Chất, không phải lượng, làm nên một giáo sư

Xin giới thiệu đến các bạn một bài ‘ý kiến’ tôi viết cho báo Tuổi Trẻ về vấn đề công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư (GS/PGS) ở Việt Nam. Mấy ngày qua, dư luận báo chí ồn ào chung quanh vấn đề các ứng viên GS/PGS công bố nghiên cứu của họ trên các tập san dỏm (predatory journals). Các ứng viên và cả một chủ tịch hội đồng ngành giáo dục học thì nói rằng họ không biết đó là tập san dỏm. Nhưng trong bài này tôi muốn nhìn vấn đề ở góc cạnh lớn hơn: đó là sự lệ thuộc vào số lượng bài báo khoa học để đề bạt chức danh GS/PGS. Tôi nghĩ sự lệ thuộc đó chỉ nhận dạng những ứng viên tầm thường, chứ không phát hiện được nhân tài.

______

Bộ tiêu chuẩn công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư (GS/PGS) đã trải qua nhiều thay đổi, nhưng về bản chất thì vẫn không thay đổi: lệ thuộc vào con số. Chẳng hạn như Quyết định 37/2018 qui định rằng ứng viên chức danh PGS phải là tác giả chính của ít nhất 3 bài báo khoa học trên các tập san “uy tín”; ứng viên GS là 5. Ngoài ra còn có những qui định về chuyển đổi và tính điểm khá phức tạp, nhưng tất cả vẫn đặt nặng định lượng hơn là phẩm chất.

Những qui định mang tính định lượng như thế thật ra là khá thấp so với mặt bằng khoa học ở Việt Nam ngày nay. Chẳng những thấp mà cách hành văn chung chung của bộ tiêu chuẩn đó còn mở đường cho nhiều chiêu trò và lạm dụng. Không định nghĩa rõ thế nào là một “bài báo khoa học” thì ứng viên có thể dùng các bài không phải là nghiên cứu nguyên thuỷ mà vẫn có thể đáp ứng tiêu chuẩn một cách dễ dàng. Sự mập mờ về khái niệm “tập san uy tín” là cơ hội để ứng viên liệt kê các bài báo trên các tập san dỏm hay các tập san chất lượng rất thấp để đạt được tiêu chuẩn đề ra. Ứng viên cũng có thể dùng tiểu xảo như công bố hàng chục bài báo nho nhỏ và tầm thường trên một tập san vô danh nào đó thuộc danh mục Scopus hay ESCI trong một thời gian rất ngắn để vượt qua tiêu chuẩn. Đó chính là những lùm xùm trong mỗi đợt xét duyệt chức danh GS/PGS trong thời gian gần đây.

Con số bài báo khoa học phản ảnh mức độ hoạt động khoa học của một ứng viên chứ không phải là thành tựu của nghiên cứu khoa học, càng không nói lên phẩm chất khoa học. Tiêu chuẩn công nhận chức danh GS/PGS đặt nặng vào lượng mà bỏ qua phần chất, đó là một sai lầm.

Trong khoa học, phẩm chất và tầm ảnh hưởng của nghiên cứu quan trọng hơn số bài báo khoa học. Ở các đại học nước ngoài, các hội đồng bổ nhiệm không khi nào đề cập đến số bài báo khoa học mà nhấn mạnh đến phẩm chất khoa học. Thường bộ tiêu chuẩn ghi rõ rằng ứng viên giáo sư phải có những đóng góp quan trọng vào chuyên ngành với tầm ảnh hưởng cấp quốc gia (nếu là PGS) và cấp quốc tế (nếu là GS). Riêng cấp GS, ứng viên còn phải chứng minh rằng họ đóng vai trò lãnh đạo trong các hội đoàn quốc tế. Chính phẩm chất khoa học, tầm ảnh hưởng và lãnh đạo làm nên một giáo sư.

Một ứng viên giáo sư có thể có hàng trăm bài báo khoa học, nhưng nếu những bài báo đó chỉ xuất hiện trên những tập san khoa học tầm thường (chỉ số ảnh hưởng thấp) thì ứng viên đó có xứng đáng với chức danh GS/PGS? Theo qui định hiện hành ở Việt Nam thì câu trả lời, thật nghịch lý, là… xứng đáng!

Đề ra số lượng bài báo khoa học như là một tiêu chuẩn đã dẫn đến hàng loạt hành vi vi phạm đạo đức khoa học và đạo đức công bố. Những hành vi này bao gồm: công bố trên tập san dỏm, hoặc những tập san có chất lượng rất thấp mà bất cứ nhà khoa học nghiêm túc nào đều không muốn có tên trên đó; trả tiền cho các ‘tác giả ma’ soạn giùm bài báo; mua bài báo khoa học; trả tiền cho các nhóm chuyên giả tạo dữ liệu để có ‘nghiên cứu’; tra tấn dữ liệu cho đến khi có kết quả theo ý muốn; thậm chí giả tạo danh tánh chuyên gia bình duyệt để tự duyệt bài báo của mình. Tất cả những hành vi đáng ngờ đó chỉ nhằm đạt được số bài báo theo qui định để được công nhận chức danh GS/PGS. Nhưng loại bài báo khoa học đó không tạo ra kiến thức mới mà chỉ làm nhiễu khoa học.

Những qui định hiện hành về công bố khoa học trong việc xét duyệt công nhận chức danh PGS/GS còn nhiều khiếm khuyết. Dựa vào các danh mục như Scopus và Pubmed hay ESCI một cách vô điều kiện dễ dẫn đến sai lầm về việc đánh giá và nhận dạng tập san dỏm. Sự lệ thuộc vào số lượng bài báo gián tiếp khuyến khích nghiên cứu chất lượng thấp, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín khoa học quốc gia. Bộ tiêu chuẩn mới cần phải soạn chặt chẽ hơn, khoa học hơn, đặt phẩm chất khoa học là tiêu chuẩn số 1 và xem tác động của của nghiên cứu là một thước đo của thành tựu cho việc công nhận các chức danh giáo sư.

Link: https://tuoitre.vn/chat-khong-phai-luong-lam-nen-mot-giao-su-20220225073011606.htm

Cần thay đổi gì trong việc xét duyệt chức danh giáo sư?

Qua quan sát những vấn đề được nêu lên trong lần xét duyệt công nhận chức danh giáo sư năm nay, tôi thấy cần phải có một số thay đổi về tiêu chuẩn liên quan đến công bố khoa học.

Đề nghị 1: xác định tập san chánh thống

Vấn đề hiện nay là sự lẫn lộn giữa tập san “dỏm” (còn gọi là tập san “săn mồi” — predatory journals) và tập san chánh thống. Tập san dỏm được định nghĩa hay hiểu là những trạm xuất bản giả danh tập san khoa học chuyên xuất bản những bài báo lừa bịp để lấy tiền. Các tập san này không thuộc bất cứ hiệp hội khoa học nào, và không có cơ chế bình duyệt nghiêm chỉnh, bởi vì họ không quan tâm đến khoa học mà chỉ là lợi nhuận. Trên thế giới có hơn 12,000 tập san “săn mồi”, và mỗi năm họ công bố hơn 400,000 bài báo, với thị trường hơn 74 triệu USD (số liệu 2014).

Sau vài ngày lùm xùm, Hội đồng chức danh giáo sư ngành y đã quyết định lấy các tập san trong danh mục Web of Science (WoS), Scopus, Pubmed và ESCI (Emerging Scources Citation Index) là “tập san uy tín”. Các ứng viên có bài trên các tập san trong các danh mục này sẽ được xét công nhận chức danh giáo sư.

Tôi cho rằng quyết định đó có thể dẫn đến sai lầm trong việc xét duyệt công nhận chức danh giáo sư.

Vấn đề là các danh mục như Scopus, Pubmed và ESCI đều có những tập san dỏm. Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy số tập san dỏm trong danh mục Scopus và Pubmed lên đến hàng trăm, và ESCI cũng có hàng chục tập san dỏm. Thật ra, có ước tính cho rằng tỉ lệ tập san dỏm trong danh mục ESCI là 0.61%, Scopus là 0.25%, nhưng WoS thì thấp nhất (0.1%). Chỉ riêng ngành thần kinh học, có hơn 10% các tập san trong chuyên ngành này trong Pubmed được giới chuyên gia đánh giá là dỏm. Do đó, dựa vào các danh mục này một cách vô điều kiện là dễ dẫn đến sai lầm.

Tôi đề nghị một cách phân loại tập san chánh thống và ‘phi chánh thống’. Tập san chánh thống là những tập san:

  • do các hiệp hội khoa học chánh thống làm chủ quản và xuất bản bởi các nhà xuất bản học thuật; hoặc/và
  • do các nhà xuất bản học thuật (như Elsevier, Springer-Nature, Wiley, Sage, Taylor & Francis, Routledge, Oxford, Cambridge, Harvard, MIT, Academic Press, v.v.) lập ra nhưng được công nhận bởi cộng đồng khoa học.

Tiêu biểu cho nhóm tập san thứ 1 là JAMA (thuộc hiệp hội y khoa Hoa Kì), BMJ (hiệp hội y khoa Anh), New England Journal of Medicine (thuộc hiệp hội y khoa bang Massachusetts), JCEM (Hiệp hội Nội tiết Hoa Kì), v.v. Nhóm 2 bao gồm các tập san thuộc nhóm Lancet, Nature.

Cách phân nhóm như thế đã tự động loại bỏ các tập san dỏm. Cũng không cần có trong Scopus hay WoS như là một tiêu chuẩn. Một tập san mới thuộc một hiệp hội khoa học có thể chưa có trong Scopus hay Clarivate, nhưng là tập san chánh thống. Ví dụ như Journal of Endocrine Society, Osteoporosis and Sarcopenia, JBMR Plus, v.v. tuy chưa có trong danh mục Clariavate hay Scopus, nhưng người trong chuyên ngành ai cũng biết là tập san chánh thống. Người ngoài ngành có thể không biết và không am hiểu đủ để đánh giá các tập san này.

Đề nghị 2: xem xét đến uy tín của tập san khoa học

Trên thế giới, có hơn 50,000 tập san khoa học tạm xem là ‘chánh thống’, và các tập san này nằm trong 2 danh mục chánh là WoS (28560 tập san) và Scopus (37535 tập san). Một số tập san nằm trong cả 2 danh mục. Dĩ nhiên, có những tập san trong Scopus cũng có trong WoS. Riêng ngành y, tỷ lệ trùng hợp giữa hai danh mục là 46%. Nhìn chung, danh mục Clarivate mang tính chọn lọc hơn là Scopus, vì Scopus có xu hướng thu nhập những tập san có phẩm chất thấp và cả tập san dỏm.

Điều đó có nghĩa là các tập san khoa học không có uy tín như nhau. Chẳng hạn một tập san chuyên khoa nội tiết (Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism) và tập san New England Journal of Medicine, tuy thuộc nhóm Q1 nhưng uy tín và chất lượng khoa học thì rất khác nhau. Tập san Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism có tỉ lệ từ chối khoảng 20%, nhưng New England Journal of Medicine có tỉ lệ từ chối lên đến 90%. Do đó, cũng là công bố trên “tập san quốc tế”, nhưng không thể xem giá trị khoa học của bài báo như nhau.

Vấn đề hiện nay là Hội đồng chức danh giáo sư xem công bố trên các tập san ‘quốc tế’ có điểm tương đương nhau! Thậm chí một bài báo trên một chuyên san trong nước (ví dụ như Tạp chí Y học Thực hành) lại có điểm y chang như một bài báo trên New England Journal of Medicine Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism! Theo tôi đó là một sự vô lí.

Sự vô lí này không chỉ làm sai lệch cách đánh giá ứng viên cho chức danh giáo sư, mà còn vô hình chung khuyến khích làm nghiên cứu có chất lượng thấp. Người ta sẽ nghĩ cần gì phải gian khổ làm nghiên cứu đẳng cấp New England Journal of Medicine, chỉ cần làm nghiên cứu phù hợp với tập san trong nước là cũng có đủ điểm.

Tôi đề nghị tạm thời lấy hệ số ảnh hưởng (impact factor) và chỉ số H để xếp hạng tập san cho mỗi chuyên ngành. Dù biết rằng hệ số ảnh hưởng có khiếm khuyết (thậm chí bị phản đối), nhưng trong thực tế hầu hết các đại học và hội đồng đề bạt chức vụ khoa bảng đều lấy hệ số ảnh hưởng làm thước đo để đánh giá uy tín của một tập san. Ứng viên có bài trên các tập san hàng đầu trong mỗi chuyên ngành phải được đánh giá cao và ưu tiên hơn ứng viên công bố nhiều bài trên các tập san ‘làng nhàng’.

Đề nghị 3: phải phân biệt thể loại bài báo khoa học

Một vấn đề khác nữa là khái niệm ‘bài báo khoa học’. Hiện nay, tiêu chuẩn để công nhận chức danh giáo sư là 5 bài, còn phó giáo sư là 3 bài. Nhưng qui định không nói bài báo đó là gì. Theo tôi, đó là một thiếu sót nghiêm trọng.

Trong thực tế, có nhiều loại bài báo khoa học và giá trị của các bài báo cũng không tương đương nhau:

  • Bài nguyên gốc (original contribution), có nghĩa là bài từ nghiên cứu nghiêm chỉnh, có giả thuyết, có phương pháp phân tích, và dữ liệu là dữ liệu gốc lần đầu được công bố;
  • Bài case report (báo cáo ca lâm sàng), không phải là bài báo khoa học nguyên gốc, vì chẳng có giả thuyết hay mục tiêu gì cả, mà chỉ là mô tả;
  • Bài tổng quan (review), tức là một dạng ‘đọc báo dùm bạn’, điểm qua y văn từ những bài đã công bố trước đây. Đây không phải là nghiên cứu đúng nghĩa;
  • Bình luận, tức những “Letter to the Editor”, “Commentary”, “Debate”, “Editorial”. Đây là những ý kiến cá nhân, cũng không thể xem là nghiên cứu.

Hiện nay, bài báo loại nào cũng được xem là “công bố quốc tế” và có giá trị như nhau! Nếu ứng viên có 10 bài case report được xem hơn người có 3 bài nguyên thuỷ! Đó là một sự vô lí vì trung bình hoá khoa học.

Tôi đề nghị để xét duyệt công nhận chức danh giáo sư, chỉ nên dựa vào bài nguyên gốc. Các bài báo khác (case report, tổng quan, ý kiến) không được tính, nhưng có thể dùng để đánh giá vị thế của ứng viên trong chuyên ngành.

Đề nghị 4: xem xét đến vai trò của tác giả trong bài báo khoa học

Ngày nay, nghiên cứu khoa học là một môi trường hợp tác đa ngành, và do đó mỗi bài báo có nhiều tác giả. Tính trung bình một bài báo y khoa có khoảng 5-7 tác giả. Nhưng trong thực tế cũng có những trường hợp tập đoàn khoa học mà bài báo có hơn 1000 tác giả! Do đó, vấn đề đặt ra là làm sao đánh giá được đóng góp của tác giả ứng viên trong bài báo.

Hiện nay, cách làm của Hội đồng là … trung bình hoá. Chẳng hạn như một bài có 5 tác giả (kể cả ứng viên), thì điểm của ứng viên được xem là 1/5. Đó cũng là một sự vô lí. Trong ‘văn hoá’ công bố khoa học ngành y sinh học, tác giả chánh thường là tác giả liên lạc (correspondence authors). Tác giả liên lạc có thể đứng tên tác giả đầu, nhưng thường là người đứng tên tác giả cuối.

Đề bạt chức vụ khoa bảng là một hình thức ghi nhận đóng góp cho khoa học, nên tôi đề nghị hội đồng chỉ xem xét những bài ứng viên là tác giả chánh, hoặc tác giả đầu, hoặc tác giả cuối. Một qui ước bất thành văn ở nước ngoài là ứng viên phải là tác giả chánh, tác giả đầu, và tác giả cuối của ít nhứt là 60% bài báo khoa học. Dĩ nhiên, các bài khác mà ứng viên là đồng tác giả vẫn được tính, nhưng đó không phải là những bài quyết định.

Đề nghị 5: hãy bỏ sự lệ thuộc vào con số bài báo

Hiện nay, qui định về số bài báo khoa học rất cứng nhắc và thấp. Chẳng hạn như qui định rằng “ứng viên PGS phải có ít nhất 2 bài báo quốc tế, GS phải có 3 bài báo quốc tế” là thấp và chưa rõ ràng. Nghiên cứu sinh ngày nay khi tốt nghiệp cũng có thể công bố ít nhất 2 bài báo khoa học trên các tập san trong danh mục WoS. Và, nếu nghiên cứu sinh qua giai đoạn hậu tiến sĩ 3 năm thì số bài báo khoa học tối thiểu là 6. Do đó, ứng viên giáo sư mà chỉ có 3 bài thì khó thuyết phục các nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ.

Theo tôi, không nên qui định về số bài báo khoa học, vì số lượng không nói lên chất lượng. Ngoài ra, sự lệ thuộc này rất dễ bị lạm dụng bằng cách công bố những nghiên cứu nhỏ và không quan trọng. Tôi đề nghị dùng chỉ số H để đánh giá. Ứng viên có chỉ số H bằng 10 có nghĩa là ứng viên đó đã công bố 10 bài báo khoa học, với số lần trích dẫn tối thiểu là 10. Do đó, chỉ số H phản ảnh cả số lượng và chất lượng, và được các hội đồng đề bạt chức danh giáo sư nước ngoài sử dụng rất phổ biến.

Trong trường hợp Việt Nam, có thể lấy số liệu về chỉ số H cho cấp phó giáo sư ngành y là 5, và cấp giáo sư là 15 làm điểm tham khảo tối thiểu. Cần nói thêm rằng ở Mĩ, ứng viên phó giáo sư y thường có chỉ số H trung bình là 10, và giáo sư là 22.

Tiến tới chuẩn quốc tế

Ở các các đại học phương Tây, mục tiêu của việc đề bạt (hay ‘công nhận’) giáo sư là nhằm nhận dạng nhân tài trong khoa bảng, nhận dạng người có khả năng lãnh đạo. Lãnh đạo thể hiện qua đa vai trò của ứng viên đó: là học giả, là nhà nghiên cứu, là thành viên của cộng hoà học thuật, là người có thẩm quyền, và là người phản biện xã hội. Một người chỉ có công bố khoa học mà thiếu những hình ảnh kia thì vẫn chưa thể là giáo sư.

Dựa trên nguyên lí đó, người ta đề ra 3 trụ cột về các tiêu chuẩn: nghiên cứu khoa học; giảng dạy và đào tạo; và phục vụ cho chuyên ngành, xã hội, và tư cách lãnh đạo. Nghiên cứu khoa học được thể hiện qua quá trình nghiên cứu và công bố khoa học, phẩm chất khoa học, và tầm ảnh hưởng. Không phải có hàng chục bài trên Nature hay Science hay có nhiều trích dẫn là tự động được bổ nhiệm giáo sư; người ta phải xét toàn diện quá trình nghiên cứu.

Giảng dạy và đào tạo được thể hiện qua các hoạt động như phụ trách các course học, thể hiện sự cách tân trong giảng dạy, kèm theo chứng cớ đánh giá của sinh viên. Giảng dạy còn bao gồm cả soạn sách giáo khoa (mặc dù tiêu chuẩn này không quan trọng cho giáo sư ngạch nghiên cứu). ‘Giảng dạy’ ở đây cũng có nghĩa là hướng dẫn sinh viên hậu đại học như nghiên cứu sinh, và hướng dẫn nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ.

Phục vụ qua các hoạt động chuyên ngành, xã hội, và lãnh đạo bao gồm rất nhiều tiêu chuẩn về đóng góp cho chuyên ngành; đóng góp cho quốc gia nói chung; và vai trò lãnh đạo về tri thức và khoa học. Lãnh đạo tri thức và khoa học (‘intellectual leadership’ và ‘scientific leadership’) rất quan trọng, đặc biệt ở cấp giáo sư thực thụ. Lãnh đạo thể hiện qua các vai trò lãnh đạo trong hiệp hội và tập san khoa học. Lãnh đạo khoa học còn thể hiện qua các bài xã luận và bình luận được các tập san mời viết. Lãnh đạo khoa học còn thể hiện qua các giải thưởng, các fellowship danh giá, và chức danh danh dự từ các đại học khác.

Do đó, để đề bạt giáo sư theo chuẩn mực quốc tế, thì cần phải soạn lại qui chuẩn. Bộ tiêu chuẩn về công bố khoa học phải phản ảnh sự khác biệt và công bằng giữa 2 ngạch giáo sư chuyên về nghiên cứu khoa học và giáo sư chuyên về giảng dạy. Điều quan trọng là giáo sư không phải chỉ là người công bố khoa học hay giảng dạy, mà còn phải có đóng góp cho xã hội (qua phản biện xã hội) cho chuyên ngành.

Tóm lại, những qui định về công bố khoa học trong việc xét duyệt công nhận chức danh giáo sư còn nhiều khiếm khuyết. Dựa vào các danh mục như Scopus và Pubmed hay ESCI một cách vô điều kiện dễ dẫn đến sai lầm về việc đánh giá và nhận dạng tập san dỏm. Ngay cả với tập san chánh thống, việc đánh giá theo ‘trung bình chủ nghĩa’ không chỉ vô lí mà còn gián tiếp khuyến khích nghiên cứu chất lượng thấp. Sự lệ thuộc vào số lượng bài báo làm lu mờ chất lượng là một khiếm khuyết dẫn đến sự bất công giữa các ứng viên. Những 5 đề nghị trình bày trong bài này nhằm khắc phục những thiếu sót đó và giúp việc xét duyệt chức danh giáo sư gần hơn với tiêu chuẩn ở các nước tiên tiến.

TB: Bài đã đăng trên báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần 8/11/2020

Trò chuyện đầu tuần: Đăng bài trên tập san “dỏm” và đạo đức công bố

Tôi hân hạnh giới thiệu một bài phỏng vấn tôi về vấn đề tập san dỏm. Đây là bài trong mục “Trò chuyện đầu tuần” của báo Người lao động chung quanh vấn đề một số ứng viên chức danh giáo sư được cho là đã công bố trên những tập san dỏm. Người ta cho rằng đó là “gian lận”, nhưng tôi không nghĩ vậy; tôi nghĩ vấn đề là vi phạm qui ước về publication ethics mà thôi.

https://nld.com.vn/giao-duc-khoa-hoc/gs-nguyen-van-tuan-dang-bai-tren-tap-san-dom-la-vi-pham-dao-duc-cong-bo-20201101213730725.htm

Theo GS Nguyễn Văn Tuấn, Viện Garvan (Úc), công bố bài báo khoa học trên tập san “dỏm” không phải là “tội”, mà là vi phạm đạo đức công bố (publication ethics). Ở Việt Nam, các trường ĐH không có huấn luyện về đạo đức công bố

.Phóng viên: Giáo sư (GS) từng chia sẻ đã cảnh báo về “kỹ nghệ” xuất bản bài báo khoa học “dỏm” cách đây 5 năm nhưng không được quan tâm. Đó có phải lý do mà năm trước khi thấy có ứng viên GS, phó giáo sư (PGS) có bài báo công bố trên những tập san phi chính thống ông đã không quyết liệt lên tiếng?

– GS NGUYỄN VĂN TUẤN: Kỹ nghệ xuất bản khoa học dỏm bắt đầu từ hơn 10 năm trước. Lúc đó (tức khoảng năm 2010 – 2012) các ĐH bên Úc đã từng lúng túng trong việc xử lý các hồ sơ đề bạt chức danh GS và đơn xin tài trợ cho nghiên cứu khoa học, vì ứng viên có những bài báo mà tên tập san rất “lạ”, người trong chuyên ngành không biết đến. Đó chính là những “predatory journal” hay “tập san săn mồi”, chứ không phải là những tập san khoa học chính thống.

Là người hay ngồi trong các hội đồng xét duyệt hồ sơ cho chức danh GS, tôi sớm nhận ra vấn đề này có thể sẽ ảnh hưởng đến các đồng nghiệp trong nước. Năm 2014, tôi viết bài đầu tiên về tiêu chí để nhận dạng tập san dỏm. Mấy năm sau đó, năm nào tôi cũng viết một hay 2 bài trên các tạp chí khoa học hay báo phổ thông trong nước để cảnh báo rằng kỹ nghệ xuất bản “dỏm” sẽ đến Việt Nam.

Nhưng dạo đó, công bố khoa học chưa là tiêu chuẩn để xét duyệt công nhận chức danh GS. Do đó, những cảnh báo của tôi chẳng ai quan tâm và chẳng ai chú ý. Tuy nhiên, các bạn trẻ và những người được đào tạo ở nước ngoài thì hiểu rõ những gì tôi cảnh báo. Năm ngoái, tôi cũng thấy vài ứng viên có bài trên các tập san “dỏm” và tôi nghĩ hội đồng ngành y sẽ báo cho ứng viên biết nhưng rất tiếc là việc đó không xảy ra.

Năm nay, từ tháng 9-2020, tôi đã nhận được vài thư của bạn đọc cho biết có nhiều ứng viên ngành y công bố trên tập san “dỏm” và tôi cũng nghĩ hội đồng sẽ báo cho ứng viên biết. Thế nhưng một lần nữa, việc đó không xảy ra.

.Nhiều ứng viên GS, PGS đang bị nghi ngờ gian dối vì đăng bài báo khoa học trên những tập san mở Open Access (OA). Tuy nhiên, GS lại cho rằng OA không phải là những tập san “dỏm”, ông có thể giải thích rõ hơn về điều này?

– Trước hết, tôi không nghĩ các ứng viên gian dối. Họ báo cáo đầy đủ những bài báo họ công bố theo đúng cái mẫu đơn của hội đồng, họ không giấu giếm gì cả, nên không thể nói họ gian dối được.

Để tôi nói thế này cho dễ hiểu: 100% các tập san “dỏm” OA nhưng 50% (tôi đoán) các tập san OA là chính thống. Do đó, không thể nói bài báo công bố dưới dạng OA là “dỏm” được. Để biết “dỏm” hay thật, phải biết tập san đó là chính thống hay phi chính thống.

Ví dụ, Osteoporosis International là tập san chính thống (thuộc Hiệp hội Loãng xương thế giới) cho phép tác giả công bố bài báo bằng mô thức truyền thống hay OA. Nếu tác giả chọn mô thức truyền thống thì ấn phí chừng 500 USD nhưng bản quyền thuộc về nhà xuất bản, độc giả phải trả tiền (chừng 30-50 USD) để đọc bài báo. Nếu tác giả chọn mô thức OA thì ấn phí là khoảng 1.500 USD nhưng bản quyền thuộc về tác giả và tất cả công chúng trên thế giới đều có thể truy cập được mà không cần phải trả chi phí.

Còn các tập san “dỏm” thì như nói trên tất cả đều là OA. Chính vì điều này mà nhiều người ngộ nhận rằng bài báo trên tập san OA là “dỏm”!

Nói cách khác, ứng viên công bố trên tập san OA không phải là cái “tội”. Công bố trên tập san “dỏm” cũng không phải là “tội”, mà là vi phạm đạo đức công bố (publication ethics). Cũng cần nói thêm rằng ở Việt Nam, các trường ĐH không có huấn luyện về đạo đức công bố, nên cũng khó có thể trách ứng viên.

.Nếu quan điểm của GS cho rằng các ứng viên GS, PGS không gian đối, vậy chúng ta sẽ ứng xử thế nào với những bài báo vi phạm đạo đức công bố?

– Rất dễ giải quyết: Không công nhận bất cứ bài báo nào trên các tập san “dỏm” hay tập san phi chính thống. Làm như vậy sẽ không chỉ đem lại công bằng cho các ứng viên khác công bố trên tập san chính thống, mà còn góp phần nâng cao phẩm chất nghiên cứu khoa học.

.Có ý kiến cho rằng việc mua bài để được công nhận chức danh đã có từ lâu chứ không phải đến nay. GS nghĩ sao về tiêu cực này?

– Có lẽ đúng như vậy. Ở bên Trung Quốc có những công ty truyền thông chuyên làm “nghiên cứu salon” (tức là dùng dữ liệu của người khác mà chẳng tự mình làm nghiên cứu thực nghiệm) sản xuất ra nhiều bài báo cho đủ thứ chuyên ngành. Họ bán bài báo cho người có nhu cầu nhưng họ chỉ lấy tiền (giá từ 5.000 đến 10.000 USD) khi bài báo được công bố. Bài báo trên tập san có hệ số IF càng cao thì giá càng cao. Có khi họ bán một bài báo cho nhiều “khách hàng”.

Ở Việt Nam cũng có thị trường bán bài báo kiểu này. Họ quảng cáo trên mạng về dịch vụ phân tích mướn và viết mướn. Họ thường tập trung vào các bài báo loại “case report” (báo cáo ca lâm sàng) và “meta-analysis” (phân tích tổng hợp) vì những bài báo loại này dễ thực hiện mà chẳng tốn công sức gì đáng kể, chỉ cần ngồi nhà cũng làm được.

.Quyết định 37 của Thủ tướng Chính phủ dù đã có nhiều đổi mới nhưng có vẻ vẫn chưa đủ thực chất và khiến người ta có thể dễ dàng “lách luật” như đã thấy. Làm thế nào để việc xét công nhận chức danh GS, PGS thực chất, không còn xu hướng công bố bài báo trên các “tập san săn mồi”?

– Tôi nghĩ Quyết định 37 có những thay đổi nhưng chưa đủ và có phần chưa thuyết phục. Chẳng hạn như quy định rằng “ứng viên PGS phải có ít nhất 3 bài báo quốc tế, GS phải có 5 bài báo quốc tế” là thấp và chưa rõ ràng. Nghiên cứu sinh ngày nay khi tốt nghiệp cũng có thể công bố ít nhất 2 bài báo khoa học trên các tập san trong danh mục ISI. Và, nếu nghiên cứu sinh qua giai đoạn hậu tiến sĩ 3 năm thì số bài báo khoa học tối thiểu là 6. Ấy vậy mà ứng viên PGS quy định chỉ có 3 bài thì khó thuyết phục.

Theo tôi, không nên quy định về số bài báo khoa học, vì số lượng không nói lên chất lượng. Đề bạt GS phải đặt nặng chất lượng chứ không phải chỉ đơn thuần số lượng. Có một chỉ số phản ánh cả số lượng và chất lượng, gọi là chỉ số H và đó mới là tiêu chuẩn tối thiểu để công nhận chức danh GS.

Ngoài ra, quy định không nói rõ thế nào là “bài báo quốc tế”. Đó là bài báo trên tập san nào? Đó là bài báo thuộc thể loại nào? Báo cáo ca lâm sàng, hay tổng quan, bình luận? Đây chính là một trong những lý do mà ứng viên có thể “lách” bằng cách công bố những bài đơn giản và chất lượng thấp trên tập san phi chính thống.

Tôi nghĩ vấn đề loại bỏ các tập san phi chính thống không khó. Tôi đề nghị trước hết chỉ công nhận các tập san trong danh mục Clarivate (tức ISI trước đây) vì đây là danh mục chọn lọc hơn Scopus. Cần nói thêm rằng danh mục Scopus có nhiều tập san đáng ngờ và “dỏm” và mỗi năm họ phải loại bỏ hàng 500 tập san vì gian lận về trích dẫn và… dỏm. Kế đến là chỉ dành ưu tiên cho các tập san do các hiệp hội khoa học chủ quản, hoặc/và xuất bản bởi các nhà xuất bản học thuật nổi tiếng như Elsevier, Springer-Nature, Wiley, Sage, Taylor & Francis, Routledge, Oxford, Cambridge, Harvard, MIT, Academic Press…

Cần soạn lại quy chuẩn đề bạt

Theo GS Nguyễn Văn Tuấn, để đề bạt GS theo chuẩn mực quốc tế thì cần phải soạn lại quy chuẩn. Chẳng hạn như phải phân biệt 2 ngạch GS: chuyên về nghiên cứu và chuyên về giảng dạy. Bộ tiêu chuẩn về công bố khoa học phải phản ánh sự khác biệt và công bằng giữa 2 ngạch. GS không phải chỉ là người công bố khoa học hay giảng dạy, mà còn phải có đóng góp cho xã hội (qua phản biện xã hội) cho chuyên ngành. GS còn phải chứng tỏ là một lãnh đạo tri thức được thể hiện qua các thước đo cụ thể. Do đó, tôi đề nghị 3 “trụ cột” tiêu chuẩn: nghiên cứu khoa học, giảng dạy và đóng góp cho xã hội và chuyên ngành.

Có thể sai lầm nếu xét công nhận giáo sư dựa vào Scopus, Pubmed

Xác định tập san khoa học chánh thống là trọng tâm trong việc xét duyệt công nhận chức danh giáo sư ở Việt Nam. Hội đồng giáo sư ngành y dựa vào danh mục Pubmed, Scopus, và Web of Science (WOS) là một tiến bộ. Nhưng tôi nghĩ vẫn tồn tại vấn đề, đặc biệt là danh mục Pubmed, Scopus và ESCI vẫn có những tập san phi chánh thống hoặc “tập san dỏm”.

“Tập san dỏm” được định nghĩa hay hiểu là những trạm xuất bản giả danh tập san khoa học chuyên xuất bản những bài báo lừa bịp để lấy tiền [1]. Các tập san này không thuộc bất cứ hiệp hội khoa học nào, và không có cơ chế bình duyệt nghiêm chỉnh, bởi vì họ không quan tâm đến khoa học mà chỉ là lợi nhuận. Các trạm xuất bản này còn được biết đến cái tên “Predatory Journals” hay “tập san săn mồi”. Hiện nay, trên thế giới có hơn 12,000 “tập san săn mồi”, mỗi năm công bố hơn 400,000 bài báo, và thị trường của họ hơn 74 triệu USD (số liệu 2014) [1].

‘Mồi’ của các tập san này là các nhà khoa học thường ở các nước phát triển. Nhưng ngay cả các nhà khoa học ở các nước tiên tiến cũng có khi trở thành ‘mồi’ của các tập san dỏm. Có nhiều lí do để người ta công bố trên tập san dỏm: áp lực công bố khoa học để giữ vị trí hay biên chế; tập san có công bố những bài hợp với nội dung bài báo của tác giả; vì nghiên cứu có chất lượng nghiên cứu thấp nên không thể công bố trên các tập san khác; vì bị các tập san khác (chánh thống?) từ chối. Khoảng 35% những người trả lời cho biết họ đã nộp bài báo cho một tập san chánh thống và bị từ chối, trước khi nộp cho tập san dỏm; vì được tập san dỏm mời công bố; và 41% cho biết họ chọn vì qua các email quảng cáo.

Ở Việt Nam, theo quan sát của chúng tôi, đã có ít nhứt 500 bài báo trên các tập san dỏm trong thời gian 10 năm qua. Hiện tượng công bố trên tập san dỏm đã xảy ra lâu, và ngay cả năm ngoái cũng có ứng viên chức danh công bố trên tập san dỏm.

Tập san dỏm chánh thống

Bên cạnh tập san dỏm là tập san tạm gọi là “chính thống”. Trên thế giới có hơn 100.000 tập san khoa học chính thống, nhưng chỉ có một số ít được công nhận. Công nhận ở đây hiểu theo nghĩa được chấp nhận đưa vào các danh mục như Web of Science (WoS, thuộc Công ty Clariavate Analytics), Scopus (thuộc tập đoàn xuất bản Elsevier), ESCI (Emerging Scources Citation Index, thuộc Công ty Clarivate Analytics), và Pubmed (thuộc Thư viện Quốc gia Mỹ).

Danh mục WoS được khởi động từ năm 1997, nhưng lịch sử hình thành thì đã có từ lúc công ti này thuộc Viện thông tin khoa học (ISI) do Eugene Garfield thành lập vào thập niên 1960. Các tập san được thu nạp vào danh mục WoS phải trải qua một quá trình tuyển chọn 3 bước và tương đối nghiêm ngặt. Hiện nay, số tập san trong WoS là 28.560, nhưng chỉ có 20.219 là còn hoạt động thường xuyên. Nhìn chung, các tập san trong WoS được cộng đồng khoa học và y khoa đánh giá cao.

Vì sự xuất hiện và tăng trưởng của mô thức xuất bản Mở (Open Access), năm 2015 Clarivate thành lập một danh mục khác có tên là ESCI. Như tên gọi, các tập san trong danh mục ESCI được xem là ‘mới nổi’ và vẫn còn trong giai đoạn ‘thách thức’ để được thu nạp vào WoS. Hiện nay, theo Clarivate số tập san trong danh mục ESCI là trên 7800, nhưng con số này tăng hàng năm.

Danh mục Scopus được tập đoàn xuất bản Elsevier thành lập vào năm 2004 như là một cạnh tranh với WoS của Clarivate. Số liệu năm 2019 cho thấy danh mục Scopus có 37.535 tập san, chỉ có 23.793 (tức 63%) là còn hoạt động thường xuyên [2].

Dĩ nhiên, có những tập san trong Scopus cũng có trong WoS. Riêng ngành y, tỷ lệ trùng hợp giữa hai danh mục là 46% [2]. Nhiều tập san y khoa trong Scopus không có trong WoS, nhưng tất cả tập san y khoa trong WoS thì đều có trong Scopus.

Vấn đề của danh mục Scopus

Nhìn chung, các tập san trong chuyên ngành y sinh học thuộc danh mục WoS chọn lọc hơn Scopus. Những con số trên cũng gián tiếp xác định điều đó. Lý do là WoS có những tiêu chuẩn nghiêm ngặt hơn Scopus để thu nạp tập san vào danh mục. Một tập san khoa học phải đạt 28 tiêu chuẩn về chất lượng, ban biên tập, cơ chế bình duyệt, tầm ảnh hưởng ,v.v. của WoS. Không chỉ đạt 28 tiêu chuẩn mà còn phải qua 3 bước, và đa số tập san bị từ chối ở bước đầu.

Tiêu chuẩn để vào danh mục Scopus có phần dễ dãi hơn WoS, và bao gồm: Có cơ chế bình duyệt rõ ràng; bài vở mang tính đa dạng địa phương (tức tác giả đến từ nhiều quốc gia); có đóng góp học thuật vào chuyên ngành; bản tóm tắt (abstract) rõ ràng; tuân thủ theo quy định về chất lượng và nội dung học thuật; bài báo dễ đọc và theo quy chuẩn chung; có trích dẫn các tập san trong Scopus; ban biên tập gồm những nhà khoa học danh tiếng; trang web có đầy đủ thông tin về đạo đức công bố và chi phí.

Chất lượng của tập san khoa học gắn liền với uy tín và tầm ảnh hưởng. Uy tín và tác động của một tập san có thể đo qua nhiều chỉ số, gồm: hệ số ảnh hưởng (impact factor, IF), chỉ số eigenfactor (EF), chỉ số H [3]. Tất cả đều ít hay nhiều dựa vào số lần các tác giả trích dẫn bài báo. Trong mỗi chuyên ngành, tập san nào có nhiều trích dẫn hay chỉ số IF cao thì đó là tín hiệu cho thấy nó có uy tín cao.

Vì các tập san có uy tín khác nhau, người ta phải tìm một cách phân nhóm. Nhóm SCImago dùng dữ liệu của Scopus và có sáng kiến phân nhóm theo tứ phân vị (quartile). Trong mỗi chuyên ngành, SCImago dùng số lần trích dẫn trong 3 năm, rồi chia các tập san trong chuyên ngành đó thành 4 nhóm: Q1 (quartile 1) bao gồm các tập san có trích dẫn cao top 25%; Q2 là các tập san nhóm 25-50%; Q3 là nhóm 75%; và Q4 là tứ phân vị 75-100% (thấp nhất).

Thường các tập san dỏm được xếp vào nhóm Q4 hay Q3, nhưng cũng có tập san leo lên nhóm Q2. Thậm chí, có tập san mới ra đời 2-3 năm được xếp vào nhóm Q1. Điều này cho thấy cách phân nhóm có vấn đề. Không đại học nào ở Australia dùng cách phân nhóm tập san của SCImago để đánh giá ứng viên.

Một sự thật ít người chú ý đến là nhiều tập san dỏm và phi chính thống có thể được “kết nạp” vào danh mục Scopus. Các tập san này cố gắng đạt tiêu chuẩn của Scopus, nhưng sau khi đã được thu nạp thì người ta mới phát hiện họ làm việc không theo đúng các quy ước về đạo đức công bố (publication ethics).

Những vi phạm về đạo đức công bố của các tập san dỏm thường là ban biên tập “ma”, tức không có người thật hay người giả mạo; cơ chế bình duyệt không nghiêm chỉnh; mưu mẹo để có trích dẫn và tăng impact factor; khuynh đảo học thuật có tổ chức. Có một số tập san được thu nhận vào Scopus nhưng chất lượng ban biên tập, bình duyệt, bài báo và nhất là quá trình phát triển về trích dẫn của tập san này (chủ yếu từ các tác giả Ấn Độ) rất đáng ngờ đối với dân trong chuyên ngành.

Số lượng tập san dỏm hay phi chính thống trong Scopus có thể nói là nhiều nhất so với các danh mục khác, và do đó thường bị loại khỏi danh mục. Chẳng hạn năm 2017, có hơn 600 tập san bị loại khỏi danh mục Scopus. Theo một phân tích, khoảng 46% tập san trong nhóm Q4, 41% trong nhóm Q3, 10% trong nhóm Q2 và 3% trong nhóm Q1 bị loại [4]. Ngoài ra, một phân tích trên 944 tập san được xác định là dỏm, thì có đến 56 tập san có trong danh mục Scopus [5].

Nhưng mỗi năm cũng có vài trăm tập san được thu nạp vào Scopus. Nói cách khác, sự “chu chuyển” của các tập san trong danh mục Scopus là khá cao. Nhưng điều quan trọng là số tập san dỏm trong Scopus nhiều đến mức độ phải xem xét tiểu chuẩn về chất lượng. Đó chính là lý do cộng đồng khoa học không bao giờ đánh giá xếp hạng theo Q1-Q4 là đáng tin cậy [4].

Vấn đề của danh mục Pubmed

Pubmed thực chất không phải là danh mục mà là thư viện trực tuyến cho chuyên ngành y sinh học. Pubmed do Thư viện Quốc gia Mỹ quản lý. Nói là thư viện của Mỹ, nhưng thật ra đó là thư viện y sinh học toàn cầu, là nơi các bác sĩ, nhân viên y tế, nhà khoa học tham khảo hàng ngày. Tính trung bình mỗi ngày có hơn 2,5 triệu người trên khắp thế giới sử dụng Pubmed.

Số tập san trong thư viện Pubmed khoảng 7.000, nhưng con số này tăng mỗi năm. Số bài báo khoa học trong thư viện Pubmed khoảng 27 triệu và tăng mỗi ngày. Một số bài báo trong Pubmed được lưu trữ dưới dạng miễn phí (tức Pubmed Central hay PMC).

Nhưng Pubmed ngày càng có vấn đề. Trong vài năm gần đây, bất cứ ai có kinh nghiệm sử dụng Pubmed đều thấy những “tập san lạ” mà người trong chuyên ngành chưa bao giờ biết đến hay thuộc bất cứ hiệp hội khoa học nào. Nói thẳng đó là những tập san dỏm hay phi chính thống, vì chỉ cần đọc vài bài trên các tập san đó là người trong ngành nhanh chóng nhận ra những bài báo bậy bạ. Có những bài quảng bá cho những liệu pháp điều trị nguy hiểm.

Do đó, giới y khoa rất quan tâm đến chất lượng của Pubmed và họ đã cảnh báo nhiều lần. Theo giáo sư Franca Deriu, người từng nghiên cứu về tập san dỏm trong Pubmed, đã có hơn 200 tập san dỏm trong lĩnh vực y sinh học trong Pubmed. Trong một bài bình luận trên Lancet [6], giáo sư Deriu và đồng nghiệp đã cảnh báo tình trạng này và yêu cầu Pubmed phải có những tiêu chuẩn tốt hơn nữa để sàng lọc tập san dỏm.

Chỉ chuyên ngành thần kinh học, có hơn 10% các tập san trong chuyên ngành này trong Pubmed được giới chuyên gia đánh giá là dỏm [7]. Một nghiên cứu khác cho thấy các danh mục như Scopus thậm chí còn có nhiều tập san dỏm hơn Pubmed [8].

Vấn đề của danh mục ESCI

Như đề cập trên, ESCI là một danh mục bao gồm những tập san khoa học mới ra đời, nhưng chủ yếu là Open Access. Thường, những tập san này mang tính địa phương, nhưng có tiềm năng trở thành những tập san đáng tin cậy.

Tuy nhiên, vì tiêu chuẩn thu nạp các tập san này có phần dễ dãi (so với WoS), nên một số tập san dỏm cũng len lỏi vào. Chẳng hạn như một phân tích trên Medical Archives [5] năm 2020 phát hiện 28 tập san dỏm (trong số 944) được thu nạp vào ESCI! Như vậy số tập san dỏm trong ESCI chỉ kém hơn Scopus, nhưng tỉ lệ tập san dỏm trong ESCI có thể cao hơn 2 lần so với Scopus [9].

Sự thật này cho thấy các hội đồng xét duyệt chức danh giáo sư phải rất cẩn thận với những ứng viên có công bố trên các tập san trong danh mục ESCI.

Chọn tập san nào cho việc xét duyệt chức danh giáo sư?

Bảng dưới đây tóm tắt và so sánh qui mô của sự hiện diện của các tập san dỏm trong các danh mục WoS, Scopus, Pubmed và ESCI. Những dữ liệu thực tế trong bảng cho thấy rõ ràng rằng Scopus, Pubmed và ESCI có vấn đề về tiêu chuẩn chọn tập san khoa học.

Qua những phân tích và sự thật trên, rất dễ thấy quyết định của Hội đồng Giáo sư Nhà nước dựa vào cách xếp hạng tập san trong danh mục theo Q1-Q4 (của SCImago), Pubmed, và ESCI là có vấn đề. Dựa vào 3 danh mục này một cách vô điều kiện, theo tôi có thể dẫn đến sai lầm và bất công. Khả năng sai lầm là vì tập san A năm nay được công nhận (theo quy định của hội đồng) nhưng năm sau bị loại ra, và như thế là gây bất công cho các ứng viên khác.

Tôi đề nghị một cách phân loại tập san chính thống và phi chính thống. Tập san chính thống do các hiệp hội khoa học chính thống làm chủ quản và xuất bản bởi các nhà xuất bản học thuật; hoặc do các nhà xuất bản học thuật (như Elsevier, Springer-Nature, Wiley, Sage, Taylor & Francis, Routledge, Oxford, Cambridge, Harvard, MIT, Academic Press) lập ra nhưng được công nhận bởi cộng đồng khoa học. Chỉ chấp nhận tập san trong danh mục WoS hoặc/và do hiệp hội khoa học quản lý vì tuyển chọn theo tiêu chuẩn tương đối nghiêm ngặt.

Tiêu biểu cho nhóm tập san thứ nhất là JAMA (thuộc Hiệp hội Y khoa Mỹ), BMJ (Hiệp hội Y khoa Anh), New England Journal of Medicine (thuộc Hiệp hội Y khoa bang Massachusetts – Mỹ), JCEM (Hiệp hội Nội tiết Mỹ). Nhóm hai bao gồm các tập san thuộc nhóm Lancet, Nature, eLife, PLoS Medicine, v.v. Không cần phân nhóm Q1-Q4 theo cách làm của SCImago bởi các tiêu chuẩn tôi nói ở trên đã tự động loại bỏ các tập san dỏm và phi chính thống.

Ngoài ra, cần lưu ý có những tập san mới thuộc các hiệp hội khoa học có thể chưa có trong Scopus hay WoS, nhưng là chính thống. Ví dụ Journal of Endocrine Society, Osteoporosis and Sarcopenia, JBMR Plus. Những tập san này nên được công nhận. Dĩ nhiên, chỉ có người có kinh nghiệm trong chuyên ngành mới có thể đánh giá chính xác tập san dỏm và chính thống.

Vấn đề đạo đức công bố

Tôi nghĩ vấn đề cấp bách hiện nay là đạo đức công bố. Theo một nghiên cứu tìm hiểu tại sao các nhà khoa học công bố trên tập san dỏm [10], các tác giả đưa ra 3 nhóm lý do: thể chế, kiến thức và chất lượng khoa học.

Lý do thể chế ở đây là đại học gây áp lực lên nhà khoa học về công bố khoa học, nhưng đại học lại không có chính sách về công bố khoa học và không có hình phạt những người công bố trên tập san dỏm. Thứ hai là bản thân nhà khoa học kém kiến thức về đạo đức công bố, không phân biệt được tập san dỏm và chính thống. Thứ ba là những người biết rõ tập san dỏm nhưng vẫn chọn công bố vì bài báo của họ có chất lượng thấp hoặc/và bị các tập san chính thống từ chối công bố.

Theo một khảo sát, khoảng 35% người trả lời cho biết đã nộp bài báo cho một tập san chính thống và bị từ chối, trước khi nộp cho tập san dỏm vì được tập san dỏm mời công bố; và 41% cho biết chọn vì qua các email quảng cáo [10].

Kỹ nghệ xuất bản dỏm làm vẩn đục khoa học, nhưng công bố trên những tập san dỏm không phải là gian lận khoa học, mà là vi phạm quy ước về đạo đức công bố (publication ethics). Đạo đức công bố bao gồm những điều lệ và quy ước giúp nhà khoa học phân biệt được tập san chính thống và phi chính thống và không công bố trên tập san dỏm.

Các đại học Việt Nam chưa có quy ước về đạo đức công bố. Do đó, tôi nghĩ các trường có thể tham khảo quy chuẩn về đạo đức công bố ở nước ngoài (như Đại học UNSW chúng tôi) để có chính sách rõ ràng về công bố khoa học và phải minh định rằng công bố trên tập san dỏm sẽ không chấp nhận. Những lớp tập huấn về đạo đức công bố dành cho tất cả nghiên cứu sinh, giảng viên và giáo sư là rất cần thiết. Làm được như vậy thì các tập san dỏm sẽ khó có cơ hội xâm nhập khoa học ở Việt Nam.

Tham khảo:

[1] Nguyễn Văn Tuấn. “Cẩm nang nghiên cứu khoa học: Từ ý tưởng đến công bố“. Nhà xuất bản Tổng Hợp TPHCM, 2017. Tái bản 2018, 2019, 2020 (trang 352-367).

[2] Texas A&M University Libraries. Web of Science versus Scopus: Journal Coverage Overlap Analysis.

[3] Nguyễn Văn Tuấn. Những thước đo để đánh giá tập san khoa học. Tạp chí Khoa học và Phát triển 28/4/2018.

[4] Cortegianiaet al. Inflated citations and metrics of journals discontinued from Scopus for publication concerns: the GhoS(t)copus Project. bioRxiv preprint doi: https://doi.org/10.1101/2020.03.26.007435.

[5] Nguyen Minh Duc, et al. Predatory Open Access Journals are Indexed in Reputable Databases: a Revisiting Issue or an Unsolved Problem. Med Arch 2020; 74(4): 318-322.

[6] Manca et al. PubMed should raise the bar for journal inclusion. Lancet 2017;390:734-5.

[7] Fiorini et al. Towards PubMed 2.0. eLife 2017; 6: e28801.

[8] Manca et al. Predatory Open Access in Rehabilitation. Archives of Physical Medicine and Rehabilitation 2017;98:1051-6.

[9] Somoza-Fernández et al. Presence of alleged predatory journals in bibliographic databases: analysis of Beall’s list. Melcior de Palau, 140. 08014 Barcelona.

[10] Cobey et al. Knowledge and motivations of researchers publishing in presumed predatory journals: a survey. BMJ Open 2019;9:e026516.

Phiên bản trên VNexpress

https://vnexpress.net/co-the-sai-lam-neu-xet-cong-nhan-giao-su-dua-vao-scopus-pubmed-4184968.html

Tại sao công bố trên tập san dỏm?

Kĩ nghệ xuất bản khoa học dỏm không chỉ làm vẩn đục khoa học mà còn nguy hiểm. Nguy hiểm là vì những dữ liệu công bố đã được người khác sử dụng để biện minh cho các phương pháp điều trị phi chánh thống và có thể tác hại đến bệnh nhân. Ngoài ra, công bố trên các tập san dỏm được xem là một việc làm phung phí con người, động vật, và tiền bạc [1].

Nhưng câu hỏi là tại sao có nhiều nhà khoa học công bố trên các tập san dỏm? Một công trình nghiên cứu trên BMJ Open [2] trả lời câu hỏi này và cung cấp thêm nhiều thông tin rất thú vị, giúp chúng ta hiểu hơn về những người chọn công bố trên tập san dỏm.

Công trình này là một ‘survey’ trực tuyến. Các nhà nghiên cứu trước hết nhận dạng những tác giả công bố trên tập san dỏm. Đây là những người có nghiên cứu dưới dạng thử nghiệm lâm sàng, nghiên cứu đoàn hệ, nghiên cứu quan sát, và nghiên cứu tiền lâm sàng. Họ gởi câu hỏi cho 583 người, nhưng chỉ có 82 người đồng ý sẵn sàng trả lời. Đa số các tác giả này là ở Ấn Độ (25%), Mĩ (21%) và Ethiopia (6%). Khoảng 60% trong số này là cấp giáo sư. Sau đây là tóm tắt những kết quả chánh từ nghiên cứu:

1. Tại sao chọn công bố trên tập san dỏm? Lí do là:

(a) áp lực công bố khoa học để giữ vị trí hay biên chế;

(b) tập san có công bố những bài hợp với nội dung bài báo của tác giả;

(c) vì nghiên cứu có chất lượng nghiên cứu thấp nên không thể công bố trên các tập san khác;

(d) vì bị các tập san khác (chánh thống?) từ chối. Khoảng 35% những người trả lời cho biết họ đã nộp bài báo cho một tập san khác và bị từ chối, trước khi nộp cho tập san dỏm;

(e) vì được tập san dỏm mời công bố; 41% cho biết họ chọn vì qua các email quảng cáo;

(f) vì được bạn bè giới thiệu;

(g) vì không được thầy cô hướng dẫn tập san nào là chánh thống;

(h) vì thấy tập san có địa chỉ ở Mĩ, Âu châu.

2. Kiến thức về tập san dỏm

  • 46% những người trả lời cho biết họ không nghĩ tập san họ chọn để công bố là tập san dỏm.
  • Ngay cả sau khi công bố và sau khi đã được cho biết rằng đó là tập san dỏm, họ vẫn nghĩ đó là tập san chánh thống!
  • Khoảng 28% cho biết họ sẽ công bố trên tập san dỏm một lần nữa, 37% nói không và 31% nói là ‘chưa biết’.

3. Vấn đề thể chế

  • 41% những người trả lời cho biết họ chịu áp lực công bố khoa học. Có 25% người trả lời cho biết nơi họ nghiên cứu có chỉ tiêu cụ thể phải công bố bao nhiêu bài mỗi năm.
  • Nhưng chỉ có 5% các đại học và trung tâm nghiên cứu có chánh sách cấm công bố trên các tập san dỏm.

4. Chi phí

Khoảng 45% cho biết họ không trả phí công bố. Số còn lại (55%) có trả ấn phí cho biết giá trung bình là 348 USD mỗi bài (nhưng dao động từ 30 đến 4000 USD).

5. Bình duyệt

83% người trả lời cho biết bài báo của họ qua bình duyệt, và 17% cho biết là không qua bình duyệt. Trong nhóm có bình duyệt. 80% cho biết họ thấy nội dung bình duyệt là có ích.

6. Tác động đến sự nghiệp?

Chừng 66% người trả lời cho biết sự nghiệp của họ không bị ảnh hưởng vì công bố trên tập san dỏm. Nhưng 34% cho biết họ bị cảnh cáo bằng hình thức khiển trách vì đã công bố trên tập san dỏm.

Tóm lại, kết quả nghiên cứu trên cho thấy có 3 nhóm lí do giải thích tại sao các nhà khoa học chọn công bố trên tập san dỏm: thể chế, kiến thức, và chất lượng khoa học. Lí do thể chế ở đây là đại học gây áp lực lên nha khoa học về công bố khoa học, nhưng đại học lại không có chánh sách về công bố khoa học và không có hình phạt những người công bố trên tập san dỏm. Lí do thứ hai là bản thân nhà khoa học kém kiến thức về đạo đức công bố, không phân biệt được tập san dỏm và chánh thống. Lí do thứ ba là những người biết là tập san dỏm nhưng họ vẫn chọn công bố vì bài báo của họ có chất lượng thấp hoặc/và bị các tập san chánh thống từ chối công bố.

Biết được 3 lí do đó cũng là gợi ý cho biện pháp phòng ngừa tập san dỏm. Các đại học và bệnh viện phải soạn chánh sách về công bố khoa học, và phải minh định rằng công bố trên tập san dỏm sẽ không chấp nhận mà còn bị phạt. Các đại học phải tổ chức các lớp học về Publication Ethics (Đạo đức Công bố) cho tất cả các nghiên cứu sinh, giảng viên, và giáo sư. Làm được như vậy thì các tập san dỏm sẽ khó có cơ hội xâm nhập khoa học ở Việt Nam.

***

[1] https://www.nature.com/news/stop-this-waste-of-people-animals-and-money-1.22554

[2] https://bmjopen.bmj.com/content/9/3/e026516

Về vấn đề tập san khoa học và công nhận chức danh giáo sư

Ở Việt Nam, các hội đồng giáo sư dùng cách phân loại tập san khoa học (kiểu Q1 – Q4) để xác định tập san chánh thống. Nhưng chính cách làm đó gián tiếp khuyến khích các ứng viên công bố trên tập san dỏm. Nếu không có cải cách về phân loại tập san thì vấn đề của năm nay sẽ còn xảy ra dài dài trong tương lai.

Phân biệt giữa tập san dỏm (phony) và chánh thống (legit). Tập san dỏm chỉ quan tâm đến tiền, tập san chánh thống quan tâm đến phẩm chất khoa học. Ref: https://libguides.rutgers.edu/c.php?g=644942&p=4519187

Trước hết, chúng ta phải xác định một lần nữa về danh từ: tập san và tạp chí. Tạp chí là magazine (như Scientific American, The Scientist) đăng những bài báo phổ thông, dễ hiểu, dành cho đại chúng, không có bình duyệt (peer-review), và không cần tài liệu tham khảo. Còn tập san là journal, thuật ngữ dùng để chỉ các chuyên san khoa học, đăng những bài mang tính hàn lâm, có bình duyệt, dành cho giới khoa học và phải có tài liệu tham khảo. Chúng ta đang bàn về tập san.

Trên thế giới ngày nay có chừng 50,000 tập san khoa học, và các tập san này nằm trong 2 danh mục chánh là Clarivate và Scopus. Trong danh mục Clarivate (ngày xưa là ISI) có chừng 21,000 tập san. Còn danh mục Scopus có chừng 36,000 tập san. Một số tập san nằm trong cả 2 danh mục. Nhìn chung, danh mục Clarivate mang tính chọn lọc hơn là Scopus, vì Scopus có xu hướng ‘kết nạp’ những tập san có phẩm chất thấp, thậm chí tập san dỏm.

“Tập san săn mồi” và Scopus

Các tập san “săn mồi” (predatory journals) hay đơn giản hơn là ‘tập san dỏm’ là những trạm thông tin, chớ không phải tập san khoa học đúng nghĩa. Chỉ cần một máy tính nối mạng ở Việt Nam hay bất cứ nơi nào trên thế giới, một người không liên quan gì đến khoa học có thể tạo ra hàng trăm ‘tập san’ như vậy. Các trạm thông tin này không có bất cứ hiệp hội khoa học nào là cơ quan chủ quản. Ban biên tập thì toàn những người mà người trong chuyên ngành không biết đến, hay nói chung là ‘lôm côm’. Vì ban biên tập lôm côm, nên các trạm thông tin này không có cơ chế bình duyệt đúng nghĩa. Vì cách vận hành như thế và vì muốn có một sự “chính danh”, các tập san dỏm này rất muốn được có trong danh mục Scopus và Clarivate.

Cách để các tập san dỏm được ‘kết nạp’ vào Scopus để được ‘chính danh’. Tiêu chuẩn để được kết nạp vào Scopus là như sau:

  • Có cơ chế bình duyệt rõ ràng;
  • Bài vở mang tính đa dạng địa phương (tức tác giả đến từ nhiều quốc gia);
  • Có đóng góp học thuật vào chuyên ngành;
  • Bản tóm tắt (abstract) rõ ràng;
  • Tuân thủ theo qui định về chất lượng và nội dung học thuật;
  • Bài báo dễ đọc và theo qui chuẩn chung;
  • Có trích dẫn các tập san trong Scopus;
  • Ban biên tập gồm những nhà khoa học danh tiếng;
  • Trang web có đầy đủ thông tin về đạo đức công bố và chi phí.

Tiêu chuẩn quan trọng nhứt mà Scopus không đòi hỏi là cơ quan chủ quản! Tức là ai cũng làm ra tập san! Không cần có hiệp hội khoa học nào đứng đằng sau.

Nhưng qui định là một chuyện, còn chuyện lạm dụng thì vô cùng đa dạng và Scopus không thể nào biết hết được. Chẳng hạn như có trạm xuất bản ép tác giả phải trích dẫn tập san này, tập san kia sao cho có ‘citation’ và đạt tiêu chuẩn của Scopus. Do đó, có những ‘tập san’ mới ra đời 2-3 năm mà đã nhảy tót lên đứng ngang hàng với các tập san tồn tại cả 50 năm! Nói chung, rất dễ để đưa một tập san lôm côm và dỏm vào Scopus.

Phân nhóm tập san theo tứ phân vị

Vì các tập san có chất lượng khác nhau, nên người ta phải tìm một cách phân nhóm. Nhóm SCImago dùng dữ liệu của Scopus và có sáng kiến phân nhóm theo tứ phân vị (quartile). Trong mỗi chuyên ngành, SCImago dùng số lần trích dẫn trong 3 năm, rồi chia các tập san trong chuyên ngành đó thành 4 nhóm:

  • Nhóm Q1 (quartile 1) bao gồm các tập san có trích dẫn cao top 25%;
  • Nhóm Q2 là các tập san với trích dẫn trong tứ phân vị 25-50%;
  • Nhóm Q3 là tứ phân vị 75%;
  • Nhóm Q4 là tứ phân vị 75-100% (tức thấp nhứt).

Thường, các tập san dỏm được xếp vào nhóm Q4 hay Q3, nhưng cũng có tập san leo lên nhóm Q2! Thậm chí, có tập san mới ra đời 2-3 năm nhảy lên nhóm Q1!

Thế nhưng các tập san dỏm này khi đã được thu nạp vào danh mục Scopus thì người ta mới phát hiện họ làm việc không theo đúng các qui ước về đạo đức công bố (publication ethics). Những vi phạm về đạo đức công bố của các tập san dỏm thường là (a) ban biên tập ma, tức không có người thật hay người giả mạo; (b) cơ chế bình duyệt không nghiêm chỉnh; (c) mưu mẹo để có trích dẫn và tăng impact factor; và (d) khuynh đảo học thuật có tổ chức. Có một tập san từ Việt Nam cũng được thu nhận vào Scopus nhưng chất lượng ban biên tập, chất lượng bình duyệt, chất lượng bài báo và nhứt là quá trình phát triển về citation của tập san này rất đáng ngờ đối với dân trong chuyên ngành.

Do đó, nhiều tập san dỏm sau khi đã được thu nạp vào danh mục Scopus thì ngay sau đó lại bị loại ra. Mỗi năm, có hơn 600 tập san bị loại khỏi danh mục Scopus! Nhưng mỗi năm cũng có vài trăm tập san được thu nạp vào Scopus. Nói cách khác, sự ‘chu chuyển’ của các tập san trong danh mục Scopus là khá cao. Đó chính là lí do tại sao cộng đồng khoa học elite không bao giờ đánh giá xếp hạng theo Q1-Q4 là đáng tin cậy.

Việc hội đồng giáo sư dựa vào cách xếp hạng Q1-Q4 để xem đó là tập san chánh thống, là một sai sót và tôi nghĩ cần phải thay đổi. Sai sót là vì tập san A năm nay được công nhận (theo qui định của hội đồng) nhưng năm sau bị loại ra, và như thế là gây bất công bằng cho các ứng viên.

Một cách phân loại tập san khác

Tôi đề nghị một cách phân loại tập san chánh thống và ‘phi chánh thống’. Tập san chánh thống là những tập san:

1. do các hiệp hội khoa học chánh thống làm chủ quản và xuất bản bởi các nhà xuất bản học thuật; hoặc

2. do các nhà xuất bản học thuật (như Elsevier, Springer-Nature, Wiley, Sage, Taylor & Francis, Routledge, Oxford, Cambridge, Harvard, MIT, Academic Press, v.v.) lập ra nhưng được công nhận bởi cộng đồng khoa học.

Tiêu biểu cho nhóm tập san thứ 1 là JAMA (thuộc hiệp hội y khoa Hoa Kì), BMJ (hiệp hội y khoa Anh), New England Journal of Medicine (thuộc hiệp hội y khoa bang Massachusetts), JCEM (Hiệp hội Nội tiết Hoa Kì), v.v. Nhóm 2 bao gồm các tập san thuộc nhóm Lancet, Nature.

Không cần phân nhóm Q1-Q4 theo kiểu SCImago. Tiêu chuẩn 1 & 2 đã tự động loại bỏ các tập san dỏm.

Không cần có trong Scopus hay Clarivate như là một tiêu chuẩn. Một tập san mới thuộc một hiệp hội khoa học có thể chưa có trong Scopus hay Clarivate, nhưng là tập san chánh thống. Ví dụ như Journal of Endocrine Society, Osteoporosis and Sarcopenia, JBMR Plus, v.v. tuy chưa có trong danh mục Clariavate hay Scopus, nhưng người trong chuyên ngành ai cũng biết là tập san chánh thống. Người ngoài ngành có thể không biết và không am hiểu đủ để đánh giá các tập san này.

Không có bảng phân nhóm hoàn chỉnh!

Trước đây, để đối phó với tình trạng lạm phát tập san khoa học, Hội đồng Nghiên cứu Úc (ARC) có đề ra một bảng xếp hạng gọi là ERA [Excellence of Research in Australia] rất thú vị và bài bản. Họ xếp hạng các tập san theo 4 nhóm: A*, A, B, và C. Tập san A* là thuộc nhóm top 5%, nhóm A (top 15%), nhóm B (top 30%), và C (bottom 50%).

Thế nhưng sau vài năm áp dụng, bảng xếp hạng này bị giới khoa học Úc phản đối kịch liệt. Họ chỉ ra rằng cách xếp hạng là vô duyên, chẳng hạn như tập san y khoa Úc có hạng A*, ngang hàng với Lancet! Thứ hai là chỉ có người trong chuyên mới biết thứ hạng của tập san, còn người ngoài ngành không thể nào đánh giá chính xác được. Thứ ba là cách đánh giá đó tạo ra một sự chạy đua mà tác hại nhiều hơn lợi ích, và dẫn đến những nghiên cứu đáng ngờ. Chỉ chưa đầy 5 năm áp dụng, bảng xếp hạng đó bị huỷ bỏ. (Thế nhưng cho đến nay, các đại học vẫn ngấm ngầm đánh giá ứng viên qua bảng xếp hạng ERA này).

Không có bảng xếp hạng nào là hoàn chỉnh cả. Bảng xếp hạng Q-1Q4 của SCImage quá đơn giản và dễ bị lợi dụng, không thể chấp nhận được. Bảng xếp hạng ERA là bài bản và công phu như vậy mà vẫn bị loại bỏ. Kinh nghiệm ở Úc cho thấy một lần nữa là cách xếp hạng máy móc không thể nào thoả đáng.

Tóm lại

Xin nói lại để nhấn mạnh: cách phân nhóm tập san theo kiểu của SCImago (Q1-Q4) là có vấn đề, vì tiêu chuẩn quá lỏng lẻo, dễ bị lạm dụng, và do đó các tập san dỏm vẫn có thể lọt vào danh mục. Trong bối cảnh Việt Nam, dựa vào cách phân nhóm này, hội đồng giáo sư rất dễ phạm sai sót trong việc thẩm định ứng viên cho các chức danh giáo sư.

Tôi đề nghị cách phân loại dựa trên cơ quan chủ quản và nhà xuất bản học thuật để sàng lọc tập san chánh thống chính xác và hợp lí hơn.

Vấn nạn tập san khoa học dỏm

Báo Thanh Niên nêu vấn đề tập san dỏm [1] rất đúng thời điểm. “Tập san” chớ không phải “tạp chí”. Trước đây, tôi và vài bạn khác đã nêu vấn đề này qua báo Tuổi Trẻ [2]. Lúc đó thì ít ai chú ý, vì công bố khoa học chưa hẳn là ưu tiên hay được quan tâm. Đến khi công bố khoa học trở thành tiêu chuẩn để đề bạt các chức vụ khoa bảng thì 2 vấn đề xảy ra: tập san dỏm và viết mướn.

Vấn đề thứ nhứt là tập san khoa học dỏm [2]. Hiện nay, có hàng vạn trang web dưới danh nghĩa tập san khoa học trên thế giới. Họ ‘săn’ đuổi các nhà khoa học từ các nước đang phát triển để tìm bài. Thật ra, nạn nhân của họ còn là các nhà khoa học từ các nước đã phát triển như Mĩ, Úc, Anh, Canada, Âu châu. Đã có không biết bao nhiêu người trở thành nạn nhân của các tập san dỏm này.

Trường ĐH Tôn Đức Thắng phải có hẳn chánh sách để phân biệt tập san dỏm và chánh thống. Ở Úc, cũng có nhiều đại học quan tâm đến vấn nạn tập san dỏm, và có biện pháp khắc phục. Nói chung, các ứng viên cho các chức vụ khoa bảng mà công bố trên tập san dỏm thì không được ‘tính điểm’ và thường gây khó chịu cho hội đồng xét duyệt.

Tuy nhiên, việc phân biệt tập san dỏm và chánh thống không hề đơn giản. Đối với các tập san dỏm hiển nhiên thì dễ nhận ra, nhưng với những tập san nằm giữa ranh giới dỏm và chánh thống thì rất rất khó khăn. Người công bố trên các tập san đáng ngờ đó không chấp nhận rằng đó là tập san dỏm, và họ tìm mọi cách biện minh. Biện minh chánh là tập san có trong Scopus hay một danh mục như Pubmed. Nhưng có tên trong Scopus hay Pubmed không phải là chứng chỉ của ‘chánh thống’.

Nhớ có lần chúng tôi phải tiêu ra cả giờ để giải thích cho ứng viên về một bài báo trên một tập san ung thư học (Oncotarget) rằng tại sao hội đồng không chấp nhận. Nhưng ứng viên cãi rằng tập san đó có trong Pubmed, ISI và có cả impact factor khá cao, vậy thì “các ông bà căn cứ vào gì để nói là … dỏm?” Rất khó thuyết phục. May quá, vài tháng sau thì tập san này bị loại khỏi ISI, nên dễ cho hội đồng thuyết phục ứng viên.

Có thời gian trường đòi liệt kê danh sách tập san dỏm để các nhà khoa học tránh. Ý tưởng nghe hay, nhưng không khả thi, bởi vì tập san dỏm mọc lên rất nhiều và rất nhanh. Cuối cùng thì chỉ nhờ vào đánh giá của chuyên gia, nhưng chuyên gia thì trình độ có khi có giới hạn. Nói chung là rất mất thì giờ và nhức đầu với vấn nạn tập san dỏm.

Vấn đề thứ hai là viết mướn và công bố mướn. Bài báo Thanh Niên [1] không đề cập đến vấn đề này, nhưng nó khá phổ biến bên Tàu và đang có mặt ở Việt Nam. Theo ‘mô hình viết mướn’ bên Tàu, công ti viết mướn sẽ sản xuất ra hàng loạt bài báo, thường là ‘meta-analysis’ (vì dễ làm), rồi gạ bán cho các nhà khoa học có nhu cầu. Họ chỉ cần để tên của nhà khoa học vào bài báo, và tìm tập san để công bố. Có khi một bài họ bán cho nhiều tác giả. Ở bên Tàu, các giảng viên cũng chịu áp lực công bố khoa học, nên họ có khi phải mua những bài báo như thế. Mỗi bài công ti viết mướn thường lấy giá từ 2000 đến 10,000 USD, tuỳ vào tập san.

Một số bạn cho biết dịch vụ viết mướn này đã có mặt ở Việt Nam, và họ cũng quảng cáo để tìm khách hàng. Tuy nhiên, không rõ họ lấy bao nhiêu tiền mỗi bài. Sự ra đời của dịch vụ kinh doanh bài báo khoa học như thế này chỉ làm vẩn đục môi trường khoa học mà thôi. Sợ rằng tình hình sẽ còn diễn biến phức tạp hơn trong tương lai.

_____

PS: Sẵn đây, tôi xin nêu ý kiến về cách dùng chữ ‘tạp chí’ và ‘tập san’. Chẳng hiểu sao báo chí Việt Nam (và cả giới khoa học) dùng chữ ‘tạp chí’; đáng lí ra phải là ‘tập san’. Tạp chí là magazine, thường đăng những bài báo phổ thông (như ‘Tuổi trẻ cuối tuần’) dễ hiểu, dành cho đại chúng, và không cần tài liệu tham khảo. Còn tập san là journal, thuật ngữ dùng để chỉ các chuyên san khoa học, đăng những bài mang tính hàn lâm và có bình duyệt, dành cho giới khoa học, và phải có tài liệu tham khảo (xem bảng phân biệt).

Chữ ‘Journal’ này có một nguồn gốc thú vị. Theo tìm hiểu của tôi thì nó xuất phát từ chữ ‘diurnal’ trong nhà thờ, có nghĩa là sách ghi chép giờ cầu nguyện. Tóm lại, ‘tập san’ là một ấn phẩm khoa học, còn ‘tạp chí’ là ấn phẩm dành cho giới độc giả đại chúng. Xin các bạn báo chí và đồng nghiệp lưu ý cho.

[1] https://m.thanhnien.vn/giao-duc/thi-truong-ngam-mua-ban-bai-bao-khoa-hoc-cong-bo-tren-tap-chi-quoc-te-dom-1265819.html

[2] https://cuoituan.tuoitre.vn/tin/cuoc-song-muon-mau/cua-so-khoa-hoc/20180314/tap-san-khoa-hoc-dom-va-nhung-van-nan/1429086.html

Làm thế nào để nhận dạng một tập san khoa học dỏm?

Một trong những khủng hoảng khoa học ngày nay là vấn nạn tập san dỏm (dịch nôm na từ ‘predatory journal’). Trong kì xét duyệt công nhận giáo sư vừa qua, một số phóng viên đã nêu vấn đề tập san dỏm làm ảnh hưởng đến quyết định của hội đồng GSNN. Nhưng câu hỏi căn bản vẫn là làm sao nhận ra một tập san dỏm. Cái note này xin chia sẻ vài đặc điểm tập san dỏm (1).

Sự ra đời của tập san dỏm

Kĩ nghệ công bố khoa học gần như không thay đổi trong 300 năm qua. Trong cái kĩ nghệ đó, nhà khoa học nộp bản thảo bài báo khoa học; bài báo sẽ qua một quá trình bình duyệt của đồng nghiệp (thường là nặc danh); dựa vào bình duyệt, ban biên tập sẽ quyết định chấp nhận hay từ chối bài báo. Nếu được chấp nhận cho công bố, tác giả phải trả tiền ấn phí. Tiền ấn phí có thể dao động trong khoảng 500 đến 5000 USD. Tập san càng nổi tiếng (như Nature, Science), ấn phí càng cao. Cái qui trình đó vẫn được duy trì từ ngày Royal Society công bố bài peer-reviewed đầu tiên cho đến ngày hôm nay đã hơn 300 năm.

Trong cái qui trình đó, nhà xuất bản là người hưởng lợi. Nhà xuất bản có rất nhiều tập san. Ngay cả các hiệp hội chuyên môn cũng nhờ nhà xuất bản quản lí việc ấn bản và phân phối tập san. Mỗi tập san có một ban biên tập, và thành viên ban biên tập thường là những nhà khoa học có tiếng trong chuyên ngành. Nhà xuất bản không trả lương cho ban biên tập, không trả phí cho các chuyên gia bình duyệt. Nhà xuất bản yêu cầu tác giả làm đúng theo format mà họ yêu cầu. Ấy vậy mà khi bài báo được công bố, nhà xuất bản lấy tiền ấn phí của nhà khoa học. Chẳng những ấn phí, mà nhà xuất bản còn kinh doanh bài báo khoa học; nếu ai muốn đọc bài báo đó, họ phải trả tiền (chừng 30-50 USD một bài). Nói cách khác, nhà xuất bản chỉ ‘ngồi một chỗ’, nhờ vào website, và nhờ người khác làm việc cho họ … miễn phí. Do đó, không ngạc nhiên khi người ta phân tích cho thấy tỉ lệ lợi nhuận của kĩ nghệ xuất bản còn cao hơn cả các công ti như Apple và Microsoft!

Cái mô hình kinh doanh đó trong thời đại internet đã làm cho nhiều người … thèm thuồng. Bạn chỉ cần mở một website, và dùng website đó tạo ra hàng trăm tập san, rồi kêu gọi các nhà khoa học nộp bài báo, và bạn chẳng cần phải bình duyệt hay bình duyệt qua loa, rồi công bố, và lấy phí. Bạn làm y chang như Springer và Elsevier làm. Họ có thương hiệu, còn bạn thì … chưa. Thay vì lấy ấn phí 1000 USD một bài, bạn chỉ lấy 200 USD một bài. Bạn cũng làm lời lớn.

Tình huống vừa mô tả trên không phải là tưởng tượng, mà đã trở thành thực tế. Thật vậy, trong thực tế đã có hàng ngàn nhà xuất bản sử dụng internet để kinh doanh như thế. Tính đến năm 2015, số trạm xuất bản trên thế giới là 996, và họ xuất bản 11,800 ‘journals’. Số bài báo các tập san này xuất bản lên đến 420,000 mỗi năm, tức là gần bằng số bài báo trên các tập san chánh thống! Đa số các trạm xuất bản này là từ Ấn Độ, Phi châu, Trung Đông, nhưng cũng có khoảng 10% xuất phát từ Mĩ. Trong giới khoa học, người ta gọi đó là kĩ nghệ xuất bản dỏm (predatory publishing), và các tập san mà họ xuất bản có tên là “predatory journal”. Chữ ‘predatory’ dĩ nhiên dùng hình tượng con cá mập tìm con mồi.

Cái motif kinh doanh của các tập san dỏm này đúng như con cá mập. Mỗi ngày, họ gởi hàng trăm, thậm chí hàng ngàn, email đến các tác giả để tìm bài. Cá nhân tôi mỗi ngày nhận 20-30 email như vậy, và hệ thống sàng lọc email của đại học phải gíup lọc ra. Nhìn qua email của họ, nếu có chút kinh nghiệm, rất dễ nhận ra. Họ thường có những cách viết rất mất lịch sự kiểu như “Dear Tuan Van Nguyen”, cách viết thì format vuông vắn, có khi có nhiều sai sót về văn phạm tiếng Anh hay cách dùng chữ ‘non-standard’. Chỉ cần nộp cho họ là tác giả không thể nào rút ra được, vì họ bằng mọi giá sẽ bám theo tác giả cho đến khi họ moi được tiền từ tác giả. Những email loại đó chẳng khác gì con cá mập đi tìm mồi.

Rất nhiều nhà khoa học là ‘con mồi’ (hay nạn nhân) của tập san dỏm. Con số có thể lên đến hàng trăm ngàn người. Tuy đa số những nạn nhân này là từ các nước đang phát triển (như Việt Nam), nhưng cũng có một số ít từ các nước tiên tiến như Úc, Anh, Mĩ, Canada, Pháp, Đức, v.v. Theo một thống kê thì chỉ tính riêng ở Đức đã có khoảng 5000 nhà khoa học công bố trên các tập san dỏm (2). Không ai biết có bao nhiêu nhà khoa học Việt Nam đã là nạn nhân của kĩ nghệ xuất bản dỏm, nhưng chỉ cần xem qua nhóm OMICS (một trạm dỏm khét tiếng dỏm ở Ấn Độ bị chánh phủ Mĩ kiện ra tòa) thì con số là hàng trăm người.

Một ví dụ về email của các trạm xuất bản dỏm. Cách viết email lôm côm, cách xưng hô mất lịch sự, và cách viết theo công thức hộp. Tất cả nói lên tín hiệu tập san dỏm

Tác động của kĩ nghệ xuất bản dỏm

Kĩ nghệ xuất bản dỏm và sản phẩm của nó gây tác hại lớn đến khoa học. Như mô tả trên, kĩ nghệ xuất bản dỏm không quan tâm đến phẩm chất khoa học, chẳng để ý đến chuẩn mực về học thuật. Nói nôm na là cái gì họ cũng công bố. Các bạn có thể nộp một bài hoàn toàn vô nghĩa (nhờ một phần mềm nào đó viết) và tiếng Anh thì sai từ đầu chí cuối, chắc chắn một tập san dỏm sẽ công bố (3). Chất lượng khoa học không phải là điều họ quan tâm, và chính vì những tình trạng này mà kĩ nghệ xuất bản dỏm đã gây ra một sự khủng hoảng về niềm tin khoa học ở công chúng.

Tuy nhiên, nguy hiểm nhứt là những bài có dáng vẻ nghiên cứu khoa học được kĩ nghệ xuất bản dỏm công bố. Đó là những nghiên cứu không đạt các chuẩn mực khoa học (nói thẳng ra là sai, hoàn toàn chẳng có giá trị gì cả) và được viết bằng tiếng Anh. Những bài loại này chiếm đa số trong kĩ nghệ xuất bản dỏm. Đối với người ngoài khoa học, hay người làm khoa học mà không phải trong chuyên ngành, người ta rất dễ bị ngộ nhận đó là những bài chánh thống. Đã có những nhóm ‘activists’ sử dụng các bài khoa học dỏm như thế để chống lại việc tiêm chủng ngừa trẻ em. Đã có không ít người dùng các nghiên cứu dỏm đó trên truyền thông xã hội để biện minh cho một thuật điều trị hoàn toàn phi chánh thống (4). Do đó, tác động của kĩ nghệ xuất bản dỏm là rất lớn, và công chúng cần phải biết.

Ở Việt Nam đã có nhiều đồng nghiệp công bố trên các tập san dỏm. Chẳng những thế, đã có người dùng các bài báo trên các tập san dỏm đó để xin được xét duyệt chức danh giáo sư / phó giáo sư. Và, trong kì xét duyện giáo sư vừa qua, đã có vài trường hợp dùng bài báo trên tập san dỏm và họ được công nhận chức danh giáo sư / phó giáo sư. Do đó, kĩ nghệ xuất bản dỏm đã về đến Việt Nam và đã làm ảnh hưởng xấu đến khoa học Việt Nam. Ở bên Tàu, giới khoa học rất quan tâm đến vấn nạn tập san dỏm và các nhà chức trách đã có những biện pháp quyết liệt loại bỏ tập san dỏm (5). Nhưng ở Việt Nam chúng ta hay chê Tàu, nhưng các nhà chức trách Việt Nam chưa có những biện pháp mạnh như bên Tàu.

Làm sao nhận dạng tập san dỏm?

Quay lại câu hỏi yếu tố gì để nhận dạng đó là một tập san dỏm. Phân biệt tập san chánh thống và tập san dỏm không hề dễ dàng, nếu không phải là người trong chuyên ngành. Thật ra, ngay cả người trong chuyên ngành nhưng nếu kém kinh nghiệm xuất bản khoa học vẫn bị lầm như thường. Dưới đây là vài tín hiệu quan trọng để các bạn có thể nhận dạng tập san dỏm:

1. Tập san không có một hiệp hội chuyên môn là cơ quan chủ quản

Các tập san chánh thống đều có cơ quan chủ quản là một hiệp hội chuyên ngành. Chẳng hạn như JAMA là của hiệp hội y khoa Mĩ, JBMR là của hiệp hội loãng xương Hoa Kì. Có thể nói 100% các tập san dỏm dùng internet làm ‘nhà xuất bản’, nên họ không có hiệp hội nào là chủ quản cả. Có khi chỉ một cá nhân cũng có thể làm được một tập san dỏm.

2. Tên tập san chung chung hay nhái theo tâp san chính thống

Ngoại trừ các tập san đa ngành (như Science, Nature, PNAS), đa số các tập san chánh thống có những tên rất chuyên biệt và dễ nhận ra. Chẳng hạn như Osteoporosis International hay Archives of Osteoporosis hay Bone là ai cũng biết đó là tập san của ‘bộ lạc’ chuyên về xương. Nhưng các tập san dỏm thì rất bao quát như “Journal of Engineering and Medicine”, vì họ muốn thu tóm các bài báo liên quan đến cả y khoa và kĩ thuật. Ngoài ra, họ thường có những ngôn từ rất ‘đao to búa lớn’ và cố gắng nhái tập san thật. Chẳng hạn như tập san chính thống là “Journal of Biological Chemistry” thì họ nhái là “Journal of Biological Sciences”!

3. Không có trong danh mục ISI/Clarivate

Hầu hết các tập san chánh thống đều có trong danh mục ISI/Clarivate. Để được có tên trong danh mục này, tập san phải đạt một số tiêu chuẩn về học thuật, do đó có tên trong danh mục ISI/Clarivate là một (chỉ 1 thôi) tín hiệu của ‘chánh thống’. Thỉnh thoảng cũng có tập san được đưa vào danh mục ISI/Clarivate, nhưng sau đó thì bị loại ra vì cách làm việc gian dối (như cố tình nâng cao citation).

Tuyệt đại đa số các tập san dỏm không có trong danh mục ISI (danh mục này có khoảng 12,000 tập sa). Các thư viện quốc tế như Medline cũng không chấp nhận tập san dỏm. Tuy nhiên, một số tập san dỏm len lỏi vào Scopus (vốn là một cơ sở kinh doanh). Do đó, trái lại với nhiều người nghĩ rằng những tập san có trong danh mục Scopus là chánh thống, nhưng đó là một sai lầm. Rất nhiều tập san trong nhóm Q3 và Q4 của Scopus được xem là dỏm hay “gần dỏm”. Nhà khoa học có kinh nghiệm không bao giờ chọn những tập san trong nhóm Q3 hay Q4 của Scopus.

4. Ban biên tập và tổng biên tập không có thành tích khoa học tốt

Tập san chánh thống có ban biên tập nghiêm chỉnh. Ban biên tập thường là những nhà khoa học có tiếng trong chuyên ngành, họ được mời phục vụ, và nhiệm kì thường 3 đến 5 năm. Tổng biên tập của tập san chánh thống thường là người danh tiếng trong chuyên ngành mà đọc tên thì ai trong chuyên ngành cũng biết. Họ thường xuất phát từ những đại học và viện nghiên cứu có tiếng trên thế giới.

Còn các tập san dỏm thì ban biên tập rất … lôm côm. Họ có những người chẳng có thành tích khoa học nào, hay những người chỉ công bố trên tập san dỏm. Họ thường là những người đến từ các đại học bên Ấn Độ, Phi châu, Trung Đông, hay Mĩ mà ít ai biết đến. Có khi họ ghi tên sinh viên vào ban biên tập! Lại có khi họ ghi tên những nhà khoa học chánh thống và có uy tín vào ban biên tập mà những nhà khoa học này không hề hay biết. Có hay biết và yêu cầu họ rút xuống, các tập san dỏm cũng không chịu rút xuống!

5. Bài báo kém chất lượng

Các tập san chánh thống có cơ chế bình duyệt nghiêm chỉnh, nên những bài báo họ công bố thường có phẩm chất khoa học tốt. Tập san càng danh tiếng (qua IF) thì phẩm chất khoa học càng cao. Dĩ nhiên, cũng có những bài kém chất lượng, thậm chí sai, nhưng nhìn chung thì tuyệt đại đa số các bài trên tập san chánh thống là tốt. Thường, thời gian từ lúc nộp bài đến lúc công bố dao động từ 6 đến 12 tháng.

Như nói trên, bài báo từ các tập san dỏm không có cơ chế bình duyệt (hay có nhưng không nghiêm chỉnh), nên bài báo rất kém phẩm chất. Những bài báo bị các tập san chánh thống từ chối thường được tập san dỏm công bố. Tập san dỏm có thể nói là những thùng rác khoa học. Nói thẳng ra là tuyệt đại đa số bài báo trên tập san dỏm không có giá trị khoa học, và không nhà khoa học chánh thống nào trích dẫn từ mấy bài trên tập san dỏm. Với các tập san dỏm, thời gian từ lúc nộp bài đến lúc công bố dao động từ 5 đến 12 ngày.

6. Tiếng Anh sai nhiều

Các tập san chánh thống có các chuyên gia biên tập kiểm tra tiếng Anh của tác giả. Do đó, tuyệt đại đa số các bài báo công bố trên tập san chánh thống có chuẩn mực tiếng Anh tốt. Còn các tập san dỏm thì không có ai chỉnh sửa tiếng Anh, nên hầu như bài báo nào trên tập san dỏm cũng đều chứa nhiều sai sót về tiếng Anh. Có những bài báo trên tập san dỏm sai tiếng Anh từ trang đầu đến trang cuối!

***

Trên đây là vài dấu hiệu để các bạn có thể nhận dạng tập san dỏm. Các dấu hiệu này có thể chưa đầy đủ, vì các tập san dỏm biến hóa khôn lường. Cách tốt nhứt là các bạn hỏi một đồng nghiệp có kinh nghiệm về công bố quốc tế (phải có kinh nghiệm dày dặn nhé) để phân biệt giữ tập san chánh thống và tập san dỏm (6). Các hội đồng xét duyệt chức danh giáo sư cũng cần phải biết cách phân biệt tập san chánh thống và tập san dỏm để tránh những những quyết định sai lầm ảnh hưởng đến sự nghiệp của nhà khoa học.

=====

(1) Cần phải phân biệt ‘tạp chí’ và ‘tập san’. Ở Việt Nam, người ta dùng chữ ‘tạp chí’ một cách không đúng. Tạp chí là “Magazine’, còn tập san là ‘Journal’. Các ấn phẩm như The Scientist, American Scientist, Asian Scientist, Discover, Tuổi Trẻ Cuối Tuần, v.v. là tạp chí. Còn tập san thì ‘formal’ hơn, hiểu theo nghĩa có ban biên tập và bài vở phải qua bình duyệt nghiêm chỉnh. Chúng ta đang nói về tập san, không phải tạp chí.

(2) https://www.the-scientist.com/news-opinion/german-scientists-frequently-publish-in-predatory-journals-64518

(3) Vài năm trước, có một nhà khoa học bực mình vì bị làm phiền bởi kĩ nghệ xuất bản dỏm, anh ấy viết một bài báo với tựa đề “Get me off your fucking mailing list”, và anh ấy lặp lại câu đó 863 lần suốt cả 8 trang giấy. ‘Bài báo’ được gởi cho tập san ‘International Journal of Advanced Computer Technology’, và họ … xuất bản. Lí do đơn giản là kĩ nghệ xuất bản dỏm không quan tâm đến nội dung; họ chỉ quan tâm đến túi tiền của các bạn.

(4) https://hospitalnews.com/when-journals-are-driven-by-profit-not-evidence/

(5) https://www.nature.com/articles/d41586-018-07033-5

(6) Tham khảo thêm 2 bài dưới đây:

http://khoahocphattrien.vn/khoa-hoc/nhung-thuoc-do-dedanh-gia-tap-san-khoa-hoc/20180427081415911p1c160.htm

https://tuoitre.vn/tap-san-khoa-hoc-dom-va-nhung-van-nan-1429086.htm