Hôm nay, người ở Dubbo báo tin tôi lên báo địa phương. Số là công trình mới được chấp nhận trên eLife được thực hiện ở Dubbo, nên báo chí địa phương cũng rất vui khi thấy địa phương có đóng góp cho chuyên ngành loãng xương trên thế giới. Do đó, mới có bài báo này.
Dubbo là một thành phố nhỏ, cách Sydney chừng 400 km. Đó là vùng bán nông thôn, bán thành thị, đa số là người Úc da trắng, chỉ có một số ít là người thổ dân. Đa số cư dân Dubbo là người cao tuổi, vì người Úc thích nghỉ hưu ở vùng quê. Dubbo có một địa danh rất nổi tiếng: đó là thảo cầm viên Taronga Western Plains Zoo Dubbo, nơi mà động vật hoang dã (như cọp, nai, hưu, heo rừng, v.v.) được chạy rong. Khách vào xem phải lái xe chớ không đi bộ được. Hồi lúc tôi mới tham gia Garvan, tôi ăn dằm nằm dề ở đây cả 2 tuần để set-up công trình nghiên cứu, và tôi biết gần như mọi đường phố và uống đủ thứ bia ở Dubbo.
Theo thời gian, công trình nghiên cứu Dubbo trở nên nổi tiếng khắp thế giới, và thế là cái địa danh ‘Dubbo’ cũng nổi tiếng theo. Mỗi lần đi họp hội nghị quốc tế, người ta giới thiệu Dubbo nhưng họ đọc không đúng (kiểu ‘Điu Bô’) làm tôi cười trong bụng, nhưng thấy vui. Chính nhờ nghiên cứu này mà một số fact trong sách giáo khoa y học phải viết lại. Do đó, có thể nói là chúng tôi có công làm cho Dubbo nổi tiếng trong thế giới y khoa. Bài báo trên tờ báo địa phương có ý nghĩa như thế.
(Tôi cũng muốn làm cho Việt Nam nổi tiếng như Dubbo qua công trình ‘Vietnam Osteoporosis Study’).
Bài báo eLife của chúng tôi sẽ được chánh thức công bố vào ngày 22/2/2021, tức Thứ Hai tuần tới (giờ Âu châu). Lí do hơi chậm một chút là vì ban biên tập eLife mời một người viết một bài xã luận (họ gọi là ‘Insight article’) về công trình của chúng tôi. Đây là một vinh dự, vì họ nói chỉ có 15% bài báo trên eLife được mời viết bài xã luận. Xã luận theo hình thức ‘Insight articles’ là do một đồng nghiệp trong chuyên ngành viết (nhưng tôi chưa biết là ai) để giải thích tại sao kết quả của chúng tôi là một tiến bộ ‘significant’.
Các bạn nhớ đón đọc bài của chúng tôi và bài Insight nghen. Cả tuần qua tôi nhận được nhiều email chúc mừngcủa đồng nghiệp khắp thế giới, và bận trả lời phỏng vấn của báo chí, về một bài báo mà họ xem là ‘achievement’. Lâu lâu có dịp này như là một món quà đầu Tết Tân Sửu.
___
PS: Ý tưởng này đã qua 3 đời nghiên cứu sinh. Khởi đầu là Steve Frost cả 10 năm trước, kế đến là Phạm Thị Mỹ Hạnh, và sau cùng người làm thành hiện thực là Hồ Lê Phương Thảo. Khi Steve bắt đầu làm thì data chưa đủ để chắc ăn, nên tôi không công bố. Đến khi Hạnh viết luận án thì dữ liệu đã khá, nhưng vẫn chưa đủ mạnh. Tuy nhiên, những lời bình luận về luận án của Hạnh tôi biết đồng nghiệp nhận ra tầm quan trọng của ý tưởng và nghĩ sẽ có cơ may công bố trên tập san hạng ‘top’. Sau cùng, khi Thảo tham gia thì dữ liệu xem như ‘chín mùi’ để công bố. Phải có kĩ năng về mô hình mới thực hiện được, và cuối cùng thì có quả ngọt.
Hôm nay, tôi rất hân hạnh giới thiệu đến các bạn một nghiên cứu mới nhứt của labo chúng tôi [1], mới được công bố trên eLife [2] hôm nay. Đây là một công trình quan trọng vì không chỉ đề ra khái niệm ‘Tuổi Xương‘ (Skeletal Age) mà còn [hi vọng] mở ra một cánh cửa nghiên cứu mới về loãng xương và tử vong.
Ý tưởng bài này thật ra xuất phát từ … ông TT Biden. Theo dõi cuộc tổng tuyển cử ở Mĩ vừa qua tôi chú ý đến sức khoẻ của hai ông ứng viên Trump và Biden. Các chuyên gia tỏ ra lo ngại sức khoẻ của ông Biden vì ông già cả, có vẻ yếu đuối, và đã qua hai lần bị AF (rung nhĩ), một lần bị aneurysm (phình mạch não) và một lần bị DVT. Các chuyên gia bệnh tim mạch ước tính rằng ông có xác suất 79% qua khỏi nhiệm kì. Một chuyên gia khác thắc mắc về tuổi tim của ổng (Heart Age), và tôi tính thử thì thấy ổng tuy 78 tuổi đời, nhưng trái tim của ổng lên đến 95 tuổi.
Loãng xương và tử vong
Từ tuổi tim, tôi nghĩ có thể áp dụng cho chuyên ngành loãng xương, và tôi có ý tưởng ‘Tuổi Xương’ (Skeletal Age).
Một sự thật ít người (ngay cả trong giới y khoa) biết đến là loãng xương làm giảm tuổi thọ. Sự suy giảm tuổi thọ còn nặng nề hơn nếu bệnh nhân bị gãy xương. Gãy xương đùi là nguy hiểm nhứt, vì khoảng 30% bệnh nhân gãy cổ xương đùi chết trong vòng 12 tháng, tức nguy cơ còn cao hơn cả ung thư vú.
Nam giới tuy có nguy cơ gãy xương thấp hơn nữ, nhưng khi đã bị gãy xương thì nam giới chết nhanh hơn nữ! Những bệnh nhân sống sót sau một lần bị gãy xương thì họ có nguy cơ gãy xương lần 2, lần 3 rất cao. Do đó, một lần bị gãy xương là một tín hiệu cho thấy cơ thể đang suy thoái như … ‘domino’. Dĩ nhiên, sự suy thoái đó không hiển nhiên như các bệnh lí khác, và chính vì diễn biến âm thầm này là một thách thức để nhận dạng những cá nhân có nguy cơ cao.
Cho đến nay, khi người ta nói đến ‘risk of fracture’ (nguy cơ gãy xương), người ta chỉ đề cập đến gãy xương lần đầu tiên. Chưa ai nghĩ đến cách định lượng hoá nguy cơ gãy xương lần 2 hay lần 3, và chưa ai định lượng nguy cơ tử vong. Vấn đề nữa là không có dữ liệu để làm mô hình suy nghĩ.
Cumulative probability of mortality in women (left panel) and men (right panel) who had stayed in different states of bone health. There were 4 potential bone heath states before transiting to state 5 (i.e. mortality): State 1: No fracture (green blue colour area) if the individual entered the study without any osteoporotic fracture; State 2: initial fracture (light blue area) if an individual had sustained a fracture after study entry; State 3: Second fracture (purple-orange area) if an individual had suffered a second fracture; and State 4: Third & further fractures (red area) if an individual had suffered two or more subsequent fractures during the follow-up period. Risk was estimated for women and men with different BMD profiles (i.e. -1.5 vs -2.5), at the event age of 70 and 80, having all other factors set to the population mean, i.e. body mass index = 26.6 kg/m2, no history of fall at baseline, no prior fracture and no comorbidities.
Ý tưởng về Skeletal Age
Do đó, tôi nghĩ cần phải có một khái niệm mới có thể tạm gọi là ‘compound risk’. Một cách suy nghĩ đơn giản, compound risk là nguy cơ bị gãy xương, và khi đã bị gãy xương thì kèm theo nguy cơ tử vong. Vấn đề là làm sao định lượng các biến cố này thành một chỉ số cho dễ hiểu.
Tôi thấy bên engineering người ta có khái niệm ‘effective age’, tức tuổi thực của một cấu trúc. Một cây cầu có thể có 20 tuổi đời, nhưng vì phẩm chất xuống cấp, nên effective age có thể là 30. Trong y khoa, người ta lấy ý tưởng effective age để ước tính tuổi lá phổi (lung age), tuổi trái tim (heart age). Tôi dùng cách suy nghĩ đó để sáng chế ra ‘tuổi xương’, và thế là ý tưởng ‘Skeletal Age’ ra đời.
Tuổi Xương được định nghĩa là tuổi sinh học của bộ xương trong điều kiện yếu tố nguy cơ gãy xương của một cá nhân. Nếu cá nhân không có yếu tố nguy cơ thì Tuổi Xương và tuổi đời bằng nhau; nếu cá nhân có mật độ xương thấp hay từng bị gãy xương thì Tuổi Xương cao hơn tuổi đời. Do đó, mức độ khác biệt giữa Tuổi Xương và tuổi đời chính là một chỉ số phản ảnh nguy cơ gãy xương và nếu một khi bị gãy xương thì phản ảnh nguy cơ tử vong.
Nghiên cứu
Ý tưởng là một chuyện, nhưng phải có dữ liệu để biến ý tưởng thành hiện thực. Chúng tôi dùng dữ liệu của hơn 3500 nam và nữ từ công trình nghiên cứu Dubbo. Những người này được theo dõi 20 năm, và chúng tôi biết rõ họ ‘đi’ từ chưa gãy xương đến gãy xương, từ gãy xương đến tử vong, v.v. Chúng tôi dùng mô hình Markov để định lượng hoá những biến chuyển đó cho mỗi cá nhân. Sau khi đã có các tham số của mô hình, chúng tôi ước tính Skeletal Age – Tuổi Xương cho mỗi cá nhân.
Bài báo được nộp cho Lancet nhưng họ nghĩ rằng quá kĩ thuật nên không công bố. Chúng tôi nộp cho eLife, nhưng họ không nhận ngay mà yêu cầu nộp bản tóm tắt để xem có xứng đáng được bình duyệt. Sau khi xem qua bản tóm tắt, họ bật đèn xanh để đi nước thứ 2, tức là nộp toàn bộ bản thảo. Sau hơn 6 thánh bình duyệt bài báo được chấp nhận cho công bố.
Trong tương lai, tất cả sẽ được đưa lên trang web của Garvan Fracture Risk Calculator để cho các bác sĩ khắp nơi sử dụng. Hi vọng rằng ý tưởng Tuổi Xương sẽ giúp quản lí, điều trị và phòng ngừa bệnh loãng xương tốt hơn trong tương lai.
Điều phấn khởi là ban biên tập eLife thật sự thích bài báo và ý tưởng Skeletal Age. Họ đề nghị viết thêm một bài nữa để lí giải về khái niệm Tuổi Xương. Họ cũng đề nghị viết một Digest để người ngoài ngành hiểu. Họ làm việc với Viện Garvan để đưa ra thông cáo báo chí [3] về bài báo. Hôm qua đến nay tôi bận rộn tiếp báo chí và trả lời phỏng vấn cho gần 10 đài radio, báo chí, và tivi!
______
[1] Bản thảo (chưa phải bản sau cùng) của bài báo:
[2] Nhiều bạn có lẽ chưa biết đến eLife, nên có lẽ vài dòng giới thiệu cũng cần thiết. eLife là tập san do Randy Schekman (Giải Nobel y học 2013) sáng lập, dưới sự tài trợ của Wellcome Trust, Howard Hughes Medical Institute, và Max Planck Society. Năm 2013, Giáo sư Randy Schekman tuyên bố rằng ông và đồng nghiệp không gởi bài cho Nature, Science và Cell nữa. Lí do (ông cho rằng) các tập san này chạy theo impact factor để nâng cao citation mà không đặt nặng vào những nghiên cứu quan trọng và có giá trị lâu dài (nhưng có thể không ‘sexy’). Ông cũng phê bình các tập san như Nature, Science và Cell là loại ‘đóng cửa’, chỉ có người trả tiền mới đọc được.
Mục tiêu là tạo ra một tập san cùng đẳng cấp với Nature, Science và Cell, nhưng minh bạch hơn Nature, biên tập phải là nhà khoa học có nghiên cứu (chớ không phải biên tập chuyên nghiệp), ai cũng có thể đọc được mà không cần trả phí, và tuyệt đối không lệ thuộc vào impact factor. Trên trang web, họ cảnh báo rằng tập san này rất ư là chọn lọc và tỉ lệ từ chối sẽ khá cao: “eLife is a very selective journal and it’s likely that the rejection rate will be quite high”.
Bài báo nộp cho eLife phải qua 2 giai đoạn: giai đoạn 1 là một bản tóm tắt; và nếu ok, giai đoạn 2 là toàn văn bản thảo. Đa số (90%) là bị từ chối từ giai đoạn 1. Ở giai đoạn 2, tỉ lệ từ chối dao động từ 80-85% (tức như Nature). Tôi thật là vui mừng khi bài báo sống sót qua 2 giai đoạn. Cái hay của eLife là tất cả bình duyệt và trả lời bình duyệt đều được đăng kèm theo bài báo để độc giả có thể hiểu hơn.