Bàn về chữ "Elite"

Một trong những chữ thú vị nhất trong tiếng Anh là chữ “elite”, vì ý nghĩa của nó không chỉ đa dạng mà còn mang tính thời sự không chỉ ở nước ngoài mà còn ở Việt Nam. Ở Việt Nam, có người dùng khái niệm elite (tinh hoa) để biện minh cho nhu cầu xây nhà hát ở Thủ Thiêm, và chủ trương này bị phản đối kịch liệt. Hiểu được ý nghĩa mới của chữ elite sẽ hiểu tại sao người ta khinh bỉ những kẻ tự nhận là elite.

Cũng như nhiều chữ khác mang tính văn hóa trong tiếng Anh, chữ elite có nguồn gốc từ tiếng Pháp. Tiếng Pháp có chữ “élite“, và chữ này trong thực tế xuất phát từ tiếng Pháp cổ “eslite” (thế kỉ 12). Và, eslite thì lại có xuất xứ từ tiếng Latin “eligere“, có nghĩa là chọn lọc. Trước đây, elite trong tiếng Anh chỉ là danh từ, nhưng đến giữa thế kỉ 19 thì nó lại được sử dụng như là một tính từ. Trong tiếng Anh, chữ elite chỉ xuất hiện trên giấy in từ năm 1920. Như vậy, dù chữ này (elite) tương đối cổ, nhưng trên giấy tờ thì nó chỉ mới xuất hiện gần 100 năm thôi.

Chữ elite được dịch sang tiếng Việt là ‘tinh hoa’, ‘tinh túy’, ‘tinh tú’, ‘cao cấp’. Và, cách dùng trong báo chí phổ thông có thể hiểu là chỉ những người thuộc tầng lớp có học thức cao hoặc có địa vị cao trong xã hội (như địa vị chính trị, địa vị kinh tế, địa vị nghệ thuật). Khi những người cầm quyền Sài Gòn muốn xây nhà hát giao hưởng ở Thủ Thiêm, một trong những người ủng hộ là chồng một cô ca sĩ, và người này cũng dùng khái niệm ‘tinh hoa’ để biện minh: “Nếu Việt Nam không có tầng lớp tinh hoa, quý tộc có hiểu biết và nếp sống văn minh như người dân các nước phát triển, thì ai sẽ là người dẫn dắt dân tộc Việt trở thành quốc gia giàu có, văn minh, sánh vai với các nước khác trong khu vực và trên thế giới?” Tóm lại, elite trong tiếng Việt được hiểu là tinh hoa, và thành phần elite là những người đi tiên phong ‘dẫn dắt dân tộc’, tức là một thành phần thượng tầng xã hội đáng quí và đáng kính.

Nhưng trong thực tế chữ elite hiểu theo nghĩa trên có lẽ hơi phiến diện. Ở đây, tôi không bàn Việt Nam có hay không có giai tầng tinh hoa và quí tộc, mà chỉ bàn về ý nghĩa của chữ elite trong tiếng Anh. Chữ elite không hẳn có nghĩa ‘tốt’ như trên, mà trong thực tế nó còn là một cách chửi, một cách mỉa mai.

Elite: tố chất và quyền lực

Cách tốt nhất để hiểu một chữ trong tiếng Anh là tham khảo những từ điển chuẩn như Oxford. Từ điển Oxford định nghĩa elite là “the choice part of flower (of society or any body of persons)”, tức là tinh chất của hoa — hay ‘tinh hoa’. Từ điển Oxford định nghĩa elite qua hai nghĩa liên quan đến khả năng và quyền lực (1):

(a) elite chỉ một nhóm người chọn lọc có khả năng cao hơn hoặc tố chất tốt hơn tất cả những người còn lại trong xã hội. Chẳng hạn như báo chí hay viết câu đại khái như “China’s scientific elite” chỉ những người có địa vị cao trong hệ thống khoa học China. Trong các hiệp hội khoa học, những người đạt đẳng cấp “Fellow” được xem là ‘elite’ của hiệp hội đó, hay trong các tập san khoa học, những kẻ ngồi trong hội đồng biên tập có quyết định đến ‘vận mệnh’ của công trình nghiên cứu cũng được gọi là ‘elite’.

(b) elite là một nhóm người có quyền lực và ảnh hưởng lớn đến xã hội. Quyền lực và ảnh hưởng có thể đến từ vai vế trong hệ thống chính trị cầm quyền, và ảnh hưởng cũng có thể xuất phát từ sự giàu có và học vị. Cũng có thể hiểu elite như là ‘chóp bu’. Ví dụ như báo chí phương Tây hay viết “the ruling elite wants to reform our economy”, tức là ‘bọn cầm quyền chóp bu muốn cải cách nền kinh tế chúng ta.’

Một chữ có liên quan hay biến thể của elite là “elitist“. Chữ elitist theo từ điển tiếng Anh có nghĩa là những người tin rằng xã hội nên được dẫn dắt bởi những kẻ trong giai tầng elite. Hiểu theo nghĩa này thì anh chàng phu quân của cô ca sĩ kia được xem là “elitist” vậy.

Elite: tính từ

Elite cũng có thể là tính từ, và nếu là tính từ nó có nghĩa là “the best, the most skilled, the most experienced people of a larger group” (tốt nhất, kĩ năng tinh nhuệ nhất, kinh nghiệm cao nhất). Chẳng hạn như “an elite unit” có thể hiểu là một đơn vị tinh nhuệ. Dĩ nhiên, trong hệ thống giáo dục, một “elite university” phải được hiểu là trường đại học danh giá nhất, nổi tiếng nhất, thường được xếp hạng cao trong các bảng xếp hạng đại học thế giới. Chẳng hạn như các đại học trong nhóm Go8 của Úc được xem là “elite universities“.

Elite: những kẻ ăn hại

Trong những cuộc bàn luận khoa học hay chính trị, thỉnh thoảng tôi nghe người ta dùng cách nói kiểu “That is a typical vew of an elite” để bác bỏ ý kiến của người phát biểu. Sau này, có dịp tìm hiểu tôi mới biết hóa ra chữ elite còn có ý nghĩa xấu! Thật vậy, cũng giống như nhiều chữ trong tiếng Anh, ý nghĩa của elite cũng bị “đột biến” theo thời gian, và bây giờ nó còn bao hàm ý nghĩa có khi hoàn toàn đối nghịch với nghĩa truyền thống (2).

Khi dùng trong văn cảnh tiêu cực, chữ elite còn có nghĩa là những kẻ xấu nhất, những giai tầng chỉ làm hại xã hội. Cổ tổng thống Richard Nixon là gọi những kẻ trong truyền thông, khoa bảng, và điện ảnh Hollywood chuyên chỉ trích ông là “elite”. Chữ elite do đó nó còn được dùng để mỉa mai những kẻ “ăn hại.”

Bàn luận về chữ elite theo ý nghĩa mới, tôi thấy bài của Susan Jacoby trên New York Time (3) là hay nhất. Theo đó, sự đột biến của chữ elite diễn ra từ những 40 năm trước. Khi nói kẻ nào đó có ý kiến kiểu elite (hiểu theo nghĩa tính từ — elite opinion) thì đó cũng là cách nói ý kiến đó xa rời thực tế, vô dụng, tào lao, thậm chí … ngu xuẩn. Theo bài báo vừa kể, bà Hilly Clinton dùng mệnh đề “elite opinion” để bác bỏ những ý kiến trái chiều của những ai chỉ trích chính sách kinh tế của bà.

Chữ elite còn được dùng với hàm ý khinh bỉ, và cách dùng này xuất phát từ thập niên 1950 ở bên Mĩ. Thời đó, trong các đại học những kẻ thuộc nhóm thiểu số theo đuổi những chủ đề nghiên cứu hiếm (như nghiên cứu về vai trò của phụ nữ hay người thiểu số) được xem là nhóm ‘dung nạp’ (inclusionary), còn những kẻ thuộc nhóm đa số với bằng cấp cao chót vót và giữa địa vị quan trọng trong khoa học xem những chủ đề đó là vớ vẩn, và họ được gán cho cái nhãn hiệu “elitist“.

Một trong những người dùng ý nghĩa của chữ elite một cách khinh bỉ nhất là Tổng thống Donald Trump. Thật ra, ông chưa bao dùng chữ elite, mà chỉ dùng ý của nó. Những người chỉ trích và chê bai ông Trump nhiều nhất có lẽ là giới báo chí và các giáo sư đại học mà Nixon từng gọi bằng danh từ elite hay elitist. Nhưng theo suy nghĩ của Trump thì những kẻ elitist đó có những suy nghĩ và niềm tin xa rời xã hội; xã hội không còn tin họ nữa. Truyền thông thì đặt điều nói dối. Bọn làm khoa học cũng gian dối chả kém. Bọn nghệ sĩ vẫn còn sống trong cái ‘cocoon‘ tưởng tượng do chính họ tạo ra. Một trào lưu mới đang hình thành chống lại những kẻ trong giai tầng elite và elitist, mà Trump là một đại diện tiêu biểu. Trong tranh cử, ông Trump xem phe đối phương là elite, còn ông là người của đại chúng, người sẽ định nghĩa lại ý nghĩa của chữ elite trong thế kỉ 21 như là những kẻ ăn hại mà “làm tàng”. Trump trở thành một loại quân vương thế kỉ 18, tự tin với một viễn kiến cá nhân bao trùm từ A đến Z, và viễn kiến đó có thể thay đổi như nhịp tim! Ông không cần đến bọn elite, vì ông nghĩ họ không hiểu ông. Ngược lại, bọn elite vẫn đánh giá ông theo những chuẩn mực mà họ tạo ra và không nhận ra rằng công chúng không còn tin vào họ nữa. Không phải ngẫu nhiên mà một nhóm ủng hộ ông Trump nói rằng những kẻ elite (ý nói phe bà Clinton) vẫn chưa hiểu tại sao họ thất cử (the elite still don’t undertand how they lost). Sự bất đồng giữa hai bên là ở chỗ đó: một bên thì đang diễn tiến rất nhanh và đang định nghĩa lại những chuẩn mực mới, và một bên thì vẫn bám lấy chuẫn mực cũ.

Quay lại định nghĩa elite ở Việt Nam như là ‘tinh hoa’, tôi thấy cũng có vài điều cần bàn. Hiểu theo nghĩa một nhóm cầm quyền thì rõ ràng nước nào, kể cả Việt Nam, đều có giai tầng tinh hoa. Nhưng hiểu theo ý nghĩa tố chất cao thì Việt Nam có lẽ thiếu giai tầng tinh hoa, bởi vì những người cầm quyền và những kẻ giàu có [ví dụ] không hề được công chúng nể phục vì họ làm giàu qua lợi dụng những mối quan hệ và lợi dụng những người nghèo. Có lẽ chữ elite hay tạm gịi là ‘tinh hoa’ ở Việt Nam cũng có thể hiểu theo nghĩa tiêu cực. Thật vậy, tôi nghĩ đối với đa số người Thủ Thiêm bị mất đấy — à không, ‘cướp đất’ mới đúng — thì những kẻ nói đến giai tầng tinh hoa để biện minh cho chủ trương xây dựng nhà hát giao hưởng có thể hiểu theo ý nghĩa thứ hai của chữ elite, tức là những kẻ ăn hại và tàn phá xã hội.

====

(1) https://en.oxforddictionaries.com/definition/elite

(2) https://www.economist.com/johnson/2010/10/27/elite-the-insult

(3) https://www.nytimes.com/2008/05/30/opinion/30jacoby.html

Quí tộc và “Nouveau Riche”

Những thảo luận về ‘quí tộc’ và ‘tinh hoa’ làm tôi liên tưởng đến một vở kịch rất nổi tiếng của văn hào Molière có tựa đề là “Le Bourgeois Gentilhomme“, có thể dịch sang tiếng Anh là “The Would-be Gentleman” và tiếng Việt là “Trưởng giả học làm sang” (tựa đề này dịch chưa đúng bản chất câu chuyện) và phim “Pretty Woman” vào đầu thập niên 1990s. Câu chuyện trong vở kịch lừng danh (viết vào thế kỉ 17) và cuốn phim 30 tuổi đó xem ra rất liên quan với những ý kiến về ‘quí tộc’ và ‘tinh hoa’ ở Việt Nam.

Một màn trong vở kịch “The Would-be Gentleman” (Người muốn làm trưởng giả). Ông già quê mùa Jourdain mướn thầy về dạy âm nhạc và khiêu vũ để làm người quí tộc.

Trưởng giả học làm sang

Vở kịch “Le Bourgeois Gentilhomme” được dịch sang tiếng Anh là “The Would-be Gentleman” (‘Muốn làm trưởng giả’) theo tôi là đúng nghĩa hơn tựa đề tiếng Pháp. Câu chuyện trong vở kịch xoay quanh nhân vật tên là Jourdain, người thừa hưởng gia tài đáng kể của thân phụ để lại. Tuy có nhiều tiền, nhưng ông Jourdain là một người ít học và thuộc giai tầng thấp trong xã hội, và ông muốn trở thành một người trong giai cấp quí tộc. Để thực hiện ước mơ đó, ông cho mướn thầy đến dạy nhạc, dạy triết học, khiêu vũ, kiếm thuật, và mướn thợ may đến thiết kế cho ông những bộ trang phục cầu kì, kiểu cách, y như những nhà quí tộc. Thấy giới quí tộc hay tổ chức những buổi hoà nhạc trong biệt thự, ông Jourdain cũng mướn những dàn nhạc biểu diễn tại nhà ông. Nói tóm lại, lão Jourdain — nói theo người miền Tây — là một kẻ học đòi.

Là kẻ học đòi, nên ông Jourdain trở thành một người hợm hĩnh và bị gạt. Xuất thân từ giai cấp hạ tầng, ông phải đóng kịch để được giới quí tộc xem là cùng ‘bộ lạc’ với họ, nhưng trong thực tế giới quí tộc chẳng xem ông ra gì vì ông không bao giờ là người của bộ lạc cả. Chúng (giới quí tộc) lợi dụng và khai thác ông để kiếm tiền. Điển hình là tay bá tước tên là Dorante (lúc đó thiếu nợ đầy đầu) lợi dụng giấc mơ quí tộc của Jourdain để vòi tiền, vì hắn nói rằng chỉ cần đề cập cái tên Jourdain lên vua là vua sẽ xoá nợ cho Dorante; lão già Jourdain khoái chí và thế là tung tiền cho tên bá tước ma giáo. Vì nghĩ mình đã là quí tộc, nên lão Jourdain muốn cô con gái (tên là Lucille) thành hôn với một chàng trai thuộc giai cấp quí tộc. Biết được ý định này, người yêu của Lucille là Cléonte (chàng trai thuộc giai cấp trung lưu) bèn đóng vai con trai của một bá tước Thổ Nhĩ Kì, và thế là ông Jourdain gật đầu cho cuộc hôn nhân! Ông Jourdain đã bị lường gạt vì giấc mơ quí tộc của ông. Toàn bộ vở kịch là một bài học ở đời và cũng là một thông điệp mạnh mẽ: Hãy là chính mình, chứ đừng bắt chước người khác.

Pretty Woman

Nói đến giai tầng xã hội và ‘hãy là chính mình’ tôi chợt nhớ đến phim “Pretty Woman” do Richard Gere và Julia Roberts thủ diễn. Phim Pretty Woman, có thể xem là thuộc thể loại tình cảm hài, rất rất nổi tiếng vào đầu thập niên 1990s và trở thành một đề tài cho sách giáo khoa và nghiên cứu xã hội học. Phim xoay quanh câu chuyện một triệu phú (hay tỉ phú?) tên là Edward Lewis (Richard Gere đóng) trong một chuyến đi công cán ở Los Angeles, và giữa lúc lạc đường trong khu phố ‘đèn đỏ’, tình cờ gặp Vivian Ward (Julia Roberts), và cuộc tình giữa hai người nảy nở từ đó để lại cho khán giả nhiều ấn tượng buồn vui về giai cấp xã hội.

Cuộc tình chợp nhoáng (1 tuần) giữa hai người, một thuộc giai cấp thượng lưu và một thuộc giai cấp hạ đẳng. Trong khi Edward là doanh nhân thuộc hạng ‘corporate raider’ mua bán các công ti để kiếm bạc triệu, Vivian là một … ‘sex worker’. Vivian lúc đó chỉ đòi 20 USD để chỉ đường cho Edward, nhưng cuộc gặp gỡ tình cờ đó trở thành một ‘hợp đồng’ tình cảm lâm thời giữa hai người. Chỉ qua nói chuyện, Edward thấy Vivian là người thú vị chứ không đơn giản là một cô gái làng chơi. Edward lúc đó độc thân (và mới chia tay với người bạn gái) muốn mướn Vivian đóng vai là ‘partner’ để theo anh ta trong một cuộc thương lượng quan trọng với các đối tác kinh doanh. Edward đề nghị cái giá 3000 USD cho cả tuần, một số tiền quá lớn đối với cô gái đứng đường và nghèo khổ như Vivian. Edward mời Vivian về ở chung trong một penthouse thuộc một khách sạn Regent Beverly Wiltshire sang trọng bậc nhất của Los Angeles. Trong thời gian này, Vivian được người quản lí khách sạn là Barney Thompson chỉ dạy cho cách trang phục và cách ăn uống trong nhà hàng sang trọng, hay nói chung là học làm trưởng giả để có thể xứng đôi với vị khách hàng triệu phú của khách sạn là Edward Lewis.

Pretty Woman là một câu chuyện về sự cách biệt giai cấp và lối sống. Xuyên suốt cuốn phim, cả hai người — Edward và Vivian — phải ‘đấu tranh’ với những khác biệt về giai tầng và giá trị xã hội. Vivian học làm người trưởng giả, và Edward phải thấu cảm cho những vụng về và thô kệch thỉnh thoảng được biểu hiện qua hành vi của Vivian. Nhưng Edward học từ Vivian cách đối nhân xử thế công bằng và kính trọng. Phim Pretty Woman có một cái kết có hậu (happy ending). Sau 1 tuần hợp đồng, Edward Lewis đem lòng thương Vivian Ward (và Vivian cũng thấy thương anh chàng triệu phú). Câu chuyện được xem như là một chuyện Tấm Cám hay Cinderella hiện đại. (Thật ra, bản gốc của phim thì sau khi chia tay Edward, Vivian bị chết vì quá liều thuốc phiện). Nhưng cái thông điệp quan trọng nhất của Pretty Woman là “hãy là chính mình, đừng đóng kịch”. Những cử chỉ có khi vụng về của Vivian rất đáng yêu và thật hơn là những kiểu cách kệch cỡm không tự nhiên.

Julia Roberts (trong vai cô gái giang hồ Vivian Ward) và Richard Gere (trong vai nhà triệu phú Edward Lewis) trong phim Pretty Woman. Phim này rất nổi tiếng vào đầu thập niên 1990s, và là chủ đề của rất nhiều nghiên cứu xã hội và sách giáo khoa. Vivian Ward từ một cô gái đứng đường ở khu đèn đỏ Los Angeles biến thành một ‘partner’ sang trọng của ông triệu phú Lewis. Câu chuyện được xem là một lọ lem tân thời.

****

Vở kịch “The Would-be Gentleman” và phim “Pretty Woman” nhắc nhở chúng ta về giai cấp xã hội ở Việt Nam ngày nay. Để hiểu chữ “giai cấp xã hội” tôi nghĩ phải hiểu cái nghĩa gốc của nó trong tiếng Anh là “socio-economic status”. Chú ý tính từ này, socio-economic, gồm hai chữ xã hội (social) và kinh tế (economic) nối kết nhau. Xã hội ở đây phải hiểu là các yếu tố như trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú, sắc tộc, còn ‘kinh tế’ ở đây là tiền bạc và địa vị trong guồng máy kinh tế. Nói cách khác, phải có hai yếu tố — xã hội và kinh tế — (chứ không phải một) thì mới xác định một giai tầng xã hội cho một cá nhân.

Lão Jourdain tuy có nhiều tiền, nhưng không phải là người thuộc giai cấp quí tộc vì ông thiếu yếu tố xã hội. Cô Vivian Ward trong Pretty Woman tuy là một cô gái đứng đường nhưng cô có những suy nghĩ và tố chất của một người thuộc nhóm elite – tinh hoa, vì những suy nghĩ của cô thậm chí có thể thay đổi đường hướng kinh doanh của Edward Lewis.

Việt Nam có những người rất nhiều tiền, nhưng khó mà xếp họ vào nhóm ‘quí tộc’, cho dù họ rất muốn như thế. Thật ra, tôi nghĩ Việt Nam trong hơn nửa thế kỉ qua không có giai cấp quí tộc. Làm sao có giai cấp quí tộc khi người ta chọn theo con đường của mấy ông Tây râu ria kia và ông Tàu mặt trơn nọ. Làm sao có giai cấp quí tộc sau cuộc cách mạng dưới danh nghĩa “trí phú, địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Ngay cả những người muốn nghĩ mình là ‘quí tộc’ chỉ mới thoát ra từ cái văn hóa XHCN ở miền ngoài, họ không có những tố chất — và vẫn còn phải học — trí, văn, thiện, mĩ của giới quí tộc.

Nhưng các nước mới ra khỏi XHCN như Nga và Tàu có giai cấp “Nouveau riche”. Nouveau riche (có thể tạm dịch là “trọc phú mới”) là một danh từ không hàm ý nghĩa tích cực, mà là tiêu cực và có phần khinh bỉ. Thành phần nouveau riche là những người trục lợi và làm giàu, không phải nhờ vào gia tài của tổ tiên để lại, mà là nhờ vào những mối quan hệ hắc ám với các thế lực cầm quyền và cướp bóc dân chúng có bài bản. Những kẻ nouveau rich làm giàu rất nhanh. Họ xuất phát từ thành phần hạ đẳng trong xã hội, và do đó, họ thường ít học, thiếu kiến thức, và kém văn hoá trong cư xử hàng ngày. Tiêu biểu cho những kẻ nouveau riche là những trọc phú bên Tàu hiện nay, họ là những hậu duệ của những người bần cùng theo Mao làm cách mạng, và họ làm giàu nhờ vào lợi dụng mối quan hệ với đảng cộng sản Tàu — có khi là con cái của các đảng viên cao cấp — để thu tóm và buôn bán bất động sản, và khai thác tài nguyên quốc gia.

Giới nouveau riche ở Tàu đang học làm làm ‘quí tộc’. Họ thừa biết rằng đồng tiền họ đang có không mua được danh giá, không làm cho họ sang trọng, không làm cho người phương Tây nể trọng, mà ngược lại làm cho người ta khinh rẻ. Giới nouveau riche Tàu thừa biết rằng quần chúng Tàu chỉ sợ họ, nhưng trong thâm tâm thì rất khinh họ. Thế là họ phải bỏ tiền ra để ghi danh học những lớp học về văn hoá và cư xử. Những lớp học chỉ có 7 ngày nhưng tốn 12,000 USD. Cái giá 12,000 USD đó sẽ giúp cho họ biết nói tiếng Anh cho lịch lãm; biết cách hành xử ở những nơi sang trọng, như đi thang máy trong khách sạn ‘up market’; cách ăn mặc đúng cách và đúng dịp; cách dùng muỗng nĩa trong các buổi tiệc ‘formal’; cách thưởng thức nghệ thuật, từ âm nhạc đến hội hoạ. Nói chung là họ học những ‘protocol’ và kiến thức cơ bản trong xã hội phương Tây, mà những ai sống lâu và hoà nhập ở các nước phương Tây đều không ít thì nhiều biết qua. (Có vài trường đại học bên Mĩ gửi giáo sư của họ đi học những lớp protocol này).

Ở Việt Nam, nơi có thể xem là một phiên bản của Tàu, cũng có thành phần nouveau rich. Những người nouveau rich ở Việt Nam cũng chẳng khác gì so với các đồng môn của họ ở bên Tàu về xuất thân và cách làm giàu. Do vậy, những người nouveau riche ở Việt Nam cũng có những đặc điểm giống như giới tân trọc phú ở bên Tàu, tức là vụng về trong phát biểu, nông cạn trong ý kiến, thô kệch trong hành xử, kém văn hoá trong cách ăn và mặc, v.v. Cứ nhìn trang phục và cách họ mặc, cách họ dùng cái cà vạt, cách họ quàng cái khăn ngang cổ, cách họ trang điểm, cách họ cầm li rượu, cách họ đi đứng, cách họ ngồi, v.v. thì chúng ta thấy rõ họ thiếu cái cốt cách của giai tầng ‘quí tộc’. Mượn câu nói của John Steiner (“You can take the ape out of the jungle, but you cannot the jungle out of the ape”), họ có thể đã thoát khỏi ngôi nhà nông XHCN, nhưng cái chất lúa vẫn chưa thoát ra khỏi họ.

Việt Nam — cũng như bất cứ nước nào — có thành phần ‘political elite’. Đó là những người đang cầm quyền trong hệ thống chính trị và guồng máy kinh tế. Có thể nói đa số những political elites này là đảng viên. Vì là tinh hoa chính trị, khó mà nói họ đại diện cho quần thể dân chúng. Cứ nhìn xem ở trong nước, họ nói và viết tiếng Việt làm cho dân chúng nhăn mặt khó chịu, còn ra nước ngoài cách họ nói tiếng Anh (thật ra là đọc) trong các hội nghị quốc tế chẳng ai hiểu. Một dân tộc 90 triệu người mà có những người ‘mang chuông đi đấm xứ người’ như thế thì quả là một sự thiệt thòi đáng kể. Tóm lại, Việt Nam có thể có tầng lớp “political elite”, nhưng khó mà nói họ là “intellectual elite.” Nhưng dĩ nhiên, elite hay tinh hoa cũng không có nghĩa là ‘quí tộc’. Thật ra, tôi đoán rằng những political elites này cũng không muốn xem mình là quí tộc, vì họ tự hào xuất thân từ giai cấp lao động, và cha anh họ từng căm thù và đánh đổ giai cấp quí tộc.

Cũng giống như ông Jourdain mời dàn nhạc về nhà biểu diễn, những kẻ trọc phú mới này đang rao bán ý tưởng một nhà hát giao hưởng. Nhà hát giao hưởng để những kẻ tự xem mình là quí tộc thưởng thức. Nhưng như nói trên, họ không thể nào thuộc giai cấp quí tộc được, và họ cũng chỉ là những kẻ đang giúp cho những tên bá tước Dorante trong vở kịch Moliere trục lợi mà thôi.

Cũng như ông Jourdain trong The Would-be Gentleman và cô Vivian Ward trong Pretty Woman dù được khoác lên người những bộ đồ sang trọng và đã qua lớp học về giao tiếp trong giai cấp thượng lưu, nhưng những người trong giai cấp đó vẫn không xem cô là người trong ‘bộ lạc’. Cũng như đất nước Việt Nam, dù có tỉ phú và nhiều triệu phú đô la, nhưng trong con mắt của người phương Tây thì vẫn là một nước nghèo hay rất nghèo (và trong thực tế thì đúng như thế). Sự hiện diện của những trọc phú mới không làm cho Việt Nam hãnh diện, mà chỉ là dấu hiệu về một sự hư hỏng mang tính hệ thống. Trong một môi trường nghèo khổ, nhà tranh vách lá, việc xuất hiện một lâu đài là dấu hiệu của hợm hĩnh. Ở Úc, những chiếc xe hơi cao ngồng ngềnh có thời được xem là antisocial — phản xã hội. Ở Việt Nam, trong môi trường đường xá tồi tệ và ngập nước triền miên mà xuất hiện ‘siêu xe’ là dấu hiệu của bất bình thường, của một ‘antisocial disease’ — bệnh phản xã hội. Tương tự, sự hiện diện của một nhà hát giao hưởng không làm cho cái thành phố mang tên Hồ Chí Minh sang trọng hơn, nếu không muốn nói là làm cho thành phố thêm nhí nhố và hợm hĩnh, như sự hợm hĩnh của ông Jourdain trong vở kịch vào thế kỉ 17.