“Mục đích đào tạo tiến sĩ không phải cho bộ máy công quyền”

Xin giới thiệu các bạn một bài trả lời phỏng vấn cho báo GDVN. Trong bài này tôi nói về vài nét khác biệt trong chương trình đào tạo tiến sĩ giữa VN và nước ngoài.

____

https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/gs-nguyen-van-tuan-muc-dich-dao-tao-tien-si-khong-phai-cho-bo-may-cong-quyen-post226364.gd

Phóng viên: Từ những lùm xùm về luận án tiến sĩ vừa qua, Giáo sư đánh giá như thế nào về chất lượng, cách đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam hiện nay? Đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài có sự khác biệt gì so với Việt Nam không, thưa ông?

Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn:Tôi không đánh giá được vì không có những dữ liệu cụ thể. Tuy nhiên, phẩm chất đào tạo tiến sĩ, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học xã hội, đã là một vấn đề được nêu ra từ cả 20 năm trước.

Từ hơn 15 năm trước, đã xuất hiện những luận án với những chủ đề na ná nhau, chỉ khác nơi làm nghiên cứu. Rồi những đề tài nghiên cứu tiến sĩ làm công chúng trố mắt ngạc nhiên vì dường như tính khoa học không mấy cao.

Còn quy trình đào tạo tiến sĩ ở chúng ta thì khác nhiều so với các nước phương Tây. Chẳng hạn như ở Úc, các nghiên cứu sinh tiến sĩ phải học toàn thời gian (giống như người đi làm) dưới sự hướng dẫn chặt chẽ của giáo sư, còn ở Việt Nam tôi thấy quy định đào tạo khá lỏng lẻo vì nghiên cứu sinh vừa học mà vẫn đi làm, hình như không khác mấy giữa học và làm.

Các đại học Úc không có buổi lễ bảo vệ luận án, mà luận án được gửi cho các giáo sư ngoài trường đại học (kể cả nước ngoài) để bình duyệt. Tuy không viết ra trên giấy trắng mực đen, nhưng các nghiên cứu sinh ở Úc đều phải công bố ít nhất 2 bài báo khoa học trước khi được phép viết luận án. Ở Việt Nam, các nghiên cứu sinh phải gửi 50 phiếu xin ý kiến nhận xét luận án tóm tắt của nghiên cứu sinh, còn ở các nước phương Tây thì không có quy định này.

Đây không phải lần đầu tiên dư luận bàn về vấn đề này, tuy nhiên gần đây dư luận đang có những cái nhìn sâu hơn về chất lượng đào tạo tiến sĩ nhờ chủ trương công khai thông tin của các cơ quan quản lý. Vậy Giáo sư đánh giá như thế nào về chủ trương này?

Giáo sư Nguyễn văn TuấnChủ trương công khai luận án đã được đề nghị từ hơn 20 năm trước, nhưng chỉ mới thực hiện gần đây. Thật ra, chủ trương này cũng bình thường trong học thuật, vì các đại học phương Tây đã làm như vậy lâu rồi.

Dĩ nhiên, công bố luận án là một tiến bộ vì nó giúp công chúng có thể biết tầm quan trọng của nghiên cứu mà ứng viên đã làm. Tuy nhiên, cho dù luận án được công bố thì để đánh giá nghiêm túc đòi hỏi phải có chuyên môn và thời gian. Nếu không là người trong chuyên ngành và có kinh nghiệm tốt thì khó biết được luận án có đóng góp gì mang tính khoa học.

Nếu công bố luận án mà không công bố dữ liệu gốc làm cơ sở cho luận án thì cũng khó biết được nghiên cứu sinh đã làm đúng hay sai. Do đó, nhiều đại học nước ngoài còn đề ra yêu cầu công bố dữ liệu gốc kèm theo luận án.

Thực tế hiện nay, nhiều địa phương dường như đang có chính sách khuyến khích cán bộ công chức có bằng tiến sĩ. Ví dụ như Hà Nội có ban hành Nghị quyết về “Tập trung xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp nhiệm kỳ 2020- 2025 và những năm tiếp theo”. Theo đó, Hà Nội đặt mục tiêu đến năm 2025, 40% cán bộ Thường vụ Thành ủy quản lý có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ. Giáo sư đánh giá như thế nào về mục tiêu này của Hà Nội?

Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn: Tôi biết chủ trương này, nhưng tôi nghĩ khác. Mục tiêu của đào tạo tiến sĩ là kiến tạo một cộng đồng học thuật phục vụ cho nghiên cứu khoa học và giảng dạy đại học. Văn bằng tiến sĩ có thể ví von như là một passport hay chứng chỉ để làm nghiên cứu khoa học (giống như bằng bác sĩ để hành nghề y). Mục đích của đào tạo tiến sĩ không phải cho bộ máy công quyền.

Cái điểm cốt lõi của học vị tiến sĩ, và cũng là khía cạnh dùng để phân biệt học vị tiến sĩ với các học vị đại học khác, là nghiên cứu khoa học, không phải quản trị. Do đó, học tiến sĩ vì muốn theo đuổi sự nghiệp hành chính, quản trị kinh doanh, hay các chức vụ hành chính, hay các chức vụ mang tính quản lí trong hệ thống chính phủ thì e rằng là một sai lầm.

Mấy năm gần đây, các nước phương Tây có chương trình đào tạo tiến sĩ hướng nghiệp (professional doctorate) nhằm đáp ứng yêu cầu của kĩ nghệ và chính phủ, nhưng luận án vẫn theo đáp ứng 2 tiêu chuẩn quan trọng là tính nguyên thuỷ (có cái mới) và tầm quan trọng.

Giáo sư có đề xuất gì với các cơ sở đào tạo tiến sĩ và các cấp quản lý để nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trong đào tạo tiến sĩ?

Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn: Tôi không có đề xuất gì cả, vì tôi nghĩ chỉ mất thì giờ mà thôi. Tôi nghĩ quy trình đào tạo và tiêu chuẩn học vị tiến sĩ cần cải cách từ lâu rồi. Cách tốt nhất là tổ chức một uỷ ban chuyên trách nghiên cứu và cải cách toàn diện chương trình đào tạo tiến sĩ sao cho đúng với chuẩn mực ở các nước tiên tiến.

Tôi nghĩ đầu vào rất quan trọng. Việc đánh giá một đề tài nghiên cứu có xứng đáng tầm tiến sĩ hay không cần phải dựa vào những tiêu chuẩn khoa học, chứ không phải phải tuỳ tiện hay theo suy nghĩ cá nhân. Ngoài ra, cần có những tiêu chuẩn cụ thể cho một luận án tiến sĩ, và bộ tiêu chuẩn này có thể tìm thấy đây đó của các hiệp hội khoa học quốc tế.

Hiện nay, đã có quy định nghiên cứu sinh phải công bố 2 bài báo khoa học để được bảo vệ luận án. Nhưng cần phải bổ sung là tập san phải ‘chính thống’, chứ những tập san dỏm hay gần dỏm hay không thuộc một hiệp hội khoa học thì không nên công nhận.

Có những quy định mà theo tôi là không cần thiết. Chẳng hạn như quy định về số trang của luận án; về số tài liệu tham khảo trong nước bao nhiêu, nước ngoài bao nhiêu,… là không cần thiết.

Cũng không cần phải có buổi lễ bảo vệ luận án và càng không cần phải gửi 50 phiếu xin ý kiến nhận xét luận án tóm tắt của nghiên cứu sinh. Nhưng cần phải gửi luận án cho các giáo sư nước ngoài hay ngoài trường đại học đánh giá và bình duyệt.

Phải cải cách để học viên có thì giờ và tập trung tâm trí vào khoa học hơn là đối phó hành chính. Phải cải cách để cái bằng tiến sĩ từ Việt Nam có ý nghĩa quốc tế và người cầm cái bằng đó có thể tự tin và cạnh tranh xin postdoc (hậu tiến sĩ) từ các đại học thuộc các nước tiên tiến.

Trân trọng cảm ơn Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn.

Đặng Lường

Góc nhìn: Xứng tầm tiến sĩ

Xin giới thiệu đến các bạn một ý kiến khác liên quan đến luận án tiến sĩ. Bài này tôi viết trong mục Góc nhìn của VNexpress. Bài này nhấn mạnh một thực trạng về những báo cáo tổng kết được chuyển thành luận án tiến sĩ !

***

https://vnexpress.net/xung-tam-tien-si-4460916.html

Gần đây, tôi nhận được một câu hỏi tương tự từ nhiều người “Thế nào là một luận án xứng tầm tiến sĩ” – vấn đề không mới nhưng đang thời sự trở lại sau những ồn ào liên quan đến luận án “Nghiên cứu giải pháp phát triển môn cầu lông cho công chức, viên chức thành phố Sơn La”.

Nhiều người chia sẻ thắc mắc với tôi: “Sao luận án tiến sĩ mà có vẻ đơn giản quá?”. Tôi không bình luận gì về luận án cụ thể này. Vấn đề là ở chỗ, có hơn 10 luận án tương tự lặp lại đề tài “Nghiên cứu giải pháp phát triển môn cầu lông…” ở các tỉnh A, B, C… khác. Nghĩa là có ít nhất 10 tiến sĩ đã tốt nghiệp từ đề tài cầu lông.

Những luận án trên giống như những báo cáo tổng kết một chương trình hành động hơn là những công trình nghiên cứu khoa học.

Báo cáo tổng kết không cần dựa vào một giả thuyết khoa học, và phương pháp đo lường thường không đáp ứng các tiêu chuẩn của phương pháp khoa học (scientific method). Những quan sát ở một địa phương có thể chỉ mang tính đặc thù của địa phương đó, chứ không mang tính quy luật, vốn là một tiêu chuẩn của khoa học tính. Thế nhưng, ở Việt Nam có rất nhiều báo cáo như thế được hoán chuyển thành luận án tiến sĩ. Đó là sự ngộ nhận.

Khác với báo cáo hành chính, một luận án tiến sĩ là thành quả của một hay vài nghiên cứu khoa học. Mỗi nghiên cứu có mục đích chính là kiểm định một giả thuyết khoa học. Nhà khoa học không thể chứng minh một giả thuyết là đúng hay sai, mà chỉ có thể kết luận dữ liệu phù hợp hay không phù hợp với giả thuyết.

Hai tiêu chuẩn quan trọng của một luận án cấp tiến sĩ là tính nguyên thủy (originality) và tầm quan trọngTính nguyên thủy đòi hỏi luận án phải có ít nhất một cái mới. Cái mới có thể là ý tưởng, hoặc cách tiếp cận vấn đề, hoặc phương pháp, hoặc dữ liệu, hoặc cách diễn giải dữ liệu. Trái với cách nhiều người mỉa mai, luận án tiến sĩ vẫn có thể là một nghiên cứu dạng “bình cũ, rượu mới” (hiểu theo nghĩa một ý tưởng cũ được làm mới bằng cách tiếp cận mới).

Tầm quan trọng có thể hiểu rằng kết quả nghiên cứu sản sinh ra tri thức khoa học, và tri thức đó có ảnh hưởng hay tác động trong và ngoài chuyên ngành khoa học, hay chính sách công, hay xã hội.

Mục đích chính của đào tạo tiến sĩ là kiến tạo một đội ngũ nhà khoa học chuyên nghiệp, những người có khả năng làm nghiên cứu khoa học và giảng dạy trong đại học. Trong một khảo sát đối với những giáo sư hướng dẫn luận án tiến sĩ ở Anh, khi được hỏi mục đích của đào tạo tiến sĩ là gì, thì đa số giáo sư (72%) xem đào tạo tiến sĩ là chuẩn bị cho họ một sự nghiệp nghiên cứu khoa học trong môi trường đại học, và ứng dụng kỹ năng trong môi trường ngoài đại học.

Ở Việt Nam, mục tiêu đào tạo tiến sĩ đã bị lệch, thể hiện qua phân bố tiến sĩ trong và ngoài khoa học. Việt Nam hiện có hơn 25.000 tiến sĩ, nhưng đa số không làm việc trong các đại học. Số liệu năm 2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố cho thấy chỉ khoảng 8.500 giảng viên đại học (trong số 60.000) có bằng tiến sĩ. Ngoài ra, trong số 10.000 giáo sư và phó giáo sư, khoảng 50% không làm việc trong các đại học hay viện nghiên cứu. Sự lệch lạc về mục tiêu đào tạo có lẽ do hiểu sai bản chất của luận án tiến sĩ như đề cập trên.

Hơn 200 năm qua, người theo học tiến sĩ thường theo đuổi những nghiên cứu, nói theo tiếng Anh là “blue sky” (trời xanh), tức những ý tưởng “trên trời”, có khi chẳng liên quan gì với thực tế trong tương lai gần; tạm gọi những tiến sĩ đó là tiến sĩ hàn lâm (academic doctorate). Và, khi nói đến tiến sĩ người ta nghĩ ngay đến nhóm tiến sĩ này.

Tuy nhiên, chương trình đào tạo tiến sĩ ngày nay đa dạng hơn chứ không đồng dạng như trước. Với sự phát triển kinh tế và vai trò của doanh nghiệp gần đây, các đại học bị áp lực phải thay đổi cách đào tạo tiến sĩ sao cho đáp ứng nhu cầu của kỹ nghệ và doanh nghiệp. Nhu cầu của doanh nghiệp và kỹ nghệ là có những chuyên gia cao cấp tầm tiến sĩ nhưng nghiên cứu của họ phải mang tính ứng dụng cao. Xuất phát từ nhu cầu này, các đại học phương Tây cho ra đời chương trình đào tạo tiến sĩ hướng nghiệp (Professional Doctorate hay Vocational Doctorate).

Tiến sĩ hướng nghiệp tập trung vào những nghiên cứu mang tính ứng dụng cao. Các nghiên cứu sinh tiến sĩ hướng nghiệp là những người có kinh nghiệm thực tế trong chuyên ngành và họ muốn nâng cao kiến thức cũng như kỹ năng để thăng tiến trong sự nghiệp. Các chủ đề mà tiến sĩ hướng nghiệp nghiên cứu thường là đánh giá những lý thuyết mới hay cách hành nghề mới; nghiên cứu tìm giải pháp cho một vấn đề phức tạp; ứng dụng nghiên cứu khoa học vào một lĩnh vực chuyên môn; hoặc thiết kế một chương trình nghiên cứu nhằm mở rộng kiến thức chuyên ngành.

Do đó, những năm gần đây, các đại học phương Tây, kể cả Đại học New South Wales và Đại học Công nghệ Sydney (Australia), có những chương trình đào tạo tiến sĩ hướng nghiệp cho ngành giáo dục (Doctor of Education), kỹ thuật (Doctor of Emgineering), y tế công cộng (DrPH), điều dưỡng (Doctor of Nursing Practice), quản trị kinh doanh (Doctor of Business Administration)…

Các đại học Việt Nam cũng nên xem xét triển khai chương trình đào tạo tiến sĩ hướng nghiệp và phân biệt với tiến sĩ hàn lâm. Tuy nhiên, dù là tiến sĩ hàn lâm hay tiến sĩ hướng nghiệp, thì luận án tiến sĩ vẫn phải đáp ứng hai tiêu chuẩn nguyên thủy và tầm quan trọng. Hai tiêu chuẩn này bảo đảm một luận án tiến sĩ phải thể hiện một đóng góp mới cho tri thức khoa học.

Nếu một luận án không đáp ứng hai tiêu chuẩn này thì không thể xứng tầm tiến sĩ.

Cải cách chương trình đào tạo tiến sĩ

Đã và đang có quá nhiều hiểu lầm về bản chất của học vị tiến sĩ, và hiểu không đúng về mục đích và chương trình đào tạo tiến sĩ. Nhu cầu cải cách chương trình đào tạo tiến sĩ là rất cấp bách để giúp giáo dục và khoa học Việt Nam hội nhập quốc tế. Có lẽ cần phải kiến tạo ra hai chương trình đào tạo tiến sĩ khác nhau, một chương trình dành cho “tiến sĩ hàn lâm”, một dành cho “tiến sĩ hướng nghiệp.”

Nhiều người ở Việt Nam nghĩ rằng ở các nước Âu Mĩ đa số các tiến sĩ làm việc trong hệ thống đại học hay viện nghiên cứu khoa học, nhưng thực tế thì không phải vậy. Trong thực tế, ý nghĩa và mục đích của đào tạo tiến sĩ đã thay đổi nhiều trong thời gian gần đây. Năm 1973, hơn 50% những người tốt nghiệp tiến sĩ về sinh học sau 6 năm được bổ nhiệm chức vụ assistant professor (một chức vụ tương đương với “phó giáo sư”); ba thập niên sau, tỉ lệ này chỉ còn 15%. Ngày nay, có rất nhiều (có thể hơn 50%) tiến sĩ bỏ sự nghiệp nghiên cứu khoa học vì họ không có cơ may tìm việc trong các đại học và viện nghiên cứu. Nói chung, tình hình ở các nước Âu Mĩ ngày nay là thừa tiến sĩ, vì số tiến sĩ được đào tạo hàng năm cao hơn nhu cầu trong các đại học và cơ quan nghiên cứu khoa học.

Nhưng ở các nước phát triển như Việt Nam thì tình hình ngược lại: các đại học rất thiếu các giảng viên có trình độ tiến sĩ. Số liệu năm 2013 của Bộ GDĐT công bố cho thấy trong số gần 60000 giảng viên đại học, chỉ có 8519 (tức 14%) có bằng tiến sĩ. Ngay cả ở Mã Lai, nơi có nền giáo dục đại học tốt hơn Việt Nam, cũng chỉ có 20% giảng viên đại học có bằng tiến sĩ. Do đó, khác với các nước Âu Mĩ, Việt Nam thiếu giảng viên với trình độ tiến sĩ.

Ở Việt Nam, lại còn tồn tại một nghịch lí quan trọng về con số tiến sĩ. Việt Nam hiện có hơn 24,300 tiến sĩ, nhưng đa số không làm việc trong các đại học. Ngoài ra, trong số 10,000 giáo sư và phó giáo sư, nhưng khoảng 50% không làm việc trong các đại học hay viện nghiên cứu. Như vậy, có thể nói rằng Việt Nam ở trong tình trạng vừa thừa vừa thiếu tiến sĩ!

Tình hình tiến sĩ làm ngoài khoa học không chỉ xảy ra ở Việt Nam, mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Theo số liệu trong một báo cáo của American Institutes for Research (2014) thì 61% người tốt nghiệp tiến sĩ lĩnh vực khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán (STEM) và 52% tiến sĩ chuyên ngành sinh học làm việc ngoài môi trường khoa bảng và nghiên cứu khoa học.

Mục đích học tiến sĩ là gì?

Những sự thật trên đặt ra câu hỏi căn bản: Mục đích của đào tạo tiến sĩ là gì? Không phải chỉ ở Việt Nam câu hỏi này mới được đặt ra, mà ngay cả ở những nước có nền giáo dục tiên tiến và có một lịch sử đào tạo tiến sĩ lâu dài, câu hỏi này vẫn còn mang tính thời sự.

Câu trả lời thực tế nhất là từ những người thầy đào tạo tiến sĩ. Trong một nghiên cứu trên những giáo sư hướng dẫn luận án tiến sĩ ở Anh, khi được hỏi mục đích của đào tạo tiến sĩ là gì, thì đa số giáo sư (72%) xem đào tạo tiến sĩ là chuẩn bị cho họ một sự nghiệp nghiên cứu khoa học chung (“training for a career in scientific research in general”), những người vừa có thể giảng dạy trong đại học, vừa có thể làm nghiên cứu khoa học trong môi trường đại học, và vừa có thể ứng dụng kĩ năng cho môi trường ngoài đại học. Do đó, một hội đồng giáo dục chuyên trách về đào tạo hậu đại học ở Anh (do Viện Hàn lâm Anh thiết lập) định nghĩa rằng mục đích của chương trình đào tạo tiến sĩ là giúp họ chuẩn bị cho một sự nghiệp nghiên cứu khoa học hoặc giảng dạy trong đại học, trang bị cho ứng viên những kĩ năng về nghiên cứu khoa học để có thể ứng dụng trong môi trường kĩ nghệ, quản trị công, truyền thông và văn hóa.

Chúng ta cần phải thay đổi nhận thức về đào tạo tiến sĩ. Những kĩ năng có được trong thời gian học tiến sĩ có thể ứng dụng để giải quyết nhiều vấn đề trong thực tế và do đó có thể áp dụng cho nhiều sự nghiệp khác nhau, kể cả trong bộ máy hành chánh. Chúng ta phải chấp nhận rằng không phải tiến sĩ nào cũng thích hợp cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học. Chúng ta cũng phải chấp nhận rằng tiến sĩ không phải chỉ để làm việc trong các đại học hay nghiên cứu khoa học, nhưng kĩ năng nghiên cứu của họ có thể ứng dụng cho nhiều môi trường ngoài khoa học.

Hai hệ tiến sĩ: hàn lâm và hướng nghiệp

Với những nhận thức mới này về tiến sĩ, đã có ý kiến phân chia thành 2 hệ tiến sĩ (xem chẳng hạn như Nature 3/12/2015). Một hệ tiến sĩ chỉ để theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu khoa học (“academic PhD”, tạm gọi là “nhóm tiến sĩ hàn lâm”) và một hệ tiến sĩ cho các sự nghiệp ngoài khoa bảng (“vocational PhD“, tạm gọi là nhóm “tiến sĩ hướng nghiệp”). Nhóm tiến sĩ hàn lâm theo đuổi những nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu “mây xanh” (còn gọi là “blue sky”), nghiên cứu nhằm kiến tạo kiến thức mới, có thể chẳng có ứng dụng gì trong thực tế cả thế kỉ. Nhóm tiến sĩ hướng nghiệp được đào tạo theo kiểu hướng nghiệp cho một sự nghiệp cụ thể, với sứ mệnh nhằm cung cấp cho kĩ nghệ những chuyên gia cao cấp có khả năng vừa nghiên cứu vừa quản lí.

Trong thực tế, ở vài nước tiên tiến các đại học đã triển khai văn bằng tiến sĩ hướng nghiệp dưới những học vị như EngD (tiến sĩ kĩ thuật), EdD (tiến sĩ giáo dục), PharmD (tiến sĩ dược), DrPH (tiến sĩ y tế công cộng), DBA (tiến sĩ quản trị kinh doanh), v.v. Chẳng hạn như chương trình đào tạo EngD của Đại học Manchester có mục đích rõ ràng là đào tạo những chuyên gia vừa có khả năng nghiên cứu và quản lí.

Riêng trong ngành y, tôi đề nghị chấm dứt chương trình đào tạo bác sĩ chuyên khoa I và II. Hai chương trình đào tạo này quả thật chẳng phù hợp với bất cứ chương trình nào trên thế giới, và có lẽ không cần thiết. Thay vào đó, tôi đề nghị nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo bác sĩ và tiến sĩ (MD/PhD) song song. Dĩ nhiên, ứng viên phải là những sinh viên xuất sắc đã tốt nghiệp cử nhân và ít nhất 21 tuổi. Trong thời đại khoa học phát triển rất nhanh như hiện nay, bác sĩ ra trường rất cần có những kiến thức khoa học cơ bản và phương pháp khoa học, chứ không chỉ đơn thuần kĩ năng lâm sàng. Chương trình MD/PhD thật ra không phải là mới nhưng đã được triển khai rất thành công ở một số đại học bên Mĩ. Sinh viên sẽ học lâu hơn (7-9 năm), nhưng khi ra trường sẽ được trang bị kĩ năng lâm sàng và nghiên cứu khoa học rất tốt.

Có rất nhiều hiểu sai hay hiểu chưa đúng về mục đích và bản chất của văn bằng tiến sĩ. Có người hiểu học tiến sĩ là phải đề ra một học thuyết mới, hay sáng chế ra một sản phẩm mới có ích cho xã hội. Nhưng trong thực tế, học tiến sĩ phần lớn là học về phương pháp khoa học và cách tiếp cận khoa học. Cách hiểu truyền thống là người tốt nghiệp tiến sĩ chỉ làm trong hệ thống giáo dục đại học như giảng dạy và nghiên cứu khoa học (và đây cũng chính là cách người viết bài này từng hiểu). Nhưng qua trải nghiệm thực tế và một lần tiếp xúc với một hiệu trưởng của một trường đại học ở Melbourne, tôi nghĩ cách hiểu trên có lẽ quá hẹp, vì trong thực tế người tốt nghiệp tiến sĩ (và tôi chỉ nói tốt nghiệp từ các trung tâm đào tạo nghiêm chỉnh) có thể áp dụng phương pháp khoa học cho nhiều lĩnh vực ngoài khoa học. Tôi tin rằng với cải cách theo hướng hai hệ tiến sĩ hàn lâm và hướng nghiệp sẽ giúp cho hệ thống giáo dục đại học tiếp cận với xu hướng mới trên thế giới.

Box 1

Con đường từ tiến sĩ đến giáo sư

Con đường từ tốt nghiệp tiến sĩ, đến hậu tiến sĩ, và đến giáo sư rất “gập ghềnh”. Theo thống kê, chỉ có 10% nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ ở lại với nghiên cứu khoa học vì không có cơ hội (1). Một phân tích khác của Royal Society (2) cho thấy hành trình từ khi tốt nghiệp tiến sĩ đến một nhà khoa học thực thụ cũng rất gian nan. Theo thống kê của báo cáo này:

· hơn phân nửa (53%) tiến sĩ ở Anh tìm sự nghiệp ngoài khoa học và kĩ thuật;

· 17% làm nghiên cứu ở các công ti kĩ nghệ;

· 30% tìm được việc làm ở giai đoạn đầu sự nghiệp (tức là hậu tiến sĩ, giảng viên, assistant professor) trong các đại học.

Chỉ có 3.5% trong số tốt nghiệp tiến sĩ tìm được việc làm nghiên cứu khoa học trong các đại học. Chỉ có 0.45% (tức ~5 người trên 1000) sau này trở thành giáo sư thực tụ (2). Còn số người thành giáo sư thực thụ và có labo độc lập thì còn hiếm hơn nữa.

Thời gian từ tiến sĩ đến xong hậu tiến sĩ là từ 3-6 năm, nhưng cũng có thể lâu hơn. Điều này chỉ để nói rằng đào tạo được một nhà khoa học thực thụ cần thời gian và đầu tư nhiều công sức và tài nguyên.

(1) https://www.ecoom.be/en/research/doctoralcareers

(2) http://royalsociety.org/uploadedFiles/Royal_Society_Content/policy/publications/2010/4294970126