sông Mekong nhưng đã lại từ chối làm thành viên của Ủy Hội Sông Mekong mở rộng.

Thực hiện và vượt qua được các bước thử thách trên sẽ là một thành quả không phải chỉ của cá nhân ông Phạm Tuấn Phan, mà cũng là “lý do hiện hữu/raison d’être” của chính ông và tổ chức có danh xưng là Ủy Hội Sông Mekong.

Nhiệm vụ của TS Phạm Tuấn Phan cũng sẽ dễ dàng hơn nếu ông có một trái tim và cả biết lắng nghe lời kêu than thống thiết của những cư dân sống ven sông và cảrất nhiều tiếng nói của các các nhóm xã hội dân sự khác.

Ngoại trừ các cộng đồng cư dân Thái Lan, tiếng nói các nhóm xã hội dân sự của 3 quốc gia Mekong còn lại phải nói là rất yếu ớt. Với Việt Nam, tuy phải gánh chịu tất cả hậu quả suy thoái của con Sông Mekong vì là quốc gia cuối nguồn; nhưng đến bao giờ thì những người dân Miền Tây quanh năm cực nhọc, sống dưới mức nghèo khó ấy mới cất lên được tiếng nói và đến bao giờ thì tiếng nói của họ mới được lắng nghe.

Sinh kế của ngót 20 triệu dân cư ÐBSCL, an ninh lương thực của cả nước, nền văn hoá sông nước và tài nguyên môi sinh miền Nam bị huỷ hoại và rơi vào thảm trạng này là vì sao? Quy trách chuỗi đập nơi các quốc gia thượng nguồn là đúng. Nhưng làm sao ngăn họ lại khi Việt Nam cũng xây đập trên các phụ lưu Mekong ở VN? Khi VN nhận phần chia đầu tư vào dự án lớn nhất dòng chính Luang Prabang của Lào? Khi VN ký nhận làm đối tác mua thủy điện từ chính những dự án Mekong với phản đối chiếu lệ? Khi CEO của MRC là cho một người Việt, có ảnh hưởng ở cấp chính phủ và chủ trương ủng hộ thủy điện? Khi VN không khiếu kiện Lào theo luật quốc tế? Xét một chuỗi sự kiện nói trên, VN đã thất thủ chiến lược, đã bỏ ÐBSCL để đổi lấy những món lợi rất ngắn hạn nói trên.

Năm nay 2019, trước cơn Ðại hạn của Thế kỷ đang là một hồi chuông cảnh giác cho toàn lưu vực với ước vọng đã tới lúc phải hàn gắn những đổ vỡ, phục hồi niềm tin. Một Hiệp ước Vùng thì đã có rồi, nhưng làm sao chính phủ các nước đặt bút ký vào Hiệp ước 1995 ấy phải biết tôn trọng các điều khoản, không chỉ để bảo vệ quyền lợi dân tộc mình mà cao hơn thế nữa là tiến tới triển vọng hợp tác trong “Tinh Thần Sông Mekong” như một mẫu số chung để cùng nhau phát triển, cùng nhau hướng tới một tương lai thịnh vượng chung và hòa bình cho toàn vùng.

California, 25.08.2019

Tham Khảo:

1/ Ðọc tác phẩm Cửu Long Cạn Dòng, Biển Ðông Dậy Sóng. Ðỗ Hải Minh, Tập san Thế Kỷ 21, Số 139, 11/ 2000. Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, Ngô Thế Vinh, NXB Văn Nghệ 2007.

2/ Potential Disruption of Flood Dynamics in the Lower Mekong River Basin Due to Upstream Flow Regulation. Yadu Pokhrel, Sanghoon Shin, Zihan Lin, Dai Yamazaki & Jiaguo Qi, NATURE 2018 https://www.nature.com/articles/s41598-018-35823-4

3/ Mekong: Trận “hạn hán thế kỷ” nhìn từ quan điểm hạ lưu. Phạm Phan Long, VOA 25.07.2019 https://www.voatiengviet.com/a/mekong-tran-han-han-lich-su-ha-luu/5013842.html

4/ Prayut: China, Laos, Myanmar asked to release water. Mongkol Bangprapa, Bangkok Post 24.07.2019 https://www.bangkokpost.com/thailand/general/1718087/prayut-china-laos-myanmar-asked-to-release-water

5/ Ðầu nguồn “khát nước” và những nỗi lo. Bình Nguyên, Báo Cần Thơ Online: 04.08.2019 https://baocantho.com.vn/dau-nguon-khat-nuoc-va-nhung-noi-lo-a111866.html

6/ Việt Nam phải mạnh mẽ đối với các nước thượng nguồn Mekong dù đó là nước nào?! Thanh Trúc phỏng vấn Brian Eyler, tác giả cuốn những ngày cuối của dòng sông Mekong Vĩ Ðại, 2019-08-01 https://www.rfa.org/vietnamese/video?v=0_gx0108ik7/ Damming the Mekong Basin to Environmental Hell.BRAHMA CHELLANEY, Project-Syndicate, Aug 2, 2019 https://www.project-syndicate.org/commentary/china-dams-mekong-basin-exacerbate-drought-by-brahma-chellaney-2019-08

*ACMECS: Ayeyawady-Chao Phraya-Mekong Economic Cooperation Strategy / Chiến lược Hợp tác Kinh tế Ayeyawady-Chao Phraya-Mekong (tên 3 dòng sông Ayeawady, Chao Phraya, Mekong) bao gồm 4 quốc gia: thành viên Hiệp hội các quốc gia Ðông Nam Á: Thái Lan, Lào, Cambodia,Việt Nam và Myanmar.

Nhà thờ Đức Mẹ La Vang: Lê Ngọc Huệ với quần thể tượng mười lăm sự mầu nhiệm Mân Côi

Xin trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Ngô Thế Vinh về điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ và quần thể tượng trong khuôn viên Nhà thờ La Vang (Quảng Trị). Có lẽ cũng như đa số độc giả, tôi lần đầu tiên nghe đến điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ và có dịp thưởng lãm những tác phẩm của ông. Thật là thích thú khi được xem những bức tượng ‘hiện đại’ và trừu tượng này trong khuôn viên của một nhà thờ công giáo! Bài viết còn có nhiều tư liệu quí báu, mà tôi tin rằng sẽ là một khám phá thú vị cho các bạn đọc. NVT

=====

Nhà thờ Đức Mẹ La Vang: Lê Ngọc Huệ với quần thể tượng mười lăm sự mầu nhiệm Mân Côi

Ngô Thế Vinh

Hình 1: Linh Đài với Ba Cây Đa cao 20 mét tượng trưng cho Ba Ngôi được dựng nơi Đức Mẹ đã hiện ra, với tượng Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng. Có người cho rằng đây là tác phẩm của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ nhưng chi tiết khắc trên đá nơi sau chân tượng gốc ghi là của Điêu khắc gia Nguyễn Văn Thế, ông cũng là tác giả công trình tượng đài Hai Bà Trưng Công Viên Mê Linh Sài Gòn, đã bị phá sập sau biến cố 1963. (5)

PHAN NHẬT NAM VỀ LA VANG VỚI NGÔ THẾ VINH

Con Đường Buồn Tênh / Street Without Joy, Dọc đường số 1, Đại Lộ Kinh Hoàng, Con Sông Bến Hải, Cây Cầu Hiền Lương, ngược về quá khứ, qua hai cuộc chiến tranh Việt Pháp, Quốc Cộng Nam Bắc, ngược dòng thời gian xuyên suốt con đường lịch sử đầy xác chết, đẫm máu và nước mắt, bằng cách này hay cách khác, thế hệ tuổi trẻ chúng tôi trong chiến tranh hay hoà bình cũng đã hơn một lần đi qua và chẳng thể nào quên.

Và trong chuyến đi này, Phan Nhật Nam cũng đã đến La Vang với tôi qua một hồi cảnh / flashback với hồi chuông báo tử hay sám hối / For Whom The Bell Tolls, với lời ai điếu hay cả lời nguyền… Những hồi chuông từ nơi tháp cổ mang đầy thương tích ấy vẫn như còn ngân và vang xa, vươn xa tới 9 cây số của Đại Lộ Kinh Hoàng để xoa dịu vỗ về và là nguồn an ủi cho linh hồn của vô số những ngưởi dân lành đã chết oan khiên trong Mùa Hẻ Đỏ Lửa 1972…

Ngày đầu tháng 7, 1972… Anh đang ở trên Quốc lộ 1 cây số 9 từ Quảng Trị kế đến, vùng thôn Mai Đẳng, xã Giáp Hậu, quận Hải Lăng cảnh tượng trước mặt, chỉ có thể im lặng, chỉ có thể nghiến răng, bặm môi, dù răng vỡ, môi chảy máu tươi, mắt mờ nhạt. Không biết gì khi thân thể đang sụp xuống, co quắp, luống cuống với cảnh tượng tàn khốc trước mặt. Trời ơi ! Hình như có tiếng kêu mơ hồ dội ngược trong ngực, sâu trong cổ họng, nơi óc não, hay chỉ là ảo giác khi mất hết khả năng kiểm soát. Anh không là người đang sống, vì sống là sống cùng với người sống, chia xẻ vui buồn, đau đớn lo âu với người sống. Nhưng bây giờ chung quanh, trước mặt chỉ còn một cảnh tượng, một vũng lầy – Chết. Chỉ Sự chết bao trùm vây chặt, che kín, chụp xuống…

Sự Chết trên 9 cây số đường này là 9 cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá, chết vương vãi từng mảnh thịt, chết từng cụm xương sống, khúc xương sườn, chết lăn lóc đầu lâu, chết rã rời từng bàn tay cong cong đen đúa…

Làm được gì bây giờ? Tại 9 cây số đường chết của Quảng Trị ở Việt Nam không thể dùng danh từ “xác chết” nữa, vì nơi đây chết tan nát, chết tung tóe, chết vỡ bùng… Chết quá cái chết. Không còn được là “người chết” trên đoạn đường kinh khiếp của một chốn quê hương. Quảng Trị.

Đến La Vang thượng, anh xuống xe đi bộ vào La Vang Chính Tòa, nơi đơn vị bạn, Tiểu Đoàn 11 Dù đang chiếm giữ. Hai cây số đường đất giữa ruộng lúa xanh cỏ, anh đi như người sống sót độc nhất sau trận bão lửa đã đốt cháy hết loài người. Đường vắng, trời ủ giông, đất dưới chân mềm mềm theo mỗi bước đi, gió mát và không khí thênh thang. Ngồi xuống vệ đường bỏ tay xuống ao nước kỳ cọ từng ngón một – Anh muốn tẩy một phần sự chết bao quanh?

Đi vòng vòng ở sân Tiểu Vương Cung Thánh Đường, nhìn dãy tượng Thiên Thần gãy đổ, tượng Đức Mẹ lỗ chỗ mảnh đạn, hàng dương liễu cháy xám… Bây giờ sau khi qua 9 cây số chết, lòng cứng, não trơ, anh đi xiêu vẹo ngả nghiêng trong bóng nắng và gió nồng ẩm… Bước qua gạch ngói của căn nhà đổ nát, anh đến gác chuông kéo sợi dây… Hai quả chuông quá nặng, phải kéo bằng hai tay… Kính… coong… Tiếng chuông âm u vang động… Vang vào trong núi không nhỉ? Nơi đây là bình nguyên trùng điệp và Trường Sơn bao vây nơi xa… Vắng vẻ quá! Anh nói thật lớn cho chính mình nghe. Chẳng biết nên làm gì? Giật dây chuông thêm một lần nữa… Kính…coong…coong… vang… La…Vang… Phan Nhật Nam [Tháng 7/1972 – 1/2019] (2)

Hình 2: trái, Tượng Chúa Giêsu vác Thánh Giá, một trong quần thể tượng 15 Sự Mầu Nhiệm Mân Côi của Lê Ngọc Huệ và môn sinh có Mai Chửng bị bom đạn phá sập trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972; phải: TT Nguyễn Văn Thiệu đang quỳ gối cầu nguyện trong Nhà thờ La Vang đổ nát 20.09.1972 sau khi quân lực VNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.[nguồn: tư liệu LM Nguyên Thanh]

ĐẾN VỚI NHÀ THỜ ĐỨC MẸ LA VANG

Từ Huế ra đến Quảng Trị mấy ngày đầu năm 2019 là những ngày ủ dột mưa. Sau bài viết: Đi tìm bức tượng Mẹ và Con, tác phẩm bị lãng quên của Mai Chửng ở Hải ngoại. VOA 07.06.2018, tôi có ước muốn trở lại thăm Nhà thờ Đức Mẹ La Vang Quận Hải Lăng Quảng Trị, nơi đã từng có một quần thể tượng nghệ thuật tôn giáo của Giáo sư điêu khắc Lê Ngọc Huệ cùng đám môn sinh trong đó có Mai Chửng với chủ đề Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm Mân Côi. (3)

Đây là một công trình tập thể của nhóm thầy trò trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, do Giáo sư Lê Ngọc Huệ lúc đó còn rất trẻ, sinh năm 1936, tốt nghiệp điêu khắc từ trường Mỹ thuật Montpellier, Pháp mới từ Paris về. Ông cùng với mấy sinh viên khoa điêu khắc tuy ít nhưng tài ba và sau này họ trở thành những tên tuổi như Mai Chửng, Lê Tài Điển, Trần Văn Danh… Thầy trò cùng chung sức thực hiện trong khoảng thời gian hơn hai năm từ 1961 tới 1963 thì gần như hoàn tất.

Theo Lê Tài Điển, hiện ở Pháp, là một thành viên duy nhất trong nhóm môn sinh của GS Lê Ngọc Huệ mà tôi còn liên lạc được qua eMail [ngày 17.01.2019] cho biết: “Gs Bernard Huệ có giòng máu Pháp Việt, quê ở Miền Tây, có một lần ông vắng mặt nhà trường, sau đó ông cho biết về Hậu Giang để thăm mẹ. La Vang là công trình lớn lao với 12 điêu khắc các thánh… không hoàn thành do biến động… dở dang ! Riêng tôi có phụ trách 1 dự án “non bộ” hiện giữa 12 tượng đài.” [ghi chú của người viết: 15 tượng đài chứ không phải 12]

Tính tới nay, khoảng thời gian 56 năm đâu đã quá xa, nhưng điều còn nhớ và ghi lại được trên các văn bản thì rất khiêm tốn. Ngay như một tiểu sử chi tiết và các hình ảnh của Lê Ngọc Huệ cũng rất khó kiếm, vì sau chính biến 1963 lật đổ TT Ngô Đình Diệm, ông rời Việt Nam trở lại Pháp và không còn để lại đầu mối liên lạc nào nữa.

Ngoài quần thể tượng nghệ thuật tôn giáo Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm Mân Côi tại Nhà thờ Đức Mẹ La Vang là một công trình lớn có giá trị cao trong lịch sử điêu khắc Việt Nam thì Trụ Cột Hoà bình là một tác phẩm cá nhân duy nhất mà Lê Ngọc Huệ còn để lại. Trụ Cột Hoà bình đoạt huy chương Bạc trong cuộc triển lãm Quốc Tế Mỹ Thuật Sài Gòn lần thứ nhất năm 1962 [từ 26-10 đến 15-11-1962] tại Công Viên Tao Đàn gồm 22 quốc gia, là một tác phẩm điêu khắc theo khuynh hướng hiện đại, rất mới so với nền điêu khắc còn non trẻ của Việt Nam thời bấy giờ. Nhưng rồi sau biến cố 30 tháng 4, 1975 các tác phẩm rất giá trị của Sài Gòn Cũ như Trụ Cột Hoà bình của Lê Ngọc Huệ nơi khuôn viên Viện Đại Học Sài Gòn, Bông Lúa Con Gái của Mai Chửng ở thành phố Long Xuyên và một số các tượng đài khác đều chung số phận bị hất hủi hay bị phá huỷ… (1,4)

MỘT CHÚT LỊCH SỬ NHÀ THỜ LA VANG

Đức Mẹ hiện ra ở La Vang 221 năm về trước (1798 – 2019), được coi như phép lạ trong một thời kỳ mà đạo Thiên Chúa bắt đầu bị cấm đoán và bắt bớ tại Việt Nam. La Vang ngày nay được xem như một thánh địa, nơi hành hương quan trọng của giáo dân Việt Nam, ở xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, thuộc Tổng Giáo phận Huế. Các tín đồ vẫn tin rằng, Đức Mẹ đã hiện ra ở khu vực này vào năm 1798, và một nhà thờ đã được xây dựng gần ba cây đa, nơi Đức Mẹ đã hiện ra và đến năm 1961, nhà thờ Đức Mẹ La Vang được Tòa Thánh tôn phong là Tiểu Vương Cung Thánh đường La Vang. [Ba Tiểu Vương Cung Thánh Đường khác của Việt Nam là các nhà thờ: Sở Kiện Hà Nam, Phú Nhai Bùi Chu và Đức Bà Sài Gòn].

Dưới thời vua Cảnh Thịnh tức Nguyễn Quang Toản, con trai thứ của vua Quang Trung nhà Tây Sơn, ra chiếu chỉ cấm đạo năm 1798, để tránh bị nạn, nhiều giáo dân vùng Quảng Trị đã chạy lên vùng đất hẻo lánh này. Có nhiều “dật sự” về nguồn gốc tên La Vang, nhưng có một cách giải thích khá khả tín là khi giáo dân chạy lên vùng đất này thì bị dịch bệnh, lúc bấy giờ Đức Mẹ đã hiện ra và chỉ dẫn cho họ đi tìm một loại lá từ cây vằng – uống vào sẽ chữa khỏi bệnh, “lá vằng” viết không dấu thành La Vang. Sự kiện, người hành hương về nơi này có thể mua được “lá vằng”, một loại lá dân gian dùng sắc thuốc uống mát và lành, trị được một số bệnh. Khách thập phương đến đây hành hương và cầu xin ơn lành mà người Thiên chúa giáo tin rằng Đức Mẹ sẽ ban ơn như ý nguyện. Đức Mẹ La Vang được biểu tượng bằng một phụ nữ mặc áo dài bế con trong y phục truyền thống Việt Nam.

Theo truyền khẩu, năm 1885 nhà thờ bị đốt và nhóm giáo dân La Vang dựng lại nhà thờ Đức Mẹ trên nền cũ. Năm 1894, Giám mục Caspar Lộc cho xây lại một đền thờ bằng ngói, vì là vùng núi vận chuyển vật liệu khó khăn nên 15 năm mới hoàn thành. Năm 1901, đại hội La Vang đầu tiên được tổ chức vào ngày 08 tháng 08 để mừng khánh thành nhà thờ.

Năm 1924, do ngôi nhà thờ ngói chật hẹp, lại hư hại cho nên một đền thánh La Vang theo đồ án của kiến trúc sư Carpentier được dựng lên và khánh thành năm 1928, nhân dịp Đại hội La Vang 9. Thánh đường này được trùng tu năm 1959. Trong phiên họp ngày 13 tháng 04 năm 1961, Hội đồng Giám mục Miền Nam Việt Nam đã quyết định La Vang là Trung tâm Thánh Mẫu Toàn quốc. [https://vi.wikipedia.org/wiki/Đức_Mẹ_La_Vang]

Hình 3: trái, Nhà thờ Đức Mẹ La Vang 30.05.1970 vẫn còn nguyên vẹn, Bác sĩ Nguyễn Duy Hảo YK68 cùng LM Tuyên uý đưa anh em thương phế binh từ Tổng Y viện Duy Tân đi hành hương Nhà thờ La Vang. [tư liệu Bs Nguyễn Duy Hảo]; phải: sau chiến tranh, chỉ còn lại di tích tháp chuông cổ từ ngôi Thánh đường La Vang cũ. [nguồn: daminhvn.net]

Hình 4: trái, Nhà thờ cổ Đức Mẹ La Vang trước chiến tranh còn nguyên vẹn; phải, Ngôi nhà thờ đổ nát qua Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, sau đó quân lực VNCH tái chiếm Cổ thành Quảng Trị và khu Nhà thờ La Vang. [tư liệu LM Nguyên Thanh]

Hình 5: trên, Nhà Thờ La Vang 1985, tranh màu nước trên giấy dó 41cm x 51cm của Hoạ sĩ Dương Phước Luyến; dưới, Nhà thờ La Vang 04.2017, photo by Dương Phước Luyến. [tư liệu Huỳnh Hữu Uỷ]

Hình 6: Ngày 15 tháng 8 năm 2012 lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Tiểu Vương Cung Thánh Đường La Vang mới, với các góc mái uốn cong như ngôi đình, mang phong cách kiến trúc Việt Nam.

Hình 7 a,b: Lễ đài rất lớn ngoài trời với tượng Đức Mẹ ẵm xác Chúa Giêsu

Theo Linh Mục Nguyên Thanh, nguyên sĩ quan Tuyên uý của Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến VNCH, cũng là bạn tù cải tạo từ nhiều năm của người viết và từng viếng La Vang nhiều lần ở các giai đoạn khác nhau thì:

“ … Trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, Công trường Mân Côi bị bom đạn cày xới lỗ chỗ, một số bức tượng trong quần thể 15 Sự Mầu Nhiệm bị tan nát hoặc sứt mẻ trầm trọng. Chỉ còn ba cây đa nhân tạo nơi đài Đức Mẹ là vẫn đứng vững. [Hình 1,2]

Và từ năm 1995, Công trường Mân Côi, đã được tái thiết từng bước theo nguyên trạng ban đầu với sân cỏ, trồng cây, lối đi cũng là lộ trình kiệu được lát gạch chạy thẳng từ cổng tam quan đến lễ đài, và điều đáng kể là 15 pho tượng Mầu Nhiệm Mân Côi bị hư hại trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 cũng đã được tu sửa tái tạo.

Chủ đề 15 pho tượng của điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ tương ứng với sự chiêm ngắm 15 Mầu Nhiệm Mân Côi gồm: Năm sự Vui, Năm sự Thương, và Năm sự Mừng. Chủ đề này đặc biệt thích hợp cho thánh địa sùng bái Thánh Mẫu nếu so với chủ đề thường thấy trong hầu hết khuôn viên của các nhà thờ là “14 Chặng đàng Thánh giá”.

Mân Côi / Rosary nghĩa là “vòng hoa hồng”, mỗi lời kinh Kính mừng Ave Maria như một đoá hồng xinh đẹp sẽ kết thành một Tràng Hoa dâng lên Đức Mẹ. Đọc kinh Kính mừng là sự chiêm nghiệm theo trình tự những mầu nhiệm hay sự kiện chính trong cuộc đời, sự thương khó, cái chết, và vinh quang của Chúa Giêsu và sự tham dự của Mẹ ngài là Maria.

Trong kinh nguyện Mân Côi đọc mỗi ngày, 15 mầu nhiệm được chia thành 3 bộ, mỗi bộ trong đó lại có 5 đề tài khác nhau để chiêm nghiệm (mỗi đề tài được đọc bằng mười bài kinh Kính mừng). Để bổ sung vào những mầu nhiệm chiêm ngắm này, trong đó người ta lại phối hợp chúng với các đức tính gương mẫu với từng mầu nhiệm (như tính khiêm nhường, bác ái, nghèo khó, thanh sạch…). Dựa vào đó, mỗi “bộ” về hình thể điêu khắc súc tích được cái ý tưởng cốt yếu của từng đề tài:

1. Năm sự vui: Chiêm ngắm những khoảnh khắc trong đời Đức Mẹ Maria, đây là những đề tài giàu cảm xúc và thân thiết, như trong cảnh thiên thần truyền tin hoặc tình cảm giữa người nữ với nhau, việc sinh đẻ, tình mẹ con. Điêu khắc chủ yếu dùng những bố cục và đường nét cong đầy nữ tính, hình khối tròn mềm mại hài hoà khi vận dụng đường uốn lượn nhịp nhàng của cử động và y phục.

2. Năm sự thương: loạt tượng này chủ yếu dùng những mẫu khối hình học lập thể táo bạo và mãnh liệt thật thích hợp để diễn tả nỗi khắc khoải và thống khổ vừa trong nội tâm và thể xác của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn, như cảnh cầu nguyện trong vườn cây dầu, cảnh thụ hình và chịu đóng đinh.

3. Năm sự mừng : là những đề tài hân hoan, thăng hoa và tôn vinh. Hình khối điêu khắc từ đây ít tính khắc khổ, ngoại trừ pho “Chúa Giêsu sống lại” vẫn giữ phong cách lập thể và biểu hiện để thống nhất với Năm sự Thương, các pho còn lại trở về với hình khối mang tính tượng trưng với đường nét tròn đầy của nữ tính để diễn tả trạng thái viên mãn, nhất là với các bức thể hiện Đức Mẹ.

Tác phẩm của Lê Ngọc Huệ để lại sẽ vẫn còn toả sáng lâu dài vì mang những giá trị nghệ thuật và tâm linh thể nghiệm đạo đức Ki-tô giáo và mỹ học đương đại. Quần thể tượng là 15 đoá hồng mầu nhiệm – rosa mystica – chất chứa nhiều trạng thái cảm xúc từ bi tráng đến thăng hoa của con người vượt cảnh giới thế tục qua sự cứu chuộc của tôn giáo và nghệ thuật, và nằm trong một không gian và thời gian kết tinh của tâm linh qua những thăng trầm của lịch sử. [nguồn: LM Nguyên Thanh]

Sau thời gian gián đoạn, từ năm 1990, chính quyền địa phương cho phép hành lễ trở lại. La Vang trở thành thánh địa quan trọng nhất của người Thiên Chúa giáo Việt Nam, hàng năm có hơn nửa triệu người, cả từ khắp năm Châu về hành hương, con số ấy ngày một gia tăng.

TÁC GIẢ TƯỢNG BA CÂY ĐA LÀ AI ?

Theo Chủng sinh Nguyễn An Phong, trong Kỷ Yếu Kỷ niệm 42 năm Lớp Mẹ Vô nhiễm Khoá Hoan Thiện / HT 67, viết theo lời kể của Ba Anh, ông Nguyễn Văn Nghiêm người gần như suốt cuộc đời gắn bó với Nhà thờ Đức Mẹ La Vang thì:

“Được nghe Ba tôi kể một vài điều, nhất là về việc xây cất Ba Cây Đa và các tượng Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm. Theo như trang mạng của Địa Phận Huế bây giờ, cũng như trong sách Đức Mẹ La Vang của linh mục Hồng Phúc hoặc lời giải thích của thi sĩ Đình Bảng trong DVD về La Vang đều nói là công trình của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, vị kiến trúc sư lừng danh thế giới với giải Grand Prix de Rome năm 1955… Cậy nhờ đến internet để tìm kiếm, có khá nhiều trang mạng nói về vị kiến trúc sư tài ba nầy như ở trang bách khoa:

http://en.wikipedia.org/wiki/Ngo_Viet_Thu

hoặc http://www.geocities.com/namsonngoviet/NgoVietThu.html.

Đặc biệt, trang mạng sau này của Kiến Trúc Sư Ngô Viết Nam Sơn là con trai của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, nói về cuộc đời nghệ thuật của Ba mình. Trang nầy liệt kê các công trình tiêu biểu như khách sạn, chùa chiền, nhà thờ, chợ búa, trường Đại Học, dinh Độc Lập… nhưng hoàn toàn không nhắc tới công trình La Vang hoặc một công trình điêu khắc nào.

Tuy nhiên, sau lưng bàn thờ Mẹ, nếu để ý, ta có thể thấy khắc mấy hàng chữ nhỏ. Hàng chữ nầy khắc chìm vào đá, nhưng có ai mới sơn màu đỏ lên:

Hân hạnh phục vụ Linh Đài

Sáng kiến và mô hình: Ô. Nguyễn Văn Thế, điêu khắc sư

Quản lý: LM Trần Văn Tường

Công tác giám thị: Nguyễn Văn Nghiêm, Nguyễn Hữu Mùi

Tạc đá: Huỳnh Phạm

Vậy đúng là ông Nguyễn Văn Thế mà tôi còn nhớ. Ông Nguyễn Văn Nghiêm là Ba tôi. Ông Nguyễn Hữu Mùi là thân phụ của linh mục Nguyễn Hữu Hiến (Hoan Thiện 66)…. Nhưng đoan chắc Ba Cây Đa là của điêu khắc gia Nguyễn Văn Thế, vì có khắc rõ ràng trên bảng đá” [Hết lược dẫn] (5)

Hình 8: Điêu khắc gia Nguyễn Văn Thế, Đệ Nhị Giải La Mã [Nghệ Thuật Việt Nam Hiện Đại, Nguyễn Văn Phương, Nha Mỹ Thuật Bộ Quốc Gia Giáo Dục VNCH 1962] (6)

Theo trang mạng tiếng Việt https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngô_Viết_Thụ thì: “KTS Ngô Viết Thụ có vai trò quy hoạch kiến trúc tổng thể khu Thánh địa La Vang Quảng Trị cùng với công trình điêu khắc của “điêu khắc sư” Nguyễn Văn Thế, cũng như ông đã từng quy hoạch cảnh quan Công trường Mê Linh năm 1961 cùng với nhà điêu khắc Nguyễn Văn Thế là tác giả của tượng đài Hai Bà Trưng Sài Gòn.”

Với sự thận trọng, người viết đã nhờ LM Nguyên Thanh [ngày 18.01.2019], liên lạc với Cha nguyên quản nhiệm Tiểu Vương Cung Thánh Đường La Vang Quảng Trị thì được Cha cho biết, qua các giai đoạn trùng tu kể cả tượng đài Ba Cây Đa, đã không còn những dòng chữ khắc trên đá sau lưng bàn thờ Mẹ, và Cha thì vẫn nghĩ rằng tượng Ba Cây Đa là của KTS Ngô Viết Thụ.

Người viết chỉ ghi lại những sự kiện và không đưa ra một kết luận nào. Hy vọng trong tương lai gần, sẽ có thêm một tiếng nói của KTS Ngô Viết Nam Sơn con trai KTS Ngô Viết Thụ, để có thể giúp soi sáng một sự kiện có tính cách lịch sử mỹ thuật tôn giáo này.

Hình 9: KTS Ngô Viết Thụ, Khôi Nguyên Giải La Mã, được TT Ngô Đình Diệm mời về VN, ông đã để lại nhiều dấu ấn trên các công trình kiến trúc thời Việt Nam Cộng Hoà. Hình trên: Lễ đặt viên đá đầu tiên 1962 xây Trung tâm Giáo dục Y Khoa Sài Gòn; hàng trước từ trái: GS Phạm Biểu Tâm, TT Ngô Đình Diệm, KTS Ngô Viết Thụ, GS Nguyễn Quang Trình. [tư liệu gia đình GS Phạm Biểu Tâm]

ĐỨC TGM NGÔ ĐÌNH THỤC VÀ GS LÊ NGỌC HUỆ

Vẫn theo Nguyễn An Phong, trong Kỷ Yếu Lớp Mẹ Vô nhiễm Khoá Hoan Thiện/ HT 67, theo lời kể của Ba Anh, ông Nguyễn Văn Nghiêm một giai thoại thú vị về Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục, [anh TT Ngô Đình Diệm] lúc đó đã 64 tuổi đang cai quản Giáo phận Huế bao gồm cả Quảng Trị với Giáo sư Điêu khắc Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế Lê Ngọc Huệ còn rất trẻ, mới 25 tuổi từ Pháp về:

“Khi vị điêu khắc gia trình Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục mô hình các bức tượng Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm thì ngài bác ngay. Ngài lấy lý do dân Quảng Trị là những người mộc mạc, quê mùa. Mỗi khi đi viếng Mẹ, làm thế nào để họ có thể cầu nguyện trước những bức tượng “một hòn, một cục” được. Người dân quê cần những bức tượng theo lối tả chân để họ có thể hiểu mà để tâm cầu nguyện. Vị điêu khắc gia đã mất một thời gian khá dài để thuyết phục Đức Tổng. Vì đây là một công trình nghệ thuật tôn giáo quan trọng và lớn lao. Những bức tượng lập khối có những ý nghĩa nhất định… Tượng Mẹ Lên Trời, tà áo Mẹ phồng lên như có gió thổi để chỉ Mẹ được nâng lên trời, cả hồn lẫn xác. Trong khi tượng Chúa Lên Trời thì tự nhiên. Những bắp thịt trên vai của tượng Chúa Ngã Xuống Đất căng lên sức nặng của tội lỗi con người, nhưng khuôn mặt Chúa thì vẫn bình thản, thương yêu… Nghe lời giải thích hợp lý, Đức Tổng đồng ý với điều kiện là trước mỗi bức tượng, ghi những chú giải cần thiết để người dân dễ hiểu. Vị điêu khắc gia từ chối quyết liệt, vì như vậy còn gì là nghệ thuật nữa. Đức Tổng cuối cùng chịu thua, chấp thuận. Tôi cũng nghe kể vị điêu khắc gia nầy là một giáo sư trường Mỹ Thuật Huế, đã đem theo các môn sinh của mình để thực hiện công trình lớn lao nầy… Và Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm có thể là của điêu khắc gia Bernard Ngọc Huệ và các môn sinh thuộc trường Mỹ Thuật Huế. [hết lược dẫn] (5)

Hình 10: Điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ, Huy chương Bạc Triển Lãm Quốc Tế Mỹ Thuật 1962 [Nghệ Thuật Việt Nam Hiện Đại, Nguyễn Văn Phương, Nha Mỹ Thuật Bộ Quốc Gia Giáo Dục VNCH 1962] (6)

Qua sự kiện này, Huỳnh Hữu Uỷ nhà phê bình Nghệ thuật Tạo hình Việt Nam đã phát biểu: “Tôi lấy làm lạ là một người như Cha Ngô Đình Thục, quen với bầu không khí nghệ thuật cổ điển của Vatican mà lại chấp nhận được những pho tượng trừu tượng biểu hiện ấy của Lê Ngọc Huệ. Âu cũng là một cái may lớn cho chúng ta.”

QUẦN THỂ TƯỢNG MÂN CÔI TRONG SÂN NHÀ THỜ LA VANG

Như đã nói ở trên, quần thể tượng này, được sáng tạo theo sử thi Thiên Chúa giáo với 15 sự mầu nhiệm Mân Côi gồm: (a) 5 sự vui, (b) 5 sự thương, (c) 5 sự mừng. Công trình bắt đầu từ 1961 đến 1963 thì được coi hoàn thành.

Theo Trịnh Cung, điều còn nhớ được, thì nhóm tượng đã được tạo hình và làm khuôn tại trường CĐMT Huế, đến giai đoạn 2, quần thể tượng này được đúc bằng chất liệu granito tại sân nhà thờ La Vang, với xi măng trắng trộn đá nhỏ… Các pho tượng được đặt hai bên con đường lát đá từ cổng tam quan đi vào Quảng trường Mân Côi, con đường này dẫn đến một lễ đài rất lớn ngoài trời. Ngôi nhà thờ La Vang bị tàn phá trong những trận giao tranh khốc liệt, nhất là trong giai đoạn Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 và nhóm quần thể tượng này đã không còn nguyên vẹn. [Hình 2,7]

Mãi đến năm 1995, công trường Mân Côi và 15 pho tượng mầu nhiệm mới được phục hồi, và nay cũng đã gần một phần tư thế kỷ, đã lại có thêm rêu phong nhuốm màu thời gian. Đặc tính của những bức tượng này với những hình khối, có đường nét cách tân nhưng rất đẹp, nhìn theo cả không gian ba chiều.

Dưới đây là 12 những bức hình chụp vội dưới trời mưa chỉ với chiếc iPhone 8-plus của chính người viết, có giá trị như những ghi chép. Ba bức hình thiếu, được bổ sung bằng 2 hình của Nguyễn Quốc Thái [ Vui V, Mừng I ] và 1 hình của Phanxi Pang [ Mừng III ], cả 3 hình có đánh dấu sao * / asterix.

Rồi ra, mong có dịp trở lại nơi đây, trong những ngày nắng ráo, với đầy đủ ánh sáng và một chiếc máy hình tốt để có thể có những bức ảnh đẹp, chụp lại được các góc cạnh và ánh sáng sắc bén của mỗi pho tượng tương xứng với giá trị nghệ thuật của mỗi tác phẩm điêu khắc này.

Vui I: Thiên thần truyền tin Đức Mẹ thụ thai

Vui II: Đức Mẹ đi viếng bà thánh Ysavé

Vui III: Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu

Vui IV: Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thánh

Vui V: Đức Mẹ tìm được Chúa Giêsu trong đền thánh *

Thương I: Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn cây dầu

Thương II: Chúa Giêsu chịu đội mão gai

Thương III: Chúa Giêsu chịu tội đánh đòn

Thương IV: Chúa Giêsu chịu vác thánh giá

Thương V: Chúa Giêsu chịu chết trên thánh giá

Mừng I: Chúa Giêsu sống lại *

Mừng II: Chúa Giêsu lên trời

Mừng III: Chúa Thánh thần hiện xuống*

Mừng IV: Đức Mẹ hồn xác lên trời

Mừng V: Đức Mẹ được tôn vinh trên trời

LÊ NGỌC HUỆ MỘT TÀI NĂNG LỚN

Lê Ngọc Huệ khi từ Paris về Việt Nam 1961, lúc đó ông còn rất trẻ mới 25 tuổi, chỉ hơn học trò của ông, Lê Tài Điển sinh năm 1937 một tuổi! Ông tốt nghiệp điêu khắc ở Pháp, khi được mời về dạy trường CĐMT Huế, ông mang theo cả một làn gió mới thổi vào lãnh vực điêu khắc của Việt Nam lúc đó còn non trẻ và cả rất bảo thủ.

Theo Đinh Cường, trong bài viết về Lê Tài Điển đăng trên VOA, và có đăng trong Tuyển tập “Những mảng rời Lê Tài Điển”, Nxb Biển Khơi ĐKSS, Paris 2012, thì khi có Mai Lan Phương hoạ sĩ tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Trang trí ở Paris về thay hoạ sĩ Tôn Thất Đào, làm giám đốc CĐMT Huế, “Mai Lan Phương có mời người bạn là Lê Ngọc Huệ, tốt nghiệp điêu khắc Đại học Montpellier về dạy, Lê Tài Điển cũng ra học điêu khắc với Lê Ngọc Huệ, một thầy dạy điêu khắc trẻ, đã đem một luồng khí mới về cho trường, đã đào tạo được những điêu khắc gia tài ba như Mai Chửng, Lê Thành Nhơn…” (3)

Tên tuổi Gs Bernard Huệ lúc đó đã thu hút được một số sinh viên đang học điêu khắc tại trường Quốc Gia CĐMT Gia Định ra Huế học như Mai Chửng, Lê Tài Điển, Trần Văn Danh… Với quần thể tượng 15 Sự Mầu Nhiệm trên Quảng Trường Mân Côi Nhà thờ Đức Mẹ La Vang, qua thử thách của thời gian, đã có được một đánh giá phổ quát: Lê Ngọc Huệ trong lãnh vực điêu khắc là một tài năng lớn với thủ pháp tinh tế, đường nét tinh giản nhưng mạnh mẽ, đầy tính tượng trưng và sáng tạo. Chỉ với khoảng thời gian ngắn chưa đầy 3 năm ở Việt Nam, ông đã để lại một công trình nghệ thuật tôn giáo quan trọng và lớn lao, ghi những dấu ấn sâu đậm trong ngành điêu khắc Việt Nam, tạo được sự kết hợp thăng hoa giữa nghệ thuật và tôn giáo.

Quần thể tượng của Lê Ngọc Huệ và môn sinh cũng đã phải thăng trầm với lịch sử, với vận nước và tồn tại cho đến nay đã hơn nửa thế kỷ nhưng vẫn rất mới, rất cách tân mà vẫn rất gần gũi với quần chúng, với tín đồ chiêm ngắm khi hành hương tới vùng đất Thánh La Vang.

Tác giả gửi bài viết này tới các bạn trẻ trong và ngoài nước có quan tâm tới Lịch sử Mỹ Thuật Việt Nam, như gợi ý cho một nghiên cứu, có thể là đề tài hấp dẫn cho một luận án tiến sĩ về Quần thể tượng 15 Sự Mầu Nhiệm Mân Côi, một công trình nghệ thuật tạo hình lớn của nhà điêu khắc tài năng Lê Ngọc Huệ, trước khi các dữ kiện bị phủ mờ bởi lớp bụi thời gian và đi dần vào quên lãng.

NGÔ THẾ VINH

Nhà thờ Đức Mẹ La Vang,

Hải Lăng Quảng Trị 01.2019

Tham Khảo:

1/ Đi tìm bức tượng Mẹ và Con, tác phẩm bị lãng quên của Mai Chửng ờ Hải ngoại. Ngô Thế Vinh, VOA 07.06.2018

https://www.voatiengviet.com/a/mai-chung-me-con-bong-lua-ngo-the-vinh/4427236.html

2/ Mùa Hè Đỏ Lửa. Phan Nhật Nam, Nxb Sáng Tạo Sài Gòn 1972. Phan Nhật Nam về La Vang với Ngô Thế Vinh, tư liệu cá nhân 07.1968 – 01.2019

3/ Nghệ sĩ tạo hình nhiều trải nghiệm. Đinh Cường, Tuyển tập Những mảng rời Lê Tài Điển, Nxb Biển Khơi ĐKSS, Paris Normandie 2012

4/ Mỹ Thuật Việt Nam, Những Vấn đề Xoay quanh. Trụ Cột Hoà bình, Tác phẩm điêu khắc giá trị bị hắt hủi [tr 106-108]. Trịnh Cung, C. Xuất bản 2010

5/ Nhớ nhớ… Quên quên… Nguyễn An Phong, Kỷ Yếu Lớp Mẹ Vô nhiễm HT/ Hoan Thiện 67. Website Cựu Chủng sinh Huế 2010 http://www.cuucshuehn.net/ht67/pages/nhonhoquenquen.htm

6/ Nghệ Thuật Việt Nam Hiện Đại, Nguyễn Văn Phương, Nha Mỹ Thuật Học Vụ Bộ Quốc Gia Giáo Dục VNCH 1962

[Ghi chú: hình tư liệu có ghi nguồn, tất cả hình ảnh còn lại là của người viết]

Nói không với dự án Cái Lớn, Cái Bé – Đi tìm các giải pháp phi công trình cho Đồng bằng Sông Cửu Long

Lời giới thiệu: Thời gian gần đây, trước những tin tức thời sự về sách giáo khoa và chính trị, ít ai chú ý đến một siêu dự án có thể gây tác động khôn lường đến Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL): đó là dự án xây đập sông Cái Lớn và Cái Bé (Kiên Giang). Nhưng có một người ở nước ngoài lúc nào cũng đau đáu nghĩ về sông Cửu Long: đó là Nhà văn Bs Ngô Thế Vinh, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng“. Trong bài viết dưới đây, Bs Ngô Thế Vinh chỉ ra những tác hại có thể thấy trước được nếu siêu dự án này thành hiện thực.

Đồng bằng sông Cửu Long là một vùng đất quan trọng của Việt Nam và Á châu. Với 18 triệu dân ở vùng này, mỗi năm xuất khẩu trị giá trên dưới 16 tỉ USD, và con số này tăng 6-7% mỗi năm. Số lượng gạo xuất khẩu từ ĐBSCL (gần 5 triệu tấn) chiếm 95% tổng số lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Tuy dân số ĐBSCL chiếm 22% tổng dân số cả nước, nhưng GDP của vùng chiếm 27% GDP của cả nước.

Tuy nhiên, có thể nói không ngoa rằng ĐBSCL đang ‘lâm nguy’. Việc canh tác càng ngày càng khó khăn, thu nhập từ làm ruộng bị suy giảm mỗi năm, nên nông dân dần dần bỏ ruộng đi làm công nhân. Hạn hán kéo dài và nước mặn xâm nhập làm cho có năm hơn 500,000 ha không thể canh tác và 575,000 người thiếu nước ngọt. Thêm vào đó là sức ép dân số cùng với việc sử dụng thuốc trừ sâu bừa bãi dẫn đến ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm sông nước hết sức nghiêm trọng. Nhà tôi ở ven sông vốn là một nhánh nhỏ của sông Cái Lớn, ngày xưa cá tôm tràn đầy, nhưng ngày nay thì chẳng còn bao nhiêu, và thay vào đó là rác rưởi đầy sông, không ai dám tắm sông vì nước sông bị ô nhiễm ghê gớm. Có thể nói rằng những con sông ở vùng ĐBSCL đã và đang chết dần.

Do đó, nhà chức trách phải có hành động để ‘giải cứu’ ĐBSCL. Biện pháp các nhà chức trách nghĩ đến là xây đập thuỷ lợi trên sông Cái Lớn và Cái Bé. Sông Cái Lớn rộng 500-650 m và sâu 12-14 m; sông Cái Bé nhỏ hơn phân nửa sông Cái Lớn; hai sông này đem nước mặn vào bán đảo Cà Mau và Vị Thanh. Do đó, trên lí thuyết, mục đích của đập sông Cái Lớn và Cái Bé là điều tiết nước mặn, ngọt cho phù hợp với mùa vụ địa phương.

Mới nghe qua về mục đích thì cũng có lí, nhưng trong thực tế thì phức tạp hơn nhiều, và dự án này đã gặp phải nhiều phản đối gay gắt từ giới khoa học. Những quan tâm mà giới khoa học nêu lên là: (i) đập sẽ làm thay đổi dòng chảy tự nhiên của nước, gây tác hại đến phù sa và thuỷ sản; (ii) đập sẽ làm cho tình trạng ô nhiễm càng trầm trọng và nguy hiểm hơn; và do đó (iii) sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế của các nước và cuộc sống của người dân trong vùng.

Biện pháp xây đập mang tính chắp vá hơn là theo một kế hoạct tổng thể cho toàn vùng. Thật vậy, tỉnh Kiên Giang chỉ là một tỉnh trong số 13 tỉnh thành; do đó, xây đập ở đây có thể giải quyết một vấn đề cho tỉnh, nhưng lại gây tác hại cho các nơi khác (hay thậm chí ngay trong tỉnh). Cần nói thêm rằng trước đây đã có cống đập Ba Lai (xây năm 2002) và công trình Quản Lộ – Phụng Hiệp (1990), nhưng cả hai công trình này đều chẳng đem lại lợi ích cho ĐBSCL nói chung. Giáo sư Võ Tòng Xuân chỉ ra rằng ở Hà Lan trước đây người ta cũng xây đập để giữ ngọt và ngăn mặn, nhưng vì gặp qúa nhiều tác hại và gây ô nhiễm môi trường, nên họ cũng phải phá bỏ để khai thông dòng chảy tự nhiên. Ấy vậy mà ngày nay, nhà chức trách lại đi theo vết xe đổ của người khác!

Dự án xây đập sông Cái Lớn và Cái Bé có giá trị hơn 3300 tỉ đồng (khoảng 165 triệu USD), nhưng đọc báo cáo dài gần 400 trang về tác động môi trường tôi phải nói là quá sơ sài. Báo cáo có nhiều chất liệu cảm tính và duy ý chí hơn là khoa học. Khó thấy những dữ liệu từ nghiên cứu khoa học trong báo cáo. Nếu có thì nguồn số liệu không rõ ràng, hoặc lạc hậu. Không thấy những công trình nghiên cứu mô phỏng “what if” (việc gì xảy ra) trong báo cáo về tác hại đến ô nhiễm môi trường và tác hại đến nông thuỷ sản. Phần dự báo về ô nhiễm (3 trang) vô cùng sơ sài và chẳng có cơ sở khoa học nào cả. Đọc báo cáo này, ai cũng có thể thấy rõ ràng rằng dự án có thể ví von như được “xây dựng trên cát”, vì thiếu những nghiên cứu khoa học trước đó. Do đó, đứng trên quan điểm khoa học, dự án này không có cơ sở khoa học vững chắc.

Bất cứ can thiệp nào vào thiên nhiên cũng đều có thể đem lại lợi ích và tác hại. Vấn đề là tìm một biện pháp can thiệp đem lại lợi ích nhiều hơn tác hại. Nhìn vào những con đập hiện nay, chúng ta có thể dự báo rằng quyết định xây dựng đập trên sông Cái Lớn và Cái Bé có thể gây tác động đến môi sinh, xã hội và kinh tế của gần 20 triệu người, và ảnh hưởng tiêu cực đến vựa lúa lớn nhất của Á châu. Một quyết định như thế cần phải dựa trên luận cứ khoa học, chứ không thể dựa trên ý chí chủ quan. Hãy dừng ngay dự án, và bắt đầu làm nghiên cứu khoa học để đánh giá lợi và hại của các con đập hiện nay và trong tương lai.

NVT

===============

Nói không với dự án Cái Lớn, Cái Bé – Đi tìm các giải pháp phi công trình cho Đồng bằng Sông Cửu Long

Ngô Thế Vinh | 3-10-2018

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

và 18 triệu Cư dân Đồng Bằng Sông Cửu Long

Bây giờ chính sách phát triển thủy lợi của Việt Nam phải được chuyển đổi theo sự chuyển hướng của nông nghiệp, không thể theo mục tiêu cũ để tiếp tục tăng sản lượng lúa thông qua thâm canh nông nghiệp mà phải theo mục tiêu cải thiện sinh kế của nông dân thông qua đa dạng hóa cây trồng và canh tác tổng hợp. Nhưng rất tiếc các nhóm lợi ích vẫn bám mục tiêu đầu tiên đòi hỏi phải xây dựng hệ thống thủy lợi quy mô lớn, xây dựng cống đập ngăn mặn, đào kênh dẫn nước ngọt quí hiếm từ Sông Hậu xa tít để tiếp tục bắt dân trồng lúa, như Dự án Sông Cái Lớn – Cái Bé (CLCB). Nhóm lợi ích luôn có thế lực mạnh, để được duyệt dự án thì họ mới có ăn, mặc kệ dân trồng lúa cứ nghèo.” [Trao đổi cá nhân giữa GS Võ Tòng Xuân và Ngô Thế Vinh, qua một eMail ngày 16.09.2018]

Hình 1: trên và dưới, phối cảnh tổng thể Cống Cái Lớn, Cống Cái Bé, được mệnh danh là Công trình Thế Kỷ: hệ thống vĩnh cửu cống ngăn mặn CLCB, nếu thực hiện, theo ý kiến của các chuyên gia độc lập thì không những rất tốn kém (hơn 3 ngàn tỉ đồng) và không cần thiết, lại có nhiều rủi ro tiềm ẩn, huỷ hoại rộng rãi cả một hệ sinh thái mong manh của Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Một dự án từ Bộ NN & PTNT hoàn toàn đi ngược với tinh thần Nghị Quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu do TT Nguyễn Xuân Phúc ký ban hành ngày 17.11.2017 trong đó nhấn mạnh nguyên tắc: “thuận thiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào thiên nhiên.” (1,2)

NHỮNG CÔNG TRÌNH THẤT BẠI Ở ĐBSCL: CÓ BÀI HỌC NÀO ĐƯỢC RÚT RA HAY AI NHẬN TRÁCH NHIỆM

Từ hơn hai thập niên, người viết đã không ngừng lên tiếng về mối nguy cơ trên toàn hệ sinh thái lưu vực Sông Mekong do những con đập khổng lồ Vân Nam của Trung Quốc, tới chuỗi 9 con đập thuỷ điện dòng chính của Lào, rồi tới 2 dự án đập của Cambodia: ngoài những hậu quả rối loạn về dòng chảy, mất nước nơi các hồ chứa và quan trọng nhất là mất nguồn cát nguồn phù sa, dẫn tới một tiến trình đảo ngược khiến một ĐBSCL đang dần tan rã. Đồng bằng đang tan rã theo các bờ sông và sạt lở dọc theo duyên hải Biển Đông.

Với những mối hoạ từ thượng nguồn, thực tế cho thấy Việt Nam đã không thể làm gì được. Tuy là một quốc gia cuối nguồn, Việt Nam đã không thể ngăn cản được một dự án thuỷ điện phía thượng nguồn lưu vực Mekong nào cả, đó là chưa kể Việt Nam còn thúc đẩy quá trình ấy thông qua việc xây dựng nhà máy thuỷ điện ở Lào và Cambodia và gần đây nhất là mua điện từ Lào. Kể từ ngày Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm phạm phải một sai lầm chiến lược khi đặt bút ký Hiệp định Uỷ hội Sông Mekong / Mekong River Commission năm 1995 từ bỏ quyền phủ quyết / veto vốn đã có trong Hiệp ước Uỷ Ban Sông Mekong / Mekong River Committee năm 1957 từ thời Việt Nam Cộng Hoà.

Và mọi người chắc vẫn không quên sự kiện nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phải kêu gọi Trung Quốc xả nước từ đập thuỷ điện Cảnh Hồng / Jinhong Dam Vân Nam để cứu hạn cho ĐBSCL trong những ngày cuối tháng 03 năm 2016.

Nhưng còn phải kể tới những công trình phát triển tự huỷ / self-destructive development ngay nơi ĐBSCL trong bốn thập niên qua với những hệ luỵ tích luỹ tác hại nghiêm trọng trên tài nguyên và sự sống còn của cả một vùng châu thổ cuối nguồn Sông Mekong. Điển hình có thể kể, từ sau 1975:

_ Xây đê đắp đập chắn lũ hệ thống đê bao để mở rộng khu làm lúa ba vụ làm mất 2 túi nước thiên nhiên khu Tứ Giác Long Xuyên và vùng trũng Đồng Tháp Mười.

_ Xây hệ thống cống đập chắn mặn phá vỡ nhịp đập thiên nhiên của hệ sinh thái ĐBSCL điển hình là 2 dự án lớn: Ngọt hoá Bán Đảo Cà Mau và Công trình Cống đập Ba Lai.

NGỌT HOÁ BÁN ĐẢO CÀ MAU: MỘT ĐIỂN HÌNH HỐI TIẾC

Công trình Quản Lộ – Phụng Hiệp, ngọt hóa Bán đảo Cà Mau được khởi công từ đầu thập niên 1990 với vốn 1,400 tỉ đồng vay từ World Bank/ Ngân hàng Thế giới. Trong suốt giai đoạn 1990 đến năm 2000, hàng trăm cống đập, đê biển, đê sông ngăn mặn, giữ ngọt đã được rộng rãi đầu tư. Theo tính toán – trên lý thuyết của ngành thủy lợi thuộc Bộ NN & PTNT, hệ thống đưa nước ngọt từ Sông Hậu về Bán đảo Cà Mau sẽ cung cấp nước tưới, chủ yếu trồng lúa, cho 70,000 ha đất của tỉnh Bạc Liêu, 50,000 ha đất của Cà Mau và 66,000 ha đất của Kiên Giang.

Hình 2: Bản đồ hệ thống sông và kênh rạch chằng chịt nơi vùng châu thổ Đồng Bằng Sông Cửu Long. Nguồn: Amir Hosseinpour (ZEF), trích dẫn bởi Simon,2014 (6)

Hình 3: Bản đồ Quy hoạch thủy lợi vùng Nam Bán Đảo Cà Mau. (6)

Với những hậu quả là: Về khía cạnh công trình, do các cống ngăn mặn đã gây cản trở giao thông trên sông rạch nên phải làm thêm những công trình khác như âu thuyền Tắc Thủ, được xây từ năm 2001 tại ngã ba sông Ông Đốc – Cái Tàu – sông Trẹm, thuộc hai huyện Thới Bình và U Minh, Cà Mau với kinh phí gần 80 tỉ đồng nữa. Công trình này do Cty CP Tư vấn XD Thủy lợi II thiết kế và xây dựng. Âu thuyền Tắc Thủ [Hình 4] sau khi hoàn thành năm 2006, đã chứng tỏ không những là vô dụng, mà còn gây thêm cản trở giao thông. Cho đến nay, hầu như không ai chịu trách nhiệm về kế hoạch thất bại và đầu tư lãng phí này. (6)

Hình 4: Âu thuyền Tắc Thủ do Cty CP Tư vấn XD Thủy lợi II thiết kế và xây dựng từ 2001 tại ngã ba sông Ông Đốc – Cái Tàu – sông Trẹm, Cà Mau, với kinh phí gần 80 tỉ đồng nhưng sau khi hoàn thành năm 2006, đã chứng tỏ là vô dụng, mà còn gây thêm cản trở giao thông. Photo by Nguyễn Kiến Quốc (6)

Về khía cạnh hệ sinh thái, do dòng chảy sông rạch thường xuyên bị chặn lại bởi các cống, nên sự kết nối hữu cơ giữa hệ sinh thái sông-biển với thủy triều từ biển là hoàn toàn bị triệt tiêu trong thời gian cống bị đóng. Và khi mở cống, ô nhiễm tích luỹ lại theo dòng nước lan toả huỷ diệt sinh cảnh và nguồn thuỷ sản nơi cửa sông và vùng cận duyên.

Phía trong cống không còn hiện tượng nước lớn, nước ròng mỗi ngày, hoặc nước rong nước kém cho chu kỳ rằm mỗi nửa tháng. Khi chưa có cống đập, thủy triều trong sông rạch vùng Bán đảo Cà Mau tuy không đều nhưng có khi biên độ cao đến gần 2 mét. Do các cống đóng suốt mùa khô, nên khúc sông bên trong trở thành hồ nước tù đọng khiến tình trạng ô nhiễm gia tăng. Rác rưởi từ nguồn phế thải gia cư, cộng thêm với các độc chất phục vụ trồng lúa như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân bón hoá học tràn xuống tích tụ dày đặc. [Hình 5]

Hình 5: ở những nơi dòng sông không chảy, ĐBSCL dày đặc ô nhiễm và sinh cảnh thì đang chết dần. Photo by Ngô Thế Vinh 12.2017

Và theo Nhóm Nghiên Cứu Mekong từ ĐH Cần Thơ (6), hệ thống các cống chặn mặn làm mất nguồn năng lượng dòng chảy nước ngọt từ phía thượng nguồn (mũi tên màu xanh) và năng lượng thuỷ triều đem dòng nước mặn từ biển vào (mũi tên màu đỏ) khiến môi trường tự nhiên của ĐBSCL không còn được tẩy rửa hàng ngày (con nước lớn- con nước ròng), hàng tháng (con nước rong- con nước kém), và hàng năm (mùa nước nổi- mùa nước cạn) như trước kia. Hệ quả là hàm lượng oxy hòa tan (DO) trong nước rất thấp khiến sông rạch mất cả khả năng tự làm sạch nguồn nước bằng cơ chế oxy hóa. [Hình 6]

Hậu quả ô nhiễm là nước trong các sông rạch đổi sang màu đen, bốc mùi hôi thối do các chất hữu cơ phân hủy; và nguồn nước trong các vùng thủy lợi không còn sử dụng được cho mục đích ăn uống, kể cả sinh hoạt tắm giặt hàng ngày. Người dân nay phải sống bằng nước ngọt bơm từ những giếng ngầm, nguồn nước ngầm này cũng ngày một hạ thấp và có nơi cư dân đã phải khoan đến độ sâu 80 – 120 mét để tới được nguồn nước ngọt. Nhu cầu khai thác tầng nước ngầm để lấy nước ngọt quá lớn đang làm gia tăng tốc độ sụt lún đất ĐBSCL nhanh gấp nhiều lần hơn nước biển dâng. (6)

Hình 6: nhờ năng lượng dòng chảy nước ngọt từ phía thượng nguồn (mũi tên màu xanh) và năng lượng dòng nước mặn từ biển (mũi tên màu đỏ) mà môi trường tự nhiên của ĐBSCL được tẩy rửa hàng ngày (con nước lớn-ròng), hàng tháng (con nước rong-kém), và hàng năm (mùa nước nổi-cạn). Nguồn nước này cũng giúp cho nước chảy được trong các kênh rạch vì địa hình ĐBSCL quá bằng phẳng. (6) Những cống đập ngăn mặn của Bộ NN & PTNT đang “khai tử”dòng chảy và nhịp đập / Mekong Delta Pulse của hệ sinh thái ĐBSCL.

Về khía cạnh tài nguyên, nguồn thủy sản cũng là nguồn chất đạm/ protein quan trọng trong mỗi bữa ăn với tô cá chén cơm của cư dân ĐBSCL bị sút giảm nghiêm trọng: các loài cá trắng của nước chảy có nguy cơ bị tiêu diệt do dòng sông bị chặn bởi các cống đập, chỉ còn lại các loài cá đen nước tù của ao hồ như cá lóc, cá trê, cá rô phi… Đây là hậu quả tất yếu khi mà hệ sinh thái sông ngòi (riverine environment) đã bị chuyển sang hệ sinh thái ao hồ (lacustrine environment) (Nguyễn Hữu Thiện, 2018).

Do môi trường nước cực kỳ ô nhiễm, lại thêm, lục bình phát triển tràn lan phủ kín cả mặt thoáng sông rạch khiến ghe tàu đi lại rất khó khăn nên nhiều nơi người dân đã phải phun thuốc diệt cỏ trên lớp lục bình nhằm khai quang thuỷ lộ khiến nước sông càng ô nhiễm thêm nữa; [Hình 7] và do thiếu nguồn chất đạm từ tôm cá và các loài thuỷ sản khác đã ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng, trẻ em có nguy cơ bị suy dinh dưỡng.

Hình 7: Những giề lục bình phủ kín sông rạch do nước tù đọng phía trong các cống chắn khiến ghe tàu đi lại khó khăn, nhiều nơi người dân đã phải dùng thuốc diệt cỏ để khai quang lục bình nhằm tạo lối đi khiến nước sông lại càng thêm ô nhiễm. Lục bình còn ngăn cản ánh sáng và không khí rất cần thiết cho sự sống còn của các loài thuỷ sinh. Photo by Ngô Thế Vinh 12.2017

Các loại cây quen sống ở vùng nước lợ, điển hình như cây dừa nước, hư hại và chết do vùng nước lợ bị ngọt hoá. Nói chung, toàn thể tính đa dạng của hệ sinh thái khu vực quy hoạch bị xuống cấp và bị huỷ hoại nghiêm trọng.

Về phương diện xã hội, ở những nơi có cống đập chặn dòng, do việc canh tác trở nên khó khăn, chi phí cao mà lợi nhuận sút giảm, cộng thêm môi trường nước bị ô nhiễm, là một trong những lý do khiến tình trạng di dân ngày càng phổ biến và nhiều người đã bỏ đồng ruộng đi tìm kế mưu sinh ở các khu công nghiệp bên ngoài ĐBSCL hoặc trên thành phố. (6) Trong hai thập niên qua đã có ngót 2 triệu cư dân ĐBSCL phải rời bỏ quê hương vốn được coi là “vùng mật ngọt” với gạo trắng nước trong tôm cá đầy đồng thì nay phải ra đi tìm kế sinh nhai. Trong nghịch cảnh đó thì phụ nữ và trẻ em là bị nhiều tổn thương nhất.

Hình 8: Người dân Bạc Liêu và rồi lan sang Cà Mau rủ nhau đi phá cống đập ngăn mặn. Nguồn: tư liệu VTV, Giữa đôi dòng mặn ngọt 1998 (6) https://vtv.vn/video/phim-tai-lieu-giua-doi-dong-man-ngot-83951.htm

Kết quả là chỉ sau hơn 5 năm, công trình ngọt hóa Bán đảo Cà Mau đã bộc lộ những bất cập giữa lý thuyết và thực tế gây nhiều khó khăn cho đời sống cư dân trong vùng. Từ năm 1997-1998, đã có hàng trăm nông dân đòi phá các hệ thống cống đập này để lấy nước lợ vào nuôi tôm; tháng 7/1998 nông dân Bạc Liêu kéo nhau đi phá đập Láng Trâm và phong trào phá cống ngăn mặn lan sang tỉnh Cà Mau. [Hình 8]

Cuối cùng, sau năm 2000 Chính quyền phải nhượng bộ để cho các tỉnh trong vùng dự án chuyển đổi 450,000 ha đất trồng lúa sang vùng nuôi tôm, cũng có nghĩa là bước sửa sai để đưa vùng đất này trở về điểm xuất phát, trả lại hệ sinh thái tự nhiên của hai mùa mặn ngọt.

Không chỉ có vậy, ngoài sự lãng phí 1,400 tỉ đồng, Dự án Ngọt hoá Bán đảo Cà Mau, cho dù có sửa sai nhưng vẫn còn để lại những tổn thất về môi trường tự nhiên và nguồn tài nguyên và càng làm cho đất nước càng nghèo thêm. Các mục tiêu chính của dự án Ngọt hóa Bán đảo Cà Mau gần như hoàn toàn thất bại.

CỐNG ĐẬP BA LAI: THÊM MỘT HỐI TIẾC NỮA

Sau thất bại của công trình Ngọt Hoá Bán đảo Cà Mau, tưởng như đã là một bài học, nhưng vẫn tiếp theo dự án Cống đập Ba Lai, thêm một bài học không học / unlearned lesson vẫn phát xuất từ Bộ NN & PTNT.

Được khởi công tháng 02.2000, công trình chắn ngang cửa sông Ba Lai từ xã Thạnh Trị kéo sang xã Tân Xuân. Kinh phí ban đầu lên tới hơn 66 tỷ đồng VN. Trên lý thuyết – như từ bao giờ vẫn trên lý thuyết, cống đập Ba Lai có chức năng: ngăn mặn, giữ ngọt cho 115,000 hecta đất, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600 ngàn dân cư Thành phố Bến Tre và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành; cùng kết hợp với phát triển giao thông thuỷ bộ và cải tạo môi trường sinh thái vùng dự án. [sic]

Hai năm sau, từ tháng 04.2002 cống đập Ba Lai bắt đầu được đưa vào hoạt động, được vinh danh lúc đó là công trình thuỷ lợi lớn nhất ĐBSCL. Và từ đây, cửa sông Ba Lai, một trong 8 cửa của Cửu Long chính thức bị ngăn lại. [Hình 9]

Cho tới nay, cống đập Ba Lai đã vận hành được hơn 16 năm [2002-2018], hiệu quả công trình cống đập Ba Lai ấy ra sao? Những cống ngăn mặn Ba Lai đã không đạt mục đích vì còn chằng chịt những cửa sông kinh rạch khác không có cống ngăn đã tập hậu chuyển nước mặn vào bên trong hệ thống cống đập đã xây. Và để chỉ còn nghe những lời ta than của cư dân địa phương, bởi thế dân gian tỉnh Bến Tre mới có câu:

Ba Lai là cái cửa mình

Trung ương đem lấp dân tình ngẩn ngơ

Hình 9: từ ngày có cống đập Ba Lai, cửa sông Ba Lai nhánh thứ 8 bị Bộ NN & PTNT đóng lại. Cửa Ba Thắc đã bị bồi lấp từ cả trăm năm nay, và hiện giờ Cửu Long Giang nay chỉ còn 7 nhánh: Thất Long. Photo by Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị

Sông Ba Lai ngừng chảy. Thay vì biến sông Ba Lai thành hồ nước ngọt thì cư dân Bến Tre phải sống với nước sông Ba Lai mặn hơn trước kia nhất là vào mùa khô. Hậu quả là tỉnh Bến Tre thiếu nước ngọt, người dân sống trong tình trạng thiếu nước ngọt kinh niên, phải mua nước ngọt cho nhu cầu gia dụng có khi phải trả tới 100,000 đồng/ mét khối. [Tuổi Trẻ online 22.02.2016]

Giải thích của Chính quyền về “hiệu quả ngược” của công trình cống đập Ba Lai như hiện nay là đổ lỗi do thiếu vốn để làm nhiều công trình khác tiếp theo, đó là phải xây thêm cống đập và cả âu thuyền trên hai con sông Giao Hoà và Chẹt Sậy nơi vẫn tiếp tục đem nước mặn từ sông Cửa Đại đổ vào “hồ nước ngọt Ba Lai”.

Qua kinh nghiệm 16 năm vận hành của hệ thống cống đập Ba Lai, để thấy rằng dù tốn hàng bao nhiêu tỷ đồng, cứ với quyết tâm mù quáng can thiệp thô bạo khập khiễng vào thiên nhiên, làm cống ngăn mặn nhưng nước sông rạch bên trong vẫn không thể dùng được cho sinh hoạt, những công trình như thế còn khiến nước bên trong bị ô nhiễm nghiêm trọng hơn vì tù đọng do dòng sông không chảy.

Xây dựng cống đập Ba Lai không những đã rất tốn kém, nhưng khi phát hiện sai lầm thì việc phá bỏ, làm sạch môi trường và chuyển đổi sinh hoạt của cư dân cũng không thể mau chóng và không phải là dễ dàng.

Địa bàn môi trường không phải như một bàn cờ để dễ dàng xoá đi bày lại. Một câu hỏi được đặt ra: với những tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai – Bộ NN & PTNT, hay TNMT/ Bộ Tài Nguyên Môi trường hay chính phủ trung ương sẽ nhận trách nhiệm với phong cách “đem con bỏ chợ” như hiện nay?

Hai bài học đắt giá. Từ bài học thất bại của Công trình Ngọt hoá Bán đảo Cà Mau tiếp theo thất bại khác của công trình Cống đập Chắn mặn Ba Lai, nhiều nhà khoa học và giới hoạt động môi trường như một “think tank” đã không ngừng lên tiếng cảnh báo rằng: nếu không có một đánh giá môi trường chiến lược cho toàn ĐBSCL mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình hình mặn ngọt cho từng vùng, rồi lập ngay quy hoạch xây dựng xây một loạt hệ thống cống đập chỉ để ngăn mặn nơi các cửa sông lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái mong manh đã có đó từ ngàn năm và hậu quả sẽ khôn lường. Phát triển với những bước không bền vững / unsustainable development như trên đã và đang làm thay đổi diện mạo, gây tổn thương trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL và khiến các nguồn tài nguyên thiên nhiên cứ nghèo dần đi.

THUỶ LỢI CÁI LỚN-CÁI BÉ: THÊM MỘT “CÔNG TRÌNH THẾ KỶ” ĐẦY HOÀI NGHI

Dự án Thủy lợi Cái Lớn-Cái Bé (CLCB) được đề xuất từ năm 2011 với chủ trương trên lý thuyết như một công trình nhằm ứng phó với nước biển dâng và biến đổi khí hậu và cũng để duy trì đất trồng lúa bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu, theo quy hoạch thuỷ lợi tổng thể cho ĐBSCL đã được nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt ngày 19.04.2016.

Hình 10: trái, bản báo cáo Đánh giá Tác Động Môi trường (ĐTM), Dự án Hệ thống thuỷ lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé; phải, vùng dự án CLCB (vùng màu hồng) trong lưu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. (1) Nguồn: ĐTM tr..83

Dự án Thủy lợi CLCB Giai đoạn 1 được TT Nguyễn Xuân Phúc phê duyệt ngày 17.04.2017 dựa theo tờ trình của Bộ NN & PTNT. Toàn bộ công việc soạn thảo dự án, nghiên cứu khả thi cho đến lập báo cáo ĐTM đều nằm trong một “chu trình khép kín” / behind close door thuộc quyền kiểm soát của Bộ NN & PTNT mà không cho thấy có một tổ chức, cá nhân độc lập nào tham gia. Chủ đầu tư dự án là Ban Quản lý đầu tư và Xây dựng Thuỷ lợi 10 thuộc Bộ NN & PTNT. Từ đơn vị tư vấn lập báo cáo dự án là Liên danh Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam – Viện Quy hoạch Thuỷ lợi Miền Nam – Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Thuỷ lợi 2 rồi đến cơ quan lập báo cáo ĐTM là Viện Kỹ thuật Biển thuộc Quy hoạch Thuỷ lợi Việt Nam, tất cả đề là những đơn vị trực thuộc quản ý hành chính của Bộ NN & PTNT hoặc Bộ NN & PTNT có quyền ra chỉ đạo trực tiếp. Điều này có nghĩa các chuyên gia độc lập, tổ chức xã hội dân sự và cư dân không được tham vấn và có tiếng nói nào vào quyết định của dự án.

Dự án hệ thống thủy lợi CLCB với địa bàn chủ yếu ở vùng Bán đảo Cà Mau, được giới hạn bởi: phía bắc là kênh Cái Sắn; phía nam và đông nam là kênh Quản Lộ – Phụng Hiệp; phía đông bắc là sông Hậu và phía tây là Vịnh Thái Lan. Tổng diện tích vùng dự án là: 909,248 ha, trên địa bàn của 6 tỉnh / thành phố: Hậu Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu và TP Cần Thơ. [Hình 10].

Theo báo cáo ĐTM (dày 487 trang) thì mục tiêu (trên lý thuyết) của dự án Hệ Thống Thuỷ Lợi CLCB giai đoạn 1 là:

  • Kiểm soát mặn, giải quyết mâu thuẫn giữa vùng nuôi trồng thủy sản ven biển và vùng sản xuất nông nghiệp của các tỉnh: Kiên Giang, Hậu Giang và tỉnh Bạc Liêu thuộc lưu vực sông Cái Lớn – Cái Bé. Đồng thời, góp phần phát triển thủy sản ổn định ở vùng ven biển của tỉnh Kiên Giang;

  • Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển để giải quyết tình trạng thiếu nước ngọt vào mùa khô, phòng chống cháy rừng, đặc biệt trong những năm hạn hán, góp phần phát triển kinh tế xã hội ổn định;

  • Tăng cường khả năng thoát lũ, tiêu úng, tiêu chua cải tạo đất phèn;

  • Kết hợp phát triển giao thông thủy, bộ trong vùng dự án.

Quy mô dự án hệ thống thủy lợi CLCB (giai đoạn 1) gồm các hạng mục công trình:

  • Cụm công trình cống Cái Lớn – Cái Bé, tuyến đê nối 2 cống và nối với quốc lộ 63 và các cống dưới tuyến đê. tuyến kênh nối 2 sông Cái Lớn và sông Cái Bé.

  • Nạo vét kênh Thốt Nốt và kênh KH6, sửa chữa cống, âu Tắc Thủ; cụm công trình bờ đông kênh Chắc Băng và sông Trẹm; cống Lương Thế Trân; cống Ông Đốc; Cống Xẻo Rô; cống Ngọn Tắc Thủ và trạm bơm Tắc Thủ.

Dự kiến tổng vốn đầu tư cho dự án (Giai đoạn 1) là 3.309,5 tỷ đồng (tương đương khoảng 150 triệu Mỹ kim).

ĐTM CÁI LỚN – CÁI BÉ: “ĐỀ NGHỊ CHỦ DỰ ÁN THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC BIỆN PHÁP GÂY Ô NHIỄM”?

  • Báo cáo ĐTM Hệ thống thủy lợi CLCB giai đoạn 1, do Viện Kỹ thuật biển trực thộc Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam (2018), một cơ quan trực thuộc Bộ NN & PTNT, được ghi là một Báo cáo chưa được thẩm định, phê duyệt.

Với một bản báo cáo ĐTM được ghi là chưa được thẩm định, phê duyệt thì đã có ngay một số nhận định khái quát từ giới chuyên gia trong nước cũng như hải ngoại cho rằng:

  • ĐTM dù với bề dày ngót 500 trang nhưng rất lan man nhiều sự kiện còn thiếu sót và không minh bạch do bị chi phối bởi quan điểm của chủ đầu tư / nhóm lợi ích, và chỉ để nhằm biện minh cho sự cấp thiết của dự án, nên lộ rõ nhược điểm là thiếu tính khoa học khách quan, thiếu tính thuyết phục và chưa thực tế.

  • Mục 01.1.2. Sự cần thiết phải đầu tư dự án chỉ nói chung chung mà thiếu dẫn chứng thực tế hiện trạng mặn-ngọt hiện nay trong vùng dự án đã gây tổn thất kinh tế xã hội cụ thể ra sao mà nay phải đối phó và thiếu một tầm nhìn chiến lược nhất là trong bối cảnh những “công trình thế kỷ” trước đó đã thật sự thất bại như đã dẫn chứng trong phần đầu của bài viết này. Cách viết báo cáo như vậy là nhằm để dễ dàng thông qua cho chủ đầu tư chứ không phải mang tính dự báo, cảnh báo để đưa ra giải pháp giảm thiểu hoặc thay thế từ một con toán so sánh được mất có sức thuyết phục.

  • ĐTM, ngoài tính toán rất sơ lược chi phí cho công trình, nhưng không thấy có đề cập chi phí hoạt động và bảo quản, không có ngân quỹ dự trù phòng thiệt hại rủi ro.

  • ĐTM không có thẩm định lợi hại tăng hay giảm cho dân bao nhiêu, cho chính quyền bao nhiêu so với hiện trạng, và cũng không rà xét các phương án nào khác để biết đây có là lộ trình tối ưu thật không?

  • Phần quan trọng nhất của ĐTM là các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu ô nhiễm thì viết rất chung chung chưa đến 3 trang trong các mục 1.3.2. Với những giải pháp chung chung như thế, việc áp dụng thực hiện trong thực tế có ai đảm bảo hiệu quả.

  • Với một dự án thuỷ lợi có thời gian vận hành tối thiểu 50 năm, có khi đến cả trăm năm nhưng ĐTM lại tập trung chủ yếu vào phân tích tác động của giai đoạn chuẩn bị và xây dựng dự án mà lại viết sơ sài tác động của việc vận hành hệ thống thuỷ lợi CLCB sau khi xây dựng xong. Quan trọng nhất ĐTM này lại viết rất sơ sài những phần nội dung rất cơ bản và quan trọng như đánh giá tác động môi trường nước khi vận hành cống trong các mục 1.3.3.4, phần giảm thiểu tác động trên môi trường nước, giảm thiểu tới tài nguyên sinh thái… Với sự sơ sài chung chung như vậy thì không biết sẽ triển khai thực hiện thế nào trong thực tế.

Một điều đáng lưu ý là tử trang 451 tới trang 456, báo cáo ĐTM liên tục lặp đi lặp lại một ý quan trọng, được cho là ý kiến của 8 trên trên tổng số 39 UBND xã trong phần tham vấn cộng đồng: “đề nghị Chủ dự án thực hiện nghiêm túc biện pháp gây ô nhiễm.” [sic] Báo cáo ĐTM không đưa ra các văn bản gốc trích dẫn ý kiến chung này, nhưng có thể hiểu ý kiến “đề nghị Chủ dự án thực hiện nghiêm túc biện pháp gây ô nhiễm.” theo hai hướng:

  • Đơn vị tư vấn lập ĐTM không phân biệt được “biện pháp gây ô nhiễm” và “biện pháp kiểm soát ô nhiễm” là hai khái niệm hoàn toàn đối nghịch nhau. Đây là những khái niệm sơ đẳng nhất của những học sinh khi học về khoa học môi trường, lẽ nào những đơn vị tư vấn hàng đầu trực thuộc Bộ NN & PTNT với một đội ngũ hùng hậu gồm cả những vị phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, kỹ sư, cử nhân lại không phân biệt được hai khái niệm sơ đẳng ấy để đưa vảo báo cáo? Không phải không phân biệt được mà là cực kỳ cẩu thả khi viết và đọc báo cáo đến độ vô tri.

  • Đơn vị tư vấn lập ĐTM cố tình “nhét chữ vào miệng” các UBND xã để họ đưa ra ý kiến “đề nghị Chủ dự án thực hiện nghiêm túc biện pháp gây ô nhiễm.” và kết quả là có 8 xã trên 39 xã được tham vấn đồng ý với tư vấn, kết quả là nguyên văn được ghi vào giấy trắng mực đen ĐTM, nếu đúng như vậy thì đây là một sự thiếu trung thực, lập lờ mà xã hội không thể nào chấp nhận được. Không những không trung thực mà là vô trách nhiệm một cách thô bạo.

Dù với lý do nào, trong một bản báo cáo ĐTM với “đề nghị Chủ dự án thực hiện nghiêm túc biện pháp gây ô nhiễm” vẫn có đó khiến người ta không khỏi nghi ngờ về hậu ý của những người lập báo cáo, của chủ đầu tư và cả những người phê duyệt đầu tư dự án ấy. Nhìn chung, mục tham vấn cộng đồng viết rất sơ sài nhưng lại để lộ sai sót nghiêm trọng và gần như vô nghĩa thay vì tìm kiếm ý kiến phản biện đa chiều của cộng đồng cư dân vùng dự án ngõ hầu làm do dự án tốt hơn lên.

Theo ý kiến các chuyên gia thì: “Tất cả những kịch bản dự báo trong chương 3 của báo cáo ĐTM hoàn toàn mang tính lý thuyết, không viện dẫn bất kỳ một công trình điển hình thành công nào tại Việt Nam và thế giới. Nghiên cứu báo cáo ĐTM cho thấy rằng nhóm tư vấn đã bỏ qua những bài học nhãn tiền về sự thất bại đầy hối tiếc và không thể đảo ngược về mặt tự nhiên của những công trình thuỷ lợi trước như dự án Ngọt hoá Bán đảo Cà Mau và Công trình Cống đập Ba Lai đã được đề cập ở trên. Do vậy, có thể kết luận rằng những đánh giá của báo cáo ĐTM đưa ra không có biện pháp ngừa tránh vết xe đưa đồng bằng thêm trầm mình vào ô nhiễm, không đủ cơ sở khoa học và không thể tin cậy.

Với một báo cáo ĐTM còn nhiều thiếu sót như thế thì không thể quyết định gì cả để khởi công một “Công trình Thế kỷ” có khả năng huỷ hoại cả một hệ sinh thái mong manh không chỉ của bán đảo Cà Mau và trên toàn hệ sinh thái của ĐBSCL, ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản xuất sinh kế của hàng triệu cư dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao nhiêu vấn đề kỹ thuật chưa có giải pháp rốt ráo.

Một hệ sinh thái khi đã bị huỷ hoại thì rất khó sửa chữa và không thể đảo ngược.

Hình 11: Sơ đồ dự án hệ thống cống đập chắn mặn trên Sông Cái Lớn- Sông Cái Bé, sẽ tác động trên 1/4 diện tích toàn ĐBSCL và ảnh hưởng tới đời sống hàng triệu cư dân trong vùng. Nguồn: Ánh Sáng và Cuộc Sống

NHỮNG CHUYÊN GIA ĐỘC LẬP NÓI GÌ VỀ CLCB?

Hình 12: trên từ trái, GS Võ Tòng Xuân, GS Nguyễn Ngọc Trân; dưới từ trái, TS Lê Anh Tuấn, TS Dương Văn Ni, ThS Nguyễn Hữu Thiện, những tiếng nói trí tuệ hai thế hệ từ Đồng Bằng Sông Cửu Long, với chiều hướng thiên về giải pháp phi công trình / non-structural adaptation measures cho ngót 18 triệu cư dân Miền Tây Nam Bộ. Nguồn: internet

Để có một cái nhìn thực tế nhất về dự án CLCB, tác giả bài viết này tìm đến những chuyên gia nông học, môi trường học, sinh thái học của ĐBSCL. Họ là những chuyên gia không những được ghi nhận trong nước mà còn trên bình diện quốc tế vì những đóng góp cho khoa học và cuộc sống. Quan trọng hơn hết, đa số họ là những cư dân sinh ra và lớn lên từ ĐBSCL, cuộc sống của họ gắn liền với vùng đất này khiến họ am hiểu ĐBSCL như đường chỉ tay của chính họ.

Ý kiến GS Võ Tòng Xuân:

PHÁT BIỂU CỦA GS VÕ TÒNG XUÂN 16.09.2018 QUA MỘT EMAIL TRAO ĐỔI CÁ NHÂN

NGÔ THẾ VINH VIẾT:

Tôi và nhóm Bạn Cửu Long bên này đang rất quan tâm tới Dự án Cái Lớn Cái Bé mà tôi nhớ là trước đây, theo GS Võ Tòng Xuân và các nhà nghiên cứu độc lập, thì những dự án chặn mặn sẽ phá vỡ đi dòng chảy tự nhiên vốn có, gây ra nhiều hệ lụy khôn lường, nhất là về môi trường… Trong tình thân, đề nghị Anh Xuân đưa ra một nhận định có tính cập nhật/ Upto Date, và chi tiết hơn/ more specific về dự án Cái Lớn Cái Bé để tôi có thể quote một tiếng nói có uy tín và rất có trọng lượng trong một bài đang viết, trong khi mà các nhóm lợi ích đang khuynh loát tiếng nói của những nhà khoa học chân chính…

GS VÕ TÒNG XUÂN TRẢ LỜI:

Tôi biết anh rất tâm tư mỗi khi nói đến ĐBSCL. Qua 40 năm tôi mới đạt thêm một thắng lợi về mặt Khoa học và Kiến Tạo Xã Hội bằng một xoay chuyển chính sách nhà nước, nhưng phải nói ngay rằng, đây mới chỉ là bước đầu được Thủ Tướng chấp thuận đưa vào nghị quyết, nhưng phải cần một thời gian nữa mới có thay đổi thật sự, các Bộ, Ban, Ngành mới chấp hành chủ trương. Cho nên tôi xin trình bày với anh một cách tóm tắt như thế này:

Từ khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhất trí với đề nghị mà tôi đã từng nêu 28 năm nay sau khi Việt Nam trở lại vị trí nhóm 3 quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, Nghị Quyết 120 NQ-CP của Chính phủ đã được ban hành vào tháng 11/2017. Đây là một nghị quyết lịch sử của nông nghiệp ĐBSCL, vì nó gỡ trói người nông dân thoát khỏi vòng kim cô phải sản xuất lúa muôn đời để cho cán bộ nhà nước hoàn thành chỉ tiêu pháp lệnh về sản lượng lúa, mặc kệ nông dân phải chịu giá rẻ bèo của sản phẩm thặng dư quá lớn này. Bây giờ chính sách phát triển thủy lợi của Việt Nam phải được chuyển đổi theo sự chuyển hướng của nông nghiệp, không thể theo mục tiêu cũ để tiếp tục tăng sản lượng lúa thông qua thâm canh nông nghiệp mà phải theo mục tiêu cải thiện sinh kế của nông dân thông qua đa dạng hóa cây trồng và canh tác tổng hợp.

Nhưng rất tiếc các nhóm lợi ích vẫn bám mục tiêu đầu tiên đòi hỏi phải xây dựng hệ thống thủy lợi quy mô lớn, xây dựng cống đập ngăn mặn, đào kênh dẫn nước ngọt quí hiếm từ sông Hậu xa tít để tiếp tục bắt dân trồng lúa, như Dự án sông Cái Lớn – Cái Bé (CLCB). Nhóm lợi ích luôn có thế lực mạnh, để được duyệt dự án thì họ mới có ăn, mặc kệ dân trồng lúa cứ nghèo.

Các nhà khoa học chân chính đã đưa ý kiến đề nghị dừng dự án CLCB, với những lập luận bác bỏ các lý do cần phải thực hiện dự án. Nhưng lý do quan trọng mà các nhà phản biện nói rất ít là dưới ánh sáng của NQ120 của Chánh phủ, lương thực không còn là mục tiêu chính mà nhà nước đã bắt buộc mọi người thực hiện bằng mọi giá bất kể tổn phí. Thời thế bây giờ không như trước nữa. Chúng ta dư thừa quá nhiều lúa gạo. Với kỹ thuật lúa gạo của chúng ta ngày nay, chỉ trong vòng 3 tháng là chúng ta có gặt vụ lúa mới. Tại sao những người trong nhóm lợi ích chỉ nghĩ là phải ngăn mặn để có thể tiếp tục trồng lúa mà không thấy những người chuyên trồng lúa cả 40 năm nay vẫn khổ vì lợi tức từ lúa quá thấp? Nhóm lợi tức này muốn những người trồng lúa của nước ta chịu nghèo khổ vĩnh viễn hay sao?

Mặt khác những người chỉ chủ trương trồng lúa-lúa-lúa quả là những người không biết cách làm ăn gì khác ngoài cây lúa. Họ càng chủ trương chỉ trồng lương thực càng bộc lộ sự yếu kém trình độ học thức của họ. Hãy tưởng tượng nếu Malaixia hoặc Singapo chỉ chủ trương sản xuất lương thực thì chắc họ không đứng hàng đầu quốc gia giàu có nhất ASEAN. Hoặc xa xa bên kia trời tây, nếu Thụy Sĩ cũng chủ trương tự túc lương thực thì chắc họ không bao giờ đứng đầu bảng các quốc gia giàu có của châu Âu.

Mặt khác, các chuyên gia thủy lợi nước ta dư sức biến những cơ sở vật chất thủy lợi hiện có của vùng ngập sâu của Đồng Bằng Sông Cửu Long cho cây trồng phi lúa, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản nước lợ ở ven biển vùng. Quí vị không nên chạy theo đuôi các nhà quản lý chỉ biết có cây lúa, mà nên giúp dân có điều kiện sản xuất cây trồng khác, hoặc vật nuôi có giá trị cao, để họ sớm làm giàu. Vấn đề kế tiếp là gắn kết với các doanh nghiệp tài giỏi, có đầu ra ổn định để tiêu thụ sản phẩm của nông dân. [Hết trích dẫn trao đổi cá nhân giữa GS Võ Tòng Xuân và Ngô Thế Vinh, qua một eMail 16.09.2018]

Tưởng cũng cần nên nói thêm: GS Võ Tòng Xuân được biết đến như một nhà nông học suốt một đời lăn lộn với cây lúa nơi ĐBSCL từ trước 1975 cho tới nay, ông được các nhà nông học Tây phương gọi tên là Dr. Rice / TS Lúa Gạo, do công lao hướng dẫn nông dân Miền Tây phát triển đại trà cây lúa Thần Nông HYV / High Yield Variety trên khắp ĐBSCL, đưa Việt Nam lên hàng thứ hai xuất cảng gạo [chỉ có sau Thái Lan] đi khắp thế giới. Nhưng cũng chính ông, từ 28 năm nay đã rất can đảm và thức thời yêu cầu chuyển đổi canh tác, gỡ trói người nông dân thoát khỏi vòng kim cô phải sản xuất lúa muôn đời với giá rẻ bèo do thặng dư quá lớn này. Ông là một trong những tiếng nói uy tín và rất có trọng lượng cho sự ra đời của Nghị Quyết 120 NQ-CP của Chính phủ đã được ban hành vào tháng 11/2017.

Ý kiến GS Nguyễn Ngọc Trân:

Là một thành viên lâu năm Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ quốc gia qua nhiều nhiệm kỳ chính phủ, ông là người Miền Tây được sinh ra trên một cù lao nằm giữa Sông Tiền huyện Chợ Mới tỉnh An Giang, ông có những công trình nghiên cứu về Sông Mekong và ĐBSCL qua những “Điều tra Cơ bản Tổng hợp vùng ĐBSCL”.

Đối với với công trình CLCB, GS Nguyễn Ngọc Trân nêu câu hỏi:

Chúng ta đã triển khai dự án ngọt hóa bán đảo Cà Mau, dự án cống đập Ba Lai Bến Tre đến nay tại sao không thành công? Trước khi triển khai các dự án mới phải trả lời câu hỏi vì sao các dự án cũ không thành công.” Nhưng vẫn không có câu trả lời từ Bộ NN & PTNT.

Cũng vẫn GS Nguyễn Ngọc Trân nhận định: “thiếu nước ngọt chỉ là hiện tượng, phải tìm nguyên nhân đúng thì mới có giải pháp đúng”.

Chúng ta đang sống trên một vùng mà hệ sinh thái rất đa dạng nhưng chúng ta đang đơn giản nó. Từ rất nhiều sản vật tự nhiên chúng ta gom lại chỉ còn cây lúa và con tôm. Ta đang nghèo hóa môi trường và hệ sinh thái của chúng ta. Dựa trên tinh thần Nghị quyết 120, tôi cho rằng cần cân nhắc thật kỹ, khách quan và khoa học. Nên có hội thảo về biện pháp phi công trình trước khi đưa ra quyết định cho một giải pháp công trình”.

Nội dung của báo cáo chủ yếu là đánh giá tác động lên môi trường của việc chuẩn bị và triển khai thực hiện dự án. Còn những chương khác hầu hết là từ “cắt và dán” (copy & paste) từ các báo cáo Nghiên cứu khả thi / NCKT.

Trong khi đó, chúng tôi chờ đợi báo cáo đánh giá tác động lên môi trường nếu dự án hoàn thành và đi vào vận hành. Bởi có như vậy việc thẩm định dự án (BC NCKT) mới mang đầy đủ ý nghĩa trước khi dự án được phê duyệt để thực hiện.

Vẫn theo quan điểm của GS Nguyễn Ngọc Trân: “Không nên đắp đập để ngăn mặn, lợ. Cần có nhìn nhận đúng đắn để tránh những quan niệm sai lầm về tác động của biến đổi khí hậu, dẫn đến việc định hướng các biện pháp ứng phó không phù hợp và không hiệu quả. Cụ thể, ở đây là dự án về thủy lợi trên sông Cái Lớn và Cái Bé rất dễ gây ô nhiễm môi trường cho cả vùng ĐBSCL do không có sự trao đổi dòng chảy với bên ngoài. Các tỉnh vùng ven biển cũng nên xem nước mặn, lợ là một dạng nguồn tài nguyên lợi thế và không nên đắp đập để ngăn lại.” (3)

Ý kiến TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Biến đổi Khí hậu ĐH Cần Thơ:

Đáng tiếc thay, hàng chục năm gần đây, với tư duy đẩy mạnh sản xuất lương thực, chủ yếu là lúa, không coi nước mặn cũng là tài nguyên nên đã hình thành nhiều dự án “nghịch thiên” như “đắp đập chặn dòng”, “ngăn mặn giữ ngọt”. Hàng ngàn tỉ đồng đổ ra để làm các công trình bê tông như cống, đập, kè cọc nhằm chặn dòng sông ngay trước cửa biển… Các dòng sông bị đóng kín sau mùa mưa để giữ lại nước ngọt khiến thủy triều từ biển không vào nội đồng được: nhiều mảng cây rừng ven biển bị suy kiệt mà chết dần, sạt lở ven biển gia tăng. Còn phía trong đồng thì dòng sông biến thành các hồ chứa, nước bị cầm tù khiến nhanh chóng bị ô nhiễm, hôi thối. Lục bình và nhiều loại tảo lục phát triển, ghe tàu đi lại rất khó khăn, chậm chạp và tốn kém. Nhiều nơi nông dân buộc phải dùng thuốc độc hóa học để tiêu diệt lục bình khiến ô nhiễm sông rạch thêm trầm trọng… Nhiều bài học thực tế cho thấy, từ ngàn đời nay, thiên nhiên đã vốn tạo cho sông nước, đất đai, cây trồng, con người những mối ràng buộc hài hòa và quan hệ có tính hữu cơ. Việc đưa công trình làm đảo lộn quy luật của tạo hóa có thể tạo ra một số lợi nhuận nào đó, mang tính ngắn hạn nhưng về dài hạn, cái hại về môi trường, sinh thái, xã hội ngày càng lớn và dần dần vượt cao hơn cái lợi, khi đó kinh tế nông nghiệp cũng dần dần xuống dốc… (4)

Ý kiến TS Dương Văn Ni, người có hơn 30 năm kinh nghiệm giảng dạy Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên ĐH Cần Thơ:

Phát biểu tại hội nghị về dự án Thuỷ lợi CLCB giai đoạn 1 tổ chức Kiên Giang ngày 07.09.2018, TS Dương Văn Ni cho rằng đối với vùng Bán đảo Cà Mau, hai sản phẩm chủ lực của vùng là lúa và tôm, nhưng đây lại là hai đối tượng mâu thuẫn với nhau về nguồn nước. “Con tôm cần độ mặn trên 4 phần ngàn, còn cây lúa dưới 4 phần ngàn. Nước thải ruộng tôm làm chết lúa và nước thải ruộng lúa có nhiều thuốc sâu cũng làm chết tôm”, ông dẫn chứng.

Theo TS Dương Văn Ni, vào năm 1990, ông mang một bộ giống lúa cao sản của Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) trình diễn tại huyện Đầm Dơi (Cà Mau). Lúc đó, người dân, chính quyền rất hào hứng chuyện đào kênh đắp đê để giữ ngọt. Thế nhưng, 4 năm sau, chính những người dân đi đắp đê đó lại đi phá đê để nuôi tôm.

“Tôi nói để thấy cái vấn đề ở khu vực này thiếu đa dạng cây trồng vật nuôi, chứ không phải mâu thuẫn mặn ngọt”, ông cho biết.

“Nếu không nhìn ra vấn đề của vùng là thiếu đa dạng cây trồng vật nuôi, thì vùng này sẽ mãi loay hoay với các công trình. Khi đó, chính quyền địa phương với trách nhiệm được nhà nước giao giữ gìn công trình xã hội sẽ xem người dân như những người phá hoại, trong khi người dân nhìn chính quyền như là người cản trở cơ hội làm giàu của họ. (4)

Ý kiến ThS Nguyễn Hữu Thiện, người sinh ra và lớn lên từ ĐBSCL, tốt nghiệp ĐH Wisconsin Hoa Kỳ, chuyên gia độc lập về Sinh thái

Với nhiều năm trăn trở với hệ sinh thái ĐBSCL, phát biểu tại buổi tham vấn ý kiến chuyên gia về xây dựng dự án thủy lợi CLCB được tổ chức tại TP Cần Thơ ngày 28.05.2018, ông Nguyễn Hữu Thiện đã nhấn mạnh rằng, việc đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi này là không cần thiết.

Phân tích 4 luận điểm trong bản báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM của Dự án CLCB, ông Thiện khẳng định là tính cần thiết và cấp bách phải đầu tư dự án CLCB là không có tính thuyết phục, vẫn theo ông Thiện:

Luận điểm (1) được nêu ra xuất phát tình trạng khô hạn của mùa khô năm 2016. Thế nhưng, theo ông Thiện, đây là một sự kiện cực đoan 90 năm mới có một lần, không phải là xu hướng chung của ĐBSCL, nên không thể căn cứ vào yếu tố cực đoan đó để khẳng định cần thiết phải đầu tư dự án nêu trên.

Luận điểm (2) được viện dẫn là nguy cơ nước biển dâng. Ông Thiện cho rằng, đây là luận điểm thiếu căn cứ, không đúng với thực tế của ĐBSCL, tức khả năng nước biển dâng đến năm 2100 chỉ khoảng 53 cm, chứ không phải là 1 mét như những kịch bản được đưa ra trước đó.

“Vì vậy, đừng lấy chuyện nước biển dâng đề “hù dọa”, ông nói và cho biết sụt lún đất mới là vấn đề đáng lo hơn do sử dụng nước ngầm vì sông ngòi bị hủy hoại, trong khi lượng phân bón, thuốc trừ sâu sử dụng quá nhiều cho nền nông nghiệp và do đắp đập.

Luận điểm (3) được đưa ra để xây dựng hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé khi nói ĐBSCL gánh trọng trách đảm bảo an ninh lương thực, theo ông Thiện là không đúng vì nói năm khô hạn 2016 nói rằng an ninh lương thực bị đe dọa, nhưng năm đó Việt Nam vẫn xuất khẩu hơn 4,8 triệu tấn gạo, còn dư cả chục triệu tấn lúa, thì rõ ràng an ninh lương thực không hề bị đe dọa.

Luận điểm (4) được đưa ra khi nói nguy cơ cạn kiệt nguồn nước ngọt ở ĐBSCL do tác động của thượng nguồn. Ông Thiện cho rằng đập thủy điện không làm hết nước, mà chỉ có tác động đến phù sa và thủy sản.

Cũng theo ông Thiện, việc xây dựng hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé có thể đẩy quy hoạch tích hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu Tư (KH&ĐT) rơi vào thế “thất thủ chiến lược” nhằm hướng tới phát triển theo hướng “thuận thiên”, theo tinh thần Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng biến đổi khí hậu. (7)

Ý kiến KS Phạm Phan Long, PE từ Viet Ecology Foundation

Chúng tôi chia sẻ với dân cư ĐBSCL và cả nước mối quan ngại của chúng tôi về dự án Thủy lợi ngăn mặn trên sông Cái Lớn và Cái Bé với lời kêu gọi lập tức huỷ bỏ hay ít nhất ngừng ngay dự án này để có thời gian đánh giá thận trọng hơn, rút kinh nghiệm từ những công trình thuỷ lợi tốn kém đầy hối tiếc trước đây đã liên tiếp gây ra thảm trạng trên đồng bằng này.Những công trình trước cũng đều có những mục đích viết ra hay như thế nhưng toàn thất bại sau những thành quả nhất thời.

Công trình ngọt hoá bán đảo Cà Mau đã gây tranh chấp gay gắt ngọt mặn và phải phá bỏ. Công trình cống ngăn mặn Ba Lai đã không ngọt hoá mà khiến sông Ba Lai ngưng chảy biến thành hồ, tích lũy ô nhiễm và nước còn mặn hơn xưa. Công trình đê bao Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên không những làm cho hai lòng chảo bị tù đọng ô nhiễm mà còn làm mất hai vùng trũng chứa nước ngọt thiên nhiên hằng năm cung cấp bù đắp nước ngọt cho đồng bằng trong mùa khô.

Những công trình đó khiến đồng bằng cho dù vẫn bao phủ bằng mặt nước mênh mông nhưng không còn nước sạch có thể sinh hoạt hay canh tác được. Dân phải tận dụng nguồn nước ngầm khiến đất lún nhanh gấp chục lần biển dâng do biến đổi khí hậu. Những kinh nghiệm xót xa này không hề được Bộ NN & PTNT rút tỉa, rõ ràng vấn nạn lớn trên toàn đồng bằng hiện nay là ô nhiễm nguồn nước chính vì các công trình thủy lợi hoạch định phi lý đã gây ra. Ô nhiễm phải được xem là vấn nạn lớn mà mọi công trình phải phải bảo đảm không cho xảy ra. Công trình Cái Lớn Cái Bé sẽ đẩy ĐBSCL lao sâu hơn vào ao tù thảm trạng ô nhiễm không khác những công trình thuỷ hại trước đây nhưng với một quy mô lớn hơn.

Một lần nữa, chúng tôi kêu gọi lập tức huỷ bỏ dự án này và thay vì tranh chấp với thiên nhiên nhiên với các công trình cắt sông ngăn biển, hãy khiêm nhường tìm những lời giải thuận thiên nhiên, tìm bền vững tiềm ẩn trong cân bằng sinh thái, tương tác tự nhiên giữa sông với biển, vì người có thể thích nghi sống với lũ, phèn, ngọt, lợ hay mặn nhưng không thể sống với ô nhiễm. Chúng tôi cho rằng nếu chưa kiểm soát ô nhiễm phục hồi phẩm chất nguồn nước và sửa lỗi các công trình trước thì không có lý do gì đầu tư để chuốc thêm thảm trạng chưa yên.

NÓI KHÔNG VỚI DỰ ÁN SÔNG CÁI LỚN – CÁI BÉ

Để thay kết luận, một lần nữa người viết gửi tới TT Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng NN & PTNT Nguyễn Xuân Cường, vẫn câu trích dẫn và cũng là bài học đầu tiên của một sinh viên vào học Y khoa: Primum Non Nocere / First do no harm / Trước hết là không gây hại. Mọi kế hoạch vội vã, thiếu thời gian cho một đánh giá tác động môi trường [ĐTM] có tính khách quan, với tổn phí hàng ngàn tỉ đồng có thể gây hại cho toàn hệ sinh thái vốn đã quá mong manh của một vùng châu thổ mà trước đây đã từng được đánh giá là phong phú và giàu có nhất trên hành tinh này.

Như một nhắc nhở và nhấn mạnh, người viết ghi nhận lại nơi đây một đề nghị cụ thể với Thủ Tướng chánh phủ kiến tạo Nguyễn Xuân Phúc: hãy cho ngưng ngay Dự án xây hệ thống cống đập Sông Cái Lớn – Sông Cái Bé, hãy dùng ngân sách 3,300 tỷ dự trù cho dự án để thành lập ngay một nhóm nghiên cứu ĐTM độc lập [có thể bao gồm cả các chuyên gia Hoà Lan, họ đã có kinh nghiệm và có công lớn thực hiện một số chương trình khảo sát cơ bản cho ĐBSCL], để đi tìm và phác thảo các giải pháp phi công trình / non-structural adaptation measures để thích nghi và chung sống một cách tối ưu với cả ba vùng sinh thái: ngọt-lợ-mặn của ĐBSCL trong bối cảnh diễn tiến của Biến đổi Khí hậu toàn cầu. Đó mới đích thực là tinh thần Nghị quyết 120 về ĐBSCL [17/11/2017] trong đó Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh theo nguyên tắc: “thuận thiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào thiên nhiên.” (2)

HUỚNG TỚI NHỮNG BIỆN PHÁP PHI CÔNG TRÌNH

Trong 40 năm qua, nhiều biện pháp công trình / structural measures lớn đã được đem ra thử nghiệm trên khắp ĐBSCL như: đắp đê ngăn lũ, xây dựng đê kè để giảm sóng hay chuyển hướng dòng chảy, xây dựng hệ thống cống chăn mặn… Đã chứng tỏ một điều: không thể dùng những biện pháp thô bạo can thiệp vào thiên nhiên, lợi ích nếu có thì rất ngắn hạn trong khi hậu quả tác hại thì lâu dài, rất khó sửa chữa trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL.

Từ những bài học thất bại ấy, các nhà khoa học môi trường đã khiêm tốn hơn khi chọn các giải pháp chung sống với mẹ thiên nhiên / mother nature vốn bao dung nhưng cũng vô cùng khắc nghiệt.

Trước những nan đề, mặn ngọt, thay đổi khí hậu, nước biển dâng không phải bây giờ mới có nơi ĐBSCL mà nhiều ít đã có từ thuở hoang sơ, và con người từ bao giờ đã biết thích nghi sống hài hoà với thiên nhiên, dần dà nếp sống ấy đã tạo ra một nền văn hoá sông nước, ngay cả khi mà nền khoa học kỹ thuật phát triển, giải pháp chống lại mẹ thiên nhiên / mother nature vẫn là một chọn lựa thiếu khôn ngoan và không cân sức, do đó đã đến lúc các nhà khoa học môi trường thức thời đã có khuynh hướng đi tìm các “biện pháp phi công trình” chung sống và thích nghi với thiên nhiên là chủ yếu.

Thế nào là các biện pháp phi công trình / non-structural adaptation measures: đó là không chọn xây những công trình lớn cố định vĩnh cửu để đối phó với một hệ sinh thái không ngừng chuyển động: tính cố định của các công trình đã chứng tỏ lỗi thời trong một môi trường sống không ngừng đổi thay. Và trong suốt lịch sử phát triển của ĐBSCL, người nông dân và ngư dân vốn đã biết sống thích nghi để vẫn tồn tại và phát triển mà không gây ô nhiễm tổn hại cho môi sinh và vắt kiệtnguồn tài nguyên thiên nhiên.

Những ví dụ:

_ chưa có nha khí tượng, nhưng qua kinh nghiệm tích luỹ, người nông dân đã biết dự báo thời tiết, nắng mưa khá chính xác và hiệu quả.

_ chưa có nha địa chất, nhưng họ đã biết đánh giá các vùng thổ nhưỡng, để chọn đúng loại cây trồng, không chỉ có cây lúa họ biết đa canh để giữ màu cho đất

_ chưa có nha thuỷ văn, họ đã biết chọn giống, nuôi trồng thuỷ sản phù hợp sinh cảnh: mặn ngọt lợ theo vùng

Với hiện trạng môi trường suy thoái trầm trọng như hiện nay, điều mà nhà nước cần quan tâm giúp họ:

_ giúp họ được sống trở lại với một môi trường không ô nhiễm đang đầu độc họ như hiện nay: mở cửa các cống đập cho các dòng sông được chảy

_ với sông chảy và thuỷ triều là những động lực làm thanh sạch và tẩy rửa môi trường tích luỹ như hiện nay

_ với các nhà máy xây dựng và hoạt động ven sông như nhà máy giấy Lee & Man, các nhà máy điện than đa phần từ TQ phải được giám sát chặt chẽ về xử lý các nguồn nước và chất thải

_ nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ môi trường: tạo cho họ các tiện dụng gia cư tối thiểu như nhà vệ sinh, nơi xử lý rác thay vì thải hết xuống sông như hiện nay

_ về tổng thể, nên có quy hoạch các khu cư dân hợp lý, thiết lập quỹ dự phòng như một hình thức bảo hiểm của nhà nước để tài trợ khi cư dân bị thiệt hại trong giai đoạn thay đổi khí hậu cực đoan như thời điểm 2016

_ với một môi trường dần dà được tẩy rửa thanh sạch, nguồn nước lênh láng trở lại sử dụng được, giảm nhu cầu khai thác tầng nước ngầm, giảm độ sụt lún mười lần nhanh hơn nước biển dâng như hiện nay.

_ phục hồi nền văn minh “những chiếc lu”, khuyến khích dân chúng dự trữ nguồn nước mưa nước uống dùng cho mùa khô hạn

_ ở một chừng mực nào đó, chúng ta chủ động kiểm soát và cả chấp nhận phần nào tổn thất do biến đổi khí hậu nhưng phải biết nói không những công trình tốn kém và mang tính tự huỷ hoại như hiện nay.

TS Lê Anh Tuấn từ ĐH Cần Thơ đã nói rất rõ về “Giải pháp phi công trình” trong sử dụng tài nguyên ở ĐBSCL với nhấn mạnh là cần diễn dịch khéo léo linh hoạt: đó là những phương cách “mềm” nhờ ưu điểm chi phí rẻ, dễ thực hiện, thiên về bảo vệ, cải thiện môi trường, thuận thiên, bảo tồn tính đa dạng sinh học, mặc dầu phải tốn nhiều thời gian mới thấy hiệu quả của nó.

Tìm ra các sinh kế tương thích với hệ sinh thái và điều kiện tự nhiên: ví dụ mùa mưa trồng lúa, mùa nắng nuôi tôm, nuôi cá nước mặn, nước lợ, tổ chức du lịch sinh thái – tìm hiểu văn hóa bản địa, phát triển khai thác, chế biến các lợi thế cây, con ở từng vùng miền (như trồng sen, chế biến sen, dệt lụa từ sợi sen, … hoặc một số loại cây ưu thế), phát triển năng lượng tái tạo, …

Ưu tiên “phi công trình” không có nghĩa là bài bác “công trình” mà cần có sự phối hợp hài hòa, chỉ phát triển công trình khi nào thật sự cần thiết, nên nghĩ làm các công trình nhỏ trước khi có những cân nhắc công trình lớn hơn.

TS Lê Anh Tuấn thuộc ĐH Cần Thơ đã chọn khu vực lúa-sen-cá-du lịch sinh thái ở Đồng Tháp như một điển hình về giải pháp “phi công trình”, với minh họa rất dễ hiểu với người nông dân:

VẪN NHỮNG DỰ ÁN SAI LẦM TỪ HỆ THỐNG

Hơn 40 năm sau 1975, như một chuỗi sai lầm từ hệ thống, nhà nước CSVN đã thiết lập vội vã nhiều dự án trọng điểm rất tốn kém với tham vọng nhằm “cải tạo” ĐBSCL, đa phần là can thiệp thô bạo gây tác hại trên hệ sinh thái mong manh của cả một vùng châu thổ. Do tính cục bộ, thiếu sót trong Đánh giá Tác động Môi trường Chiến lược [SEA / Strategic Environment Assessment] của toàn ĐBSCL, chỉ với những “nghiên cứu mệnh danh là khoa học” nhưng theo phong cách: làm nhanh ăn nhanh; chủ yếu bị chi phối bởi các nhóm lợi ích các chủ đầu tư, rồi đem chính mạng sống và kế sinh nhai người dân ra đánh bạc, bất chấp ý kiến của họ, đồng thời trấn áp các phản biện và gạt bỏ mọi khuyến cáo của các chuyên gia kinh nghiệm có thẩm quyền.

Nhưng vẫn không thiếu những nhà hoạt động môi sinh độc lập can đảm và bền bỉ cất lên tiếng nói của lương tri. Họ hướng tới mục tiêu tối hậu là bảo vệ cả một vùng châu thổ với 18 triệu cư dân, nhằm giảm thiểu những tác hại lâu dài trên nguồn tài nguyên của đất nước và của các thế hệ tương lai.

Với Dự án CLCB được mệnh danh là “công trình thế kỷ”, các chuyên gia độc lập đã lên tiếng cạn lẽ rồi, nói chung là tình hình khá bi quan: do cái momentum / xung lực của Dự án CLCB quá lớn, nhóm lợi ích và giới chủ đầu tư thì quá mạnh rất khó mà dừng lại được. Nhưng cũng chính đây mới là bước thử thách giữa “nói và làm” của Chính phủ Kiến tạo Nguyễn Xuân Phúc. Và nếu như Dự án CLCB vẫn cứ tiến hành, thì Nghị quyết 120/NQ/CP của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu do TT Nguyễn Xuân Phúc ban hành ngày 17.11.2017 hoàn toàn rơi vào thế “thất thủ chiến lược” – nói theo ngôn từ rất tượng hình của nhà nghiên cứu môi trường độc lập Nguyễn Hữu Thiện.

NGÔ THẾ VINH

California 30.09.2018

Tham Khảo:

1/ Dự án Hệ thống Thuỷ lợi Cái Lớn – Cái Bé Giai đoạn 1. Địa điểm xây dựng tỉnh Kiên Giang. Báo cáo đánh giá tác động môi trường. Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bản báo cáo chưa hoàn thiện, chưa được thẩm định phê duyệt).

2/ Đồng Bằng Sông Cửu Long và Những Bước Phát triển Tự Huỷ hoại 1975-2018. Ngô Thế Vinh, Việt Ecology Foundation 04.2018 http://vietecology.org/Article/Article/299

3/ Dự án thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé ở Kiên Giang: Đừng làm mất đi lợi thế tài nguyên; NLĐ04/06/18 https://baomoi.com/du-an-thuy-loi-cai-lon-cai-be-o-kien-giang-dung-lam-mat-di-loi-the-tai-nguyen/c/26277343.epi

4/ Lại Cãi nhau với Dự án Thuỷ lợi Cái Lớn – Cái Bé. Trung Chánh, Thời Báo Kinh Tế SaigonOnline, 07.09.2018 https://www.thesaigontimes.vn/278260/lai-cai-nhau-voi-dai-du-an-thuy-loi-cai-lon–cai-be.html

5/ Xin Đừng Bóp Cổ Đất và Nước. Lê Anh Tuấn, Đại Học Cần Thơ, SaigonTimes 14.09.2018 https://www.thesaigontimes.vn/278468/xin-dung-bop-co-dat-va-nuoc-.html

6/ Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thuỷ Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé (Bản thảo ngày 06/9/2018) Nhóm nghiên cứu: Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Thiện, Dương Văn Ni, Nguyễn Hồng Tín, Đặng Kiều Nhânhttp://vietecology.org/Article/Article/314

7/ Dự án Cái Lớn-Cái Bé: Lý do Không thể Phê duyệt. GS Nguyễn Ngọc Trân, Đất Việt Diễn Đàn Trí Thức 12.09.2018 http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/du-an-cai-lon-cai-be-ly-do-khong-the-phe-duyet-3365429/

8/ Chuyên gia: Không cần thiết phải xây dựng dự án thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé. Thời Báo Kinhtế SaigonOnline, Trung Chánh, 28.05.2018https://www.thesaigontimes.vn/273170/chuyen-gia-khong-can-thiet-phai-xay-dung-du-an-thuy-loi-cai-lon–cai-be-.html

9/ Dự án thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé: Quá nhiều lo ngại. Nguyễn Hữu Thiện, Báo Đất Mới http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/du-an-thuy-loi-cai-lon–cai-be-qua-nhieu-lo-ngai-3365385/

Từ "Dấu Binh Lửa" tới "Tù Binh và Hòa Bình": Phan Nhật Nam và những chấn thương không chảy máu

Trong văn nghệ, có rất nhiều trường hợp mà tên tuổi của tác giả gắn liền với một tác phẩm. Một trong những trường hợp đó là Nhà văn Phan Nhật Nam mà tôi rất hân hạnh giới thiệu đến các bạn xa gần qua bài viết công phu của Bs Ngô Thế Vinh. Nói đến Phan Nhật Nam là những người thuộc thế hệ tôi và sau này đều nghĩ ngay đến “Mùa hè đỏ lửa,” một tác phẩm trứ danh mà ngay cả ngày nay đọc lại tôi vẫn thấy hay. Hay từ cách bố cục những thiên phóng sự rực lửa chiến tranh đến cái hay về chữ nghĩa, và đặc biệt là tính nhân văn trong tác phẩm.

Nước ta có thời bị chia cắt hai miền, và một hệ quả của sự chia cắt là sự hình thành hai nhóm nhà văn quân đội: miền Nam VNCH và miền Bắc cộng sản. Không nói ra thì ai cũng biết có sự khác biệt rất lớn giữa hai nhóm nhà văn, khác biệt từ tính nghệ thuật đến nội dung tác phẩm. Nếu những tác phẩm của vài nhà văn nổi tiếng ngoài Bắc có những cảnh tượng rùng rợn về ăn gan, uống máu, dao găm, v.v. thì các tác phẩm của các nhà văn quân đội trong Nam hoàn toàn trống vắng những văn chương đầy ám ảnh đó. Thật vậy, đọc văn của Phan Nhật Nam, một nhà văn quân đội, bạn đọc sẽ không thấy bất cứ một sự căm thù nào.

Không có căm thù trong văn chương của Phan Nhật Nam, nhưng văn của ông thì tràn đầy cái dũng và khí phách. Khí phách của một người lính nhảy dù. Khí phách của một tù nhân trong trại ‘cải tạo’. Cái khí phách thậm chí còn thể hiện với thân phụ ông – một người cộng sản ở bên kia chiến tuyến. Những người ‘đồng nghiệp’ bên kia chiến tuyến của Phan Nhật Nam cũng có lúc nể phục văn tài và khí phách của ông. Vài năm trước, khi một nhà văn có tiếng và có quyền ở Hà Nội mời Phan Nhật Nam về tham dự một buổi ‘giao lưu’ trong chương trình ‘hoà hợp hoà giải dân tộc’, nhưng ông khẳng khái từ chối. Những ồn ào sau lời từ chối đó cũng nói lên một Phan Nhật Nam đầy khí phách và nhân bản.

Xin trân trọng giới thiệu bài viết của Bs Ngô Thế Vinh như là một ‘documentation’ về Phan Nhật Nam, người mà văn nghiệp và văn tài có thể xem là một ‘di sản’ văn học của miền Nam trước 1975.

NVT

====

Từ “Dấu Binh Lửa” tới “Tù Binh và Hòa Bình”: Phan Nhật Nam và những chấn thương không chảy máu

“Tôi là kẻ sống sót sau một cuộc chiến tranh dài hơn trí nhớ.”

Phan Nhật Nam

NGÔ THẾ VINH

Hình 1: tới thăm Phan Nhật Nam 21.07.2017, đi tìm những vật chứng.

[tư liệu Ngô Thế Vinh]

TIỂU SỬ

Phan Nhật Nam cũng là bút hiệu, Rốc là tên gọi ở nhà; sinh ngày 9/9/1943, tại Phú Cát, Hương Trà, Thừa Thiên, Huế; nhưng ngày ghi trên khai sinh 28/12/1942, chánh quán Nại Cửu, Triệu Phong, Quảng Trị.

1954-1960 tiểu học Mai Khôi Huế; Saint Joseph Đà Nẵng; trung học Phan Chu Trinh Đà Nẵng

1963-1975 tốt nghiệp Khoá 18 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, gia nhập binh chủng Nhảy Dù, qua các đơn vị Tiểu Đoàn 7, 9, 2, và Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù; Tiểu Khu Bà Rịa Long An; Biệt Động Quân; Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương 4 và 2 Bên.

Hình 2: giữa, Hướng đạo sinh Phan Nhật Nam và Trưởng Tô Phạm Liệu. Sau này cả hai đều chọn vào Binh chủng Nhảy Dù; trái, Phan Nhật Nam, thiếu uý Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù 1964; phải, Tô Phạm Liệu là một bác sĩ can trường của Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù sống sót sau trận đánh ác liệt trên đồi Charlie, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 trên vùng cực bắc Tây Nguyên, nhưng người bạn thân thiết của Tô Phạm Liệu là Trung tá Tiểu Đoàn trưởng Nguyễn Đình Bảo thì hy sinh ở lại Charlie. Tô Phạm Liệu mất ở Mỹ ngày 29.09.1997 ở tuổi 56; [tư liệu Phan Nhật Nam]

1975-1989 tù cải tạo 14 năm qua các trại giam Miền Bắc với 2 đợt kiên giam ( 2/1979 đến 8/1980; 9/1981 đến 5/1988)

1990-1993 ra tù bị quản chế và chỉ định cư trú tại Lái Thiêu, Bình Dương Miền Nam, cũng là thời gian Nam được gần gũi với nhà báo Như Phong

1993 sang Mỹ định cư, thời gian đầu ở San Jose, rồi qua Washington D.C, Houston, Minnesota, Colorado…

Thời gian đầu tới Mỹ, có cả một chiến dịch báo chí truyền truyền thông lên án Phan Nhật Nam là Việt Cộng nằm vùng, phủ nhận cờ vàng… Giữa những ngộ nhận oan khiên, câu nói của Tô Phạm Liệu đủ làm Nam ấm lòng: “Tao biết thằng Nam từ hồi còn nhỏ, hai đứa tao cùng ở một nhà, đi học chung một trường. Nó làm sao là Việt Cộng được.”

2005-2018 hiện vẫn làm việc ở tuổi 76 và sống ở Nam California

TÁC PHẨM

Trước 1975

Dấu Binh Lửa (Nxb Đại Ngã, Sài Gòn 1969)

Tường trình về người và chiến tranh nơi Miền Nam 1960-1968

Dọc Đường Số 1 (Nxb Đại Ngã, Sài Gòn 1970)

Trên quê hương, dọc con lộ, địa ngục có thật hằng ngày mở ra

Ải Trần Gian (Nxb Đại Ngã, Sài Gòn 1970)

Tự sự hoá qua biến cố chính trị, quân sự ở Huế, Đà Nẵng, Miền Trung 1966

Dựa Lưng Nỗi Chết (Nxb Đại Ngã, Sài Gòn 1971)

Thảm hoạ Xuân Mậu Thân 1968 ở Huế được viết với khung cảnh tiểu thuyết

Mùa Hè Đỏ Lửa (Nxb Sáng Tạo, Sài Gòn 1972)

Thiên hùng ca Mùa Hè của Miền Nam trong trận chiến giữ đất, bảo vệ dân

Tù Binh và Hoà Bình (Nxb Hiện Đại, Sài Gòn 1974)

Lời báo động khẩn thiết sau Hoà bình nguỵ danh từ Hiệp định Paris 1973

Mỗi tựa sách chỉ với tên nhà xuất bản đầu tiên. Bút ký chiến tranh Phan Nhật Nam được tái bản nhiều lần ở Miền Nam trước 1975 và cả ở hải ngoại sau này, riêng cuốn Mùa Hè Đỏ Lửa được tái bản tới lần thứ 30 do nhiều nhà xuất bản khác nhau và cũng hiếm khi tác giả được các nhà xuất bản thanh toán nhuận bút.

Sau 1975

Những Chuyện Cần Được Kể Lại (Nxb Tú Quỳnh, California 1995)

Đường Trường Xa Xăm (Nxb Tú Quỳnh, California 1995)

Đêm Tận Thất Thanh (Tác giả xuất bản, Houston 1997)

Những Cột Trụ Chống Giữ Quê Hương (Nxb 1997)

Mùa Đông Giữ Lửa (Tác giả xuất bản, Houston 1997)

Chuyện Dọc Đường (Nxb Sống, California 2013)

Phận Người, Vận Nước (Nxb Sống, California 2014)

Hình 3: bìa các sách Phan Nhật Nam xuất bản trước 1975, riêng bìa cuốn Tù Binh và Hoà Bình là sách tái bản ở hải ngoại 1987. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Hình 4: bìa các sách Phan Nhật Nam xuất bản sau 1975 tại hải ngoại, thực sự là từ sau 1993, thời gian Phan Nhật Nam thoát ra khỏi Việt Nam. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Tiếng Anh

Peace and Prisoner of War (Nxb Kháng Chiến, Hoa Kỳ 1987)

The Stories Must Be Told (Nxb Nắng Mới, Westminster 2002)

A Vietnam War Epilogue (Nxb Thư viện Toàn Cầu, California 2013)

Hình 5: từ trái, bìa bản tiếng Việt cuốn Tù Binh và Hoà Bình, Nxb Kháng Chiến 1987; bản tiếng Anh Peace and Prisoners of War,1989 [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Tiếng Pháp

Stigmates de Guerre (Nxb Sống, California 2016)

Un Été Embrasé (Nxb L’ Harmattan 2018)

Hình 6: từ trái, bìa tác phẩm Mùa Hè Đỏ Lửa; bìa Un Été Embrasé, bản dịch tiếng Pháp của Liễu Trương, do Nxb L’Harmattan, série Asie 2018. (dịch giả Liễu Trương đã làm luận án tiến sĩ Sorbonne với đề tài: Võ Phiến, Culture Nationale, Lectures Occidentales 2001). [tư liệu Ngô Thế Vinh]

PHAN NHẬT NAM VÀ VÕ PHIẾN

Vào tháng 7 năm 1993 cũng là năm Phan Nhật Nam tới Mỹ, trong bộ sách Văn Học Miền Nam – cuốn Ký, Võ Phiến viết:

Phan Nhật Nam, viết liên tiếp sáu cuốn ký về chiến tranh. Đọc những điều ông kể, người dân nghe chuyện lính cũng lây luôn cái phẫn nộ, cái uất hận của ông. Lòng nào nghĩ đến cái “văn” trong những tác phẩm như thế.

Mười lăm năm* của một người lính Nhảy Dù, ông làm lính xứng đáng. Mười lăm năm trong lao tù cộng sản, ông làm một tù nhân can trường… Văn nghiệp mười năm của ông phản ảnh chỗ nhiệt tâm dũng mãnh, can trường, trong cuộc sống ấy. Cái “văn” của ông là ở đó. (5)

[* theo Phan Nhật Nam, con số đúng là 14 năm lính, 14 năm tù / ghi chú của người viết]

Phan Nhật Nam khi viết cuốn Dọc Đường Số 1, cũng có tâm sự của riêng ông: “Viết vì sau 8 năm lính, chính cảnh đời vừa qua kích thích và ảnh hưởng trên tôi quá đỗi. Thôi thì viết bút ký: Viết bút ký hay là một thứ cầu kinh trong một niềm cô đơn đen đặc, viết bút ký để thấy những giọt nước mắt vô hình tuôn chảy sau bao nhiêu lần nín kín, viết bút ký như một tiếng nức nở được thoát hơi sau hàm răng nghiến chặt thấm ướt máu tươi từ đôi môi khô héo. Tôi viết bút ký như một tiếng thở dài trong đêm.” (4)

Hình 7: Phan Nhật Nam tại nhà Võ Phiến Los Angeles tháng 11.1995

[tư liệu Viễn Phố]

Dấu Binh Lửa, của Phan Nhật Nam ra mắt 1969 đã gây ngay nơi người đọc những chấn động sâu xa. Là một bút ký chiến tranh đầu tay nhưng đã cho thấy ngay bút lực của một văn tài. Coup d’ essai, coup de maître.

Một trích đoạn, câu chuyện chị Lai ở Kiến Hoà trên vùng sông nước Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trong cuộc hành quân truy lùng VC, mấy Tiểu đoàn Dù đã đánh tan địch quân, khi ấy Phan Nhật Nam chỉ là thiếu uý mới ra trường Võ Bị Đà Lạt, chỉ huy một trung đội trong một trận đánh lớn đầu đời:

“Tôi đi vào ngôi nhà đang âm ỉ cháy, những chiếc cột lớn lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xám…Một người đàn bà áo trắng quần đen tay ôm chiếc lẵng mây trước ngực ngồi im trên nền gạch đôi mắt nhìn thẳng ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy, đứng thẳng người như pho tượng, như thân cây chết với đôi mắt không cảm giác… Tôi đi đến trước chị đàn bà…

– Làm gì chị ngồi đây, không biết đang đánh nhau sao?

Im lặng, đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nhìn sợ hãi. Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng chiếc lẵng mây vào mặt tôi, động tác nhanh và gọn như một người tập thể dục. Sau thoáng ngạc nhiên tôi đưa tay đón lấy… Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu, gói giấy nhỏ buộc chặt bằng dây cao su. Mở gói, hai sợi giây chuyền vàng, một đôi bông tai…

Tên lính xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước đi như xác chết nhập tràng.

– Chị kia quay lại đây tôi trả cái này… – Tôi nói vọng theo.

Người đàn bà xoay lại, cũng với những bước chân im lặng, trở về đứng trước mặt tôi nhưng đôi mắt bây giờ vỡ bùng sợ hãi, vẻ hốt hỏang thảm hại làm răn rúm khuôn mặt và run đôi môi… Chị ta còn trẻ lắm, khỏang trên dưới hai bảy, hai tám tuổi, da trắng mát tự nhiên, một ít tóc xõa xuống trán làm nét mặt thêm thanh tú. Tôi đưa trả chiếc lẵng mây, chị đàn bà đưa tay đón lấy, cánh tay run rẩy như tiếng khóc bị dồn xuống. Chiếc lẵng rơi xuống đất, hai cánh tay buông xuôi mệt nhọc song song thân người. Dòng nước mắt chảy dài trên má. Tôi hươi mũi súng trước mặt chị ta:

– Ngồi đây! Tôi chỉ nòng súng vào bực tam cấp. Khi nào tụi tôi đi thì chị đi theo… Tại sao khóc, nhặt vàng lên đi chứ… – Im lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ quái, thân thể người đàn bà cứ run lên bần bật, nước mắt ràn rụa… Từ từ chị đưa bàn tay lên hàng nút áo trước ngực… Không! Không thể như thế được, tôi muốn nắm bàn tay kia để ngăn những ngón tay run rẩy đang mở dần những hàng nút bóp để phơi dưới nắng một phần ngực trắng hồng! Không phải như thế chị ơi… Người đàn bà đã hiểu lầm tôi… Không lấy vàng và bắt đứng lại! Chị ta không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị ta tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này. Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này… Tôi muốn đưa tay lên gài những chiếc nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị nhưng chân tay cứng ngắc hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp, cảnh sống nào đã đưa chị vào cơn sợ hãi mê muội để dẫn dắt những ngón tay cởi tung hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước mắt chan hòa trên khuôn mặt đôn hậu tràn kinh hãi.

Quân rút ra khỏi làng, chị đàn bà đi theo chúng tôi, vẫn với những bước đi ngượng ngập cứng nhắc, vẫn đôi mắt nhìn vào khoảng trống không cảm giác… Quân rút ra gần đến quốc lộ, con sông bên trái đầy thuyền, hỗn độn dòng người chen chúc. Dân của vùng hành quân trốn ra từ ngày trước, tiếng người kêu la vang dội một khoảng sông, họ hỏi thăm tình trạng nhà cửa, người thân thích, người kẹt trong vùng hành quân. Tiếng khóc vang rân…

– Lai! Mày đó Lai ơi! – Bà già dưới sông mồm kêu tay ngoắc chị đàn bà theo chúng tôi. Chị ta dừng lại như để nhớ một dĩ vãng, như nhớ một khỏang sống đã đi qua… – Lai! Lai ơi, má đây con…- Chị đàn bà đứng lại xoay người về phía dòng sông… Má! Má!

Tôi thấy đôi môi run rẩy thì thầm: Nhà cháy rồi! Nhà cháy rồi! Chị ta đi lần ra phía bờ sông, cũng với những bước chân của người mất hồn, bóng áo trắng nổi hằn trên đám dừa xanh.” [Hết trích dẫn, Người Chết Dưới Chân Chúa, Dấu Binh Lửa]

Nhân có một bản dịch cuốn Dấu Binh Lửa sang tiếng Pháp: Stigmates de Guerre, Phan Nhật Nam xúc cảm viết một thư ngỏ gửi bằng hữu:

Dấu Binh Lửa sống đến nay được 48 năm (1968-2016) và người viết vượt quá tuổi 70… Quả thật là một phép lạ qua chiến tranh, khổ nạn Việt Nam từ sự tồn tại của cuốn sách đến người lính viết nên những giòng chữ đầu đời nầy trong lửa đạn Mậu Thân Huế, 1968. Nay cuốn sách được thành hình với một chữ, nghĩa khác – Pháp Ngữ, ngôn ngữ mà bản thân tôi và các bạn hằng thấm sâu từ tuổi thơ ấu ở quê nhà, mỗi người mỗi cách, mỗi cường độ vì vẻ mỹ lệ, cao quý qua âm sắc, cấu trúc, văn phong, văn ý. Quả thật bản thân tôi không hề nghĩ ra phép lạ thứ hai nầy hiện thực; và nay chuyện thần kỳ trở thành sự thật từ những giòng chữ đầu tiên của anh Phan Văn Quan, tiếp nên chuyện ở Tòa Báo Sống có sự tham dự ngẫu nhiên / một cách cố ý của Nguyễn Xuân Nghĩa, và dần hoàn chỉnh với Bồ Đại Kỳ, qua hợp tác của cô TT Tôn Nữ Phan.

Tôi không quá lời vì quả thật bản thân đang ở trong hoàn cảnh không thiết tha với bất cứ điều gì… Cho dù đây là cuốn sách viết bởi máu, nước mắt, nỗi đau có thật.

Cô Thủy Tiên sắp có mặt ở Pháp, sẽ tiếp xúc với các bạn ở bên ấy và chắc sẽ có một bản in trong năm nay – Một năm Thân như lần ra đời của nó 48 năm trước. Có một điều kỳ thú là cuốn sách có liên hệ rất cụ thể với những người gốc xứ Huế, họ Phan!

Phan Nhật Nam (1943-2016) với Mỗi Người Bạn ở Huế-Đà Nẵng-Sàigòn-Paris… và nơi nước Mỹ.

Tôi quen Phan Nhật Nam và Vũ Ngự Chiêu từ Việt Nam, nhưng có lẽ gần gũi và thân thiết hơn với Nam là trong thời gian sống ở Mỹ. Với không chút dè dặt, tôi vẫn nói với Nam: “Bút ký viết về Chiến Tranh Việt Nam trước 1975 của Phan Nhật Nam là hay nhất đối với cả hai miền Nam Bắc”.

Với một chút dư vị cay đắng, Nam nói: “Chỉ có bác nghĩ về tôi như vậy, nhưng đó không phải cái nhìn của văn giới và ngay cả với những bạn Võ Bị của tôi nữa.” Bản thân Nam đã bị đối xử khá bất công, không phải chỉ với trong nước mà kể cả với các cộng đồng ở hải ngoại.

PHAN NHẬT NAM VÀ HỮU THỈNH

Ngày đầu tháng 9, 2017 Phan Nhật Nam phone cho tôi, cho biết anh mới nhận được một thư của Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam mời về tham dự cuộc họp mặt sẽ diễn ra ở Hà Nội và một số địa phương miền Bắc, từ ngày 20 đến 25 tháng 10 năm 2017. Rồi qua eMail, Nam chuyển cho tôi đọc nguyên văn bức điện thư của Hữu Thỉnh.

Thư gửi nhà văn Phan Nhật Nam

Thưa Anh,

1/ Để đỡ đường đột, xin giới thiệu. Tôi là Hữu Thỉnh, người từng đọc anh đã lâu, hiện nay đang làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Tôi mới gặp Thuỵ Kha vừa ở bên ấy về, cho biết có gặp anh và hai người đã từng cùng nhau uống bia vui vẻ. Đây quả là một sự kiện bất ngờ thú vị. Với dư âm của các cuộc gặp ấy, tôi viết thư này thăm anh và bày tỏ nguyện vọng “tái bản” cuộc gặp ấy, và di chuyển nó về quê nhà với quy mô rộng hơn, thời gian dài hơn trong khuôn khổ một cuộc gặp mặt của Hội Nhà văn Việt Nam với các nhà văn Việt Nam đang sống và làm việc tại nước ngoài. Đây là một cuộc hội ngộ mà chúng tôi mong mỏi từ lâu, nay mới có thể thực hiện được. Với ý nghĩa cao cả, góp phần vào làm giàu các giá trị truyền thống của dân tộc, xứng đáng để chúng ta vượt qua mọi xa cách và trở ngại, cùng ngồi lại với nhau trong tình đồng nghiệp. Tôi chờ đợi được anh chia xẻ điều đó và chân thành mời anh tham gia sự kiện nói trên.

Anh Nam ơi, tôi muốn nói thêm rằng, chúng ta đều không còn trẻ nữa. Tôi hình dung cuộc gặp gỡ này là rất có ý nghĩa cho những năm tháng còn lại của mỗi chúng ta. Tôi cũng dự đoán rằng, có thể có những khó khăn. Nhưng từ trong sâu thẳm thiên chức nhà văn, chúng ta cùng chọn Dân Tộc làm mẫu số chung để vượt qua tất cả.

2/ Cuộc gặp mặt này dự kiến sẽ diễn ra từ 20 đến 25 tháng 10 năm 2017 tại Hà Nội và một số địa phương ở phía Bắc. Trường hợp anh Nam, Ban tổ chức sẽ lo chi phí toàn bộ đi về và thời gian tham gia Cuộc gặp mặt. Vì đây là lần đầu, còn nhiều bỡ ngỡ, xin anh vui lòng lấy vé giúp và cho biết thời gian chuyến bay để chúng tôi ra đón anh tại sân bay Nội Bài. Quá trình chuẩn bị có gì cần trao đổi, xin anh cho chúng tôi biết sớm.

3/ Ngay sau khi được hồi âm của anh, tôi sẽ gửi giấy mời chính thức cùng chương trình của Cuộc gặp mặt. Mùa Thu Hà Nội cùng những giá trị bền vững của tâm hồn Việt đang chờ đón cuộc gặp mặt của chúng ta.

Chúc anh sức khoẻ, may mắn, gia đình hạnh phúc và mong sớm nhận tin tốt lành.

Hũu Thỉnh, Hà Nội 1/9/2017

Tôi có cảm tưởng Nam khá xúc động với “mixed feelings” khi nhận được bức thư của Hữu Thỉnh. Nhiều câu hỏi đặt ra cho Nam: trả lời hay không thư Hữu Thỉnh, có nên công khai hoá bức thư, trả lời với tư cách một một người lính của Miền Nam hay một Nhà Văn. Tôi chỉ có một gợi ý với Nam: cho dù Nam chưa bao giờ nhận mình là một nhà văn mà chỉ là một người lính-viết văn, nhưng Hữu Thỉnh mời Nam với tính cách một Nhà Văn chứ không phải một người lính của Miền Nam. Thư trả lời của bạn nếu có, thì vẫn với tư cách của một người cầm bút. Và bạn có tất cả lý lẽ để trả lời Hữu Thỉnh với những dòng chữ thật cô đọng – theo một văn phong mà tôi gọi là style télégraphique / đánh điện tín. Và rồi Phan Nhật Nam cũng cho tôi đọc bản thảo bức điện thư gửi Hữu Thỉnh trước khi gửi đi. Tôi chỉ nói với Nam: “Dù bạn muốn hay không, thì những dòng chữ này đã trở thành một phần của lịch sử.”

Thư gửi ông Hữu Thỉnh

Hội Nhà Văn Hà Nội

[Qua địa chỉ điện thư cô Đào Kim Hoa

Phụ tá Ngoại vụ Hội Nhà văn]

Tôi, Phan Nhật Nam, nguyên là một sĩ quan cấp Đại Uý Hiện Dịch Thực Thụ thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù Quân Lực VNCH gởi đến ông Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn Hà Nội để trả lời thư ngày 1 tháng 9, 2017 qua điện thư của cô Đào Kim Hoa.

1/ Từ vị thế một quân nhân thuộc đơn vị tác chiến của Quân lực Miền Nam như trên vừa kể ra, với tính khách quan, độc lập của người không liên hệ đối với sinh hoạt của giới văn hoá, học thuật trong nước, ở Hà Nội trước, sau 1975. Tôi có thư này để trả lời mời gọi của ông Hữu Thỉnh đã trực tiếp gửi tới cá nhân tôi nhằm thực hiện tiến trình gọi là “Hoà Hợp Hoà Giải.” Câu trả lời trước tiên, dứt khoát là: Tôi xin được hoàn toàn từ chối sự mời gọi vì những lẽ…

2/ Là một người sinh trưởng từ thập niên 1940, tiếp sống qua hai cuộc chiến 1945-1954; 1960-1975, thực tế lịch sử, chiến tranh, xã hội Việt Nam trước, sau 1975 đã cho người lính chúng tôi xác chứng: không hề có chủ trương hoà hợp hoà giải từ người / chủ nghĩa / chế độ cộng sản trong lý thuyết cũng như qua sách lược hành động.

3/ Từ thực tiễn của # 2 thêm kinh nghiệm mà bản thân cá nhân là một đối tượng thụ nạn của thành phần gọi là “Nguỵ Quân-Nguỵ Quyền” thuộc chế độ Quốc Gia Việt Nam (1948-1954); Việt Nam Cộng Hoà (1955-1975) đến hôm nay vẫn tiếp tục bị miệt thị, xuyên tạc và triệt hạ dẫu chiến tranh đã chấm dứt từ 1975.

4/ Trong tình thế chung nhất của # 2, # 3, chắc chắn rằng không thể nào thực hiện được “Hoà Hợp Hoà Giải” như ông Hữu Thỉnh đề nghị ! Cũng bởi, giới Nhà Văn chính là đối tượng hàng đầu bị bách hại đối với tất cả chế độ cộng sản Đông-Tây. Lịch sử đẫm máu của 100 năm chế độ cộng sản từ 1917 đến nay như một vũng tối ghê rợn phủ chụp lên lương tri nhân loại. Hỏi thử cuộc họp mặt tháng 10 tại Hà Nội (cho dẫu thực lòng đi nữa) sẽ gây được tác dụng gì? Nhà Văn? Nhà Văn Việt Nam đích thực là những ai? Nhưng đây không phải là vấn đề của cá nhân tôi – Trước sau chỉ là một Người Lính-Viết Văn. Cũng bởi tôi chưa hề nhận Chứng Chỉ Giải Ngũ của Bộ Quốc Phòng / VNCH cho dù đã không mặc quân phục từ 1975.

5/ Hãy nhìn lại… Thương phế binh VNCH là những lão nhân phế binh, thương trận đã không được sống với dạng Con Người từ 30 Tháng 4, 1975. Hãy để cho Người Lính VNCH còn sống sót và gia đình được trở lại Miền Nam sửa sang phần mộ Chiến Hữu nơi Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà là nơi giới cầm quyền Hà Nội chủ trương phá bỏ một cách có hệ thống, dẫu người chết gần nửa thế kỷ qua không thể nào đe doạ đối với Chế độ XHCN!

Xin hãy “Hoà Hợp Hoà Giải” với những người đã chết. Với những người đang sống sau thảm hoạ Formosa, Nghệ An. Hãy hoà hợp hoà giải với “Khúc ruột ở trong nước” trước. Khi ấy không cần mời, chúng tôi “Khúc ruột ngàn dặm” sẽ về. Về rất đông. Người Viết Văn – Lương Tri và Chứng Nhân của Thời Đại sẽ về. Tất cả cùng về Việt Nam.

Kính thư,

Người Lính – Viết Văn

Công Dân Mỹ gốc Việt

Phan Nhật Nam

Washington DC, 9 tháng 9, 2017

Hình 8: tranh hí hoạ của Babui Mamburao 9/2017 nhân sự kiện Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam Hữu Thỉnh mời nhà văn Phan Nhật Nam, tác giả Mùa Hè Đỏ Lửa về tham dự cuộc họp mặt ở Hà Nội và một số địa phương miền Bắc từ ngày 20 đến 25 tháng 10 năm 2017. [nguồn: Đàn Chim Việt]

Bức thư của Phan Nhật Nam trả lời ông Chủ Tịch Hội Nhà Văn Hữu Thỉnh, đã gây nhiều phản ứng khác nhau kể cả nhiều chỉ trích. Nhưng từ lâu như đã được “miễn nhiễm” và Nam thì rất “lì đòn”.

Một bà cô của Nam tuổi gần 90 từ Canada, có chồng là Đại tá VNCH chết trong trận Lam Sơn 719 Hạ Lào, không rõ thực hư bà cũng nghi hoặc hỏi Nam: “O nghe con đi Hà Nội phải không? Nam trả lời là không, nhưng bà vẫn nói tiếp: Nếu quả thật con đi thì làm sao dượng con chết nhắm mắt cho được.”

Nhưng có lẽ, hạnh phúc đầy đủ nhất với Phan Nhật Nam là coup phone nhận được từ một đệ tử cũ, trung sĩ vác máy truyền tin theo Nam khi còn ở Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù, có biệt danh là Hiền rỗ hiện còn sống ở Hố Nai Biên Hoà: “Tụi em vô cùng ấm lòng với câu trả lời không của đích thân.” Người lính Nhảy Dù vẫn quen gọi cấp chỉ huy của mình là đích thân. Hiền muốn nói tới bức thư Phan Nhật Nam trả lời Chủ tịch Hội Nhà Văn Hữu Thỉnh từ chối lời mời về Hà Nội. Những người lính Miền Nam cho dù có bị đầy đoạ khổ cực từ bao năm nhưng như từ bao giờ, ngọn lửa ấm kiêu hãnh vẫn chưa bao giờ tắt trong lòng họ.

VẪN NHỮNG CON SỐ LUÔN ÁM ẢNH

Phan Nhật Nam có một trí nhớ kỳ lạ về các sự kiện và những con số, và mỗi con số đều có riêng một ý nghĩa trong cuộc đời Nam. Phải chăng đó là hậu chứng của những ngày tháng dài đẵng đếm lịch trong tù của Phan Nhật Nam?

Chỉ riêng tháng 6 thôi, Nam nhớ như in các sự kiện với những con số: 11.06.1963 ngày Thích Quảng Đức tự thiêu; ngày 11.06.1965 kết thúc trận đánh Đồng Xoài; rồi 19.06.1965 ngày Quân Lực.

Sắp tới Ngày Quân Lực 19 tháng 06, Nam viết eMail cho một người bạn bên TQLC:

Bác TV Cấp ơi, Quả thật tôi viết không nổi, đọc không xuống trong những ngày nầy, lại thêm nhớ Ngày Quân Lực, 19/6/2018 sắp tới – Ngày ấy, năm 1965, tôi và bác (mấy ông K.19) mới qua tuổi 20. Tôi chưa hoàn hồn về lần Trần Trí Dũng chết ( cùng các Anh Trần Văn Ký, Á Khoa 17; TTrg Hợp Khoá 14), Đoàn Phương Hải bị thương, Lâm Văn Rớt bị bắt.. Tiểu đoàn 7 ND chết bị thương 14 sĩ quan, từ tiểu đoàn trưởng đến trung đội trưởng chỉ mấy tiếng đồng hồ Trận Đồng Xoài (11/6/65)

Tôi chỉ biết ngồi ôm mấy trẻ con lính ra khóc ở văn phòng đại đội (là viên thiếu úy còn sống sót của ĐĐ72). Ra Biên Hòa thấy thêm cảnh vợ con lính của Tiểu Đoàn 52 BĐQ; Tiểu Đoàn 2/7/SĐ5BB (Sư Đoàn 5 của Đại tá Thiệu) trước 1964 cũng đóng ở Biên Hòa.

Tình cảnh đau thương của TĐ7ND; 52 BĐQ; 2/7/SĐ5BB… năm 1965 so với nguy nan tan nát của đất nước ngày nay đâu thấm vào đâu?!

Người Lính VNCH làm gì? Tôi chỉ muốn cầm một trái lựu đạn về Sài Gòn thôi!

Thiếu úy Phan Nhật Nam K.18/TVBQGVN/Tiểu Đoàn 7 ND, KBC 4919

Như một chu kỳ của con số 14, ngay cả tên Nam – mẫu tự N cũng ở thứ tự số 14. Trong bức thư chuẩn bị chia tay với các bạn đồng sự trong đài SBTN, có đoạn Nam viết: “Tôi đi lính 14 năm (1961-1975), tôi đi tù 14 năm (1975-1989) và nay cũng đã 14 năm, tôi rời SBTN. Đời sống chỉ là màn hợp tan không ai có thể lường được. Vậy chúng ta tạm chia tay”.

Như bỗng chốc, trong thời gian gần đây Phan Nhật Nam chợt thấy những ngày tháng bonus còn lại cho dù có kéo dài thêm nữa cũng không còn mang một ý nghĩa nào. Và rồi từng bước, từng bước Phan Nhật Nam thản nhiên chuẩn bị một kết thúc ý nghĩa cho cuộc đời mình.

11.06.1963 ngày Thích Quảng Đức tự thiêu như một ám ảnh với Nam. Nam vẫn nghĩ rằng, chưa bao giờ anh có ý tưởng tự vẫn / suicide mà Nam cho là một trốn chạy. Không có nỗi sợ hãi nào khiến anh phải trốn chạy. Nhưng anh cũng không nhận đó là một tự thiêu / self-immolation… và anh khẳng định đó cũng không phải là một tự vẫn chính trị / political suicide mà là một nghi thức/ ritualistic của sự hoá thân / metamorphose trong ngọn lửa để đánh động cái mà Nam muốn gọi là lương tâm của thời đại. Bước hoá thân đó cần tới hùng tâm và một quyết định đương đầu can đảm. Vẫn theo Nam, với quan điểm của Nhà Phật, đời sống không phải chỉ giới hạn trong sự tồn tại của nhục thân… Phan Nhật Nam đã thảo một tâm thư như một di bút, gửi tới Đức Giáo Hoàng, Đức Đạt Lai Lạt Ma, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, bao gồm cả hai thủ lãnh chính trị thế giới là Tổng Thống Mỹ và Chủ Tịch Nhà Nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa…

MỘT CHUẨN BỊ BÌNH THẢN VÀ CHU ĐÁO

Bây giờ thì Phan Nhật Nam đang ở Arizona. Nói chuyện qua phone, giữa lúc đang diễn ra trận chung kết World Cup bóng đá 15.07.2018 giữa hai đội Croatia và Pháp. Nam hầu như hoàn toàn không biết và cũng không quan tâm gì tới sự kiện thể thao hành tinh này. Hình như trong nhà chỉ có một mình Nam, anh đang tĩnh tâm trong một căn phòng im vắng. Các con đều đi làm, ra khỏi nhà.

Hầu như không ai biết, chỉ mới hai tuần trước đây thôi, Phan Nhật Nam đã tới rất gần đường ranh của con dốc tử sinh. Nam đã rất chu đáo và thản nhiên chuẩn bị cho một kết thúc tự nguyện.

Một ngày sau ngày Quân Lực 19.06.2018, sáng nay Nam vẫn lái xe tới đài SBTN. Thường thì anh làm việc ở nhà, gửi bài qua internet và chỉ vào đài khi có một chương trình thu hình hay Talk show với Kim Nhung. Hôm nay không có một chương trình thu hình như vậy, không có hẹn nhưng anh vẫn tới. Đi một vòng, như mọi lần Nam tươi cười chào hỏi mọi người. Và rồi anh tìm gặp được một cậu đàn em cũng tên Nam. Anh nhờ Nam cùng đi tới Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, trên đường All American Way, với lý do “thực hiện một video clip ngắn về sinh hoạt cộng đồng” . Hồn nhiên, cậu đàn em đem theo một video camera gọn nhẹ đi với Phan Nhật Nam.

Tới nơi, thấy ông anh xuống xe, ra mở cốp sau xe lấy ra một lá cờ VNCH, một bình nhựa đỏ 5 gallons bốc mùi xăng. Hiểu ngay điều gì sắp xảy ra, thất sắc, cậu ấy nói lớn tiếng với Phan Nhật Nam “Anh ơi, đâu có được. Em là người Công giáo, sống chết là do tay Chúa, em đâu có thể để anh làm chuyện này. Anh không ngưng ngay là em la lên, bót Cảnh sát ở phía trước.

Trước tình huống này, biết dự định đã không thành, Nam không có phản ứng gì và lại bình thản lên xe đưa cậu em trở về đài. Sau đó, như không có chuyện gì xảy ra, Nam tự lái xe trên đường về nhà. Nam nẩy ý muốn tìm nhiếp ảnh viên Trương Tuấn, một cậu em giang hồ khác mà Nam biết chắc là Tuấn sẵn sàng nghe Nam làm bất cứ chuyện gì, nhưng rồi không kiếm đâu ra cái cell phone mà từ sáng anh mang sẵn bên mình với lời dặn cuối cùng cho hai con ở Arizona.

Ngày 30.06.2018, Nam vẫn đi dự đại hội cựu học sinh Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Gặp lại các bạn cũ, Nam đã không có nhiều cảm xúc.

Trở về nơi căn chung cư trên lầu 8, cũng trên Đường Số 1 như một flashback khiến Nam lại nhớ tới Dọc Đường Số 1 ngày nào.

Và rồi hai ngày sau đó, ngày 2 tháng 7, chuẩn bị lái xe đưa bạn đi thăm thầy cũ ở San Diego, Nam chợt thấy trên bảng đồng hồ xe / dashboard có báo hiệu đèn vàng, không biết chuyện gì, Nam rẽ qua một garage đàn em. Cậu ấy cho biết, đèn báo hiệu có thể là do một bánh xe bị xẹp. Lại thấy có mùi xăng bốc ra, cậu ấy mở cốp sau và la Nam: “Trời nóng cả trăm độ, chú để bình xăng sau xe có thể cháy nổ bất cứ lúc nào, như vậy đâu có được!” Nam lấy cớ sắp đi xa xuống San Diego, sợ thiếu xăng nên đem theo xăng secours.” Cậu ấy vừa vá lốp xe và vừa giúp Nam đổ cả 5 gallons xăng-super vào bình xăng xe.

Dự định không thành, lần này Nam chỉ đổ tại ý Chúa Thánh Linh chưa cho phép anh được bước ra khỏi ải trần gian này.

Rồi bỗng cơ thể Nam bắt đầu có những biểu hiện bất thường, người anh như bị cứng lại, đau ran bên ngực trái và tim gần như nghẽn lại không đập nổi nữa. Nam tới phòng mạch Bs Nguyễn Ngọc Kỳ, là một đàn anh bên Không quân và cũng là bác sĩ gia đình của Nam trong nhiều năm. Anh Kỳ cho Nam nhập viện khẩn cấp. Hai ngày nằm viện, với mọi thử nghiệm về tim mạch và tổng trạng đều rất tốt. Và Nam được xuất viện. Nam nhớ rất rõ, từ ngày sang Mỹ có lẽ đây là lần thứ tư anh bị một hội chứng tim mạch như vậy. Sau đó, để có một không khí gia đình, Nam bay sang Arizona sống với hai con và cũng để có mấy ngày tĩnh tâm.

Qua phone, Nam kể lại là đêm qua, mấy đứa con thấy đầu bố Nam sáng lên và thấy có cả một bông sen vàng trên trán bố. Phan Nhật Nam có xác tín về một hiện tượng mà anh rất tin là có thật này.

Không muốn đụng tới đức tin của bạn, nhưng tôi vẫn nghĩ theo khía cạnh y khoa: đây là một ảo giác / delusional không phải là hiếm gặp nơi nhóm bệnh nhân Cựu Chiến Binh Việt Nam/ Vietnam Vets trong mấy chục năm qua mà tôi thường gặp.

Trưa 20.07, anh Phạm Phú Minh Diễn Đàn Thế Kỷ sau khi dự cuộc triển lãm tranh của Hs Nguyễn Đình Thuần từ hội trường Việt Báo về, biết tôi quen thân với Phan Nhật Nam, anh PPMinh, viết một eMail cho tôi:

Anh Vinh,

Phòng tranh của Nguyễn Đình Thuần trưa nay có nhiều văn nhân tài tử, lâu lâu được gặp cũng vui. Tuần trước tôi gửi mail cho Nam chúc mừng quyển Mùa Hè Đỏ Lửa được dịch sang tiếng Pháp, thì nhận được trả lời rất vắn tắt của Nam nói rằng mình đang ở một chỗ rất xa. Nay gặp mới biết chỗ ấy là bệnh viện. Sau đại hội cựu học sinh Phan Chu Trinh Đà Nẵng thì đột nhiên Nam bị cứng cả người, và theo lời Nam, trái tim gần như đập không nổi nữa. Đưa vào bệnh viện cấp cứu, người ta khám hết cả người kể cả Nuclear Stress Test thì không thấy bệnh tật gì hết, mọi thứ rất tốt. Có vẻ là do một dồn nén tâm lý sao đó mà gây khó khăn cho tim. Theo tôi thấy thì Nam hoàn toàn trở lại bình thường, có cho tôi xem bức ảnh chụp trong bệnh viện có một quần ánh sáng trên trán.

Phan Nhật Nam có văn tài, và cũng có vài cái tật vui vui. Tôi rất quý tài năng, và có khuynh hướng quên đi phần còn lại. Hôm qua Nam nói nhiều về chị Liễu Trương với tác phẩm Albert Camus. Rất vui, chuyện nào cũng tích cực. Nếu anh có viết về Phan Nhật Nam thì nên công bố, tôi rất mong điều đó. Nam cho biết chưa nhận được bản dịch Mùa Hè Đỏ Lửa, do nhà xuất bản gửi. Như vậy hiện nay ở Mỹ chỉ có anh Vinh là có Un Été Embrasé, chắc do dịch giả gửi. Còn tôi giữa tháng Tám LH từ Pháp mới mang sách về.

Hằng ngày tôi vẫn thường cảm thấy rất mệt, một tình trạng chưa thấy lối ra.

PPMinh 20.07.2018

Phạm Phú Minh cũng trải qua 13 năm tù, có giai đoạn bị giam nơi trại Thanh Cẩm, Thanh Hoá. Năm 1983 sau khi Phạm Phú Minh được đưa vào một trại ở miền Nam, Phan Nhật Nam đã được chuyển tới trại Thanh Cẩm.

Anh Phạm Phú Minh bị một Hội chứng Mệt Mỏi Kinh niên / Chronic Fatigue Syndrome trong nhiều năm, mà không có một chẩn đoán bệnh lý nào rõ rệt. Nếu bảo rằng, đó là triệu chứng của PTSD thì chắc chắn anh ấy phủ nhận và cả không tin.

Hình 9: trái, lá quốc kỳ VNCH lớn; phải: chiếc bình nhựa 5 gallons xăng để sau cốp xe trên đường tới Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, trên đường All American Way, ngày 20.06.2018, Westminster.

Hình 10: Phan Nhật Nam nhập viện ngày 02.07.2018, do đau ngực / chest pain, rối loạn tim mạch và cao huyết áp. Trên tấm hình, Nam vẫn nhìn thấy có một bông Sen Vàng đang toả sáng trên trán, như một “huệ nhãn” mà riêng anh có được. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Hình 11: trái, một đoạn thơ của Phan Nhật Nam trong Đêm Tận Thất Thanh (1997); phải: mấy dòng di bút dặn dò người quản lý chung cư Flower Park Plaza, # 812 là số phòng của Phan Nhật Nam. Cũng Chung cư này, trên lầu 10 là nơi nhà thơ Nguyễn Chí Thiện sống những ngày tháng cuối đời. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

VẾT THƯƠNG KHÔNG CHẢY MÁU

PTSD / Post Traumatic Stress Disorder là một hội chứng rối loạn hậu chấn thương – là dạng chấn thương tâm lý, rất thường gặp nơi các cựu chiến binh, và cả thường dân do phải trải qua, chứng kiến cảnh chết chóc tàn phá ngoài chiến trận hay bị tù đầy. Phan Nhật Nam, một sĩ quan tác chiến, rồi là một phóng viên chiến tranh, và hơn thế nữa với 14 năm tù bao gồm cả bị gông cùm biệt giam, Nam tuy là kẻ sống sót / survivor như một phép lạ nhưng cơ thể đã mang đầy thương tích – với những vết thương không chảy máu [Wounds Don’t Bleed].

Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, PTSD chưa hề là một chẩn đoán y khoa được chấp nhận một cách phổ quát. Cho tới khi đám cựu chiến binh Mỹ tham dự các cuộc viễn chinh từ Irak, Afghnistan trở về thì ngoài số thương vong do vũ khí súng đạn, còn có hiện tượng con số tự tử gia tăng rất bất thường tới mức báo động, đưa tới nhiều cuộc nghiên cứu và kết quả PTSD được chính thức công nhận là một thực thể “chẩn đoán bệnh lý / medical diagnosis” từ hơn 3 thập niên qua [từ 1980]. Đó là một hội chứng phức tạp và biến thiên qua từng cá nhân, có thể kể: sự tái trải nghiệm / re-experiencing: những cơn ác mộng, những hồi tưởng / flashbacks, những ám ảnh về chấn thương / unwanted thoughts of the traumatic events. Tất cả dẫn tới sự quá mẫn cảm / hyper-vigilance, dễ giận dữ / anger, dẫn tới sự né tránh / avoidance, tự cô lập / isolation, và cả hoang tưởng / paranoia.

Nhiều năm làm việc trong một bệnh viện cựu chiến binh, có thể nói đây là một trải nghiệm không phải không thường gặp. Không ít cựu chiến binh với nhiều kiêu hãnh – trong đó có Phan Nhật Nam, cho dù có tất cả triệu chứng điển hình của PTSD nhưng vẫn chối từ / denial, không muốn chấp nhận hay nhắc tới thực trạng ấy cho đó có thể là biểu hiện của sự yếu đuối / weakness, trong khi đó thực sự là những vết thương chiến trận / combat wound cho dù không chảy máu, cùng với những vết thương của tra tấn và tù đày đang âm thầm tàn phá con người Phan Nhật Nam một cách toàn diện.

Bề ngoài là một tâm lý ổn định nhưng đó chỉ là kết quả của của những dồn nén cảm xúc vào vùng vô thức, để rồi chỉ còn là những biểu hiện trên thân xác mà từ y khoa gọi là somatization như: các triệu chứng rối loạn tim mạch, thần kinh hay về tiêu hoá… mà không giải thích được bằng những phương pháp chẩn đoán bệnh lý thông thường, và những biểu hiện đó rõ nét hơn khi tình trạng căng thẳng / stress gia tăng.

Hình 12: trái, Phan Nhật Nam đứng nhìn xuống từ lầu 8; phải, Phan Nhật Nam và những chứng vật: một lá cờ vàng lớn, một bình đựng xăng 5 gallons và hai hộp quẹt gas. Nam lúc này như một robot, buông xả, không cảm xúc, anh để mặc tôi trong căn phòng chung cư của anh và rất vô thức, anh cứ tuần tự làm theo những điều tôi yêu cầu. Trong phòng Nam, ngoài trang thờ cúng gia tiên với di ảnh của Mẹ – bà chết rất trẻ ở tuổi 39, còn có bàn thờ Phật và cả một bàn thờ Chúa, cùng với hình của Cha Trương Bửu Diệp. [photo by Ngô Thế Vinh]

RŨ BỎ KÝ ỨC: KÝ ỨC NGƯỜI

Phan Nhật Nam không thể khác được chừng nào anh chưa thoát ra khỏi vũng lầy của cuộc Chiến Tranh Việt Nam, mà anh “là kẻ sống sót.”

Bất cứ ở đâu và bao giờ, với quan điểm y khoa, Phan Nhật Nam luôn luôn là một bệnh nhân với rủi ro cao / high risk patient, sau một lần tự thiêu bất thành / unccessful suicidal attempt, mà Nam phủ nhận chỉ muốn gọi đó là một chọn lựa hoá thân, không biết bao giờ nhưng rồi sẽ có một lần thứ hai, thứ ba… và tới một lúc nào đó, không hề là bất ngờ Nam sẽ thành công chọn được một bước ra đi cho mình, để ra khỏi Ải Trần Gian này.

Phan Nhật Nam là một khuôn mặt của cộng đồng. Với tôi anh là một người bạn, nhưng với nhãn quan của y khoa anh cũng là một người bệnh đầy rủi ro. Tôi tôn trọng quyền riêng tư của anh nhưng vẫn muốn công khai hoá sự kiện mới đây; về phương diện tâm lý học có thể đây cũng là một bước điều trị khử nhạy / desensitization đối với những tình thế thử thách có thể đưa tới những phản ứng xúc động quá đáng hay không hợp lý, và dần dà người bệnh giải toả được một số những phản ứng tiêu cực và thay thế bằng sự thư giãn.

Đó như một bước phòng ngừa thứ cấp / secondary prevention thay vì đến một lúc nào đó, có thể là quá trễ để phải chứng kiến một sự đã rồi / fait accompli và chỉ còn là sự hối tiếc để viết một lời ai điếu / requiem.

Chính sự quá thản nhiên của Nam khiến tôi càng quan tâm. Tôi cũng rất cân nhắc và cả trách nhiệm với Phan Nhật Nam, khi viết về sự kiện này; cùng với một lời tạ lỗi nếu những điều viết ra khiến bạn tôi chỉ thêm nặng lòng.

NGÔ THẾ VINH

Sài Gòn 1963 – California 2018

Tham Khảo

1/ Súng Đạn Nào Giải Quyết Được khổ Đau. Lưu Diệu Vân Phỏng vấn nhà văn Phan Nhật Nam. Thời Báo 30.04.2018

2/ Gặp Phan Nhật Nam trên Quốc Lộ 1. Trần Vũ, Tạp Chí Hợp Lưu 10.08.2013

2/ Bút Ký Irina, Tập I. Phan Nhật Nam, pp.86-90, Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ 1992

3/ Như Phong, Gió Vẫn Thổi. Phan Nhật Nam. Tưởng Niệm Nhà Báo Như Phong. Nxb Viet Ecology Press & Người Việt Books 2016

4/ Dọc Đường Số 1. Phan Nhật Nam, Nxb Đại Ngã, Sài Gòn 1970

5/ Văn Học Miền Nam, Ký. Võ Phiến, Nxb Văn Nghệ 1999

Đi tìm bức tượng "Mẹ và Con", một tác phẩm bị lãng quên của Mai Chửng ở hải ngoại

Để tưởng nhớ Mai Chửng, điêu khắc gia

tượng đài Bông Lúa 1970 và tượng Mầm 1974

Ngô Thế Vinh

Hình 1: Chân dung Mai Chửng, bên một tác phẩm điêu khắc.

[tư liệu Huỳnh Hữu Uỷ]

TỪ CỬA TRẦN ĐỀ TỚI TƯỢNG ĐÀI BÔNG LÚA

Từ con Kênh Vĩnh Tế biên giới Việt Miên tới Cửa Trần Đề, có thể nói chúng tôi đã đi gần suốt chiều dài con Sông Hậu.

Chúng tôi đang đứng ở mút cuối con Sông Hậu, nhìn từng đợt sóng vỗ vẫn còn màu nâu nhạt của phù sa nơi cửa Trần Đề, khúc sông trải rộng để chan hoà vào biển cả; bao nhiêu cảm xúc tràn về, như một flashback, chợt nhớ lại hơn một lần qua Long Xuyên, nơi có tượng đài Bông Lúa của Mai Chửng, một cố tri và cũng là một tên tuổi lớn trong lãnh vực điêu khắc của Miền Nam”. Tượng đài Bông Lúa biểu tượng của nền văn minh nông nghiệp, là tác phẩm đồ sộ bằng đồng lá đã được dựng tại thị xã Long Xuyên (1970), một tỉnh lỵ Miền Tây. Một bó lúa vươn lên ngất trời được Đinh Cường thêm vào mấy chữ mô tả thực đẹp: “Phơi phới của mùa lúa con gái...” Sau 1975, cùng với chiến dịch đốt sách, tượng đài Bông Lúa ấy đã bị cộng sản phá sập, quả không phải là một “điềm lành” cho tương lai nền Văn Minh Lúa Gạo và cả hậu vận của toàn vùng Sông Nước Cửu Long.” (1,3)

Hình 2: trái, Tượng đài Bông Lúa Con Gái 1970 bằng đồng lá, một tác phẩm nghệ thuật lớn của điêu khắc gia Mai Chửng; [tài liệu Hội Hoạ Sĩ Trẻ 1966-1975]; phải, Mai Chửng đang dựng tượng đài Bông Lúa ở Long Xuyên. [tư liệu Huỳnh Hữu Uỷ]

Hình 3: trái, Mai Chửng đứng bên công trình tượng đài Bông Lúa cao 18 m đang xây cất tại Long Xuyên ĐBSCL; phải, toàn cảnh pho tượng Bông Lúa tại Công viên Trưng Vương, thị xã Long Xuyên 1970. Chỉ 5 năm sau, sau 30 tháng 4, 1975 tượng đài Bông Lúa ấy đã bị cộng sản phá sập, quả không phải là một “điềm lành”. [nguồn: sưu tập Dương Văn Chung, Thatsonchaudoc.com]

TỚI BỨC TƯỢNG MẦM 1973

Sau tượng đài Bông Lúa Con Gái (1970), không thể không nhắc tới một tác phẩm để đời khác của Mai Chửng, bức tượng Mầm (1973) cao 1.50 m, làm bằng cả ngàn vỏ đạn súng trường được hàn lại, biểu tượng cho sự sống vẫn vươn lên giữa tàn phá của chiến tranh và được Mai Chửng cho triển lãm năm 1974 tại gallery La Dolce Vita trong khách sạn Continental trên đường Tự Do Sài Gòn. Nhưng rồi như số phận của tượng đài Bông Lúa, sau 1975, bức tượng Mầm ấy đã bị vứt vào nhà chứa củi, hay một xó xỉnh nào đó, và số phận ra sao thì không ai được biết. (3)

Hình 4: Tượng Mầm cao 1.50 m, chất liệu bằng đồng làm bằng cả ngàn vỏ đạn hàn lại, được Mai Chửng cho triển lãm năm 1974 tại gallery La Dolce Vita trong khách sạn Continental nổi tiếng trên đường Tự Do Sài Gòn. Sau 1975, bức tượng Mầm ấy đã bị vứt vào nhà chứa củi, hay một xó xỉnh chứa đồ phế thải nào đó, và nay số phận bức tượng ấy ra sao thì không ai được biết. [tư liệu gia đình Mai Chửng]

Sẽ bất công nếu cứ đòi hỏi tác phẩm lớn của nghệ sĩ, nhất là trong lãnh vực điêu khắc. Khó mà có một tác phẩm điêu khắc lớn như tượng đài Bông Lúa nếu không có sự bảo trợ của Ngân hàng Việt Nam Thương Tín lúc đó.

NHỮNG NGƯỜI BẠN THẦM LẶNG CỦA MAI CHỬNG

Sau khi cho phổ biến bài viết số 5 “Đồng Bằng Sông Cửu Long và Những Bước Phát Triển Tự Huỷ Hoại 1975-2018” vào cuối tháng 4, 2018, và cũng là bài đúc kết về chuyến khảo sát môi sinh ĐBSCL (1), và do nơi đầu bài có ghi dòng chữ: “Để tưởng nhớ Mai Chửng, điêu khắc gia tượng đài Bông Lúa 1970” tôi nhận được một số hồi âm từ những người bạn thầm lặng của Mai Chửng.

Trước hết là từ anh Huỳnh Hữu Uỷ, một cây bút phê bình hội hoạ uy tín từ trước 1975 và sau này ở hải ngoại; anh Uỷ viết: “Anh Ngô Thế Vinh, trong bài viết số 5, anh đưa việc chính quyền cộng sản kém cỏi giật sập tượng đài Bông Lúa để hình tượng hoá và kết thúc vấn đề trong bài viết về ĐBSCL, thực là khéo và chính xác. Kết thúc một vấn đề khoa học, sinh thái, môi trường, và xã hội mà rất nghệ thuật. Và với người bạn quen biết cũ của chúng ta, Mai Chửng hẳn là cũng đang mỉm cười cám ơn anh ở một chốn xa xôi nào đó…”

Tiếp đến là nhà báo Đỗ Tiến Đức, anh Đức là nhà văn nổi tiếng với tác phẩm Má Hồng, giải Văn học Nghệ thuật 1969, tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh và Cao Đẳng Quốc Phòng, giữ các chức vụ Giám đốc Thông tin, Giám đốc Nha Điện ảnh thời VNCH, sáng lập Khoa Điện ảnh Đại học Minh Đức, anh cũng là đạo diễn một số tác phẩm phim ảnh. Định cư ở Mỹ từ 1979, anh Đức rất năng động trong các sinh hoạt cộng đồng, là chủ bút báo Thời Luận, bền bỉ tới nay cũng đã 33 năm. Anh Đức viết:

Anh Vinh thân, trong bài số 5, anh có nhắc tới Mai Chửng làm tôi bồi hồi nhớ. Tôi giao tình với Mai Chửng từ Việt Nam. Lúc Mai Chửng sang Cali, chúng tôi gặp nhau thường. Khi anh Nguyễn Huy Hân tổ chức Đại Hội Người Việt Bắc Mỹ, tại Michigan, tôi rủ Mai Chửng tham gia. Nhân danh ban tổ chức, tôi xin anh Bác sĩ Nguyễn Ngọc Kỳ bảo trợ cho Mai Chửng làm bức tượng Mẹ Con. Anh Kỳ đồng ý, đưa Mai Chửng qua tôi gần hai chục ngàn đô theo nhu cầu của Mai Chửng. Mai Chửng thực hiện tượng ở San Jose. Bức tượng này còn trong garage nhà anh Nguyễn Huy Hân ở Michigan sau cuộc triển lãm trong thời gian đại hội. Có lẽ đây là tác phẩm duy nhất của Mai Chửng ở hải ngoại. Tôi kể chuyện này với anh để chúng ta cùng nhớ Mai Chửng.”

Qua tin tức từ anh Đỗ Tiến Đức, tôi liên lạc ngay với anh BS Nguyễn Ngọc Kỳ là đàn anh trong gia đình y khoa Sài Gòn, nguyên y sĩ trung tá không quân VNCH, anh Kỳ di tản sang Mỹ từ 1975, anh có một đời sống xã hội trải rộng nhưng lại cực kỳ khiêm cung. Mặc dù anh Kỳ có phòng mạch rất sớm ở Quận Cam, anh là một bác sĩ hy sinh bền bỉ nhất đi theo các con tàu vớt người vượt biển / boat people trong nhiều năm. Anh cũng là mạnh thường quân bảo trợ cho nhiều dự án của các sinh hoạt cộng đồng hải ngoại, anh không bao giờ nói ra và rất ít người biết đến. BS Nguyễn Ngọc Kỳ xác nhận nguồn tin của anh Đỗ Tiến Đức, anh Kỳ còn nhớ khi công trình bức tượng Mẹ và Con sắp hoàn tất anh có lên San Jose thăm Mai Chửng, trước khi bức tượng được chính Mai Chửng lái xe truck đưa sang Michigan tham dự Đại Hội. Anh Kỳ đã không muốn nhắc gì thêm về phần anh bảo trợ cho Mai Chửng thực hiện bức tượng ấy.

Cũng theo những điều còn nhớ được của anh Đỗ Tiến Đức, thì thời gian ở Michigan chính Mai Chửng đã chọn chỗ trưng bày tượng, thực hiện hệ thống ánh sáng với một dàn đèn khiến khi nhìn tổng thể từ xa, bức tượng trông giống như một bản đồ Việt Nam sáng rỡ nhưng đến gần là một tác phẩm điêu khắc tuyệt đẹp. Cũng chính Mai Chửng đã hướng dẫn anh Đức chọn góc độ đứng chụp những tấm hình mà đến nay thì chưa tìm ra được.

Và như vậy, đầu mối để tìm ra bức tượng là anh Nguyễn Huy Hân hiện ở Michigan. Tôi chưa bao giờ được gặp và quen anh Hân, nhưng lại được nghe nhiều tiếng tốt về anh. Anh Hân tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh Khoá 4 trước anh Đỗ Tiến Đức. Anh Hân nổi tiếng là thanh liêm khi giữ chức vụ Tổng Giám đốc Thuế Vụ thời VNCH, sống thanh bạch và vẫn đi xe đạp. Cũng được biết thêm, anh Hân là người em kết nghĩa với GS Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, khi ấy anh Vinh cũng ở Michigan.

Qua giới thiệu của anh Từ Mai Trần Huy Bích, khi tôi tiếp xúc với những người quen anh Hân thì được biết, hoặc từ lâu đã bị mất liên lạc, hoặc rất khó tiếp cận với anh Hân do cuộc sống “quy ẩn” của anh Hân sau này.

Rồi chợt nhớ ra, tôi còn có một người bạn là BS Đặng Vũ Vương hiện cũng ở Michigan. Anh Đặng Vũ Vương là bạn làm báo sinh viên Tình Thương với tôi trong thời gian học Y khoa 1963 – 1967, anh là một trong những cây bút viết mục Quan Điểm rất sắc sảo trên tờ báo Tình Thương thuở nào. Anh Vương định cư ở Michigan từ 1980, rất năng động và từng là chủ tịch cộng đồng người Việt nơi anh định cư. Tôi phone ngay cho anh Đặng Vũ Vương và được biết anh rất quen anh Nguyễn Huy Hân và cả người anh của anh Hân là anh Nguyễn Nhật Thăng, cũng ở Michigan. Qua giới thiệu của anh Đặng Vũ Vương với anh Thăng, như một duyên khởi, tôi rất vui được biết bức tượng Mẹ và Con hiện được giữ tại nhà anh Nguyễn Nhật Thăng, thành phố Auburn Hills Michigan.

CÓ MỘT BỨC TƯỢNG MẸ VÀ CON NƠI XỨ TUYẾT

Trong cùng ngày, tôi phone nói chuyện với anh Nguyễn Nhật Thăng. Anh Thăng sinh năm 1930, năm nay đã 88 tuổi nhưng giọng nói khoẻ mạnh và rất minh mẫn. Anh Thăng rất cởi mở, anh nói chuyện với tôi như với một người bạn quen lâu năm. Khi biết tôi rất quan tâm và trân quý bức tượng của Mai Chửng, trong một phút ngẫu hứng anh Thăng nói, “kể từ hôm nay bức tượng ấy là của anh Vinh.” [sic]

Tôi nói với anh Thăng, bức tượng ấy sẽ không thuộc về cá nhân nào mà là sở hữu của cộng đồng người Việt ở hải ngoại, do tính cách lịch sử hình thành của bức tượng. Do bức tượng lớn bằng thạch cao, tôi xin anh Thăng giữ gìn sao cho không bị tổn thương tới khi tìm được một nơi chốn xứng đáng để trưng bày bức tượng như nơi một công viên văn hoá hay trong một viện bảo tàng nơi thủ đô tỵ nạn Little Saigon. Anh Thăng xúc động và rất tán đồng ý kiến đó. Cũng trong đêm, Nguyễn Văn con trai anh Thăng, một chuyên viên IT đã chụp và gửi cho tôi 12 tấm hình tuyệt đẹp bức tượng Mẹ và Con với nhiều góc độ mà tôi muốn giới thiệu trong bài viết số 6 này.

Nguyễn Trung khi viết về Mai Chửng có nói tới: “một khoảng trống không nhỏ từ thập niên 80 đến đầu thập niên 90, khoảng thời gian đầu của cuộc sống bên Mỹ.” (1)

Đây chính là điều mà người viết muốn bổ sung. Như đã nói ở trên, trong thời gian đó, khoảng giữa 1981-1985, Mai Chửng đã thực hiện được bức tượng Mẹ và Con với kích thước lớn để tham gia Đại Hội Người Việt Bắc Mỹ. Bức tượng đó rất ít người biết đến, hầu như bị lãng quên và hiện đang được giữ nơi tư gia anh Nguyễn Nhật Thăng, thành phố Auburn Hills, Michigan như đã nói ở trên.

VÀI HÌNH ẢNH BỨC TƯỢNG MẸ VÀ CON CỦA MAI CHỬNG

Hình 5: Tượng Mẹ và Con, là tác phẩm điêu khắc có kích thước lớn đầu tiên của Mai Chửng thực hiện ở hải ngoại (San Jose, 1982). Bức tượng được triển lãm trong Đại Hội Người Việt Bắc Mỹ tại Michigan, sau đó được lưu giữ tại nhà anh Nguyễn Huy Hân, thành phố Pontiac Michigan, anh Hân là thành viên chính tổ chức Đại Hội. Bức tượng được chuyển qua nhà anh Nguyễn Nhật Thăng, anh của anh Hân, thành phố Auburn Hills, Michigan. [photo by Nguyễn Văn 20.05.2018, tư liệu Ngô Thế Vinh]

Hình 6: Hình chụp từng phần bức tượng Mẹ và Con của Mai Chửng; từ trái hình con dưới chân mẹ 24″x25″x18″; hình mẹ 49″x30″x18″; hình con nơi đầu mẹ 30″x30″x20″. [photo by Nguyễn Văn 20.05.2018, tư liệu Ngô Thế Vinh]

Hình 7: Hình chụp từng phần bức tượng Mẹ và Con của Mai Chửng: hình mẹ. [photo by Nguyễn Văn 20.05.2018, tư liệu Ngô Thế Vinh]

THÊM MỘT BỨC TƯỢNG MẸ VÀ CON Ở HẢI NGOẠI

Trong bộ sưu tập của gia đình Mai Chửng, còn thấy thêm một bức tượng Mẹ Con khác, không lớn lắm chiều cao khoảng 8-10″ hoàn tất năm 1990 tại Hawaii. Nay không biết bức tượng lưu lạc nơi đâu.

Hình 8: Một bức tượng Mẹ Con khác, chất liệu thạch cao của Mai Chửng thực hiện ở Hawaii 1990; nguồn kiếm sống với toàn thời gian của Mai Chửng ở Hawaii tới 1997 là nghề lái taxi. [tư liệu gia đình Mai Chửng]

TIỂU SỬ MAI CHỬNG 1940 – 2001

Mai Chửng họ Nguyễn, sinh ngày 23 tháng 10 năm 1940 tại Bình Định, cùng quê với hoạ sĩ Lâm Triết, nhà văn Võ Phiến; là điêu khắc gia có nhiều tác phẩm theo trường phái hiện đại. Hầu hết tác phẩm của ông đã bị cộng sản phá hủy sau biến cố 1975.

Mai Chửng theo học Cao đẳng Mỹ thuật Huế với điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ từ Paris về. Tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Huế năm 1961, sau đó tiếp tục học tại Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn, tốt nghiệp năm 1963. Từ 1968, Mai Chửng bắt đầu dạy ở trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật và năm 1974 tại Đại học Kiến trúc Sài Gòn.

Trước 1975, Mai Chửng có thời gian nhập ngũ khoá Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, làm việc tại Tổng cục Chiến tranh Chính trị với cấp bậc cuối cùng là Đại uý. Sau đó, ông là sĩ quan biệt phái khi về dạy Đại học Kiến trúc. Năm 1975 ông bị bắt học tập cải tạo gần 3 năm, được thả cuối năm 1978.

CÓ MỘT NỀN VĂN HOÁ TINH KHÔI BỊ KỲ THỊ

Sau 1975, Hội Mỹ Thuật Thành Phố có tổ chức tuyển lựa mẫu Tượng Đài Chiến Thắng để dựng tại Công Trường Quốc Tế trước Bộ Tổng Tham Mưu đường vào phi trường Tân Sơn Nhất, mẫu tượng đài của Mai Chửng được giải nhất, nhưng sau đó đã không được thực hiện.

Hãy để Huỳnh Hữu Uỷ qua eMail trao đổi với người viết, nói về mẫu tượng đài đoạt giải nhất này: “Mẫu tượng đài tôi xem vào khoảng cuối năm 1978-1980, tức là lúc tôi trở về từ trại cải tạo cho đến lúc vượt biên và bị bắt đi tù lần thứ hai. Tôi còn nhớ chính Mai Chửng quay bàn xoay để tôi nhìn mẫu hình pho tượng. Pho tượng rất đơn giản mà cực kỳ quyến rũ. Ở đây mới thấy ra được một điều: cái đơn giản của một tài năng lớn không đơn giản chút nào. Và một ý tưởng đơn giản như thế, với những hình ảnh quen thuộc, nhất là với các nghệ sĩ miền Bắc, mà tại sao không ai nghĩ đến, và rồi chỉ có Mai Chửng có thể đúc kết thành một vấn đề thời đại. Có lẽ hoàn cảnh lịch sử dữ dội đã tác động thành một sức mạnh nơi Mai Chửng chăng? Hay chính đó cũng là trường hợp của tượng đài “Bông Lúa” trước đây. Ở đây cũng phải nhắc tới Diệp Minh Châu, một con người rất đặc biệt, dám chấm giải nhất cho một tên Nguỵ vừa đi tù về, hành động đó thật đáng khâm phục.”

[* Diệp Minh Châu 1919 – 2003 người Bến Tre, là hoạ sĩ kiêm điêu khắc gia xuất thân từ trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương thế hệ 1940, là một tên tuổi lớn trong giới nghệ thuật tạo hình VN, đi theo kháng chiến rất sớm và sau 1975 trở về Sài Gòn, là Chủ tịch Hội Mỹ thuật Thành phố].

Cũng vẫn Huỳnh Hữu Uỷ viết tiếp trong Vài Điều Về Điêu Khắc Gia Mai Chửng: “Dù mới chỉ là một mô hình phác thảo, cũng đã cho thấy một không khí rất vĩ đại và tráng lệ: pho tượng Bà Mẹ Chiến Thắng thực hiện để tham dự một cuộc thi về tượng đài thành phố khoảng năm 79-80. Một người phụ nữ với chiếc khăn quàng cổ tung bay, mái tóc tung bay, khẩu súng trường nắm trong tay phải được giương cao, người phụ nữ ấy đứng thẳng trên mình con chim vươn mình sải cánh trải dài. Hình tượng con chim, rõ ràng là Mai Chửng đã dựa vào nét cách điệu trừu tượng con chim Lạc trên các trống đồng cổ của nền văn minh Đông Sơn, điển hình nhất là những con chim Lạc bay ngược chiều kim đồng hồ trên trống đồng Ngọc Lũ. Dựa vào hình ảnh con chim Lạc ấy, nhưng Mai Chửng đã biến đổi đi, nên con chim sải cánh rất thực, chứ không phải chỉ là một đường lượn gợi ý, và người phụ nữ đứng trên mình con chim thì chỉ là một thành phần nhỏ của pho tượng, với tỉ lệ có lẽ chỉ khoảng chừng 1/10 của pho tượng. Mới chỉ là một đồ án phác thảo, đặt trên một mặt bàn với đường kính chừng hai thước, đã làm cho người xem ngây ngất vì một hấp lực thơ mộng, hoành tráng, và rất hiện đại. Do ý kiến quyết định của nhà điêu khắc Diệp Minh Châu, pho tượng được chấm giải nhất nhưng rồi cuối cùng, công trình này đã không được tiến hành chỉ bởi vì Mai Chửng là một người lính của chế độ cũ.

Vẫn với những dòng chữ đanh thép, trong sự tiếc nuối, Huỳnh Hữu Uỷ tiếp: “Định kiến chính trị và sự thù hằn giới tuyến đã làm đất nước mất đi một công trình nghệ thuật lớn. Nếu tượng đài này được dựng lên thì Việt Nam đã có một tượng đài chiến thắng có thể đủ lời lẽ để nói chuyện với thế giới, có thể đặt ngang với những tượng đài chiến thắng khắp nơi trên hành tinh, hòa nhập vào đời sống hiện đại mà vẫn là độc sáng của một nền văn hóa riêng biệt, với một ngôn ngữ và tâm hồn riêng bắt nguồn từ một quá khứ xa thẳm.” [hết trích dẫn] (3)

Theo hoạ sĩ Trịnh Cung, có thêm một cuộc tuyển chọn lần thứ hai được tổ chức sau đó, với sự tham gia của nhiều nhà điêu khắc nổi tiếng từ miền Bắc và một lần nữa mẫu tượng đài của Mai Chửng lại được bầu chọn hạng nhất, nhưng số phận của nó chẳng khác lần đầu chỉ vì Mai Chửng là một người lính của chế độ cũ. (5)

Trước bước đường cùng của sáng tạo, Mai Chửng đã cùng với gia đỉnh vượt biên đúng vào ngày 30 tháng 4 năm 1981 giữa lúc những người “Bên Thắng Cuộc” như đang lên đồng ồn ào làm lễ ăn mừng ngày họ đã bức tử Miền Nam. Theo lời kể lại của Nguyễn Mai Bội Nghi, con gái Mai Chửng thì:

Ba cháu và cả nhà đã vượt biên đúng vào ngày đó. Ba cháu lái xe gắn máy cùng mấy người leaders ra bãi trước để chuẩn bị tàu bè. Mẹ và tụi cháu được xe hàng đưa xuống sau nhưng bị công an chận lại và giam giữ 3 ngày. Lúc đó cháu được 10 tuổi nhưng vẫn còn nhớ như in. Ba cháu không thể quay lại kiếm Mẹ và tụi cháu vì quá nguy hiểm nên đã phải lên tàu ra đi.”

Rất may mắn, Mai Chửng đến được bến bờ của tự do, tới đảo Poulo Bidon và chỉ ba tháng sau anh đặt chân tới Mỹ, ngày 17 tháng 7 năm 1981. (4)

Ban đầu Mai Chửng đến San Jose, lao động nhiều nghề để kiếm sống và rồi anh khá thành công với chiếc xe bán “fast food”. Chín năm sau 1990, Mai Chửng bảo lãnh được gia đình vợ và 4 con sang định cư ở Dallas, Texas. Với gánh nặng gia đình ấy, Mai Chửng đã phải sang Hawaii sống bằng nghề lái taxi cùng với những tên tuổi khác như Nguyễn Đạt Thịnh, nguyên Chủ nhiệm báo Diều Hâu, nhà báo Phạm Hậu và người bạn trẻ Đinh Quang Anh Thái. Cho đến khi gia đình ổn định, các con anh đã ra trường, đến năm 1997 Mai Chửng mới trở về Dallas; đây là khoảng thời gian khá ngắn ngủi anh thực sự được sống với gia đình.

MAI CHỬNG MỘT CUỘC ĐỜI BƯƠN CHẢI

Trong một dịp từ Hawaii về thăm Little Saigon, trả lời Hoàng Khởi Phong, trong cuộc phỏng vấn của báo Người Việt, Mai Chửng tâm sự: “Tôi là nhà điêu khắc, tôi nặn tượng. Suốt hơn mười năm nay [ở hải ngoại, ghi chú của người viết] thỉnh thoảng nhớ nghề tôi làm một pho tượng, không nhằm mục đích bán, không bao giờ quảng cáo nên cũng không hề có đơn đặt hàng. Tôi nặn tượng chỉ vì những thôi thúc của tiêng tôi, như vậy thì dứt khoát đó là do hứng, nhưng mà cơm áo cũng kinh hoàng lắm cho nên hứng cho dù có cũng không phải dễ dàng gì hoàn thành một tác phẩm.” (2)

Mai Chửng là một điển hình cho những nghệ sĩ tài năng của Hội Hoạ Sĩ Trẻ, họ không thể kiếm sống bằng tác phẩm. Đối với giới nghệ sĩ, có hai trường hợp: nếu tốt số có thân cư thê, họ có thể rong chơi sống với nghệ thuật, chuyện cơm áo đã có những bà Tú Xương lo. Nhưng Mai Chửng thì chọn cho mình một cuộc đời bươn chải, trước 1975 điêu khắc chưa bao giờ thực sự nuôi sống anh. Ra hải ngoại từ 1981, Mai Chửng đã qua nhiều nghề để kiếm sống, bằng xe fast food ở San Jose, rồi sau đó bằng nghề lái taxi trong nhiều năm ở Hawaii, không những đủ nuôi sống bản thân mà anh còn cưu mang được toàn gia đình cho tới khi các con anh thành đạt. Nhưng bằng cái giá hy sinh quá cao đối với một tài năng như Mai Chửng. Tới thời điểm vượt qua được nợ cơm áo, thì Mai Chửng không còn trẻ nữa và sức khoẻ cũng đã suy yếu, giấc mộng lớn điêu khắc của Mai Chửng vẫn có đó nhưng khó thành.

Mai Chửng đặt chân tới Mỹ khi anh mới 41 tuổi. Với 20 năm sống ở hải ngoại, phải nói rằng tài năng Mai Chửng đã bị rất nhiều hạn chế do không có thời gian, không có phương tiện, cho dù anh vẫn có những thôi thúc của cảm hứng sáng tạo, nhưng rồi cuối đời Mai Chửng cũng hoàn thành được một số tượng đẹp cho dù với kích thước khiêm tốn.

NĂM 2000, NĂM THĂNG HOA CỦA MAI CHỬNG

Chỉ riêng năm 2000, một năm trước ngày anh mất, Mai Chửng đã thực hiện được một loạt tác phẩm điêu khắc bằng đất nung với một chiếc lò nung cũ mua được qua mục rao vặt; vẫn với đường nét giản dị, nhưng mạnh mẽ rất Mai Chửng với nhiều chất trí tuệ, và đẹp. Có thể kể 6 tác phẩm cuối đời của Mai Chửng gửi tới cuộc Triển lãm 2001 với Chủ đề Hồi Cố (từ 22.07 tới 07.08.2001) tại Sài Gòn:

Hình 9a: từ trái, (1) Người Nhạc Sĩ, 2000, Bronze 39”; (2) Cô Gái Mèo, 2000, Bronze 13”; (3) ‘Thánh Đường, 2000, Bronze 13”

Hình 9b: từ trái, (4) Chị Em, 2000, Bronze 17”; (5) Người Ngồi, 2000, Bronze 13”; (6) Người Mẫu, 2000, Bronze 25”

MAI CHỬNG MỘT HOẠ SĨ

Tuy được biết tới như một điêu khắc gia, Mai Chửng còn là một hoạ sĩ tài năng. Khi nói về bản thân, Mai Chửng khẳng định: “Hoạ chỉ là nghề tay trái của tôi. Tôi vẽ tranh rất ít, và hay vẽ phụ bản cho các cuốn sách của bằng hữu. Nghề tay phải của tôi là nghề điêu khắc.” (1)

Tuy vẽ rất ít, tranh sơn dầu của Mai Chửng rất nghệ thuật, trước đây Mai Chửng thích màu xám, nhưng cuối đời vào khoảng năm 2000, Mai Chửng có vẽ thêm khoảng 6-7 bức tranh sơn dầu như Thiếu nữ và Hoa Quỳnh, Ba Chị Em, Người Đàn Bà … với màu sắc tươi tắn, chất liệu mượt mà sang trọng, và rất đẹp. Qua những bức tranh hiếm hoi mà chúng ta còn thấy được, có thể nói trong hội hoạ, Mai Chửng là một hoạ sĩ rất tài hoa, một cây cọ bậc thầy.

Hình 10a: Thiếu nữ và Hoa Quỳnh, sơn dầu trên bố 40” x 52”, 2000 [tư liệu gia đình Mai Chửng]

Hình 10b: trái, Ba Chị Em, sơn dầu trên bố 40” x 52”, 2000; phải, Người Đàn Bà, sơn dầu trên bố 40” x 52”, 2000 [tư liệu gia đình Mai Chửng]

Tuy sức khoẻ của Mai Chửng sút kém sau phẫu thuật cắt bướu ung thư bao tử, nhưng anh vẫn không ngừng làm việc và rất hào hứng hoàn tất một số tác phẩm để tham gia cuộc triển lãm lớn vào tháng 7 năm 2001 cùng với các họa sĩ, điêu khắc gia Việt Nam trong và ngoài nước, tổ chức tại Gallery Vĩnh Lợi Sài Gòn. Cuộc triển lãm chủ yếu có sự tham gia của các thành viên Hội Hoạ Sĩ Trẻ như: Dương Văn Hùng, Nguyễn Trung, Hồ Hữu Thủ, Cù Nguyễn, Đinh Cường, Nguyên Khai, Nguyễn Lâm, Đỗ Quang Em, Nguyễn Phước, Trịnh Cung…

Hoạ sĩ Nguyễn Phước, khuôn mặt nổi bật khác của Hội Hoạ Sĩ Trẻ, là bạn thân thiết của Mai Chửng, đã bay từ Minnesota sang Dallas, giúp Mai Chửng đóng gói vô thùng một số tượng đất nung mới nhất từ Hoa Kỳ về Việt Nam cho đúc đồng. Nguyễn Phước đã ghi lại cảm tưởng khi gặp lại cố tri Mai Chửng ở Dallas: “Khi mới biết anh bắt đầu làm việc, chỉ sau vài tháng gặp lại, tôi đã thấy vô số tượng bày chung quanh xưởng. Tượng của anh rất hoàn chỉnh và có chiều sâu. Một sức sáng tác mãnh liệt.” (3)

Đưa tới tham dự cuộc Triển lãm, Mai Chửng có 6 bức tượng đồng vừa được đúc xong ở Phường Đúc Huế. Nhưng đến ngày khai mạc, Mai Chửng bất ngờ ngã bệnh. Anh đã chẳng thể đến xem các tác phẩm điêu khắc của mình cùng với các tranh tượng của bằng hữu.

Từ Sài Gòn, em gái Mai Chửng báo tin cho gia đình bên Mỹ: anh Mai Chửng bị hôn mê nói sảng. Mai Chửng được biết bị viêm gan B mạn tính, cũng rất thường gặp ở cộng đồng người Á châu, nay đưa tới suy gan cấp tính, khiến mọi độc tố thay vì được ngăn chặn hiệu quả từ gan nay lên não, gây nên một hội chứng não-gan mà thuật ngữ chuyên môn y khoa gọi là hepatic encephalopathy khiến người bệnh mất tỉnh táo, nói lẫn và cuối cùng đưa tới hôn mê. Em gái Mai Chửng phải đưa anh vào bệnh viện Chợ Rẫy.

Rất sớm sau đó, Mai Chửng được gia đình đưa về Mỹ, tiếp tục điều trị cấp cứu tại một bệnh viện đại học danh tiếng: Baylor University Medical Center, Dallas Texas.

Theo Nguyễn Mai Phú Nga, con gái Mai Chửng thì “bác sĩ không lạc quan cho lắm sau khi khám bệnh cho ba tôi. Căn bệnh quật ngã ba tôi là bệnh gan chứ không phải là ung thư của ông tái phát như chúng tôi từ đầu thoạt nghĩ. Căn bệnh viêm gan mà bác sĩ tin là ông đã mang trong người từ lúc lọt lòng, căn bệnh gan mà ba tôi đã được chữa trị tưởng đã lành lặn nay quay lại như một hung thần. Chị em tôi không thể nào tin ở tai mình khi được báo là cách duy nhất cứu sống ba tôi là thay gan mới.” (2)

Nhưng người bệnh Mai Chửng lại không đủ tiêu chuẩn cho một cuộc phẫu thuật thay ghép gan / liver transplant vì với tiền căn ung thư anh chưa vượt qua được ngưỡng “five years cancer survival” và tổng trạng thì rất yếu. Gia đình chỉ còn hy vọng vào phép lạ.

Và rồi, cũng giống như trường hợp Lê Đình Điểu, Nghiêu Đề – cả hai đều là bạn thân thiết của Mai Chửng, cùng vướng vào căn bệnh nan y, đến giai đoạn cuối này thì thuốc ta, thuốc tàu với rất nhiều giai thoại truyền khẩu, đã trở thành chiếc phao hy vọng. Nguyễn Mai Phú Nga viết tiếp: “Mẹ tôi bắt đầu hướng qua thuốc ta và thuốc tàu. Ai chỉ mẹ tôi thuốc gì bà cũng nghe theo với hy vọng ba tôi được chữa lành.” (2)

Nhưng rồi, Mai Chửng qua đời hai tháng sau, anh mất lúc 1:20 sáng ngày 1 tháng 9 năm 2001 cũng tại Trung tâm Y khoa Baylor Dallas Texas, ở tuổi 61. (2)

Hội Họa sĩ Trẻ:

Năm 1966, Mai Chửng đã cùng nhiều họa sĩ trẻ khác thành lập Hội Họa sĩ Trẻ ở Sài Gòn. Họ là những tài năng sau này đều thành danh như: Nguyễn Trung, Nguyên Khai, Nghiêu Đề, Trịnh Cung, Đinh Cường, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Đồng, Nguyễn Thị Hợp, Hồ Thành Đức, Cù Nguyễn, v.v.

Chủ tịch đầu tiên của Hội Họa sĩ Trẻ là Ngy Cao Uyên, tiếp sau là Nguyễn Trung, và thứ ba cuối cùng là Mai Chửng.

Hình 11: Sinh hoạt Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam; từ trái: Trịnh Cung, Nguyễn Trung, Nghiêu Đề, Mai Chửng, Hồ Thành Đức. [tư liệu Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam]

Tác Phẩm:

Từ khi còn học ở Cao đẳng Mỹ thuật Huế, Mai Chửng đã cùng với Giáo sư điêu khắc Lê Ngọc Huệ rất trẻ mới từ Pháp về, thực hiện một quần thể tượng tôn giáo theo phong cách hiện đại nơi quảng trường nhà thờ La Vang, Quảng Trị vào đầu thập niên 60. Những pho tượng này bị hư hại trong chiến tranh, nhất là trong cuộc giao tranh lớn Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972.

Mai Chửng được biết đến như nhà điêu khắc tiên phong của Việt Nam trong việc sử dụng chất liệu kim loại như đồng, sắt trong điêu khắc.

Năm 1973, ông hoàn tất tượng Mầm, tác phẩm sau đó được ra mắt tại gallery La Dolce Vita trong khách sạn Continental, Sài Gòn. Ông thực hiện bức tượng Chị Em, đặt tại Thương xá Tam Đa. Tác phẩm của Mai Chửng được nhiều người biết tới nhất là Bông Lúa Con Gái. Bức tượng biểu hiện bông lúa tràn đầy sức sống và đang vươn lên trời xanh; tượng cao 18 m, làm bằng đồng lá, được dựng tại trung tâm thị xã Long Xuyên năm 1970. Tới năm 1975, bức tượng bị cộng sản cho nổ và phá hủy.

Hình 12: Một tuyển tập song ngữ Việt Anh nhan đề “Điêu khắc gia Mai Chửng: Cuộc Đời và Nghệ Thuật – Life & Work of Sculptor Mai Chửng” do gia đình thực hiện ra mắt tháng 9 năm 2006 nhân ngày giỗ thứ 5 của Mai Chửng. trái: bìa 1, phải bìa 4. Phần Anh Ngữ của Thạch Hãn Lê Thọ Giáo. [tư liệu gia đình Mai Chửng]

Hình 13: Tượng Mai Chửng bằng thạch cao, do Dương Văn Hùng bạn đồng môn của MC, thực hiện để tặng gia đình Mai Chửng trong dịp ra mắt sách Điêu Khắc Gia Mai Chửng: Cuộc Đời & Nghệ Thuật do VAALA tổ chức vào ngày Thứ Bảy 04.03.2006 tại phòng sinh hoạt Lê Đình Điểu, Người Việt. Một số tác phẩm sáng tạo vào những năm cuối đời của Mai Chửng, cũng được Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ triển lãm trong dịp RMS này. [tư liệu Dương Văn Hùng]

Phát biểu về nghệ thuật điêu khắc của Mai Chửng, họa sĩ Nguyễn Trung viết: “…Nghệ thuật của Mai Chửng cũng vậy, đã trải qua nhiều biến chuyển; từ những thể hiện tươi mát chất lãng mạn, cho đến những công trình đậm trí tuệ. Mỗi giai đoạn có nét đặc trưng riêng, nhưng trong đại thể vẫn có một nét chung rất dễ thấy. Đó là sự đơn giản và tính cách lớn lao của nó. Đơn giản mà không thiếu sự tinh tế. Lớn lao cho dù tác phẩm được thể hiện trong một kích thước khiêm tốn.” (2)

Hình 14: Gia đình Mai Chửng đoàn tụ mấy ngày cuối năm, Mùa Giáng Sinh 1995. Từ phải, hàng đứng: Mai Anh, Bội Nghi, Phú Nga; hàng ngồi: Nguyễn Vĩnh Đức và vợ chồng Mai Chửng. [Album gia đình Mai Chửng]

TÁC PHẨM SỞ HỮU CỦA CỘNG ĐỒNG

Một tác phẩm điêu khắc lớn cần hội đủ nhiều điều kiện, từ quan niệm ý thức tạo hình, đến chất liệu, kích thước và thêm vào một điều kiện có tính quyết định là hoàn cảnh lịch sử.

Với bức tượng Mẹ và Con của Mai Chửng, tôi không muốn đưa ra một thẩm định đó là một tác phẩm điêu khắc lớn, đó là chức năng thẩm quyền của các nhà phê bình. Nhưng hoàn cảnh lịch sử ra đời của bức tượng Mẹ và Con ở đầu thập niên 80s là vô cùng đặc biệt.

Nó xứng đáng được giữ gìn, và hiện diện ở một nơi công cộng để mọi người biết tới là đã có một bức tượng ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử như thế,

của một nghệ sĩ tài năng có tên là Mai Chửng, đại diện cho một thế hệ nghệ sĩ Việt Nam bị tận cùng vùi dập, với hầu hết tác phẩm của họ bị huỷ hoại từ trong nước.

Mai Chửng, con phượng hoàng ấy đã vực dậy từ tro than, tiếp bước sáng tạo, và mỗi tác phẩm của anh ở hải ngoại xứng đáng được trân trọng, không của riêng ai mà là một sở hữu văn hoá nghệ thuật của cả một cộng đồng di dân Việt Nam trên khắp thế giới.

Thay kết từ cho bài viết, là bài thơ Trong Vườn Tượng Mai Chửng của nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp, người bạn thân thiết của Mai Chửng từ Việt Nam sang tới Mỹ, anh Thiệp cũng định cư ở Texas rất gần với gia đình Mai Chửng:

trong vườn tượng mai chửng

nhớ bạn ra đi vào tháng 9

sẽ về đứng

cùng đá và cây. trong vườn tượng

rạng rỡ cười

tháng chín. chim như mây

những bầy sao trên đồng cỏ

khoảnh khắc. cùng tấu khúc ca ngợi niềm vui. của

đất và người

symphony số 9

như hoa của đá. nước mắt cây

đừng khóc. em đừng khóc

trời nổ cơn giông

cho một ngày đã qua

Nguyễn Xuân Thiệp

NGÔ THẾ VINH

California 09.06.2018

Tham Khảo:

1/ Ngô Thế Vinh. ĐBSCL và Những Bước Phát Triển Tự Huỷ Hoại 1975-2018. http://vietecology.org/Article/Article/299

2/ Điêu khắc gia Mai Chửng, Cuộc đời và Nghệ Thuật. Life and Work of Scultor Mai Chửng. Do Gia đình Mai Chửng xuất bản, Dallas Texas Tháng 9, 2005.

3/ Huỳnh Hữu Uỷ. Nghệ thuật Tạo hình Việt Nam Hiện Đại. Vài Điều về Điêu khắc gia Mai Chửng. VAALA xuất bản 2008, sđd, tr.425-436.

4/ Lê Vũ Phỏng vấn Mai Chửng Năm 2000 & Bạn bè Tiễn biệt. https://www.youtube.com/watch?v=YfB5wRtZiF4; uploaded by Mai Dang Jan 15, 2018.

5/ Trịnh Cung. Tưởng nhớ điêu khắc gia Mai Chửng. Giấc Mơ không thành. Người Việt, 30.08.2016 https://www.nguoi-viet.com/tuong-nho/tuong-nho-dieu-khac-gia-mai-chung/

Đồng bằng sông Cửu Long và những phát triển tự huỷ hoại

Nói đến vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) thì có nhiều cái nhìn và quan điểm trái chiều. Nhìn từ ngoài và nhìn bao quát thì vùng đất này có phát triển, nổi bật nhất là tăng lượng xuất khẩu nông thuỷ sản do làm lúa nhiều vụ mùa. Mỗi năm vùng ĐBSCL xuất khẩu trị giá hơn 12 tỉ USD, tương đương số tiền “Việt kiều” gửi về VN hàng năm. Nhiều người trong giới kĩ thuật thì xem thuỷ lợi là một phát triển ngoạn mục, đóng góp vào việc tăng mùa vụ và sản lượng lúa. Những phát triển đó đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân. Đó là một ‘bức tranh’ mà nhà nước và những quan chức kĩ thuật muốn tô vẽ cho vùng ĐBSCL. Ngay cả nhạc sĩ Lam Phương, tác giả “Khúc ca ngày mùa”, cũng khó có thể miêu tả một bức tranh đẹp hơn.

Thế nhưng nhìn chi tiết hơn và quan sát cuộc sống của người dân tại miền quê (thay vì qua con số) lại cho ra một bức tranh khác: người dân vẫn nghèo. Nghèo nhất nhì nước. Không chỉ nghèo mà còn “thiếu chữ”, kém học. Thanh niên bỏ ruộng đồng đi tha hương làm công nhân trong các khu kĩ nghệ; thanh nữ thì bỏ nước làm dâu xứ người, gây mất cân bằng cơ cấu dân số trong miền quê. Tại sao? Tại vì những thu nhập bạc tỉ USD từ xuất khẩu lúa gạo không về đến người nông dân mà về tay những con buôn — những con buôn ngồi trong phòng máy lạnh, những con buôn dưới danh nghĩa tập đoàn không hẳn vì lợi ích của nông dân. Tại vì nguồn sống ở vùng đất này càng ngày càng cạn kiệt. Sông ngòi ô nhiễm nghiêm trọng và là mối đe doạ lớn nhất đến sức khoẻ trong tất cả các mối đe doạ. Nước mặn xâm nhập gây xáo trộn mùa vụ. Đường xá và hệ thống giao thông tồi tệ nhất nhì trên cả nước. Những cảnh thanh bình Lam Phương miêu tả không còn nữa, vì đồng xanh không còn “vui khúc ca ngày mùa”. Những thực trạng đó là một sự mỉa mai cho hai chữ “phát triển”.

Thành ra, khái niệm “phát triển bền vững” là rất liên quan đối với ĐBSCL. Trong bối cảnh đó, tôi hân hạnh giới thiệu bài thứ 5 trong loạt bài về Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) của Nhà văn Ngô Thế Vinh. Bài này chỉ ra những ‘phát triển’ mà tác giả dùng chữ ‘tự huỷ hoại’ ở vùng đất vựa lúa của cả nước và thế giới.

——

ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ NHỮNG BƯỚC PHÁT TRIỂN TỰ HUỶ HOẠI 1975 – 2018

NGÔ THẾ VINH

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

Để tưởng nhớ Mai Chửng

điêu khắc gia tượng đài Bông Lúa 1970

Primum Non Nocere / Trước hết không gây hại.

Hình 1: tới Cửa Trần Đề mút cuối con Sông Hậu, từ trái: Ngô Thế Vinh trên bãi biển Trần Đề; giữa & phải: ĐBSCL với bờ biển ngày đêm bị sạt lở và sói mòn. [photo by Phạm Phan Long & Ngô Thế Vinh]

TỚI CỬA TRẦN ĐỀ MÚT CUỐI SÔNG HẬU

Từ con Kênh Vĩnh Tế biên giới Việt Miên tới Cửa Trần Đề, có thể nói chúng tôi đã đi gần suốt chiều dài con Sông Hậu.

Nguy cơ rối loạn dòng chảy hạ lưu là có thật và có thể nhìn tử thượng nguồn. Nhìn về Phương Bắc, từ hơn hai thập niên qua, người viết không ngừng báo động về những mối nguy cơ tích luỹ không thể đảo ngược từ phía thượng nguồn do nạn phá trắng những khu rừng mưa nhiệt đới (rainforest), rồi những khu rừng lũ (flooded forest) quanh Biển Hồ, tới kế hoạch phá đá phá các ghềnh thác (Mekong rapids blasting project) khai thông mở rộng dòng sông Mekong để cho tàu bè của Trung Quốc vận chuyển hàng hoá tràn xuống các quốc gia hạ lưu, cùng với ảnh hưởng lâu dài là những con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam, tiếp đến là chuỗi 12 dự án đập dòng chính hạ lưu ở Lào và Cam Bốt với hậu quả gây rối loạn dòng chảy, mất nguồn cát nguồn phù sa nơi các hồ chứa, với thời gian có thể đưa tới một tiến trình đảo ngược, một Đồng Bằng Sông Cửu Long / ĐBSCL còn non trẻ có thể từ từ tan rã.

Hình 2: 16 năm trước thời điểm tháng 9.2002, tác giả đứng bên chân con đập Mạn Loan / Manwan 1,500 MW, con đập lịch sử, con đập dòng chính / mainstream dam đầu tiên trên thượng nguồn Sông Lancang-Mekong Vân Nam, Trung Quốc. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

Trung Quốc đang khống chế không chỉ Biển Đông mà còn trên toàn Lưu Vực Sông Mekong, Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn, giới cầm quyền VN thì lệ thuộc về chính trị vào Trung Quốc và do đó hoàn toàn bị động. Cho dù Việt Nam thỉnh thoảng có lên tiếng phản đối yếu ớt nhưng thực tế không có chiến lược gì cụ thể và hầu như không làm được gì để bảo vệ sự sống còn của hơn 17 triệu cư dân ĐBSCL và cũng là vựa lúa của cả nước. Đó là một sự thật.

Quá trình tự huỷ xảy ra ngay tại ĐBSCL. Lòng sông không ngừng bị nạo vét để lấy cát. Diện tích rừng tràm rừng đước tiếp tục bị phá và thu hẹp. Khai thác vô hạn các tầng nước ngầm. Thêm vào đó là những dự án trọng điểm của nhà nước được cổ xuý là để “cải tạo” ĐBSCL từ sau 1975, nhưng đã gây tác hại nhiều hơn. Đó là những huỷ hoại mang tính tích luỹ.

Hậu quả nhãn tiền là bờ sông, bờ biển không ngừng bị sạt lở, đất lún nhanh hơn biển dâng, nạn nhiễm mặn trầm trọng hơn và rõ ràng là nguồn tài nguyên thiên nhiên của cả một vùng đất mới vốn được ưu đãi thì nay cứ nghèo dần đi. Kết luận dễ dàng nhất để rũ bỏ mọi trách nhiệm là đổ lỗi cho Mẹ Thiên nhiên, cho Biến đổi Khí hậu nhưng không thể không kể tới một chuỗi hậu quả tích luỹ của những yếu tố nhân tai, do chính con người gây ra với sự thụ động của giới cầm quyền.

Hình 3: 600 km bờ sông các tỉnh Miền Tây đang bị sạt lở; hình trái, Sông Hậu tỉnh An Giang với nhiều khúc bờ sông bị sạt lở do nhiều yếu tố nhân tai: mất lượng phù sa do hồ chứa nơi những con đập thuỷ điện thượng nguồn, nạn phá rừng, nạo vét lòng sông khắp nơi để khai thác cát. [photo by AX, VN Express 15.05.2017]; hình phải, bờ Sông Hậu sạt lở nơi huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp. [photo by PanNature VN 2009]

Hình 4: Dọc bờ biển ĐBSCL cũng ngày đêm âm thầm bị xói mòn / beach erosion; so với sạt lở ven sông, tình trạng sạt lở ven biển trầm trọng hơn nhiều. Một dãy nhà bị đổ sụp xuống sông được báo chí và dân chúng quan tâm nhiều hơn nhưng sạt lở ven biển là một cái chết chậm và rất âm thầm; hình trái, là cây bần bật gốc bị cuốn trôi rạt nơi Cửa sông Trần Đề. [photo by Ngô Thế Vinh 2017]; hình phải, sạt lở rừng ven biển gây mất đất đai tại huyện Phú Tân tỉnh Kiên Giang. [photo by PanNature VN 2012]

QUA CÙ LAO DUNG

Gần tới Biển Đông, gặp Cù Lao Dung, Sông Hậu chia làm hai nhánh: hữu ngạn chảy ra cửa Trần Đề (trước đây còn có tên gọi là Trấn Di) thuộc tỉnh Sóc Trăng; tả ngạn chảy ra cửa Định An thuộc tỉnh Trà Vinh. Ở giữa hai cửa Trần Đề và Định An là cửa Ba Thắc rất nhỏ đã bị phù sa vùi lấp từ trăm năm trước. Cửu Long chín cửa: 9, thực tế chỉ có Bát Long: 8, nay thêm cửa Ba Lai của Sông Tiền bị bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn xây cống đập chặn mặn bít kín, chỉ còn là Thất Long: 7. [Hình 5a]

Hình 5a: Cửu Long Chín Cửa Hai Dòng, nay chỉ còn Bảy Cửa: Sông Hậu ba cửa nay còn hai: (1) cửa Trần Đề, (2) cửa Định An, (cửa Ba Thắc / Bassac đã bị lấp). Sông Tiền sáu cửa nay còn năm: (3) cửa Cung Hầu, (4) cửa Cổ Chiên, (5) cửa Hàm Luông, (cửa Ba Lai đã bị đắp đập làm cống chặn mặn từ năm 2000), (6) cửa Đại, (7) cửa Tiểu. [nguồn: bản đồ Dragon/ CTU; với ghi chú của Ngô Thế Vinh, CLCD BĐDS p.360]

Hình 5b: Cù lao Dung chia Sông Hậu ra làm hai nhánh: nhánh hữu ngạn chảy ra cửa Trần Đề, nhánh tả ngạn chảy ra cửa Định An. [nguồn: Wikipedia, thêm ghi chú của người viết].

Cù Lao Dung là một trong những cù lao lớn trên Sông Hậu, nằm giữa 2 tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh. Cù Lao Dung là một huyện thuộc tỉnh Sóc Trăng, diện tích 24.944 hecta với dân số khoảng 63,000 người [62,931 người theo thống kê 2009]. Phía Đông và Bắc giáp tỉnh Trà Vinh; phía Tây giáp huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng; phía Nam giáp Biển Đông. [Hình 5b]

Nếu từ bản đồ Google bung ra, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều cù lao lớn nhỏ trên hai con Sông Tiền và Sông Hậu. Nói chung, đất cù lao là do phù sa bồi đắp nên phì nhiêu, rất thích hợp cho các loại cây trái. Cư dân sống trên đất cù lao, qua nhiều thế hệ, được thiên nhiên ưu đãi phải nói sung túc nếu không muốn nói là giàu có.

Do là một cù lao rất lớn và trải dài trên Sông Hậu, nửa cuối Cù lao Dung tiếp cận với Biển Đông nên được hưởng cả hai chế độ thuỷ văn và thuỷ sản nước mặn và nước ngọt theo mùa.

Hình 6: tới cuối năm 2017, vẫn còn một nền văn-hoá-phà, hoạt động rất hiệu quả trên nhiều vùng sông nước Cửu Long; các chuyến phà Đại Ngãi trên nhánh Sông Hậu qua lại Cù lao Dung. [photo by Ngô Thế Vinh]

Hình 7: trái, túi trữ nước ngọt lấy từ giếng bơm; 100% nước tưới ruộng hành, kể cả nước dùng cho tiện dụng gia cư đều lấy từ các giếng bơm từ các tầng nước ngầm, là nguyên nhân khiến nền đất ĐBSCL lún nhanh hơn mực nước biển dâng. [photo by Phạm Phan Long]; phải, cảnh vẫn thường thấy ngày đêm là những chuyến xà lan chở đầy cát được nạo vét từ hai con Sông Tiền và Sông Hậu, cũng là một trong những nguyên nhân gây sạt lở trầm trọng ven sông. [photo by Ngô Thế Vinh]

QUA KÊNH QUAN CHÁNH BỐ

Kênh Quan Chánh Bố nguyên là một kênh đào thuộc huyện Duyên Hải tỉnh Trà Vinh. Một đầu kênh nối với Sông Hậu ở xã Định An (Trà Cú). Con kênh chạy dọc theo ranh giới huyện Duyên Hải và Trà Cú phía bắc Quốc lộ 53, và đổ ra Biển Đông. Nguyên thuỷ, con Kênh Quan Chánh Bố được đào từ thế kỷ 19 [thời gian 1837 – 1838] để dẫn nước từ Sông Hậu vào rửa mặn vùng đồng lầy Láng Sắt, công trình đào kênh thời đó do Quan Chánh Bố Trần Trung Tiên đảm trách.

Sang thập niên đầu của thế kỷ 21, [năm 2009], Bộ Giao thông Vận tải [GTVT] dưới thời bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng, người Đà Nẵng [nhiệm kỳ 06.2006 – 08.2011] triển khai một dự án nạo vét con Kênh Quan Chánh Bố nhằm tạo một thuỷ lộ từ biển đi vào Sông Hậu tới giang cảng Cần Thơ thay cho luồng đi qua cửa Định An, viện lý do cửa Định An bị nhiều phù sa bồi đắp khiến các con tàu trọng tải lớn có nguy cơ mắc cạn khi đi vào Sông Hậu.[sic]

Hình 8: Dự án Luồng Kênh Quan Chánh Bố với mức đầu tư ban đầu lên tới 9,781 tỷ đồng, từ ngày đi vào giai đoạn vận hành thử nghiệm đang là nguồn cơn thống khổ của cư dân đang sống hai bên bờ con kênh. [nguồn: tài liệu của Bộ Giao Thông Vận Tải]

Với kế hoạch mở rộng và vét sâu theo suốt chiều dài 19.2 km con Kênh Quan Chánh Bố tính từ chỗ nối với Sông Hậu đến xã Long Khánh; đồng thời, khai mở thêm một khúc kênh mới có tên gọi là Kênh Tắt dài 8.2 km được nối phần cuối đoạn mở rộng con Kênh Quan Chánh Bố qua xã Đông Hải thông ra tới biển và thêm đoạn kênh biển dài 7 km. Nếu kể cả đoạn Sông Hậu dài 12.1 km Luồng Kênh Quan Chánh Bố có tổng chiều dài là 46.5 km. [Hình 8]

Dự án Luồng Kênh Quan Chánh Bố với mức đầu tư ban đầu lên tới 9,781 tỷ đồng, được khoe đây là “con kênh đào Panama của Việt Nam“, một so sánh rất khiên cưỡng. Kênh Panama có tầm vóc thế giới và là một con kênh chiến lược cắt ngang eo đất Panama Trung Mỹ nối liền hai biển lớn là Đại Tây Dương với Thái Bình Dương, thay vì phải vòng qua Mũi Sừng / Cape Horn điểm cực nam của Nam Mỹ, với rút ngắn hơn nửa khoảng cách đường biển, như tàu bè đi từ New York chỉ phải vượt qua 9,500 km để tới San Francisco thay vì 22,500 km nếu không qua kênh đào Panama.

Cũng giống như các dự án trọng điểm khác nơi ĐBSCL, phải nói là dự án Luồng Kênh Quan Chánh Bố được hình thành khá vội vã, cả với những ý kiến bất đồng (4) nhưng vẫn cho khởi công từ cuối năm 2009. Như từ bao giờ, đa số các dự án chưa có đủ thời gian nghiên cứu để có được cơ sở khoa học, thảo luận và đánh giá một cách khách quan, và nhất là thiếu minh bạch; đã thế khi đi vào thực hiện dự án Luồng Kênh Quan Chánh Bố lại không có được hình thức đấu thầu công khai theo luật định, mà là chỉ định nhà thầu thuộc các nhóm lợi ích. Tiêu tốn ngân sách hàng nhiều ngàn tỷ đồng chỉ với mục tiêu đơn giản và cuối cùng là tìm được một đường tàu biển trọng tải lớn ra vào ĐBSCL mà không quan tâm gì tới tính bền vững về môi trường, đến hiệu quả kinh tế, và nhất là sự an toàn cho người dân. Nạn nhân không ai khác hơn vẫn những người “dân đen” được đưa ra làm thử nghiệm. Và, những cuộc thử nghiệm cứ nối tiếp nhau, dù hiệu quả thì chưa thấy rõ nhưng hậu quả thì hầu như ai cũng thấy.

Tưởng cũng nên có một ghi chú bên lề, bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng sau nhiệm kỳ 5 năm ở Bộ Giao Thông Vận Tải cho tới lúc nghỉ hưu vào tháng 8.2011 khi đó công trình con Kênh Quan Chánh Bố còn dở dang và cũng theo báo chí lề phải trong nước, để chuẩn bị trước về hưu, khi còn tại nhiệm chính ông Hồ Nghĩa Dũng cũng đã chỉ định một nhà đầu tư cho một Dự án lớn khác: Xây đường hầm Đèo Cả để rồi sau đó không ai khác hơn là chính ông tham gia vào Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần đầu tư Đèo Cả. Bước chuẩn bị này đã từng gây tai tiếng, bị chính báo chí trong nước gọi đây là “hành động lót ổ” đồng thời là “một tiền lệ xấu”. Ông bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng còn được nhớ tới với thành tích đề xuất xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam dài 1570 km với kinh phí 55 tỉ USD, may mà sau đó dự án đã bị Quốc hội khoá XII biểu quyết bác bỏ.

Công trình Kênh Quan Chánh Bố sau đó được tiếp tục qua thời Bộ trưởng kế nhiệm Đinh La Thăng, người Nam Định, [nhiệm kỳ 03.2011 – 08.2016] với một tiểu sử rất dày: trước khi về bộ Giao thông Vận tải, ông đã là Chủ tịch Hội đồng Dầu khí Quốc gia VN (2008-2011), Chủ tịch Hội đồng Quản trị Dầu khí Quốc gia VN (2005-2008), Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tổng Công ty Sông Đà (2001-2003); và nay 2018 thì đang bị dính vào vòng lao lý do “cố ý làm sai trái quy định nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng khi ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng Dầu khí Quốc gia VN”.

Và rồi sau 7 năm khởi công [2009 – 2016], công trình Luồng Kênh Quan Chánh Bố được hoàn thành vào đầu năm 2016; với thành tích là những con số: Kênh Quan Chánh Bố nay có thể tiếp nhận các tàu biển lớn 20.000 tấn giảm tải và 10.000 tấn đầy tải vào Sông Hậu. WIKIPEDIA

Và chỉ một năm đi vào hoạt động với không ít hệ luỵ, theo báo Đất Việt [ngày 10.04.2017], Bộ Giao Thông Vận Tải / GTVT lại tính thay thế Phà Kênh Tắt bằng một Đường hầm chui qua Kênh Tắt, khiến dư luận hết sức băn khoăn.

Hình 9: Kênh Tắt là đoạn kênh đào mới nối đoạn cuối con Kênh Quan Chánh Bố thông ra biển. Để nối hai bờ Kênh Tắt trên QL 53 dự tính ban đầu là Cầu Kênh Tắt; sau đó cầu được thay thế bằng Phà Kênh Tắt, chỉ mới một năm Phà Kênh Tắt đi vào hoạt động, Bộ GTVT lại tính thay thế bằng Đường Hầm Chui qua Kênh Tắt với dự tính tổn phí lên tới 10,319.2 tỷ đồng… khiến GS Nguyễn Ngọc Trân, người theo dõi dự án Luồng Kênh Quan Chánh Bố từ giai đoạn đầu tiên đã phải vô cùng ngạc nhiên vì chủ đầu tư thay đổi phương án như thay áo cho dù phải chi hàng ngàn tỷ đồng ngân sách nhà nước. (2) [photo by Ngô Thế Vinh]

GS Nguyễn Ngọc Trân, [người gốc người Miền Tây, sinh ra trên một cù lao giữa Sông Tiền, huyện Chợ Mới tỉnh An Giang, là thành viên lâu năm Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia, cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ từ 1992 phải lên tiếng:

Điều gây ngạc nhiên đến khó có thể tưởng tượng là thông báo trong Trang địa phương của vị Thứ trưởng, nguyên Cục Trưởng Cục Hàng hải, rằng Thủ tướng Chính phủ có chủ trương giao cho Bộ GTVT nghiên cứu làm hầm qua Kênh Tắt để tránh cho người dân không phải qua phà đồng thời đảm bảo an toàn cho luồng tàu biển. Để làm việc này, Trang địa phương cho thông tin sẽ cần thêm 50 ha đất, và trên 3,000 tỷ đồng. Dự kiến sẽ triển khai vào cuối năm nay.

Gây ngạc nhiên vì phương án đầu tiên nối hai bờ Kênh Tắt trên QL 53 là Cầu Kênh Tắt. Qua quá trình triển khai dự án, phương án cầu đã được thay thế bằng Phà Kênh Tắt. Phà này mới được đưa vào hoạt động từ ngày 20.01.2016, ngày thông luồng Kênh Tắt. Như vậy, chỉ sau một năm đi vào hoạt động, Bộ GTVT lại tính thay thế Phà Kênh Tắt bằng một Hầm Chui qua Kênh Tắt. Và thay đổi này không phải là duy nhất.

Khi được cho triển khai (công văn số 123/TTg-CN ngày 22.01.2007) tổng mức đầu tư của dự án là 3,148.5 tỷ đồng. Mười tháng sau, tổng mức đầu tư của dự án được Bộ GTVT duyệt tại Quyết định số 3744/QĐ-BGTVT ngày 30.11.2007 tăng từ 3,148.5 lên 10,319.2 tỷ đồng, nghĩa là gấp 3.28 lần. Bởi vì khối lượng nạo vét luồng từ 22 triệu m3 tăng lên 28.1 triệu m3; kè dọc tuyến luồng 35.94 km thay vì 27.57 km; giải phóng mặt bằng 1406.47 ha thay vì 300 ha; thay đổi mái dốc nạo vét do nền đất yếu; thay đổi đê chắn cát thành đê chắn sóng; kết hợp đê chắn sóng của dự án luồng với dự án cảng biển Trà Vinh…

Ngạc nhiên vì chủ đầu tư thay đổi phương án… giống như thay áo, cho dù phải chi hàng ngàn tỷ đồng ngân sách nhà nước cho những thay đổi đó. Cử tri, những người đóng thuế cho ngân sách, có quyền đặt câu hỏi về tính nghiêm túc của dự án! Khó có thể tưởng tượng vì chi ngân sách hàng ngàn tỷ đồng sao mà dễ dàng đến thế! Đó là chưa nói đến hiệu quả kinh tế, tác động lên môi trường tự nhiên và xã hội. Liệu lần này với phương án hầm chui rồi cũng sẽ làm như các lần trước?” [sic] hết trích dẫn (2)

Không lâu sau đó, theo VTV.VN [16.11.2017] cơ quan truyền hình nhà nước đã lại phải lên tiếng báo động (3):

Tàu biển hàng chục nghìn tấn lưu thông qua Kênh Quan Chánh Bố, tỉnh Trà Vinh gây sóng lớn đe dọa tính mạng, làm thiệt hại tài sản khiến người dân nơi đây vô cùng lo sợ. Tháng 1/2016, luồng tàu biển vào Sông Hậu chính thức được thông luồng, đáp ứng cho tàu biển có tải trọng 10,000 tấn chở đầy hàng và 20,000 tấn vơi hàng lưu thông. Luồng tàu vào Sông Hậu có đoạn đi qua Kênh Quan Chánh Bố của các huyện Trà Cú và Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Từ ngày thông luồng đến nay, hàng trăm hộ dân ở hai xã Long Vĩnh và Đôn Xuân sống ven Kênh Quan Chánh Bố luôn sống trong cảnh thấp thỏm, lo lắng. Nguyên nhân là do tàu biển đã nhiều lần gây sóng lớn, làm thiệt hại tài sản và đe dọa đến tính mạng người dân. Người dân cho biết, hiện tượng sóng tràn vào nhà xảy ra rất nhiều lần. Theo bà Đặng Thị Cúc (huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh), cháu ngoại của bà đã từng bị sóng lớn do tàu biển gây ra cuốn trôi xuống con lạch trước nhà, rất may cháu được phát hiện và cứu kịp thời. Sau tai nạn kinh hoàng đó, để bảo vệ các cháu, gia đình bà đã phải làm hàng rào lưới trước nhà. Vết sẹo trên chân bà Kim Thị Tiến vẫn chưa lành hẳn, hậu quả sau một lần bà bảo vệ chiếc ghe của gia đình tránh bị sóng đánh vỡ. Đến nay, bà Dương Thị Phượng vẫn chưa hết bị ám ảnh khi nhắc lại câu chuyện tàu biển gây sóng lớn đánh nát một chiếc xuồng và ghe cào. Ngoài ra, một lượng hải sản lớn đã bị thất thoát khiến gia đình bà bị thất thoát khoảng 100 triệu đồng. Người dân cho biết, các tàu này hoạt động không thường xuyên mà cách 1 – 2 ngày. Tuy nhiên, điều nguy hiểm là các tàu biển gây sóng cao từ 3-4 m nhưng ít khi bấm còi khi qua khu vực đông dân cư và có thể chạy vào bất cứ giờ nào trong ngày, kể cả ban đêm… [sic]

Rồi tới báo Đại Đoàn Kết [04.07.2017], cho biết có tình trạng sạt lở hai bên bờ con kênh, đòi hỏi thêm kinh phí ứng phó được đề xuất lên đến 1,600 tỷ đồng nữa. (1)

Nhưng theo nguồn tin từ công ty Hải Vận Ship, thì dù đang trong giai đoạn thử nghiệm [sic] nhưng đến nay đã có 14 chuyến tàu từ biển đi qua Kênh Tắt đến Kênh Quan Chánh Bố để vào Sông Hậu.

Sau khi chuyến tàu Đông Thiên Phú Diamond tải trọng hơn 4,000 tấn đi vào ngày 7/7, có nhiều tàu tải trọng lớn khác như tàu Tân Cảng Glory chở container tải trọng gần 9,000 tấn vào Sông Hậu một chuyến/ tuần. Cuối tháng 11, chuyến tàu Vinalines Unity tải trọng trên 20 nghìn tấn chở hàng nhẹ cũng hai lần vào Kênh Tắt an toàn để cập cảng trên Sông Hậu.

Ông Võ Minh Tiến, Giám đốc Cảng vụ Hàng hải Cần Thơ cho biết, do đang trong quá trình khai thác thử nghiệm [sic] nên đơn vị phải phối hợp với lực lượng biên phòng, chính quyền địa phương thường xuyên tổ chức tuần tra, thanh thải luồng lạch để đảm bảo cho các chuyến tàu ra vào an toàn. Đến thời điểm này, dự án Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào Sông Hậu đã đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật, đảm bảo an toàn cho tàu thuyền tải trọng lớn ra vào. HẢI VẬN SHIP

Điều đang lưu ý là ông Giám đốc Cảng vụ Hàng hải Cần Thơ chỉ quan tâm tới bảo đảm an toàn cho tàu biển trọng tải lớn ra vào Sông Hậu, mà lại không đề cập gì tới an toàn và sinh mạng của chính những người dân ngày đêm sống lo âu thấp thỏm ven kênh.

Với những hệ lụy nổi cộm từ khi Luồng Kênh Quan Chánh Bố từ khi đi vào vận hành, cũng vẫn GS Nguyễn Ngọc Trân đã phải kiến nghị thẳng thắn đối với Dự án luồng Sông Hậu qua Kênh Tắt và Kênh Quan Chánh Bố cần được Quốc hội giám sát, đặc biệt là việc thực hiện giám sát những vấn đề liên quan đến Luồng Quan Chánh Bố. Bởi vì, các luồng tự nhiên như Định An thì ngày càng nông trong khi luồng qua Kênh Quan Chánh Bố còn phải nạo vét nhiều và chưa biết độ ổn định ra sao.

Còn TS Lê Kế Lâm mong muốn, Bộ Giao thông Vận Tải / GTVT trong quá trình thực hiện Dự án cần có cơ sở cho các nhà khoa học nghiên cứu, thảo luận và đánh giá một cách khách quan chính xác. Và, Bộ GTVT nên tổ chức phản biện đối với Dự án này, nhất là phản biện của các tổ chức tư vấn, của các hội. Ngay cả khi lựa chọn tổ chức tư vấn phản biện theo hình thức đấu thầu công khai theo luật định, chứ không thể chỉ định thầu. Mục tiêu cuối cùng là tìm được một luồng tàu biển ra vào ĐBSCL một cách kinh tế, an toàn, bền vững về môi trường, không phụ lòng mong mỏi của người dân.

[Tưởng cũng nên nói thêm, TS Lê Kế Lâm nguyên Thiếu tướng Hải quân tương đương Phó Đô đốc, hiện là chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật và Kinh tế Biển TP. HCM nhiệm kỳ 2014-2019, TS Lê Kế Lâm được nhiều người biết đến qua sự kiện Hội KHKT mà ông là Chủ tịch đã can đảm công khai lên tiếng phản đối mạnh mẽ Trung Quốc trong vụ giàn khoan Hải Dương 981].

Đại Đoàn Kết [04.07.2017], Lê Anh.

Hình 10: tàu 7,000 tấn lưu thông từ biển qua Kênh Quan Chánh Bố vào Sông Hậu. [nguồn: báo Đại Đoàn Kết 04.07.2017], nói về giá trị kinh tế của dự án Kênh Quan Chánh Bố cho tàu trong tải lớn từ Biển Đông đi vào Sông Hậu để tới giang cảng Cần Thơ, cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời và vẫn đang gây rất nhiều tranh cãi. Hiệu quả kinh tế của Luồng Kênh Quan Chánh Bố chưa thấy đâu nhưng đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực.

NHỮNG DỰ ÁN SAI LẦM TỪ HỆ THỐNG

Từ sau 1975, như một chuỗi sai lầm từ hệ thống, nhà nước đã thiết lập vội vã nhiều dự án trọng điểm nhằm “cải tạo” ĐBSCL, đa phần là can thiệp thô bạo gây tác hại trên hệ sinh thái mong manh của cả một vùng châu thổ, do thiếu sót trong Đánh giá Chiến lược Tác động Môi trường ĐTM [SEA hay Strategic Environment Assessment], với những “nghiên cứu mệnh danh là khoa học” nhưng theo phong cách: làm nhanh ăn nhanh; rồi đem chính mạng sống và kế sinh nhai người dân ra thử nghiệm, khi mà người dân đã bị tước đoạt tự do và quyền tự vệ. Đây hẳn là điều không thể nào được chấp nhận trong một quốc gia có dân chủ.

Có thể nói đa số các quy trình SEA là nguỵ tạo do thiếu minh bạch và trách nhiệm khi mà:

1. Mâu thuẫn lợi ích. Báo cáo SEA do chính chủ đầu tư chọn nhóm tư vấn, trả chi phí cho họ và đương nhiên toán tư vấn phải viết báo cáo biện hộ tối đa cho dự án và che đậy tối đa các tác động xấu cho chủ đầu tư. Những cố vấn có lương tâm trách nhiệm sẽ từ chối không tham dự vào những hợp đồng có hại cho uy tín lâu dài của họ. Hệ quả là các báo cáo SEA cho các dự án Việt Nam sẽ không thể tin cậy để đưa tới quyết định.

2. Thiếu minh bạch khoa học. Báo cáo SEA không được công bố rộng rãi trên truyền thông báo chí, mà là đặc ân dành cho những viên chức trong bộ máy cầm quyền tham vấn với nhau và người dân muốn tìm hiểu thì phải mò mẫm trong bóng tối và khi có ý kiến phản đối thì họ và cả gia đình có thể bị hăm doạ và cả đàn áp tù đầy.

3. Hội đồng thẩm định báo cáo SEA không có sự tham sự của các chuyên gia khoa học độc lập và xã hội dân sự. Đôi khi các nhà khoa học ấy còn bị mạo danh là tác giả của bản báo cáo để che chắn cho chủ thầu, lừa cả nhà cầm quyền và không ai phải chịu một sự chế tài hay trừng phạt nào. Hệ thống SEA bị ô nhiễm ở cả hai phía chủ thầu và uỷ ban duyệt xét.

4. Những cơ quan quản lý phát triển cơ sở hạ tầng như VN Food, EVN, PVN, Vinacomin… là những tập đoàn chịu sự chi phối và khống chế bởi các nhóm lợi ích. Họ liên kết nhau đề ra những công trình quy mô để tạo cơ hội sinh lợi, một thứ văn hoá tham nhũng đã thành nề nếp cả nước đều biết mà vẫn phải im lặng chịu đựng.

5. Sau khi dự án đi vào vận hành, hệ thống quan trắc vi phạm ô nhiễm hoạt động không hiệu quả và không có báo cáo rộng rãi. Như một ví dụ, theo điều tra riêng của Hội Sinh Thái Việt / Việt Ecology Foundation, thì ngay cả thông tin chỉ số chất lượng không khí / Air Quality Index cũng bị chính cơ quan cầm quyền cố ý tự sửa đổi để né tránh trách nhiệm, tạo những thông tin sai lạc và đánh lạc hướng dư luận.

6. Một thể chế tạo ra và dung dưỡng các nhóm lợi ích như thế sẽ không có chỗ cho nhân tài tham gia nếu họ không chấp nhận từ bỏ ý thức trách nhiệm và tiếng nói của lương tri. Vẫn có những trí thức chân chính trong nước từ chối tham gia vào guồng máy nhưng khi cần họ vẫn can đảm lên tiếng phản biện cả với cái giá phải trả nhằm giảm thiểu những tác hại lâu dài trên nguồn tài nguyên đất nước của các thế hệ tương lai.

Nguyên lý bất di bất dịch là: Trước Hết là Không Gây Hại (Primum Non Nocere), vẫn cứ mãi là bài học vỡ lòng, là kim chỉ nam cho các bộ trưởng, vụ trưởng các ngành trước khi khởi công bất cứ một dự án nào trên ĐBSCL. Thế nhưng trong thực tế chưa có một chứng cớ nào cho thấy các vị ấy hành động theo nguyên lý căn bản trên.

Có thể liệt kê ngay những dự án chính đã và đang gây tác hại và tổn thương lâu dài cho ĐBSCL như:

_ Dự án đê bao chống lũ: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], với những đê bao ngăn lũ chỉ để có thêm đất làm lúa cao sản 3 vụ, vắt kiệt đất đai, lại không có nguồn phù sa, nước tù đọng tích luỹ ô nhiễm đồng thời làm giảm lượng nước vào hai vùng trũng Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Xuyên như nguồn dự trữ cho toàn ĐBSCL trong Mùa Khô.

_ Dự án cống đập chặn mặn: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], ngăn chặn dòng chảy tự nhiên biến những con sông khoẻ mạnh thành ao hồ tù đọng, xoá đi một nền văn hoá nước lợ / brackish water và gây rối loạn dây chuyền trên toàn nhịp đập / Mekong Pulse của hệ sinh thái ĐBSCL.

_ Dự án 14 nhà máy nhiệt điện than: [Bộ Công Thương], biến ĐBSCL là bãi tiếp nhận các nhà máy nhiệt điện chạy than phế thải từ Trung Quốc với hậu quả tàn phá môi trường đất đai, nguồn nước và không khí với sức khoẻ của người dân không hề được quan tâm tới nếu không muốn nói là bị hy sinh.

_ Dự án Nhà Máy Giấy Lee & Man: [Bộ Tài Nguyên & Môi Trường] gây ô nhiễm nghiêm trọng vì nguồn nước thải với đủ loại hoá chất được chính Bộ TNMT cấp phép cho xả thải ra Sông Hậu đang giết chết dòng sông, rồi còn phải kể tới bụi khói độc hại, mùi hôi thối, tiếng ồn từ nhà máy ngày đêm bào mòn sức khoẻ của người dân.

_ Dự án Kênh Quan Chánh Bố: [Bộ Giao thông & Vận tải], với tốn kém hàng nhiều ngàn tỷ đồng chỉ để cho mấy tàu trọng tải lớn từ Biển đi vào Sông Hậu để tới giang cảng Cần Thơ gây bao khốn khổ cho người dân khi mà giá trị kinh tế của dự án kênh Quan Chánh Bố, cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời và vẫn đang gây rất nhiều tranh cãi gay gắt.

Danh sách trên vẫn chưa đầy đủ. Trong thực tế còn nhiều dự án nhỏ cấp địa phương đã và đang được triển khai nhưng không có những nghiên cứu làm cơ sở và cũng chẳng có đánh giá tác hại môi trường từ các chuyên gia độc lập.

Ấy vậy mà cho đến nay vẫn có những người trong giới cầm quyền và giới khoa học thuộc quản lý của nhà cầm quyền cho rằng họ đã thành công trong việc nâng cao sản lượng nông nghiệp qua các công trình thuỷ lợi và “ém phèn” được xem là “thành công ngoạn mục”. Thật ngạc nhiên, một thành tựu lớn như vậy mà không hề có bất cứ một công bố khoa học nào trên các diễn đàn khoa học quốc tế! Tuy nhiên, đối với những người sống và làm việc ở ĐBSCL thì những thành tựu đó chỉ là trên giấy. Những “ngôi sao” khoa học hình như xuất hiện nhiều trên hệ thống truyền thông của Nhà nước hơn là trên diễn đàn khoa học nghiêm chỉnh.

GS Nguyễn Văn Tuấn, một nhà khoa học có nhiều trải nghiệm ở trong nước và qua nhiều năm quan sát miền quê ĐBSCL cho rằng: “Sự thật là một số không nhỏ trong giới khoa học Việt Nam làm nghiên cứu không theo chuẩn mực quốc tế, kết quả không được công bố, nên chẳng ai biết thực hư ra sao. Báo chí trong nước và ngay cả Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cũng thừa nhận rằng nhiều ‘công trình’ của họ thường nằm trong hộc tủ, chứ ít khi nào được công bố. Ngay cả khi được công bố thì dấu hỏi lớn vẫn lơ lửng trên những số liệu họ báo cáo.”

Cũng GS Nguyễn Văn Tuấn, nhận định: “[…] còn quá sớm để quy những công trạng – nếu có – cho giới khoa học. Tôi quan sát ở miền quê tôi thì thấy sự thật là những thành tựu về tăng năng suất trồng trọt và lúa là do người nông dân xoay xở. Nông dân tự thử nghiệm cho đến khi đạt được kết quả tốt (kiểu trial-and-error). Họ có thể không biết những nguyên tắc thí nghiệm hay ngẫu nhiên hoá, họ có thể không rành tính toán như các kỹ sư & tiến sĩ, nhưng qua trial-and-error, họ có thể lai giống và tạo giống mới, chế tạo máy gặt lúa, máy cấy lúa, máy hút lục bình, v.v. Giới khoa học chẳng giúp gì cho họ trong các sáng kiến đó. Người nông dân thiếu chữ để nói đó là công trạng của họ, và thay vào đó có những người mang mác ‘tiến sĩ’ giành công trạng cho mình. Ai cũng biết tác nhân làm nghèo làm khổ nông dân miền Tây là cái tập đoàn lương thực có tổng hành dinh nằm ngoài … Hà Nội.”

Ở Việt Nam, người ta có câu khuyên các nhà quản lý và khoa học quốc doanh: đừng làm gì hết, ngồi yên đó để dân nuôi, vì họ làm là hư hỏng.

Trong thực tế miền nào (Nam, Trung, Bắc đều) có những hiền tài với cả nhân cách, họ như những cánh sen giữa bùn lầy và nhà cầm quyền đã không có một chính sách chiêu hiền đãi sĩ khiến nguồn chất xám ấy không được trọng dụng; để rồi những tài năng ấy hoặc bị mai một hoặc họ phải chọn con đường bỏ đất nước ra đi.

Và cũng không phải là quá khắt khe khi dân gian nhắc tới khái niệm “giới khoa học quốc doanh” theo cái nghĩa xấu nhất: đó là một tập đoàn đội lốt khoa bảng bị mua chuộc, chèn ép những người có thực tài, họ cấu kết với nhau, mai phục trong các bộ các ngành ở Việt Nam và nghiễm nghiên trở thành công cụ, tệ hơn nữa họ trở thành một dàn kèn dư luận viên bênh vực vô điều kiện cả những sai trái cho một guồng máy chuyên chính chỉ biết vơ vét và chia chác quyền lợi. Và nạn nhân không ai khác hơn chính là đám dân đen câm nín và tiếng kêu than của họ nếu có cũng không được lắng nghe.

THAY LỜI KẾT: CON ĐƯỜNG VÒNG 43 NĂM

Bây giờ, chúng tôi đang đứng ở mút cuối con Sông Hậu, nhìn từng đợt sóng vỗ vẫn còn màu nâu nhạt của phù sa nơi cửa sông trải rộng để chan hoà vào biển cả; bao nhiêu cảm xúc tràn về, như một flashback, chợt nhớ lại hơn một lần qua Long Xuyên, nơi có tượng đài Bông Lúa Con Gái của Mai Chửng, [Hình 11] một cố tri và cũng là một tên tuổi lớn trong lãnh vực điêu khắc của Miền Nam.

Sau 1975, cùng với chiến dịch đốt sách, Tượng đài Bông Lúa ấy cũng đã bị phá sập, quả không phải là một “điềm lành” cho tương lai nền Văn Minh Lúa Gạo và cả hậu vận của toàn vùng Sông Nước Cửu Long.

Hình 11a: Tượng đài Bông Lúa Con Gái 1970 bằng đồng lá, một tác phẩm nghệ thuật lớn của điêu khắc gia Mai Chửng Hội Hoạ Sĩ Trẻ VN, [nguồn: tư liệu Hội Hoạ Sĩ Trẻ 1966-1975].

Hình 11b: trái, điêu khắc gia Mai Chửng đứng bên công trình tượng đài Bông Lúa thực hiện bằng đồng lá, cao hơn 16 m đang xây cất tại tỉnh Long Xuyên ĐBSCL; toàn cảnh pho tượng Bông Lúa tại Công viên Trưng Vương tỉnh Long Xuyên 1970; nhưng chỉ 5 năm sau, sau 30 tháng 4, 1975 tượng đài Bông Lúa ấy đã bị phá sập, quả không phải là một “điềm lành”. [nguồn: sưu tập Dương Văn Chung, Thatsonchaudoc.com]

Người dân Việt Nam, và hơn 17 triệu cư dân ĐBSCL nói riêng đang thầm mơ ước gì? Mơ được trở lại với một nền giáo dục nhân bản đã có từ 43 năm trước. Mơ được sống trở lại với một Miền Tây trù phú với gạo trắng nước trong, cây trái trĩu cành và tôm cá đầy đồng. Thời hoàng kim ấy đã qua rồi, sau 43 năm “cải tạo”, một ĐBSCL với nguồn tài nguyên thiên nhiên không những đã nghèo đi, người dân còn phải chứng kiến những dòng sông đang chết, phẩm chất cuộc sống / quality of life của họ sa sút, họ phải sống ngày đêm trong nỗi bất an với đất, nước, không khí ngày càng thêm ô nhiễm. Và cũng dễ hiểu tại sao đã có ngót 2 triệu cư dân ĐBSCL bỏ làng xóm ra đi. Cuộc tỵ nạn môi sinh ấy không có dấu hiệu suy giảm.

Và cũng đã hơn một lần, trong các bài viết, người viết đã nêu rõ quan điểm: “môi sinh và dân chủ phải là một bộ đôi không thể tách rời“.

NGÔ THẾ VINH

ĐBSCL 12.2017 California 04.2018

Tham Khảo:

1/ Luồng Quan Chánh Bố trước nguy cơ sạt lở. Việc nạo vét luồng Quan Chánh Bố được dự báo sẽ tiêu tốn chi phí lớn trong nhiều năm. Báo Đại Đoàn Kết 04.07.2017 http://daidoanket.vn/xa-hoi/luong-quan-chanh-bo-truoc-nguy-co-sat-lo-tintuc371653

2/ Để Không Phải Tiếp Tục Theo Lao. GS Nguyễn Ngọc Trân. Báo Đất Việt, Thứ Hai 10.04.2017 http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/gs-nguyen-ngoc-tran-de-khong-phai-tiep-tuc-theo-lao-3332924/

3/ Người dân Trà Vinh sống thấp thỏm cạnh luồng tàu biển. Diệp Phong-Phú Cường VTV9, 16.11.2017 http://vtv.vn/xa-hoi/nguoi-dan-tra-vinh-song-thap-thom-canh-luong-tau-bien-20171116100021216.htm

4/ Giới Trí Thức và Quan Chức bàn về Luồng Tàu Biển vào ĐBSCL. Kinh Tế Biển VN, 29.01.2012 http://kinhtebien.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=464:gii-tri-thc-va-quan-chc-ban-v-lung-tau-bin-vao-bscl-&catid=87:cng-min-nam&Itemid=2

5/ Cống Đập Chặn Mặn Gây Rối Loạn Hệ Sinh Thái và Những Cái Giá phải Trả. Ngô Thế Vinh. Viet Ecology Foundation. 12.2017 http://vietecology.org/Article/Article/289

6/ Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng. Ngô Thế Vinh, Nxb Văn Nghệ 2000. Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch. Ngô Thế Vinh, Nxb Văn Nghệ 2006.

VEF_CLCDBDDS 2011.pdf

Con đường sách Sài Gòn và câu chuyện đốt sách (Ngô Thế Vinh)

Tôi hân hạnh giới thiệu đến các bạn một bút kí của Nhà văn Ngô Thế Vinh nhân chuyến về thăm Việt Nam vào cuối tháng 12 và đầu năm 2018. Bài viết về con đường sách rất nổi tiếng ở Sài Gòn. Cũng như các bài viết khác của anh, bài này cũng kèm theo những hình ảnh sống động và những dữ liệu làm chúng ta (người đọc) suy nghĩ. NVT

Hình 1: Trên Đường Sách, cũng là đường mang tên Đức TGM Nguyễn Văn Bình (1910-1995), bên hông Bưu Điện, chạy dài từ Nhà Thờ Đức Bà tới đường Hai Bà Trưng, như một tụ điểm sinh hoạt văn hoá và du lịch, đang rộn rã không khí Giáng Sinh 2017 với ban nhạc Santa Claus có lẫn cả một ông Tây béo mập cao ngồng thổi kèn, vây quanh là tấp nập khách đi xem, chụp hình, ngồi tụ tập trong các quán cà phê sách, và một số thì tìm mua sách. Đường Sách Nguyễn Văn Bình ngày nay là hình ảnh một mini-đường sách Lê Lợi của hơn 40 năm trước. [Photo tư liệu Ngô Thế Vinh]

CON ĐƯỜNG SÁCH LỊCH SỬ

Khởi từ ý tưởng của báo Tuổi Trẻ, ngày 15.10.2015, Sở Thông Tin và Truyền Thông Thành phố đã khởi công xây dựng con Đường Sách trên đường Nguyễn Văn Bình [là tên Đức TGM Nguyễn Văn Bình] phường Bến Nghé, Quận I TP. HCM. Đây là một con đường nhỏ nằm bên hông Bưu điện Thành phố, nối liền Nhà Thờ Đức Bà và đường Hai Bà Trưng nhưng có ưu điểm là nằm ngay trong khu vực trung tâm Thành phố, đây không chỉ là một không gian sinh hoạt văn hoá mà còn là một tụ điểm du lịch, là nơi thường xuyên có nhiều du khách ghé qua.

Sau gần 3 tháng thi công ngày 09.01.2016, Đường Sách chính thức được khai trương. Chỉ với con đường nhỏ chiều dài 144 m, lòng đường 8 m, hai bên vỉa hè rộng 6 m, với thiết kế một bên là 20 gian hàng sách, một bên là café sách và khu triển lãm. Hai đầu Đường Sách là hai bức tượng điêu khắc Cô gái bên trang sách và Suy ngẫm – hai tác phẩm được tuyển chọn từ Trại điêu khắc quốc tế TP.HCM.

Ông Lê Hoàng khi còn làm Giám đốc Nxb Trẻ đã mơ ước có một không gian chỉ có sách và sách và ông là một trong những người đã đứng ra vận động cho việc hình thành con Đường Sách và sau đó trở thành giám đốc Công ty Đường Sách Thành phố. Đường Sách đã trở thành một không gian khá lý tưởng để các nhà xuất bản, nhà kinh doanh sách có cơ hội học hỏi chia sẻ những kinh nghiệm nghề nghiệp, và cả tiếp cận với giới bạn đọc. Đường Sách trở thành một không gian biểu tượng của văn hoá đọc, nơi gặp gỡ của những người yêu sách, cũng là điểm hẹn lý tưởng cho những người bạn trong và cả ngoài nước.

Hình 2a: từ hướng Nhà Thờ Đức Bà tới đường Hai Bà Trưng, bên trái là 20 gian hàng sách; phải, với bạn trẻ ngồi đọc sách ngoài trời. [photo by Ngô Thế Vinh]

Hình 2b: mấy tụ điểm để du khách chụp hình; trái, bức tượng đồng “hai bé ngồi chống lưng đọc sách”, phải, cô gái ngồi đàn guitare live trong một khu

đọc sách ngoài trời. [photo by Ngô Thế Vinh]

Hình 3a: bên phải Đường Sách là các cửa hàng café sách, các khu triển lãm; Phương Nam Book Café đẹp khang trang lúc nào cũng đông khách; phải, do thiếu diện tích mặt bằng, có thêm mấy Kiosk sách bên lề phải Đường Sách phía ngã ba Hai Bà Trưng – Nguyễn Văn Bình, anh chị Long đôi vợ chồng rất yêu sách, gốc người Sài Gòn cũ, chị gốc nhà giáo rồi làm công chức Nha Quân pháp trước 1975, nay sống bằng nghề buôn sách cũ. [photo by Ngô Thế Vinh]

Hình 3b: trái, thiếu diện tích mặt bằng, cả trên lòng đường cũng được tận dụng cho những Kiosk sách di động trên Đường Sách, với các bạn trẻ đứng ngồi tĩnh lặng say mê đọc sách, gợi lại hình ảnh thật đẹp của Sài Gòn trước 1975 với đường sách Lê Lợi, nhà sách Khai Trí thuở nào; phải: Quán Sách Mùa Thu với thêm dòng chữ “về lại chốn thư hiên”, nơi có thể tìm hoặc đặt mua những cuốn sách cũ “tàn dư văn hoá Mỹ Nguỵ” nay trở thành quý hiếm.

[photo by Ngô Thế Vinh]

Không biết tôi đã đứng trong Quán Sách Mùa Thu bao lâu, trong một không gian rất nhỏ, cô chủ quán sách thì tế nhị và lặng lẽ; tôi có cảm giác thời gian như dừng lại. Cầm trên tay những cuốn sách cũ, rất cũ xuất bản lần đầu tiên từ những thập niên 50s, 60s, 70s có những cuốn mà tác giả đã từng là bạn văn còn sống hay đã mất và cả ngạc nhiên nữa là sao những cuốn sách ấy lại có thể sống sót sau cuộc “phần thư”. Rồi tôi bị kéo về thực tại khi có tiếng nói của một thanh niên, có lẽ là sinh viên hỏi cô chủ quán về một đầu sách: Mùa Hè Đỏ Lửa của Phan Nhật Nam. Được biết, các quán sách tuy không có sách nhưng vẫn có thể nhờ kiếm hay đặt mua. Sách có thể gửi ra hải ngoại và trả bằng thể tín dụng. Sự kiện thế hệ sau chiến tranh, tìm đọc Ký của Phan Nhật Nam trên Đường Sách, chắc là điều mà bạn tôi cũng muốn được nghe.

Hình 3c: Gặp lại cả những cuốn sách của bạn tôi, GS Nguyễn Văn Tuấn, Viện Nghiên cứu Garvan Úc châu. Từ một thuyền nhân bị đầy ải cách đây hơn 36 năm, anh trở thành một giáo sư, một nhà khoa học và hàng năm anh vẫn trở quê hương giảng dậy tại các đại học từ Nam ra Bắc. [photo by Ngô Thế Vinh]

Từ ngày có con Đường Sách, không chỉ các tác giả trong nước có sách xuất bản đều mong muốn có dịp ra mắt sách tại nơi đây. Cả học giả nước ngoài cũng chọn Đường Sách là nơi giới thiệu sách của mình.

Như TS Môi Sinh Nguyễn Đức Hiệp cũng là nhà nghiên cứu đã từ Úc về Sài Gòn 22.07.2016, cùng một lúc ra mắt 3 cuốn sách nghiên cứu về Sài Gòn – Chợ Lớn. [Hình 4a]

Như nhà sử học TS Nguyễn Duy Chính từ Mỹ về cũng ra mắt ký tặng bộ sách đồ sộ 10 cuốn nghiên cứu về thời Tây Sơn và quan hệ với triều đại nhà Thanh. [Hình 4b]

Như nhà văn Nguyễn Thị Thuỵ Vũ nổi tiếng từ trước 1975 còn ở lại trong nước, sau ngót nửa thế kỷ sống ẩn dật ở một miền quê, thì nay đã có mặt trên Đường Sách 19.03.2017 để ra mắt một loạt 10 tác phẩm của bà mới được Nxb Phương Nam tái bản. [Hình 4c]

Đặc biệt hơn nữa, có cả các học giả người nước ngoài như GS Larry Berman cũng chọn Đường Sách để giới thiệu bản dịch cuốn The Perfect Spy / Điệp Viên Hoàn Hảo mà ông là tác giả. [Hình 4d]

Hình 4a: trái, TS Nguyễn Đức Hiệp chuyên gia môi sinh cũng là một nhà nghiên cứu từ Úc châu, ra mắt bộ sách 3 cuốn Sài Gòn – Chợ Lớn trên Đường Sách 22.07.2016; từ phải, TS Nguyễn Đức Hiệp, TS Nguyễn Thị Hậu, và ông Tim Doling; phải, TS Nguyễn Đức Hiệp ký sách cho một bạn đọc trên Đường Sách năm 2017. [nguồn: trái, ảnh L. Điền; phải: tư liệu Nguyễn Đức Hiệp]

Hình 4b: Nhà sử học TS Nguyễn Duy Chính [giữa] từ Mỹ về cũng ra mắt ký tặng bộ sách đồ sộ 10 cuốn nghiên cứu về thời Tây Sơn và quan hệ với triều đại nhà Thanh tại Quán sách Nxb Văn Hoá Văn Nghệ trên Đường Sách 05.11.2016. [nguồn: tư liệu Nguyễn Duy Chính]

Hình 4c: nhà văn Nguyễn Thị Thuỵ Vũ sau ngót nửa thế kỷ sống ẩn dật, nay ở tuổi 80 đã có mặt trên Đường Sách 19.03.2017 để ra mắt một loạt 10 tác phẩm của bà mới được Nxb Phương Nam tái bản. [nguồn: photo by L. Điền TTO]

Hình 4d: GS Larry Berman, từ Đại học UC Davis, ra mắt cuốn The Perfect Spy / Điệp Viên Hoàn Hảo mà ông là tác giả tại gian hàng First News trên Đường Sách, ngày 23.01.2016 [nguồn: ảnh BTC báo Thanh Niên]

Và Hội đồng Anh / British Council cũng đã chọn Đường Sách để tổ chức hoạt động tưởng niệm 400 năm (1616-2016) ngày văn hào William Shakespeare qua đời.

Hình 5: Tác phẩm điêu khắc Cô Gái Bên Trang Sách nơi cuối Đường Sách, tiếp giáp với đường Hai Bà Trưng. [photo by Ngô Thế Vinh]

THÁNH GANDHI KHÔNG NÓI THẾ

Kế ngay bên bức tượng Cô Gái Bên Trang Sách, là một tấm bảng hiệu cao hơn đầu người, với một câu trích dẫn mà tác giả được ghi là Mahatma Gandhi [sic]. Tôi rất quan tâm và cả thắc mắc về tên tuổi của Gandhi trên tấm bảng hiệu. Gandhi là một trong những thần tượng thời sinh viên tuổi trẻ của tôi, một con người suốt đời tranh đấu theo con đường bất bạo động, được tôn xưng như một vị thánh; vậy sao ông lại có thể liên hệ tới một ý tưởng rất bạo động là “đốt sách”. Tuy chưa biết tác giả của câu trích dẫn trên là ai, nhưng trực giác cho tôi biết chắc chắn không phải của Gandhi.

Vẫn bị ám ảnh về những vụ đốt sách sau 30.04.1975, không thể đợi tới ngày về Mỹ, tôi thấy cần truy nguyên ra ai là tác giả của câu nói ấy. Vì đang lưu lại trong một khách sạn ở Sài Gòn, không tiện cho một tìm kiếm rộng rãi trên mạng, và qua iPhone, tôi liên lạc ngay qua một eMail kèm theo hình chụp [Hình 6] gửi mấy người bạn trẻ ở hiện ở California như sau:

Vũ Nguyễn ơi

Confidential_ nhờ Vũ search, là có hay không

một original quote như trên của M.G. Thanks

All the best

aVinh

Hình 6: tấm bảng hiệu uy nghi cao hơn đầu người với hàng chữ: “Không Cần Phải Đốt Sách để phá huỷ một nền văn hoá, Chỉ Cần Buộc Người Ta Ngừng Đọc mà thôi.” [sic] Tác giả câu nói ấy được ghi là của Mahatma Gandhi. [photo by Hoàng Long]

Và tôi có ngay câu trả lời cùng một lúc trong cùng ngày tới từ hai người bạn trẻ Vũ Nguyễn và Ngọc Dung.

Vũ Nguyễn viết:

“Thưa anh Vinh, câu ấy vốn của nhà văn Ray Douglas Bradbury (22 August 1920 – 5 June 2012), nguyên văn thế này:

“The problem in our country isn’t with books being banned, but with people no longer reading. Look at the magazines, the newspapers around us – it’s all junk, all trash, tidbits of news. The average TV ad has 120 images a minute. Everything just falls off your mind… You don’t have to burn books to destroy a culture. Just get people to stop reading them.”

Ray Bradbury nói câu này khi trả lời phỏng vấn bởi Misha Berson, của tờ The Seattle Times (12 March 1993). Sau được các báo như Reader’s Digest trích dẫn lại. (The Reader’s Digest, Vol. 144, No. 861, January 1994, p. 25).

Một dị bản về sau của câu này là: ” We’re not teaching kids to read and write and think… There’s no reason to burn books if you don’t read them.” [Roger Moore, in The Peoria Journal Star, August 2000].

Cùng một lúc Ngọc Dung, cô bạn đồng trang lứa với Vũ Nguyễn có ngay một câu trả lời khẳng định: “câu này của Ray Bradbury anh Vinh ạ”.

Hình 7a: Câu trích dẫn của Ray Bradbury (DOB) “You don’t have to burn books to destroy a culture. Just get people to stop reading them.” bên cạnh là chân dung tác giả. [nguồn: internet, sưu tầm Ngọc Dung]

Hình 7b: Trên Amazon có bán poster với câu trích dẫn của Ray Bradbury “You Don’t Have to Burn Books to Destroy a Culture. Just get people to stop reading them.” với giá US$ 15.95 [nguồn: Amazon.com, sưu tầm Ngọc Dung]

NHỮNG NGƯỜI BẠN VÀ CÁC LỜI BÀN

Qua sự kiện này, anh Phạm Phú Minh Chủ Bút Diễn Đàn Thế Kỷ cũng là tác giả cuốn ký “Hà Nội Trong Mắt Tôi”, bày tỏ cảm tưởng: “Vậy là Ngọc Dung và Vũ Nguyễn đã giải được nghi vấn ai là tác giả câu nói được gán cho Gandhi tại giữa “Đường Sách” Sài Gòn.” Anh Minh tiếp: “Gọi là “Đường Sách” mà trương lên một câu “nói không có sách, mách không có chứng”, đó là một sự lạ của Việt Nam. Từ sáng tới giờ tôi cứ thắc mắc trong lòng, tại sao lại có hiện tượng này. Câu nói của Ray Bradbury thì cũng không phải là một danh ngôn lừng lẫy gì lắm và ra đời cũng chưa lâu, hẳn giới sách vở ở Việt Nam lấy làm thích ý tưởng đó nên đem dịch ra và trương lên. Dĩ nhiên họ biết tác giả câu nói đó là ai, vậy tại sao họ không ghi đúng tên tác giả là Ray Bradbury, mà lại bịa ra tên giả Mahatma Gandhi? Quả thật tôi nghĩ không ra. Mong các bạn góp ý kiến giải thích hiện tượng này.”

Tiếp theo thắc mắc của anh Phạm Phú Minh, nhà sử học TS Nguyễn Duy Chính, tác giả của bộ sách đồ sộ 10 cuốn về Vua Quang Trung và đời Nhà Thanh, anh cũng đã từng ngồi ký sách trên Đường Sách, [Hình 4b] anh có một phát biểu mà anh khiêm cung gọi đó là “ý mọn”:

” Theo tôi thì quan trọng không phải ai nói mà là với mục đích gì. Nếu tôi nhớ không lầm, trước đây đạo diễn Trần Văn Thuỷ khi làm cuốn phim “Chuyện Tử Tế” đã dẫn ở đầu cuốn phim một câu đại khái “Chỉ có thú vật mới quên đi nỗi đau của đồng loại mà quay lại lo riêng cho bộ da của mình” rồi gán cho tác giả là Karl Marx. Sau này ông ta có thú nhận Marx không nói câu đó nhưng câu nói đã trở thành một “điểm nhấn” của bộ phim. Thêm một dật sự khác là Tô Đông Pha khi làm văn đã viết một câu gán cho cổ thư khiến giám khảo không dám nhận là không biết mà sau hỏi lại: “Thầy lấy trong sách nào thế?” Có lẽ người dẫn câu này muốn ám chỉ một cái gì đó nên phải lấy tên Gandhi cho thiên hạ khỏi vặn vẹo vì trong nước rất dễ bị lôi thôi nếu có “ý đồ”. Chắc chắn là câu này sẽ được nhiều người nhớ đến hơn khi lấy tên Gandhi là tác giả.”

Với ý kiến của Anh Chính, cũng vẫn anh Phạm Phú Minh tiếp tục bày tỏ:

“Ý kiến của anh Chính rất thú vị. Nó lại cho ta hiểu thêm câu: Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Tên của một tác giả chỉ là một phương tiện, trong một hoàn cảnh nào đó thì người ta có thể thay đổi đi, để đạt được điều mà người ta muốn. Nhưng “hoàn cảnh nào đó” là hoàn cảnh nào? Bởi vì một xã hội gọi là bình thường và lành mạnh thì không thể lúc nào cũng lấy hoàn cảnh ra mà biện minh cho hành vi sai trái của mình được. Ví dụ Việt Nam bây giờ đã thoáng hơn và người dân hiểu biết hơn rất nhiều so với thời Trần Văn Thủy làm phim Chuyện Tử Tế, làm sao người ta đủ can đảm lấy tên ông Gandhi để thay cho Ray Bradbury? Nhất là trong một biểu ngữ dựng công khai giữa nơi Đường Sách, khiến ông bạn Ngô Thế Vinh của chúng ta đâm ra nghi ngờ! Sự dễ dãi, sự “tự cho phép” thiết nghĩ cũng phải có giới hạn thôi chứ? Làm quá thì hóa ra coi thường sự hiểu biết của xã hội. Thông tin về câu “Chỉ có thú vật…” cũng rất thú vị, bởi vì chính tôi lâu nay cũng tưởng là câu của Karl Marx. Bây giờ thì không chắc điều đó đúng hay sai, nếu sai thì là do dây chuyền, mà người đầu tiên làm cho sai chưa chắc là Trần Văn Thủy. Tôi đồng ý với anh Chính những người trưng câu này của Ray Bradbury chắc là khoái chí với hai chữ ĐỐT SÁCH, nên phải mượn tên Gandhi để che chắn thôi. Để tên tác giả là một người Mỹ thì dễ bị lên án hơn là một ông Ấn Độ!”

Và cuối cùng là phát biểu của Vũ Nguyễn, người bạn trẻ tìm ra ngay câu trả lời ai là tác giả câu trích dẫn:

“Vũ trước nay vẫn đinh ninh câu “Chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi đau đồng loại mà chăm chút bộ lông của mình” là của Karl Marx trong Tư Bản Luận mà không buồn truy nguyên. Nay anh Chính nói mới biết là không phải. Giờ thì ngờ rằng câu đó do chính Trần Văn Thuỷ bịa ra, như Tô Đông Pha bịa câu “cổ văn” mà qua mặt giám quan tam lão. Trước khi có phim “Chuyện Tử Tế” có lẽ ở Việt Nam chẳng ai biết câu này. Lần đầu tiên đọc câu quotation này ở đoạn mở đầu phim, đa số khán giả của bộ phim đều cho rằng tác giả hẳn là một tay triết gia uỷ mị nào đó của bọn tư bản giãy chết. Cho đến phút cuối cuốn phim, khi đạo diễn đọc câu thuyết minh “May quá. Câu ấy là của Karl Marx” cả rạp mới ồ lên … “À ra vậy. Bác Các/ Karl, bác Lê/ Lenin bao giờ cũng chí phải!” Điều đó cho thấy câu “danh ngôn” này chưa tồn tại ở Việt Nam trước khi có phim “Chuyện Tử Tế” của Trần Văn Thuỷ ra đời.

CỦA CAESAR TRẢ VỀ CHO CAESAR

Trở lại với câu trích dẫn nơi [Hình 6]:

“Không Cần Phải Đốt Sách để phá huỷ một nền văn hoá, Chỉ Cần Buộc Người Ta Ngừng Đọc mà thôi.”

“You don’t have to burn books to destroy a culture. Just get people to stop reading them.”

Ray Bradbury phát biểu câu trên cách đây mới có 24 năm khi trả lời phỏng vấn của Misha Berson, của tờ The Seattle Times (12 March 1993); trong khi Mahatma Gandhi thì đã chết cách đây 69 năm rồi [30 tháng 01 năm 1948]. Vậy hãy trả cho Ray Bradbury câu nói của Ray Bradbury và cũng đừng cưỡng gán cho thánh Gandhi đã trở về tro bụi trước đó từ lâu [ông đã được hoả thiêu theo nghi thức Hindu] nay bị cho là tác giả của một câu nói mà ông không hề hay biết.

Sau chuyến đi khảo sát môi sinh ĐBSCL, trở lại Sài Gòn, tôi không có một lịch sinh hoạt gặp gỡ nào trước khi trở về Mỹ. Với tôi, Đường Sách là một khoảng xanh tĩnh lặng, một gạch nối giữa quá khứ và hiện tại mà đã hơn một lần muốn trở lại và cả rất yêu mến. Nhưng cũng mong sao, mọi người cố giữ cho nơi đây vẫn là một khoảng không gian xanh tinh khiết, không có những cơn gió độc mang tới những hạt giống xấu, để mãi mãi nơi đây là thửa vườn gieo trồng những hạt giống tốt của tâm hồn.

NGÔ THẾ VINH

Saigon 12.2017 California 02.2018