“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Hầu như bất cứ ai trong chúng ta đều nghe qua câu thơ bất hủ đó của Nguyễn Du. Nhưng câu thơ đó còn hàm ý một thông điệp rất quan trọng trong cuộc sống: đừng phán xét. Khi bạn phán xét người khác, thì hành vi đó phản ảnh cái tâm của bạn hơn là người khác (“Judging others says more about you than the other person).

‘Nhất thiết duy tâm tạo’

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ“. Đó là hai câu thơ trác tuyệt của Nguyễn Du tả nỗi buồn của Kiều lúc bị mụ Tú Bà giam cầm ở lầu Ngưng Bích. Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra cảnh xa xa rất đẹp, nào là Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân‘, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia‘, thế nhưng nàng Kiều vẫn buồn. Buồn vì lúc đó nàng cô đơn và ở một nơi rất xa lạ. Trong lòng buồn bã như thế thì cảnh chung quanh không còn đẹp hay vui nữa.

Tâm ảnh hưởng đến cái nhìn của chúng ta, và điều này rất đúng. Khi tâm chúng ta phơi phới thì nhìn đâu cũng thấy vui vẻ, nhìn sự việc gì dù bi đát ra sao chúng ta cũng thấy lạc quan. Nhưng khi tâm chúng ta đen tối hay khi năng lượng thấp thì rất khó thấy cái hay, cái đẹp của người khác, và nhìn đâu cũng toàn là một màu xám xịt. Đúng như câu “Nhất thiết duy tâm tạo“, có nghĩa là mọi sự việc, mọi thiện ác và lành dữ đều do tâm mà ra.

Người phương Tây có câu We don’t see things as they are, we see them as we are“. Câu này cũng có nghĩa giống giống với (nhưng kém thâm thuý bằng) câu “Nhất thiết duy tâm tạo“, có nghĩa là chúng ta không nhìn sự vật như chúng đang là, mà chúng ta nhìn sự vật như chúng ta đang là. Nói cụ thể hơn, cách chúng ta nhìn sự vật phản ảnh cái tâm của chúng ta, hay nói lên chúng ta là ai.

Nếu chúng ta nhiền vấn đề là một gánh nặng thì cũng có nghĩa là chúng ta là người tiêu cực, nhưng nếu chúng ta nhìn vấn đề như là một cách để cải thiện cá nhân thì chúng ta là người tích cực. Điều này cũng có nghĩa là những khó khăn đến với chúng ta không phải là từ ngoại cảnh, mà từ chính chúng ta.

Tâm nghi ngờ

Người với cái tâm tiêu cực thường không tin tưởng ai. Họ có thói quen hay nghi ngờ người khác. Tôi có quen một người như thế, hầu như bất cứ ai — kể cả thân phụ anh ta và khôi nguyên giải Nobel — anh ấy đều đánh giá thấp! Khi đồng nghiệp được một phần thưởng, anh ấy quay sang nói về những lần thất bại của đồng nghiệp.

Hiểu về trái tim : nghệ thuật sống hạnh phúc by Minh Niệm

Trong cuốn “Hiểu về trái tim“, phần viết về “Nghi ngờ“, tác giả Minh Niệm lí giải rất thuyết phục (trang 155):

Dường như ta đang cố gắng phanh phui những điểm yếu hay những vụng về lầm lỡ của người kia để ta tránh xa hoặc cổ vũ người khác tẩy chay họ, chứ không phải để hiểu và thương họ hơn.

Phần lớn, những nghi ngờ của ta đều nhắm vào mục đích thỏa mãn bản ngã, dù có khi ta nhân danh tập thể hay cộng đồng nào đó. Vậy có khi nào nhân danh đạo đức, hay tình nhân ái mà ta chú ý đến những cái hay cái đẹp để ca ngợi, còn những biểu hiện khả nghi kia ta vẫn im lặng quan sát và tìm cách giúp đỡ không?

Tại sao ta không giữ thái độ tôn trọng người ấy dù ta đang có nghi ngờ về họ? Tại sao ta không tự hỏi do người ấy rất đáng để ta nghi ngờ hay tại ta mắc bệnh nghi ngờ quá nặng? Tại sao ta không dám đứng ra xin lỗi khi phát hiện ra mình đã nghi oan? Cho nên nghi ngờ thường chỉ làm cho ta yếu đuối và hèn nhát hơn mà thôi.

Ta không hề biết rằng mỗi khi phát sinh ý niệm nghi ngờ kẻ khác, dù họ có xấu hay không, thì trong tâm ta đã taọ ra một nguồn năng lượng rất độc hại. Nó vừa đốt sạch năng lượng trong lành trong ta, vừa khiến ta đánh mất cơ hội tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm.

Bởi vì lúc nào ta cũng bận tâm tìm kiếm thêm chứng cớ. Dù ta chưa thốt ra lời nói hay hành động nào để thể hiện sự nghi ngờ, nhưng một khi đã hướng tâm đến người kia để gởi sự nghi ngờ tức là ta đã gởi đi một năng lượng xấu.

Theo ‘qui luật cân bằng cảm xúc’ thì họ sẽ tìm cách trả lại ta một cảm xúc xấu khác tương ứng, nếu họ nhận ra sự nghi ngờ của chúng ta có tính chất xấu. Còn không, vũ trụ sẽ nhờ đối tượng khác trả lại ta một cảm xúc xấu khác.

Tệ hại nhứt là ta đã lỡ nghi oan cho một bậc nhân từ, đức hạnh — nơi qui tụ vô số năng lượng an lành của vũ trụ — thì hậu quả sẽ khôn lường. Đó là món nợ cảm xúc khổng lồ, ta và con cháu ta nhiều đời mới trả hết. Cho nên, đừng bao giờ dễ dãi buông ra sự nghi ngờ. Hãy tập ‘tự hối tâm’ hoặc bày tỏ sự ăn năn trực tiếp khi phát hiện ra mình đã lỡ nghi oan cho ai đó để hoá giải phần nào hậu quả.

Phán xét và câu chuyện nồi cơm Nhan Hồi

Chuyện kể rằng Nhan Hồi (một đồ đệ của Khổng Tử) nấu cơm,  và Khổng Tử thấy Nhan Hồi mở nắp nồi rồi lấy đũa bới cơm và đưa vào miệng ăn. Thấy vậy, Khổng Tử thất vọng trước người đệ tử xuất sắc và than rằng “Chao ôi! Trò yêu của ta lẽ nào lại ăn vụng thầy, vụng bạn thế sao? Còn đâu lễ nghĩa, đạo lí? Bao kỳ vọng đặt vào nó thế là đổ sông, đổ biển cả rồi!” Sau đó, để thử lòng Nhan Hồi, Khổng Tử đề nghị xới một chén cơm để cúng cha mẹ ông. Các đệ tử đều ok, ngoại trừ Nhan Hồi im lặng. Khi được hỏi tại sao, Nhan Hồi thưa rằng:

Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạchkhi cơm chín con mở nắp nồi ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó con liền xới lớp cơm bẩn ra, định vứt đi … nhưng lại nghĩ: cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô hình trung làm mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và tất cả anh em … Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi … bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau. Và … thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ!

Nghe giải thích xong, Khổng Tử mới than rằng “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật! Suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ!”

Nồi cơm của Khổng Tử
Nồi cơm của Nhan Hồi

Câu chuyện này rất nổi tiếng và được kể đi kể lại trong sách vở Phật giáo và tâm lí xã hội học. Bài học là ngay cả chính mắt mình thấy hay chính tai minh nghe mà vẫn có thể hiểu lầm, bởi sự việc ‘thấy vậy mà không phải vậy.’ Do đó, nếu chỉ nhìn sự việc bằng mắt hay nghe bằng tai mà không tìm hiểu thấu đáo và đặt trong bối cảnh thì con người chúng ta — cho dù là kẻ thông thái như Khổng Tử — vẫn mắc phải sai lầm. Bài học là đừng vội đưa ra phán xét dựa vào một vài dữ kiện có sẵn.

Người theo Phật thường được khuyên là hãy sử dụng chánh niệm và lòng từ bi của chúng ta để nhìn sự việc hay con người. Có nghĩa là hãy nhìn sự việc như nó đang hiện hữu hơn là đưa ra những lời phán xét.

“Tâm ý đã mệt nhoài

Thương ghét mãi chưa nguôi

Dừng nói năng phân biệt

Ta tìm về ta thôi”

(Minh Niệm)

_____

TB: Bài này tôi viết là để những ai đang chỉ trích Thầy Nhất Hạnh (và cả Thiền Am) nên nhìn lại mình. Hãy thay đổi mình trước rồi mới thay đổi hay phán xét người ta. Họ chỉ trích người khác nhưng cách họ chỉ trích nói cho chúng ta biết về họ hơn là nạn nhân của họ.

Có khá nhiều bạn [có thể nói là] hùa theo vài người khác cho rằng Thầy Nhất Hạnh phát biểu rằng “lính Mĩ dội bom giết chết 300,000 người ở Thị xã Bến Tre”. Thật ra, ông không nói như vậy; ông nói rằng (nguyên văn):

“…One time I learned that the city of Ben Tre, A CITY OF THREE HUNDRED THOUSAND PEOPLE, was bombarded by American aviation just because some guerillas came to the city and tried to shoot down American aircrafts.” (Tạm dịch: Có lần tôi được biết rằng ở Thị xã Bến Tre, một thị xã 300,000 dân, bị không quân Mĩ dội bom chỉ vì có vài du kích xâm nhập vào thị xã tìm cách bắn máy bay Mĩ).

Như các bạn thấy, Thầy Nhất Hạnh không nói là lính Mĩ giết 300 ngàn dân Bến Tre. Tuy nhiên, ông sai ở con số, vì Bến Tre lúc đó là thị xã chỉ chừng 70-80 ngàn dân. Nhưng cái sai sót đó có quan trọng không? Theo tôi là không, vì con số đó không phải là chứng cớ cho cái thông điệp ông muốn nói (là dội bom cả thị xã chỉ vì có vài du kích xâm nhập).

Thói chê bai (phán xét) người khác

Nghĩ về cuộc đời của Chí Tài tôi thấy anh ấy có một cái tánh rất đáng học: không phán xét ai. Trên sân khấu, anh đóng những vai có tính phán xét, nhưng ngoài đời thì tất cả những ai quen anh đều nói anh rất hoà nhã, dễ mến, không chê bai ai. Càng đọc, học và suy nghĩ về vấn đề này (phán xét) tôi thấy có nhiều cái hay và xin chia sẻ cùng các bạn vài điều tôi hiểu được.

Phân biệt phán xét (judgment) và đánh giá (assessment)

Đọc bất cứ cuốn sách nào về tâm lí học và Phật giáo, các bạn sẽ thấy người ta xem phán xét là một hành vi xấu. Thoạt đầu, tôi rất ngạc nhiên và hoang mang, bởi vì công việc của tôi rất thường xuyên đòi hỏi phải đánh giá. Đánh giá công trình nghiên cứu của đồng nghiệp cho các tập san khoa học, đánh giá đề cương nghiên cứu cho các hội đồng cấp tài trợ nghiên cứu, đánh giá đồng nghiệp cho các chương trình fellowship, v.v. Không làm không được, vì đó là một phần của công việc. Chẳng hạn như sáng nay tôi phải đánh giá một đề cương nghiên cứu bên Tiệp Khắc, và tôi nghĩ chắc người ta sẽ không tài trợ. Vậy hoá ra tôi đã phạm phải sai lầm trong đời?

Nhưng không phải như vậy. Chúng ta cần phải phân biệt giữa assessment (đánh giá) và judgment (phán xét). Đánh giá là một phát biểu mang tính mô tả về sự kiện hay sự vật trong tâm thế trung dung và khách quan; còn phán xét là một phát biểu về ý kiến cá nhân và trong tâm thế chủ quan. Đánh giá có thể xem là một cách tiếp cận khoa học, còn phán xét là dựa trên cảm tính và tự thị.

Ví dụ cụ thể để dễ hiểu: như nếu ông Smith nói “Dr. Nguyen có thời gian lái xe đò ở Việt Nam và nay là chuyên gia của NASA” thì đó là một đánh giá. Nhưng nếu ông ấy nói “Thằng đó là một kẻ dốt và bất tài“, thì đó là một phán xét.

Như thấy trên, đánh giá chỉ đơn thuần mô tả những gì chúng ta thấy, nghe, và cảm được, với giả định rằng những gì anh làm tôi không thể theo đuổi được. Đánh giá mang tính quan sát và khám phá. Phán xét dựa trên giả định rằng “ta đúng, người sai”. Mỗi một phát biểu về phán xét / chê bai người phát biểu giả định rằng mình biết một chút gì đó về đối tượng. Nhưng dĩ nhiên người phát biểu không thể nào biết hết về đối tượng. Khi đưa ra lời phán xét, người phát biểu đặt mình ở vị trí cao hơn, và do đó là một thái độ trịch thượng. Phán xét không có sự thông cảm, mà chỉ là một sự chỉ trích và chê bai. Người phán xét tự cho rằng mình có tài, còn đối tượng là bất tài, hay nói chung là “mình đúng và đối tượng sai”.

Tóm lại, đánh giá có hàm ý tích cực, còn phán xét có hàm ý tiêu cực. Do đó, trong các hội đồng khoa học ở Úc người ta dùng chữ ‘Assessor’ (người đánh giá), chớ không phải ‘judgment’. Thành ra, chữ “judgment” trong văn cảnh của bài này phải dịch là ‘chê bai’.

Thói chê bai

Ở Viện tôi làm việc có một vị tôi vừa ngạc nhiên vừa nể phục trong lòng. Nhìn bề ngoài ông là một ‘ông cụ’ như mọi ông cụ khác ngoài đường, tức là đầu tóc và trang phục y như người thuộc giai cấp lao động (tiếng Úc gọi là ‘struggle people’). Sáng nào ông cũng đi bộ từ ga xe lửa đến nơi làm việc, và trên tay dường như lúc nào cũng có một trái chuối hay một trái táo, nhưng không có cặp táp cũng chẳng có gì giống như ông đi làm việc. Ông đi chậm chạp (có lẽ vì cao tuổi) và ít khi nào nói chuyện với ai. Nhưng khi tôi tìm hiểu thì mới biết ông là một trong những ‘đại thụ’ của ngành miễn dịch học, một nhà khoa học lừng danh trên thế giới, có nhiều đóng góp mang tên ông, đào tạo ra nhiều học trò cũng lừng danh. Ông được trao nhiều giải thưởng và là fellow của Viện hàn lâm. Năm nào cũng được các hiệp hội miễn dịch học mời đi nói chuyện, dù ông đã nghỉ hưu lâu rồi.

Ấy vậy mà trong các buổi họp, ông là người ít có ý kiến nhứt, thật ra đa phần là không có ý kiến. Có lần tôi ngồi kế ông trong buổi seminar về chủ đề của ông, nhưng thấy ông không có bình luận, tôi mới hỏi ‘sao thầy không có ý kiến gì trong khi mọi người rất ồn ào’. Ông vỗ vai tôi rồi nói ‘Oh young man! I am an old man who has learned not to judge people.’ (tạm dịch: Ôi, anh bạn trẻ! Tôi là một ông già đã ngộ ra rằng không phán xét người khác). Khi ra ngoài cầu thang, ông nói thêm “Nếu không có gì tích cực để nói, thì tốt nhứt là im lặng”. Câu nói đó làm tôi suy nghĩ hoài.

Ngoài đời, có những người có thói quen phán xét người khác. Tôi từng gặp vài người Việt hầu như không biết khen ai; họ chỉ chê bai, chỉ trích, phê phán một cách [nói theo tiếng Anh là] ‘summary’ (tức là chưa gặp, chưa nói chuyện và không biết gì người đó mà cũng chê bai)! Và, họ có vẻ rất tự hào về thói quen chê bai đó. Chẳng hạn như ông Trump, rất nhiều người chỉ căn cứ vào những tờ như New York Times, CNN hay cuốn sách của cháu ông mà phán xét ông ấy một cách rất summary: bất tài, lừa dối dư luận, sống vô luân, thậm chí … sát nhân.

Diễn viên Kelsey Grammer từng nói một câu rất hay đại ý rằng “Chê bai mà không biết gì về nguời mình chê bai là một cái tội lớn nhứt” (the greatest sin is judgment without knowledge).

Tôi rất ngạc nhiên với hành vi của những người như thế, và tìm sách đọc. Đọc sách tâm lí mới biết hoá ra đây là vấn đề được giới tâm lí học và tôn giáo (đặc biệt là Phật giáo) rất quan tâm, và họ tiêu ra rất nhiều thì giờ để bàn luận và nghiên cứu. Theo giới nghiên cứu, người ta có thói quen chê bai là vì 4 lí do: thiếu an toàn, sợ hãi, cô đơn, và muốn đổi thay:

Thứ nhứt, chúng ta cảm thấy không an toàn, thiếu tự tin. Đây chính là lí do chánh dẫn đến hành vi phán xét người khác. Khi chúng ta cảm thấy không tự tin hay không hài lòng với chính mình, chúng ta thường có thói quen đặt gánh nặng lên người khác. Thấy người khác làm được việc, còn mình thì không, và điều này dễ dẫn đến chê bai người khác là kém cỏi. Chúng ta cảm thấy hài lòng khi làm cho người khác xấu xa, kém cỏi.

Thứ hai, chúng ta sợ hãi. Thường, chúng ta sợ bị người khác bắt nạt hay đe doạ, nên chúng ta phải ra tay trước. Nhân viên hay tụ tập nhau để nói xấu sếp. Khi một người phụ nữ thấy người phụ nữ kia xinh đẹp và duyên dáng hơn, thì thường người xinh đẹp hơn sẽ bị nói xấu.

Thứ ba, chúng ta cô đơn. Khi chúng ta cô đơn hay bị cô lập, chúng ta hay dùng phán xét người khác để tìm cách kết bè bạn với những người hay phán xét. Nhưng đó là kiểu kết bạn tiêu cực (tức cả đám chỉ tụ tập nói xấu và chỉ trích mà không làm gì tích cực).

Thứ tư, chúng ta muốn thay đổi. Khi chúng ta ta chán với cuộc sống hiện tại và muốn có thay đổi. Trong tình huống đó, chúng ta hay phán xét cuộc sống của người khác. Chẳng hạn như nếu một đồng nghiệp được đề bạt, thì xác suất cao là sẽ có người thầm thì ‘tay đó có biết gì mà cũng được đề bạt.’ Chúng ta đang ganh tị.

Thói quen chê bai có một tác động xấu là tích luỹ tạo ra một thế giới tiêu cực. Trong xã hội, có những người hình như không khen ai, mà chỉ biết chê bai. Đối với họ ai cũng xấu, ai cũng dở, ai cũng có vấn đề. Dường như họ chỉ sống nhờ chỉ trích người khác mà không nhìn lại mình. Họ là những người tích cực tạo ra một thế giới xấu, hay ít ra trong cái nhìn của họ, thế giới này chỉ toàn những người xấu. Có lẽ thế giới facebook là một thế giới tiêu cực nhiều hơn tích cực, đặc biệt là trong cộng đồng người Việt, vì ‘văn hoá’ chê bai và chỉ trích quá nặng nề.

Sống tích cực: không chê bai!

Trong thực tế, tất cả sự việc, dù lớn hay nhỏ, đều mời gọi phán xét và đánh giá của chúng ta. Chuyện thời tiết, chuyện chánh trị, chuyện món ăn, một chương trình tivi — ở mỗi thời điểm trong ngày — đều có cái gì đó mời gọi bạn phán xét hay đánh giá. Và, thường thì chúng ta sẵn lòng đưa ra lời phán xét mà không nhận ra hậu quả của phán xét, không nhận thức hay quan tâm đến trách nhiệm của mình.

Phán xét hay chê bai người khác là một hành động tự phụ lớn lao. Có thể là tự phụ trong sự bực tức, nhưng cũng có thể là loại tự phụ không tưởng. Khi chúng ta đưa ra một lời phán xét hay chê bai người khác, chúng ta mang trên người một gánh nặng trách nhiệm để phán xét đúng. Nhưng như nói trên, phán xét nào cũng sai, bởi vì chúng ta không biết về đối tượng, chúng ta dựa giả định sai và và chúng ta chủ quan.

Thành ra, không ngạc nhiên khi các chuyên gia tâm lí và nhà đạo đức học khuyên chúng ta không nên phán xét / chê bai người khác. Họ khuyên sống tích cực. Sống tích cực ở đây có nghĩa là tìm cái hay của người khác. Mỗi chúng ta đều có những nét hay và điều tốt. Nhưng phán xét thì thường chỉ muốn và nhìn vào cái điểm xấu của người khác. Cho dù tâm trí chúng ta mặc định tìm cái xấu, chúng ta vẫn có thể thay đổi cái mặc định đó để tìm điều tích cực của người khác. Nếu không tìm thấy cái hay của người khác thì tốt nhứt là im lặng (như ông cụ tôi đề cập trên).

Một cách khác sống tích cực là tập trung vào cuộc sống của chúng ta. Đừng quá bận tâm với suy nghĩ và việc làm của người khác. Hãy suy nghĩ về cuộc sống của chính chúng ta và hỏi chúng ta muốn hoàn thành điều gì trong đời và hãy theo đuổi mục tiêu đó. Hãy suy nghĩ tích cực. Hãy tự theo dõi suy nghĩ của chúng ta. Thay vì chê bai người khác, chúng ta nên chú ý đến tư tưởng và hành trình suy nghĩ của chính mình, và cố gắng chuyển sang chiều hướng tích cực hơn là tiêu cực.

Thay vì phán xét, chúng ta nên học cách đánh giá. Ngôn ngữ và cách nói trong đánh giá có khi đóng vai trò quan trọng. Tôi mới đọc bài trên Nature [1] có tựa đề “If you can’t be kind in peer review, be neutral” (Nếu bạn không có lòng tử tế trong bình duyệt thì ít ra cũng nên trung dung). Bài viết có một ví dụ như sau: thay vì phê bình người ta là

This project proposal didn’t bother to fulfil the requirements stated in the call.” (Đề cương này không thèm đáp ứng yêu cầu mô tả trong thông cáo).

thì nên viết cho trung dung (assessment) hơn:

This project proposal didn’t fulfil the requirements stated in the call.” (Đề cương này không đáp ứng yêu cầu trong thông báo).

Đọc được câu này tôi thấy hay quá, và hiểu tại sao trước đây thầy tôi hay chỉ cách viết tích cực này. Chúng ta có thể biến mỗi tình huống thành một trải nghiệm tích cực. Khi chúng ta thực hành sống tử tế (kindness toward life), chúng ta sẽ thấy thế giới rất khác.

• Thay vì nói “tôi đã phí thời giờ“, thì nên nói “tôi cám ơn cho thời gian mà tôi có được

• Thay vì nói “tôi đã thất bại“, nên nói “tôi sẽ tìm hiểu tại sao có vấn đề

• Thay vì nói “đó là việc không hoàn hảo“, nên nói “tôi có thể làm tốt hơn lần sau

• Thay vì nói “tôi đã trải qua một thời kì khó khăn“, nên nói “ngày mai sẽ tốt hơn

• Thay vì nói “ông ấy là người keo kiệt“, nên nói “ông ấy cần tình thương“.

Phán xét người khác là một hành động tự phụ. Đó là một sự tìm tòi trong kho tàng kiến thức cá nhân, rồi xâu chuỗi lại vài dữ kiện để đi đến một câu trả lời cho một vấn đề hay một tình huống. Thường thì câu trả lời sai, vì chúng ta không bao giờ biết hết hay hiểu hết người mình phán xét. Từ cái sai đó, người phán xét có thể làm tổn thương đến người khác [2]. Nếu chúng ta chê bai người khác và nếu người đó không biết thì có lẽ chẳng có gì xảy ra? Không hẳn vậy đâu. Sự việc lúc nào cũng quay tròn và phán xét của chúng ta sẽ gây tổn hại đến họ một cách bất ngờ. Hãy suy nghĩ cẩn thận và hỏi: chúng ta có muốn bị chê bai như chúng ta chê bai người khác.

Tôi chắc chắn rằng trong quá khứ tôi đã lẫn lộn giữa đánh giá và phán xét, bởi vì lằn ranh giữa 2 hành vi này quá gần nhau, và bởi vì tôi kém hiểu biết. Nhưng từ ngày nghe vị tiền bối ở Garvan nói câu “Nếu không có gì tốt để nói thì nên im lặng” và từ ngày biết được phán xét khác với đánh giá thế nào, thì tôi tránh phán xét tối đa. Không dễ đâu, nhưng cố gắng dùng ngôn ngữ và cách viết/nói cũng có thể gieo mầm mống tích cực cho đời.

Có lẽ chúng ta đặt lòng trắc ẩn đầu tiên, tình thương mãi mãi, và không bao giờ chê bai.

Carl Jung từng nói rằng “Mọi thứ làm cho chúng ta tức tối về người khác có thể giúp chúng ta hiểu chính mình hơn” (“Everything that irritates us about others can lead us to an understanding of ourselves.”) Nghĩ về câu này tôi thấy có thể hiểu là khi chúng ta phán xét ai đó, nó ảnh hưởng đến chúng ta nhiều hơn là ảnh hưởng người đó. Nó cũng nói về chúng ta nhiều hơn là nói về người đó. Chúng ta chuyển đi một cảm nhận của chúng ta về thế giới, và do đó, nó nói lên cái thiên vị trong đầu óc mình. Thay vì phán xét, chúng ta nên quan sát và tò mò, tìm thêm thông tin và mở rộng cái khoảng cách giữa quan sát và kết luận.

____

[1] https://www.nature.com/articles/d41586-020-03394-y

[2] Mới đây, trong chuyên ngành xương chúng tôi có một sự việc gây ồn ào vì liên quan đến một nhà khoa học nổi tiếng. Ông là người thuộc vào nhóm ‘elite’ trong y khoa, có những khám phá cơ bản và quan trọng, toàn công bố trên những tập san hàng đầu (như Nature, Science, Cell, và mới đây là eLife). Nhưng chỉ có một vấn đề là nhiều kết quả nghiên cứu của ông rất khó lặp lại. Thật ra, hầu hết những khám phá nổi tiếng của nhóm ông đều không được tái lập (reproducible). Mới đây, ông được mời viết một bài tổng quan, và dĩ nhiên là ông nói về nghiên cứu của ông nhiều, rồi đề ra một lí thuyết về sự tương tác giữa năng lượng và quá trình chuyển hoá xương. Một đồng nghiệp khác trẻ hơn nhưng cũng nổi tiếng viết một bài tổng quan dài gấp 2 lần bài của ông kia, và phê bình lí thuyết năng lượng kia khá nặng nề, kể cả vấn đề tái lập. Thế là hai bên cãi qua cãi lại (chỉ qua phone), nhưng đùng một cái ông cụ kia đệ đơn kiện đồng nghiệp trẻ. Tôi không biết kiện về gì (và cũng không có ý tìm hiểu), mà chỉ nghe bạn bè bàn tán với nhau và lấy sự việc làm bài học ở đời: nên tử tế với nhau và bớt phán xét.