10 điều nên học từ phương Tây

‘Phương Tây’ ở đây là chỉ những người ở các nước như Tây Âu, Bắc Âu, Anh, Mĩ, Canada, Úc, Tân Tây Lan, v.v. Những điều dưới đây tôi rút ra từ kinh nghiệm thực tế trong giao tiếp với người phương Tây. Còn ‘Mười điều’ thì chỉ là cách nói tượng trưng thôi, vì trong thực tế tôi nghĩ chúng ta có thể học từ họ cả … trăm điều.

Điều thứ nhứt: Sự bao dung

Trái lại với nhiều người nghĩ Tây chúng nó ích kỉ và quỉ quyệt, trong thực tế Tây rất rộng lượng và bao dung. Người Mĩ, người Úc, người Canada có thể chẳng quen biết gì với người Việt chúng ta, nhưng họ lại sẵn sàng bảo trợ và nâng đỡ rất nhiều gia đình gốc Việt trong thời gian sau 1975. Ở cấp độ lớn hơn, các nước phương Tây đã mở rộng cánh cửa đón hàng triệu người tị nạn, không phải chỉ từ Việt Nam mà còn từ nhiều nước Đông Âu và Phi châu nữa, và họ đón với tấm lòng chân thành. Ngay cả những nước mà đất hẹp (như Thuỵ Sĩ và Bắc Âu) và chẳng liên hệ gì nhiều với Việt Nam, nhưng họ lại đón nhận hàng vạn người Việt trong thời tị nạn.

Không chỉ đón nhận ‘người dưng’ vào nước họ định cư, họ còn tạo điều kiện để người dưng được tiến thân trong môi trường mới. Từ nhà ở đến cái áo mặc đều được lo lắng chu đáo. Tôi nghĩ nhiều khi ngay cả người Việt cũng chưa chắc gì cư xử với người Việt như người phương Tây cư xử với người Việt.

Họ còn tích cực giúp đỡ các nước nghèo khó nữa, và Việt Nam là một trong những nước nhận rất nhiều giúp đỡ từ phương Tây. Họ tài trợ không hoàn lại để Việt Nam xây cầu, xây đường xá, họ hỗ trợ về kĩ thuật và công nghệ, họ giúp Việt Nam vào các thiết chế kinh tế thế giới, v.v. Trong trận đại dịch vừa qua, họ cấp vx miễn phí cho rất nhiều nước trên thế giới. Trong giáo dục, họ cấp học bổng cho mấy nước nghèo qua nhiều năm liền. Đó không là rộng lượng thì là gì?

Điều thứ 2: Đạo đức xã hội

Hồi còn ở Việt Nam, tôi thường nghe nói rằng ở mấy nước phương Tây người ta sống phóng đãng lắm, họ rất suy đồi, hay nói chung là chẳng có đạo đức gì đâu. Sai. Sai nghiêm trọng. Người phương Tây sống rất đạo đức, có khi còn hơn cả người phương Đông. Họ rất quan trọng đến con người, và lấy con người làm gốc cho mọi quyết sách. Họ cũng rất quan tâm đến chữ ‘lễ’ trong giao tế hàng ngày.

Người phương Tây, cũng giống như chúng ta, rất biết kính trên và nhường dưới. Họ có những qui chuẩn về lễ nghi rất lâu đời. Hãy nhìn các buổi lễ thụ phong huân chương do Nữ Hoàng Anh tiến hành, hay những buổi lễ tốt nghiệp đại học, chúng ta sẽ thấy họ có truyền thống ‘lễ’ rất lâu đời, và đáng nể là họ vẫn duy trì những lễ nghi đó cho đến ngày nay.

Không chỉ quan tâm đến con người, người phương Tây còn hơn chúng ta ở chỗ quan tâm đến thú vật. Cách họ cư xử với gia cầm và thú vật có thể làm cho nhiều người phương Đông kinh ngạc. Đó không phải là hình thức ‘hoa hoè’, mà là tôn trọng với thực chất. Trong thí nghiệm khoa học, nếu làm trên chuột là phải qua sự phê chuẩn của một uỷ ban đạo đức khoa học.

Không chỉ với thú vật, họ cũng rất quan tâm đến môi trường, cây cỏ. Đến những nước như Bắc Âu và Úc, chúng ta sẽ thấy chánh phủ và người dân ở những nước này gìn giữ môi trường ra sao. Không phải gìn giữ môi trường bằng khẩu hiệu; họ đưa vào đời sống những đạo luật và chương trình giáo dục ngay từ tuổi thiếu niên để các em biết trân quí môi trường sống.

Điều thứ 3: Tôn trọng phụ nữ

Một khác biệt lớn lớn nhứt giữa Việt Nam và phương Tây là cách xã hội cư xử với phụ nữ. Ở Việt Nam, người ta quen thói ‘trọng nam khinh nữ’ và thói gia trưởng, nên xã hội đối xử với nữ giới có thể nói là tệ. Trước đây, nữ giới trong các xã hội phương Tây từng bị đối xử rất tệ, nhưng họ đã biết lỗi lầm và chỉnh sửa. Do đó, ngày nay ở xã hội phương Tây, nữ giới được đối xử với sự tôn trọng.

Các chánh phủ phương Tây làm đủ mọi cách để bình đẳng hoá giới tính trong mọi hoạt động xã hội. Từ sự hiện diện của nữ giới trong Quốc hội đến các chức vụ trong đại học và tập đoàn kinh tế, họ có những qui định và chánh sách rất thực tế để bình đẳng hoá giới tính. Họ làm thật chớ không hô hào khẩu hiệu. Nên học họ về vấn đề nâng cao sự hiện diện của nữ giới trong mọi hoạt động.

Tôi cũng làm một phần của mình trong chiến lược này. Labo tôi có nữ và nam bằng nhau. Đó là một chủ trương cá nhân. Có lúc, tôi còn bị phê bình là dành ưu tiên cho nữ nhiều quá, nhưng tôi không hề nhân nhượng. Lí do đơn giản là mình thấy má mình, dì mình, em mình và cháu mình trong đó thì làm sao hối tiếc gì. Nên học Tây về cách cư xử với nữ giới.

Điều thứ 4: Tôn trọng quyền cá nhân

Người Việt chúng ta nhìn chung rất quan tâm đến cá nhân. Gặp nhau lần đầu, người ta hay tìm hiểu người nói chuyện là ai, giữ chức vụ gì, quan điểm chánh trị ra sao, v.v. Họ đánh giá người đối thoại dựa trên những thông tin về cá nhân. Rất tiêu biểu cho câu “trông mặt đặt tên”. Nói chung là người phương Đông thích soi mói đời tư cá nhân.

Người Tây thì khác: họ chẳng quan tâm đến mình là ai, đến từ đâu, quan điểm chánh trị là gì hay theo đảng phái nào. Họ chỉ quan tâm đến ý kiến và hàm lượng tri thức, hay nói theo họ là ‘merit’.

Tôi làm việc chung với một hội đồng trong một hiệp hội khoa học cả 10 năm mà họ không biết tôi là ‘boat people’. Sếp tôi phải 10 năm sau mới biết tôi từng làm phụ bếp ở bệnh viện mà tôi đang làm. Không có giấu diếm gì cả; họ không hỏi thì mình cứ giữ im lặng. Họ không hỏi, có lẽ là tôn trọng sự riêng tư.

Người Tây không đánh giá một cá nhân qua quan điểm chánh trị hay niềm tin tôn giáo; họ đánh giá qua việc làm và chất lượng. Chính tôi trong vai trò người đánh giá, chưa bao giờ tôi tự hỏi họ là ai, đến từ đâu hay xuất thân từ ‘danh gia vọng tộc’ nào. Tôi nghĩ cách làm như vậy rất bình đẳng và khách quan. Chúng ta nên học họ về việc tôn trọng quyền riêng tư và cá nhân.

Điều thứ 5: Sự tử tế và lời nói “Cám ơn”

Sự tử tế của người phương Tây có thể thấy qua chữ ‘Cám ơn’. Có thể nói ‘cảm ơn’ là câu nói đầu môi của người phương Tây. Được giúp đỡ thì nói cảm ơn đã đành, họ giúp người khác mà cũng cảm ơn luôn! Mệnh đề ‘cám ơn’ đã thành một nét văn hoá đẹp của người Tây. Chúng ta nên học họ.

Đã có nhiều nghiên cứu tâm lí học cho thấy nói lời cám ơn là một hành vi tích cực. Hành vi này làm cho người thốt ra câu nói cảm thấy hạnh phúc. Nhiều người nói câu cảm ơn là một cách tạo ra nguồn năng lượng tích cực cho cộng đồng. Thành ra, cảm ơn vừa có lợi ích cho cá nhân, vừa tạo ra một cộng đồng tử tế.

Ngày xưa, khi còn theo học, sếp tôi nhắc nhở chúng tôi khi đi dự hội nghị, phải đến quầy của các công ti dược để nói lời cảm ơn vì họ đã tài trợ cho chuyến đi. Trong báo cáo khoa học cũng phải có một slide cảm ơn mọi người đã giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu. Sau này, tôi cũng nhắc nhở các em nghiên cứu sinh trong lab làm như vậy. Nói ra lời cảm ơn, mình thấy thoải mái làm sao.

Người Việt chúng ta rất ít nói lời cảm ơn. Có khi họ nói ‘cám ơn’ cho có lệ chớ không thực lòng. Việt Nam chúng ta cần học người phương Tây về cảm ơn.

Điều thứ 6: Tôn trọng chánh kiến khác (sống với dị biệt)

Có lần, một anh bạn giáo sư kinh tế, người Úc, rất sùng cánh tả, hỏi tôi về quan điểm chánh trị. Tôi nói rằng chưa bao giờ bầu cho đảng Lao Động và chưa bao giờ thích mấy ứng cử viên của phe Dân Chủ và dứt khoát không thích anh Bảy Đờn và phe Pelosi. Anh ấy nói tôi có xu hướng right wing. Cười hoà.

Đặc điểm quan trọng của xã hội phương Tây là đa sắc tộc, đa nguyên và đa đảng. Ngay từ thời tiểu học, học sinh đã được dạy phải tôn trọng ý kiến khác mình. Học sinh được dạy để biết sanh hoạt đa đảng ra sao. Do đó, trong công việc, họ hoàn toàn không có kì thị đảng phái.

Tôi mới đọc hồi kí của Clive Hamilton, một giáo sư hữu khuynh, mà trong đó tôi học cách ứng xử của giới khoa bảng Úc. Giáo sư Hamilton kể rằng lúc trẻ ông là một tay tả khuynh (left wing), mê xã hội chủ nghĩa. Ông tốt nghiệp tiến sĩ và xin việc tại một khoa kinh tế nổi tiếng hữu khuynh. Ông nghĩ mình sẽ không được phỏng vấn. Nhưng ngạc nhiên thay, ông được phỏng vấn và nhận vào làm việc. Ông cho biết sau này bà khoa trưởng thổ lộ rằng bà muốn có ý kiến ngược lại số đông nên sẵn sàng nhận ông vào làm nghiên cứu. Ông cho biết thời gian ở cái khoa hữu khuynh đó ông học rất nhiều và xem là thời gian đáng nhớ nhứt trong đời.

Điều thứ 7: Dí dỏm

Hồi còn ở Việt Nam tôi say mê chương trình hài của ‘Sạc Lô’ mà sau này tôi mới biết tên thật là Charlie Chaplin. Ông ấy không nói gì nhưng trong thực tế thì nói rất nhiều, rất hay. Khi qua Úc tôi mê chương trình Benny Hill trên tivi. Không phải mê vì mấy cô gái đẹp đóng chung với ổng (Hill), mà là những câu đối thoại vừa ý nhị vừa hài hước ghê nơi. Có những câu nói ra mình chưa biết ý nghĩa là gì, nhưng nghĩ một hồi thì cười ha hả.

Tôi thấy người phương Tây có óc hài hước chẳng kém dân Việt mình. Mark Twain từng nói “The human race has one really effective weapon, and that is laughter” (Con người có một vũ khí rất hiệu quả: đó là tiếng cười). Hài hước là một đức tính rất hay và được xem là một hành vi tích cực. Nó (hài hước) giúp chúng ta đối phó với những khó khăn và phiền toái trong cuộc sống. Có lẽ chính vì vậy mà người Tây rất hài hước.

Người tiêu biểu về tính hài hước là mấy ông sếp cũ của tôi. Một ông sếp cũ của tôi là một giáo sư về thần kinh học là một người hài hước đáo để. Ổng là viện trưởng, nhưng lần nào họp viện ổng đều mở đầu bằng một câu nói hay một câu chuyện làm cho khán phòng cười nghiêng ngả. Cái tánh hài hước của tôi chính là bị ông này ‘lan truyền’.

Điều thứ 8: “Give and take”

Rất khó dịch thành ngữ ‘Give and take’, nhưng nó tương đương với câu ‘Có qua có lại mới toại lòng nhau’ trong cách nói của chúng ta. Người phương Tây rất trọng ‘Give and take’ vì đó là một thể hiện của sự công bằng (fairness). Công bằng là một nguyên lí rất quan trọng trong xã hội phương Tây, và hầu như chánh sách hay chủ trương nào cũng được xây dựng trên nguyên lí này.

Người Việt ngày nay hay có thói “có lợi gì cho tôi”. Bất cứ một đề nghị nào, dù tốt cỡ nào, giới lãnh đạo hay hỏi ‘có lợi gì cho tôi’. Rất hẹp hòi. Chỉ nghĩ đến mình mà không nghĩ đến người khác. Tôi thấy Tây khác ta: họ lúc nào cũng nghĩ ‘mình đem lợi gì cho người và cho mình’ hay nói theo tiếng Anh là công bằng (cho và nhận). Nên học cách suy nghĩ ‘give and take’ của Tây.

Điều thứ 9: Làm chậm mà chắc

Người Việt chúng ta hay tự hào là làm nhanh. Họ hay so sánh kiểu một công trình Tây làm 2 năm, nhưng Việt Nam làm chỉ 6 tháng. Trong thực tế và đó đây thì đúng là có sự việc như vậy. Hay trong y khoa, có những thuật mà Tây không dám làm, nhưng Việt Nam dám làm; chẳng những dám làm, mà còn quảng bá rùm beng.

Nhưng vấn để không phải là làm được hay làm nhanh. Tây họ rất cẩn thận và suy nghĩ lâu dài. Làm cái gì họ cũng tham vấn nhiều người từ nhiều chuyên ngành khác nhau. Làm một cái giường cho bệnh nhân, họ không chỉ tham khảo ý kiến của chuyên gia mà còn hỏi ý kiến của bệnh nhân. Làm một con lộ cao tốc, họ phải nghiên cứu tác động môi trường cả 2 năm trời để đánh giá tác hại đến cư dân ra sao. Ngay cả triển khai một nghiên cứu thành hiện thực họ cũng phải xem xét lợi và tác hại có thể cho bệnh nhân.

Người phương Tây làm chậm không phải họ dở, mà là họ quan tâm đến chất lượng và lâu dài. Chúng ta nên học họ về tầm nhìn xa và phẩm chất.

Điều thứ 10: Tinh thần cách tân

Người phương Đông chúng ta trọng tĩnh, nhưng người Tây trọng động. Họ lúc nào cũng nghĩ đến cách tân hay làm mới một ý tưởng cũ. Ở viện tôi công tác, năm nào cũng có ‘retreat’. Và, mỗi retreat, sếp tôi hay hỏi ‘vấn đề lớn hiện nay là gì và chúng ta phải làm gì mới để giải quyết vấn đề.’ Năm nào câu hỏi đó cũng được đặt ra. Riết rồi, chúng tôi buộc phải suy nghĩ đến cái mới. Tinh thần cách tân thật là đáng học.

Trong thời đại cạnh tranh khoa học và công nghệ, tinh thần cách tân rất quan trọng vì nó giúp mình đứng đầu. Các nước mới nổi ở Châu Á họ hay mời chúng tôi sang nói chuyện. Có khi một bài nói chuyện chỉ 30-40 phút, nhưng họ biết được hướng mới là gì. Trả có 10 ngàn đôla mà có ý tưởng mới thì quả là quá rẻ.

***

Tôi có hứng chia sẻ vài ý nghĩ trong cái note này nhân một câu nói của cô phát ngôn viên Bộ Ngoại giao về nước Nga. Cô ấy nói rằng [1]: “Tôi gắn bó với nước Nga vì tiếng Nga là ngôn ngữ tôi học từ bé. Nước Nga của những áng thi ca và các tác phẩm nghệ thuật bất diệt. Tôi đã đọc hầu hết các tác giả Nga và Liên Xô, đi thăm các bảo tàng Tretchiacov và Hermitage nhiều lần. Nhưng nước Anh để lại trong tôi nhiều ấn tượng vô cùng sâu sắc. Đó không chỉ là cái nôi của văn minh châu Âu mà còn là văn hóa đa sắc tộc, hiện đại nhưng cũng rất bản sắc.”

Cô ấy nói nước Anh là ‘cái nôi của văn minh châu Âu’? Wow! Thiệt vậy sao? Kiến văn của một phát ngôn viên ngoại giao là vậy?

Bất cứ nền văn hoá và văn minh nào cũng có nhiều điều để chúng ta học hỏi. Người phương Tây có một nền văn minh rất lâu đời (chẳng kém gì văn minh phương Đông), và họ đã có rất nhiều thành tựu vật chất và phi vật chất. Tôi nghĩ người phương Tây cũng muốn học từ văn hoá phương Đông, chứ không phải sự học chỉ diễn ra 1 chiều.

Sống trong xã hội phương Tây chỉ 40 năm thôi, nhưng tôi thấy mình phải học họ nhiều lắm. Mười năm đầu tôi chưa ‘thấm’ đâu, phải 20 năm sau mới bắt đầu biết chút chút. Mười điều tôi nêu trên đây chỉ là những điều hiển nhiên và mang chút cá nhân tánh. Tôi tin rằng các bạn có thể rút ra nhiều nhiều hơn những gì tôi liệt kê. Tôi nghĩ những giá trị như bao dung, sự tử tế, tôn trọng quyền cá nhân, tôn trọng nữ giới, tôn trọng chánh kiến khác, và tinh thần cách tân là những gì chúng ta có thể soi rọi và tự làm mới mình.

Giáo sư Trần Ngọc Ninh và ước vọng Duy Tân

Tôi rất hân hạnh giới thiệu một bài viết mới của Bs Ngô Thế Vinh về một học giả tôi rất kính trọng nhưng chưa có dịp gặp ngoài đời: Gs Trần Ngọc Ninh. Từ cái thời tôi đam mê đọc về nguồn gốc dân tộc, về văn hoá học, tôi đã biết đến Thầy Ninh qua những bài viết. Trước đó, tôi hay đọc những bài của Thầy trên trên Thế Kỷ 21 (một tạp chí tôi thường viết bài), với những kiến giải thú vị, và lúc nào cũng cảm được sự cẩn trọng của một nhà khoa học trong những bài viết về văn hoá. Dĩ nhiên, Thầy là người của y học, nhưng tôi muốn nhìn ông cũng là một nhà văn hoá học. Qua bài này của Bs Vinh, bạn đọc sẽ biết nhiều hơn một danh sĩ của miền Nam trước 1975. NVT

====

Giáo sư Trần Ngọc Ninh và ước vọng Duy Tân

Tôi mơ về một nước Việt Nam hoà bình, tân tiến trên nền tảng của những giá trị tinh thần mà lịch sử đã nhồi vào nền văn hiến của nước ta. Cả cuộc đời xã hội của tôi là để đóng góp vào sự ước mong ấy” – Trần Ngọc Ninh, Ước Vọng Duy Tân, 2012

Hình 1: trái, đến thăm Gs Trần Ngọc Ninh, Huntington Beach ngày 21 & 29 tháng 06.2018, ở tuổi 95 mà Thầy vẫn còn rất minh mẫn và sắc bén; trên bàn là những số báo Tình Thương (1963-1967) có các bài viết của Thầy. Ảnh phải, Gs Trần Ngọc Ninh đang ký tặng Ngô Thế Vinh cuốn Làm Gì (1979), bên cạnh là tác phẩm Nuôi Sẹo của Thư Quán Bản Thảo do nhà văn Trần Hoài Thư tặng Gs Trần Ngọc Ninh. Nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh

TIỂU SỬ

Trần Ngọc Ninh, tên thật, còn có bút hiệu Kỳ Ngọc, Trần Ngọc, Trần Lê sinh ngày 6 tháng 11 năm 1923 tại Hà Nội, nguyên quán Ninh Bình Bắc Việt, thân phụ là giáo viên nghèo, đôi khi nhà không đủ ăn; vừa đi học vừa viết báo phổ thông y học như với tờ Vui Sống để kiếm sống với bút hiệu Kỳ Ngọc; một số bài báo còn sưu tập được đã đăng lại trong Tuyết Xưa. (2)

1939 học sinh trường Bưởi, sinh viên Khoa học ban Toán cùng với Triều Sơn, rồi chuyển sang học Y khoa 1946-1948 cựu nội trú các bệnh viện Hà Nội 1948 luận án Tiến sĩ Y khoa: “Contribution à la Physiopathologie des Traumatismes Thoraciques”

1948-1952 bác sĩ thường trú bệnh viện Yersin / Phủ Doãn Hà Nội

1952-1954 sang Pháp du học với Gs Robert Merle d’Aubigné ở bệnh viện Cochin về ngành giải phẫu chỉnh trực và với Gs Pierre Petit về ngành giải phẫu tiểu nhi ở bệnh viện St Vincent de Paul; qua Anh tu nghiệp về giải phẫu thần kinh ngoại vi và xương sống với Gs Herbert Seddon

1954 di cư vào Nam sau Hiệp định Geneve, cùng với các giáo sư Phạm Biểu Tâm, Nguyễn Hữu, Ngô Gia Hy, Nguyễn Đình Cát… và trở thành ban giảng huấn cốt cán của Đại học Y Khoa Sài Gòn sau khi người Pháp rút đi.

1961 Thạc Sĩ Y khoa Pháp / Agrégation des Facultés Françaises de Médecine, Section Chirurgie Orthopédique.

1961-1967 giáo sư phẫu khoa chỉnh trực và phẫu nhi khoa, Đại học Y khoa Sài Gòn, Việt Nam

1966-1967 Tổng trưởng Văn hoá Xã hội đặc trách Giáo dục Việt Nam Cộng Hoà, chủ trương phát triển phong trào thanh niên, đưa Hướng đạo vào sinh hoạt học đường.

1956-1977 trưởng khoa phẫu thuật chỉnh trực, bệnh viện Bình Dân Sài Gòn

1966-1975 giáo sư Văn minh Đại cương và Văn Hoá Việt Nam, Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn, Việt Nam

1967 thành viên sáng lập Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á (SEAMEO / Southeast Asian Ministers Education Organization) Bangkok & Singapore

1968-1975 hội viên Hội đồng Soạn thảo Danh từ Chuyên môn, Sài Gòn, Việt Nam

1969-1975 hội viên Hội đồng Văn hoá Giáo dục, Sài Gòn Việt Nam

1977 ngày 6 tháng 6, cùng gia đình vượt biển tới đảo Pulau Besar Mã Lai, chọn định cư tại Hoa Kỳ

1978-1980 thi ECFMG & FLEX như một bác sĩ ngoại quốc, vẫn phải qua thời gian thực tập tại các bệnh viện ở Denver, Colorado; rồi Pittsburg với các Gs James S. Miles và Gs William B. Kiesewetter cùng là giáo sư y khoa bạn cũ trong ngành phẫu nhi khoa / Pediatric Surgery với ông trước kia.

Giữa thời gian đèn sách, ông vẫn hoàn tất một tập luận đề chính trị “Làm Gì” trên 300 trang, với ghi chú nơi cuối sách: “Viết xong lúc giữa trưa ngày 24 tháng 3 năm 1979 tại Trường Sơn của Mỹ Châu”. (Rocky Mountains Ranges Denver, Colorado / ghi chú của người viết)

1980 trở lại hành nghề Y khoa tại Nam California, nhưng chủ yếu vẫn là các hoạt động văn hoá giáo dục; viết bài cho các báo Tập San Y Sĩ, Thế Kỷ 21, Khởi Hành…

2000 tham gia Ban Cố vấn Viện Việt Học (Westminster, California) do Gs Nguyễn Đình Hoà sáng lập

2003-2008 Viện trưởng Viện Việt Học, giáo sư giảng dạy lớp Ngữ pháp Việt ngữ tại Viện Việt Học

2018 Ông vẫn minh mẫn ở tuổi 95, hiện cư ngụ tại thành phố Huntington Beach, miền Nam California.

TÁC PHẨM

Văn Hóa

_ Những Vấn đề Văn hoá Giáo dục và Xã hội [Sưu tập Diễn Văn của Gs Trần Ngọc Ninh, Tổng trưởng Văn hoá Xã hội đặc trách Giáo dục Việt Nam Cộng Hoà] Sài Gòn Việt Nam 1966

_ Văn hoá Dân tộc trước những Nhu cầu của Đất nước; Nxb Vovinam, Sài Gòn Việt Nam 1969

_ Đức Phật Giữa Chúng Ta. Nxb Lá Bối, Sài Gòn Việt Nam 1972

_ Làm Gì? Tập Luận đề Tháng Chín. Với bút hiệu Trần Lê. Nxb Việt Nam Hải Ngoại, California 1979

_ Tuyết Xưa; Tuyển tập các Vấn đề Văn hoá Việt Nam, Nxb Khởi Hành California Hoa Kỳ 2000

_ Tố Như và Đoạn Trường Tân Thanh. với những giả thuyết mới về Nguyễn Du và Đoạn Trường Tân Thanh, cũng như mối liên hệ giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương. Nxb Khởi Hành & Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2004

_ Cơ Cấu Việt Ngữ, Nxb Lửa Thiêng Sài Gòn Việt Nam 1973; Viện Việt Học California Hoa Kỳ tái bản 2009

_ Dạy Đọc Dạy Viết Tiếng Việt. Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2010

_ Ước Vọng Duy Tân. Văn Hoá, Huyền Thoại, Văn Học Sử. Tuyển tập Trần Ngọc Ninh. Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2012

_ Ngữ Pháp Việt Nam [Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2017]

_ Ngữ Pháp Tiếng Việt Đầu Tiên, Cho Tuổi 5 Năm – 15 Năm [Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2017]

Hình 2: hình bìa một số những cuốn sách của Gs Trần Ngọc Ninh. Nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh

Y Học

_ Nhà Thương, Phóng sự, Nxb Văn Hoá Hà Nội, Việt Nam 1946

_ Thượng Kinh Ký Sự / Éthique Médicale de la Médecine Traditionnelle du Vietnam, d’ après les Mémoires d’un Voyage à la Capitale de Hải Thượng Lãn Ông (18e siècle), Isis, Bruxelles, Belgique 1950

_ Những Bệnh Cần Cấp Cứu, Gió Việt, Sài Gòn Việt Nam 1956

_ Một Chút Lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn. Tập San Y Sĩ, Montréal Canada 2000

_ Lịch sử hình thành hai Chuyên khoa Y Học: Phẫu khoa Chỉnh trực và Phẫu Nhi khoa ở Việt Nam. Tập San Y Sĩ, Montréal Canada 2000

_ Hơn 200 bài khảo cứu chuyên khoa được in trong các Tạp chí Y khoa xuất bản tại Việt Nam, Pháp và Mỹ.

GIÁO SƯ Y KHOA LỖI LẠC

Hình 3: từ phải, Gs May, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Nguyễn Hữu, Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Trịnh Văn Tuất. Nguồn: Album gia đình Gs Phạm Biểu Tâm

Hình 4: Một buổi họp Hội Đồng Khoa Đại học Y Khoa Sài Gòn. Từ trái, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Trịnh Văn Tuất, Gs Trần Vỹ, Gs Caubet, Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Huard, Gs Trần Đình Đệ, Gs Nguyễn Đình Cát, Gs Nguyễn Hữu, Gs Ngô Gia Hy. Nguồn: Album gia đình Gs Phạm Biểu Tâm

VỚI BÁO SVYK TÌNH THƯƠNG

Học Y khoa, tôi không phải là học trò theo cái nghĩa là đệ tử ruột của Gs Trần Ngọc Ninh: học trò của Thầy Ninh ở trường Y có thể đếm trên mười đầu ngón tay: rất sớm có Bùi Duy Tâm, Phạm Văn Biểu, cả hai đều dở dang, rồi Vũ Văn Nguyên mất sớm khi du học Mỹ, và sau này là Trần Xuân Ninh (Ninh Con, để phân biệt với Ninh Bố là Thầy Ninh), Võ Thành Phụng, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Lương Tuyền… Khác với Gs Phạm Biểu Tâm được sinh viên Y khoa yêu mến; với Gs Trần Ngọc Ninh, sinh viên có thể nể phục tài năng kiến thức và cả cái uy của ông nhưng một số không thích ông vì quá nghiêm khắc.

Tôi gần gũi với Gs Trần Ngọc Ninh không phải bên giường bệnh hay trong phòng mổ nơi các bệnh viện, mà chủ yếu qua những hoạt động sinh viên với tờ báo Tình Thương trong khoảng thời gian 1963-1967. Các bài viết của Thầy Ninh trên báo SVYK Tình Thương đều với một tầm nhìn chiến lược đặt ra những vấn đề lớn của nền Y tế, Giáo dục và Văn hoá Việt Nam, cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự:

TT 1: Y tế và Chính Trị

TT 3-4: Những Vấn đề Hiện tại của nền Giáo dục Việt Nam

TT 5: Tinh Thần Đại Học

TT 12: Phỏng vấn Giới Gs Đại học về Vấn đề Sinh viên

TT 14: Nền Đại học Y khoa Việt Nam

TT 20: Các Vấn đề Thanh niên và Sinh viên trong Thời đại

TRẦN NGỌC NINH VÀ NUÔI SẸO

Ngay từ số Tình Thương ra mắt, qua Gs Trần Ngọc Ninh, toà soạn đã nhận được bản thảo truyện dài Nuôi Sẹo của Triều Sơn và bắt đầu cho đăng từng kỳ trên báo với lời giới thiệu trang trọng: “Nuôi Sẹo là một tác phẩm mà nhiều nhà văn tìm đọc từ hơn 10 năm nay [thời điểm 1964, ghi chú của người viết]. Cuốn truyện đã không thể xuất bản được ở miền Bắc, cộng sản. Nó cũng không thể ra đời được ở miền Nam, dưới chế độ cũ. Tác giả là Triều Sơn, một sinh viên đã rời mái trường để đi làm cách mạng, đã làm đủ nghề, đã đặt chân tới nhiều nơi trên thế giới. Và Triều Sơn đã chết ở Paris khi Nuôi Sẹo sửa được gần xong tập đầu, mà chúng tôi hân hạnh giới thiệu ở đây. Nhưng vài dòng ngắn ngủi này không thể đủ để các bạn, nhất là các bạn trẻ biết rõ Triều Sơn và Nuôi Sẹo. Bởi vậy chúng tôi xin nhường chỗ cho Trần Ngọc [bút hiệu của Gs Trần Ngọc Ninh], một người bạn thiết của Triều Sơn viết “Kỷ niệm về Triều Sơn.” Trần Ngọc đã gặp lại Triều Sơn sau 15 năm xa cách và đã làm quen với Nuôi Sẹo ở đó. Triều Sơn đã sống những ngày sau cùng với Trần Ngọc. Cuộc tao ngộ đó là cái nhân cho sự ra mắt của Nuôi Sẹo ở đây. Và chúng tôi xin ghi đậm một nét chân thành cám ơn Trần Ngọc, người đã cho chúng tôi cái hân hạnh đón chào Nuôi Sẹo.” [Trích dẫn Tình Thương Số 1, 01/1964]

Bài viết giới thiệu Nuôi Sẹo của Gs Trần Ngọc Ninh, một tài liệu hiếm quý tưởng đã bị thất lạc mà nay tìm lại được. Tuy là viết về Triều Sơn nhưng cũng là tấm gương phản chiếu một chân dung khác thời trai trẻ của Trần Ngọc Ninh nên chúng tôi chủ ý cho trích đăng trong bài viết này.

“Mười Lăm Năm Ấy, Kỷ Niệm về Triều Sơn” của Trần Ngọc

Tôi không biết làm thế nào để nhìn thấy trong một người trẻ tuổi cái mầm của tài năng. Tôi bắt đầu quen Triều Sơn khi vào lớp Toán Chuyên khoa năm 1939. Tôi còn nhớ Triều Sơn nói với tôi, khi hai người vào ngồi cùng một ghế:

_ Có anh em cũ thì học cả Toán cho vui, nhưng tôi học Triết cũng thích.

Anh em cũ” là hai anh bạn khác, cùng học với Triều Sơn những năm về trước ở trường Bưởi; nhưng ngay từ buổi đầu ấy, tôi cũng đã là “anh em cũ” của Triều Sơn. Năm ấy Triều Sơn 18 tuổi, người to lớn, má đầy, mặt trắng nổi lốm đốm những mụn nhỏ của thiếu niên, tóc thưa và chải lật về đằng sau, mình đóng một cái áo the đen. Cả lớp chỉ có hai chúng tôi mặc ta, nhưng có lẽ đấy là hai điểm độc nhất giống nhau.

Hình 5: Chân dung Triều Sơn Bùi Văn Sinh 1921-1954. Nguồn: báo Văn 15.05.1965, số Đặc biệt Truy Niệm Triều Sơn

Triều Sơn thích đọc Triết hơn Toán, và tôi thích học Toán hơn Triết.

Thực ra Triều Sơn đã tiến sâu vào Triết học từ khá lâu rồi; khi mới học năm thứ ba Trung học phổ thông, anh đã đọc hết Kant, Fichte và Hegel; ảnh hưởng của Triết học Đức sau này còn sâu xa hơn nữa vào anh, qua Marx, qua Husserl, nhưng Triều Sơn không phải là người của một dòng tư tưởng, và anh đã học cả Triết lý cận đại của Âu châu lẫn triết lý cổ Phật-Lão của Á đông. Hơn nữa, Triều Sơn ngay từ lúc ấy đã có một cái công phu suy nghĩ sau này sẽ đưa tư tưởng của anh vượt lên trên những lý thuyết vụn vặt của các môn phái. Tuy vậy mà trong lớp, không có dấu hiệu gì tỏ ra rằng Triều Sơn đã hiểu biết nhiều như thế; số điểm của anh chỉ vào hạng trung bình, kể cả về triết học; có lẽ cái mầm vẫn còn thu hình trong hạt, hoặc giả những ý nghĩ đã có chút đặc sắc của Triều Sơn không hợp với cách học trọng hư văn trong các trường chăng?

Sau khi đậu Trung học, mỗi người chúng tôi theo một ngả đường. Triều Sơn, người không thích Toán, lại vào lớp Toán học đại cương. Nhưng Triều Sơn không học Toán vì Toán; suốt ngày tôi gặp anh ở thư viện đọc về triết lý của toán học; những sách của Whitehead, của Bertrand Russell, của Hamilton được giũ bụi thời gian và ăn sâu vào óc người sinh viên trẻ tuổi. Hồi ấy anh chỉ nói chuyện về “vô cùng”, về “số giả”, về cách lý luận trong toán học, về căn bản của sự hiểu biết… Kết quả là cuối năm, sau khi thi hỏng, Triều Sơn bỏ học nhưng hài lòng vì đã lấp được một lỗ hổng trong tư tưởng.

Trong ít lâu, tôi không gặp Triều Sơn nữa. Thời kỳ này mới chính là thời kỳ nảy nở của tài năng. Cái gì đã làm cho cái mầm nảy lá, đục đất và vươn lên trời xanh? Sau này khi Triều Sơn viết Con đường văn nghệ mới, anh sẽ nhấn mạnh về điểm phải gần dân chúng; văn nghệ sĩ nào xa dân chúng sẽ cằn cỗi, hoặc truỵ lạc tinh thần; đi vào quần chúng, sống với đại chúng, hoà nhịp sống của mình vào đời sống chung, phải là phương châm của văn nghệ sĩ tiền phong. Đấy là một lời khuyên sống: quần chúng đã rèn luyện tài năng của Triều Sơn, đã nuôi tinh thần Triều Sơn, đã nung đúc tư tưởng của Triều Sơn. Anh lăn mình vào cách mạng, làm thợ ở mỏ than Hòn Gay, làm hành chính ở Hải Dương, dạy học ở Phú Thọ, làm phu ở dưới tàu, lưu lạc qua Quảng đông để chung đụng với người dân Trung Hoa mới, ở Hồng Kông, Tích Lan, đi Phi châu làm thợ nguội, rồi về Pháp, sống với anh em lính thợ ở Marseille, Bordeaux và Ba Lê.

Và tôi gặp lại Triều Sơn ở Ba Lê.

Thực ra giữa quãng, tôi còn gặp Triều Sơn vài ba lần khác, thời gian vội vàng của một cuộc lên bộ, nhưng cũng không có gì đáng kể. Một bữa thì anh mới ở ngoài Khu vào, và nói chuyện về những thắc mắc tinh thần mà duy vật lịch sử không giải quyết nổi; một bữa khác anh bàn luận về quan niệm của Trang Tử về tự do; một bữa nữa, phê bình văn nghệ, và nói chuyện về sự truỵ lạc của người trí thức bị khoa cử đưa đến một con đường danh lợi dễ dàng xa cách hẳn với đời sống của người dân cần lao. Rồi Triều Sơn vào Sài Gòn làm báo, giũa ngòi bút trong những truyện ngắn, trong những bài thơ tự do (dưới tên là Ninh Huy), hay thơ trào lộng (dưới tên Thang Thang), hoặc tranh luận về Nghệ thuật, về Triết lý hay về những vấn đề xã hội. Trong khoảng này, anh viết bản kịch thơ Triều Sơn đã khéo phù hợp cách dệt những bi kịch Hy Lạp kể sự thức tỉnh của một tâm hồn thấm nhuần Phật học trước sự đau khổ hiện tại của cả dân tộc. Giặc Cờ đen có một cấu tạo rất cổ điển; Triều Sơn đã khéo phù hợp cách dệt những bi kịch Hy Lạp vào xã hội của Việt Nam và dùng lời thơ cổ phong, khi âm u, khi thâm trầm, khi dồn dập, để tả tâm tình của các nhân vật. Tuy thế sau này, Triều Sơn có nói rằng về phương diện thơ thì Giặc Cờ đen chỉ được có vài câu là anh vừa ý; về phương diện kịch thì sự thành công chắc chắn hơn, nếu anh có thì giờ để thực hiện sự ra mắt của vở kịch trên sân khấu.

Nhưng lúc ấy Triều Sơn còn ôm trong người cái mộng lớn về Nuôi Sẹo.

Nuôi Sẹo là gì? Tôi gặp lại Triều Sơn trong một căn phòng nhỏ hẹp, méo mó, chật sách, than và giấy ở phố Bièvre, quận Năm Ba Lê, và cũng làm quen với Nuôi Sẹo ở đó.

Nuôi Sẹo là nhân vật chính của một tiểu thuyết dài về xã hội Việt Nam trong buổi cuối cùng của thời thuộc Pháp. Làm mõ làng, chuyên nghề đòi nợ thuê và chôn người. Nuôi Sẹo là một con sâu bọ trong cái xã hội có tôn ti trật tự của một làng Bắc Việt. Triều Sơn đã muốn nhờ con mắt của Nuôi Sẹo để tả cái xã hội phong kiến ấy, rồi lại nhờ con người của Nuôi Sẹo để mở hé một cái quan niệm về cuộc đời.

Đây không phải là một chuyện dễ. Một bức hoạ đồ sộ đòi hỏi công phu và thì giờ rất nhiều: Triều Sơn để vào đó năm, sáu năm của anh, lúc nào cũng cặp chặt tập bản thảo trong người, từ Khu ra Hà Nội, và trong tất cả những chặng đường luân lạc của anh; xúc than nuôi lò cả ngày, buổi chiều tối lại trút bộ áo xanh của người phu tàu ra để chữa một hai câu văn; hoặc là nằm ở Yễm Yễm thư trang, sửa lại vài đoạn chưa được vừa ý. Lúc nào trong đầu óc anh cũng có Nuôi Sẹo; Nuôi Sẹo chưa ra đời mà làng văn Việt Nam đã biết cả hình dáng của gã, các nhà xuất bản đã tranh nhau đỡ đầu cho gã, đã có nhà văn Pháp hẹn với tác giả để dịch chuyện gã sang tiếng Pháp, đã có hoạ sĩ đi tìm tài liệu để vẽ lại vài cảnh trong cuộc đời gã. Triều Sơn cứ đắn đo, sửa chữa, xoá bỏ, thêm thắt, và để vào đây tất cả sức khoẻ của anh, cho đến ngày không cầm được bút nữa.

Nhưng bức hoạ xã hội không phải là cái khổ tâm chính của Triều Sơn. Cái khổ tâm chính của Triều Sơn là Nuôi Sẹo, là con người Nuôi Sẹo, là tâm lý Nuôi Sẹo…

Thỉnh thoảng tôi đi uống nước với Triều Sơn. Ở khu Saint-Germain-des-Prés, khu văn nghệ của Ba lê, có một quán café, cửa sơn màu đỏ hung, nhỏ nhắn và ấm áp, lúc nào cũng đông khách; khi nào vào đấy thì Triều Sơn ngồi hàng giờ không đứng dậy, với một chén suc-cu-la bốn mươi lăm quan. Tại sao Triều Sơn thích cái quán ấy, tôi không biết. Ở Ba Lê, anh có giao thiệp với các văn sĩ Pháp Vercors, Marcel Aymé, Jean-Paul Sartre; có lẽ vì sự gặp gỡ của anh với những nhà văn ấy thường dùng cái khung cảnh của quán này. Cũng có lẽ rằng Triều Sơn hay tới họp ở hội Triết học cũng ở khu ấy, đã có lần anh tới diễn giảng ở hội và khi ra về quen rẽ vào quán đó. Ngồi đấy với Triều Sơn, tôi đã được nghe anh nói cho nghe về những vấn đề trong Nuôi Sẹo

Hình 6: từ phải, một trang Nuôi Sẹo, đăng từng kỳ trên báo Sinh viên Y khoa Tình Thương số 14 với mẫu bìa Nghiêu Đề, tháng 2 Xuân Ất Tỵ 1965. Nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh

Tôi biết Triều Sơn đã xét lại tất cả văn phạm Việt Nam và có những ý nghĩ rất đặc sắc về văn phạm. Anh không lùi khi thấy những điểm cần phải bổ khuyết cho nghề được tinh vi. Khi dùng một chữ không chắc chắn về chính tả, Triều Sơn lại xem lại các tự điển, và tuy đã cẩn thận, nhưng vẫn lo là bỏ sót nhiều chữ viết sai. Thích triết học như anh, mà phải nhịn không giở một cuốn triết lý trong hằng tháng, để khỏi tiêm nhiễm cách viết trừu tượng của các triết gia…

Triều Sơn sửa đi chữa lại Nuôi Sẹo năm sáu lần, vẫn chưa chịu cho in. Tập đầu, lúc mới viết xong dài 900 trang, đúc lại còn 400 trang. Triều Sơn vẫn chưa cho là đủ, “Còn dài quá, 300 trang thôi”, anh nói. Các bạn thì sợ rằng rút quá sẽ thành khô. Nhưng Triều Sơn chỉ hứa lần này chữa nữa là “lần cuối cùng”, rồi sẽ đưa cho tất cả các bạn xem lại và phê bình, và rồi chữa theo những lời phê bình ấy thôi, trước khi in. Anh nói: “Xong đây, tôi sẽ ghi lại những kinh nghiệm học nghề của tôi thành một quyển Tôi tập viết văn“. Nhưng Nuôi Sẹo cũng chưa xong hẳn, công việc còn dở dang thì bệnh nặng phát ra và anh phải bỏ dở mãi mãi.

Triều Sơn còn để lại một tập truyện dài bằng thơ lục bát, vài truyện ngắn, mấy bài thơ, một cuốn triết học nhập môn viết nửa chừng, và bản thảo của những thư từ bàn luận về triết học và xã hội học với mấy giáo sư ở Collège de France và Sorbonne (Jean Wahl, Gurwich). Nuôi Sẹo đã sửa gần xong tập đầu, tập thứ hai còn là một đống bản thảo hỗn độn. Còn tất cả những hẹn hò khác, anh mang đi, chôn sâu dưới mảnh đất của Ba Lê… [Hết trích dẫn, Tình Thương Số 1, 1-1964] (4)

Hình 7: Truyện dài Nuôi Sẹo của Triều Sơn. Một Nuôi Sẹo Phục Sinh, do Trần Hoài Thư thực hiện. Thư Quán Bản Thảo, Tạp chí VHNT Số 77 Tháng 11.2017. Nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh

Và để rồi, chẳng thể ngờ được hơn nửa thế kỷ sau [1963-2018], tôi có dịp gặp lại Thầy Ninh, trao lại Thầy những trang sách của truyện dài Nuôi Sẹo ngày nào, một Nuôi Sẹo Phục Sinh, tuy không toàn vẹn nhưng với rất nhiều công lao của nhà văn Trần Hoài Thư và anh em Thư Quán Bản Thảo. (5)

Và cũng trong dịp này, tôi được biết thêm Triều Sơn có một người con trai còn sống ở Việt Nam. Cô Minh Chân con gái của anh ấy gọi Triều Sơn Bùi Văn Sinh là “Ông Nội”, thì hiện sống ở Nam California, cách đây bốn năm có lần tìm tới thăm Thầy Ninh. Qua giới thiệu của Thầy Ninh, tôi được nói chuyện với Minh Chân, được biết thêm tên bố cô là Nguyễn Vân Sơn sinh ngày 7 tháng 10 năm 1951 [bố cô mang họ mẹ, là nữ sĩ Nguyễn Thị Lan Phương, sinh năm 1921, nay cũng đã mất].

Rất mong rồi ra, khi liên lạc được với người con trai của Triều Sơn, sẽ có một ấn bản đặc biệt truyện dài Nuôi Sẹo từ Thư Quán Bản Thảo gửi tới anh, như người thừa kế phần gia tài tinh thần của thân phụ mà có lẽ chính anh cũng chưa được biết mặt và chỉ được nghe Mẹ kể lại những năm về sau này. Triều Sơn Bùi Văn Sinh mất ở Paris năm 1954, do bệnh xơ gan / cirrhosis, lúc đó Triều Sơn chỉ mới 34 tuổi.

VỚI BÁO BÁCH KHOA MỘT CHÂN DUNG VĂN HOÁ

Không chỉ qua báo SV Tình Thương, tôi gần gũi với Gs Trần Ngọc Ninh hơn qua tờ Bách Khoa của anh Lê Ngộ Châu, địa chỉ 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn. Đó là một chân dung Trần Ngọc Ninh khác, trong lãnh vực văn hoá.

Được đọc những bài viết của Gs Trần Ngọc Ninh trên báo Bách Khoa, tiếp cận với con người văn hoá rất đa dạng của Thầy Ninh qua những bài viết với nhiều thể loại như: tôn giáo Đức Phật giữa chúng ta, Đức Phật và sự Cải tạo Xã hội, nhân chủng học với Claude Lévi-Strauss, dân tộc học qua những huyền thoại và huyền thoại lí học và cả về ngữ học, như bàn luận về cơ cấu và ngôn ngữ, ông đã rất sớm giới thiệu Noam Chomsky với những phát kiến về Ngữ học Cơ Cấu / Structural Linguistics, với lý thuyết về một Ngữ pháp Hoàn vũ / Universal Grammar và để rồi ông không ngừng theo đuổi và tìm cách ứng dụng để soạn bộ Ngữ Pháp Việt Nam sau này. (7)

Hình 8: tại nhà Võ Phiến 30.07.1994, từ phải: Gs Trần Ngọc Ninh, Chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu, anh chị Võ Phiến, vợ chồng Lê Tất Điều. Nguồn: tư liệu Viễn Phố

Hình 9: tại nhà Gs Trần Ngọc Ninh 1994, từ trái: nhà văn Võ Phiến, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Nguyễn Văn Trung từ Montréal Canada, Ngô Thế Vinh. Nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh

Gs Trần Ngọc Ninh không chỉ là một giáo sư Y khoa lỗi lạc, ông còn là một nhà văn hoá kiến thức rộng trải rộng trên nhiều lãnh vực, một mẫu mực đào tạo trí thức theo quan niệm giáo dục cổ điển Âu châu. Là giáo sư Y khoa, ông còn được mời đảm trách giảng dạy môn Văn minh Đại cương và Văn Hoá Việt Nam cho Đại học Vạn Hạnh của Thích Minh Châu, và có bài viết trên Tập san Tư Tưởng.

Hình 10: bìa tác phẩm Ước Vọng Duy Tân. Văn Hoá, Huyền Thoại, Văn Học Sử. Tuyển tập Trần Ngọc Ninh; chủ biên Trần Uyên Thi; Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2012. Nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh

Hình 11: thủ bút của GS Trần Ngọc Ninh gửi Ngô Thế Vinh khi ra mắt cuốn sách Ước Vọng Duy Tân 2012. Ảnh tư liệu Ngô Thế Vinh

MỘT TRÍ THỨC THUYỀN NHÂN

Biến cố 1975, một cuộc đổi đời lần thứ hai kể từ sau ngày phân chia đất nước với Hiệp định Geneve 1954.

Sau 1975, vẫn các giáo sư gốc di cư từ miền Bắc vào Nam còn ở lại như Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Hoàng Tiến Bảo, Gs Nguyễn Đình Cát… các Thầy nay tuổi đã cao, mỗi ngày phải đi làm bằng xe đạp tới bệnh viện hay xa hơn tới trường Y khoa trên đường Hồng Bàng, Chợ Lớn. Cũng vẫn các Thầy ngoài việc chăm sóc bệnh nhân và giảng dạy cho sinh viên, từ nay còn phải làm thêm việc của y công như lau quét các phòng vệ sinh và cả đổ rác. Không làm sao mà quên được cảnh tượng một Gs Phạm Biểu Tâm phải lau chùi cầu tiêu bị té ngã bầm dập ở bệnh viện Bình Dân, Thầy Tâm rất sợ Cô lo, nên dặn dò không báo tin cho Cô biết.

Như từ bao giờ, trong mọi hoàn cảnh các Thầy vẫn luôn giữ được nhân cách cao trọng của người trí thức, không phát biểu những lời xưng tụng chế độ mới. Các Thầy cũng không thể không não lòng khi hàng ngày phải chứng kiến trình độ dốt nát của nền y tế nhân dân qua những buổi hội chẩn hay giao ban cùng với các ông y sĩ cách mạng phần đông chưa qua hết bậc trung học “chỉ có hồng mà không chuyên” nhưng rất huênh hoang từ ngoài Bắc vào hay từ trong rừng ra.

Điển hình là trong một buổi sáng giao ban tại bệnh viện Bình Dân sau 1975, bác sĩ Lê Quang Dũng một cựu nội trú bệnh viện lâu năm kể lại, là khi anh Dũng báo cáo về một trường hợp mổ áp xe vú, thì bị một bác sĩ quân quản Việt cộng vặn hỏi: “Tại sao anh lại cho mổ áp xe vú?” Bs Dũng đáp: “Tại vì áp xe vú có mủ nên phải mổ dẫn lưu.” Dũng đã bị họ mắng: “Anh dốt quá, ở chiến khu tôi nhai lá sống đời xong rồi đắp lên vú thì 5 phút sau áp xe biến mất, không phải mổ gì cả.” Các Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Trần Ngọc Ninh, Hoàng Tiến Bảo cùng có mặt trong buổi giao ban, chỉ biết ngao ngán lắc đầu. (3)

Phải sống trong nghịch cảnh và chứng kiến những ngày ảm đạm như thế, Gs Trần Ngọc Ninh đã có lần phát biểu với các sinh viên giọng chua chát và khinh mạn: “Hội chẩn với mười con số không cộng lại thì vẫn là zéro.”

Giáo sư Vũ Quí Đài vị khoa trưởng cuối cùng của Y khoa Sài Gòn, còn nhớ là khi ban Quân quản Việt cộng đến tiếp thu trường Y khoa, họ triệu tập một buổi họp gồm sinh viên và cả ban Giảng huấn nơi đại giảng đường gọi là để trấn an nhưng với giọng điệu đầy huênh hoang và cả hăm doạ, Gs Vũ Quí Đài kể: “Lúc ấy Gs Trần Ngọc Ninh ghé tai tôi nói nhỏ một câu lẩy Kiều: Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu”. (3)

Hãy nghe giáo sư Trần Ngọc Ninh tâm sự:

Trên bình diện khoa học, sau khi Bắc Việt đã chiến thắng được miền Nam rồi, cuộc đấu tranh mới bắt đầu giữa Y khoa khoa học của miền Nam và Y khoa nhân dân của miền Bắc. Trong cuộc đấu tranh này, nhân dân là nạn nhân, nhưng cũng là toà án, toà án nhân dân. Giải thưởng là tương lai sức khoẻ của Việt Nam. Sức khoẻ cùng nghĩa với sức lao động. Chủ nghĩa không che lấp được sự thật…

Hình 12: bìa Một chút lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn 1954-1975. Trần Ngọc Ninh, Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada xuất bản 2002. (tr. 38-39, đề cập tới hai nền Y Khoa từ sau 1975: Y Khoa Khoa Học của miền Nam & Y Khoa Nhân Dân của miền Bắc). Nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh] (6)

Năm 1977, sau khi nghe được lệnh của các vị lãnh đạo y học miền Bắc rằng từ nay không được dạy y lý nào “cao” không thể áp dụng ở Việt Nam như biến hoá của nước và các chất điện giải hoặc pháp dùng thuốc kháng sinh với những kháng sinh sau đời penicillin, hoặc những phẫu thuật quá cầu kỳ khó khăn, tôi mạn phép nói ra ở đầu lớp bệnh lý phẫu khoa của tôi: “Đây là lần cuối cùng và các anh chị em là những sinh viên cuối cùng mà tôi giảng Y khoa khoa học. Từ sang năm tôi sẽ chỉ giảng Y khoa nhân dân. Và anh chị em cố gắng mà theo. Đừng quên rằng mình là những người thừa tự chót của Y khoa khoa học.

Sinh viên Nguyễn Chí Công [trước 1975 là sinh viên cộng sản nằm vùng, bị bắt giam ở Chí Hoà, đã được chính Gs Ninh vào thăm can thiệp và được trả tự do, năm 1976 Công trở lại trường Y phụ trách cai quản sinh viên], khi nghe được những lời nói ấy, Công đã dự định lập “Toà án Nhân dân” để hạch tội tôi. Không phải vì thế mà tôi rời Việt Nam”.

Gs Ninh nhận định tiếp: “Do nhận thức được toàn bộ chính sách của đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là sự mạo danh xã hội chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam vào một kiếp đau khổ ngàn đời. Và điều tệ hại hơn nữa là “Đảng và Nhà Nước muốn cưỡng chiếm Y khoa khoa học để dành riêng cho cán bộ, còn Y khoa nhân dân là để cho nhân dân.” (6)

Và rồi rất sớm, chỉ 2 năm sau ngày 30 tháng Tư, 1975 vào ngày 6 tháng 6 năm 1977, Gs Trần Ngọc Ninh đã cùng gia đình xuống thuyền vượt biển tìm tự do, giữa lúc ông được chúc mừng là một trong số 4 người được Hội Đồng Chính Phủ giữ lại ở chức vụ Giáo sư với lương bổng cao nhất.

Cuối cùng ông và gia đình tới được đảo Pulau Besar Mã Lai, và ông chọn đi định cư tại Hoa Kỳ để phải bắt đầu lại từ đầu, thay vì đi Pháp là nơi mà ông đã được đào tạo và thành danh.

Sự bỏ đất nước ra đi rất sớm của một khuôn mặt trí thức lớn như ông lúc đó đã gây ra một chấn động nơi giới lãnh đạo Hà Nội và trên toàn trí thức miền Nam thời bấy giờ.

DẬT SỰ BÌNH TRÀ NGUYỄN TUÂN

Tôi tới Mỹ sau Thầy Ninh hơn 6 năm, nhưng rồi cả hai thầy trò sau một thời gian đèn sách trước sau cũng trở lại nghề cũ. Từ New York, tôi về làm việc trong một bệnh viện VA ở vùng nam California, tuy bận rộn nhưng thỉnh thoảng vào mấy ngày cuối tuần tôi vẫn có dịp được gặp Thầy.

Trong một buổi gặp ở nhà anh Võ Phiến, cây tuỳ bút nổi tiếng của miền Nam từ trước 1975; lúc ấy anh Võ Phiến còn ở trên Los Angeles; anh thú vị đem ra khoe chiếc bình trà của Nguyễn Tuân. Võ Phiến rất quý Nguyễn Tuân. Đặng Tiến đã được Nguyễn Tuân tặng chiếc bình trà sau bao năm quen dùng. Sau đó cũng Đặng Tiến tặng lại Võ Phiến trong một chuyến anh chị sang Pháp năm 1987, cùng năm Nguyễn Tuân mất ở Hà Nội.

Chiếc bình trà nhỏ giản dị bằng sứ tráng men xanh, nơi mặt đáy có in chữ Tonkin như vậy đã khá lâu năm, trông rất tầm thường nhưng là của Nguyễn Tuân. Một Nguyễn Tuân với những trang tuỳ bút mượt mà của Vang Bóng Một Thời: của Chén trà trong sương sớm với nhân vật cụ Ấm, có phong cách uống trà gần như một thứ trà đạo.

Giữa hai chén trà nước đầu, cụ Ấm nói với người con trưởng:

Cả ạ, thầy cho nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thứ nước đọng trên lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ một ấm. Hồi thầy còn ít tuổi, mỗi lúc được quan Đốc truyền cho đi thuyền thúng vớt những giọt thuỷ ngân ấy ở lá sen mặt đầm, thầy cho là kỳ thú nhất trong đời một người học trò được thầy học yêu như con…

Rồi cụ Ấm liền than tiếc đến cái mùa thu đã đi qua mất rồi, để sen hồ rách hết tàn rũ hết lá.” [hết trích dẫn, Vang Bóng Một Thời]

Đó là văn phong Nguyễn Tuân thời tiền chiến, của một thời vang bóng.

Để rồi tới kháng chiến, là một Nguyễn Tuân hoá thân; rất biết sợ bạo quyền để tồn tại, mau chóng xu thời để được vào đảng, rồi leo lên tới chức Tổng thư ký hội Văn nghệ Việt Nam. Chưa dừng ở đó, trong đợt chỉnh huấn cải cách ruộng đất, Nguyễn Tuân còn hăng hái viết bài tự kiểm thảo “Nhìn rõ sai lầm” quyết tâm đoạn tuyệt với quá khứ lãng mạn tiểu tư sản, dứt khoát chối bỏ đứa con tinh thần Vang Bóng Một Thời, đã làm nên tên tuổi Nguyễn Tuân. Sau đó là một Nguyễn Tuân đã biết vận dụng văn tài để hết lời ca ngợi thiên đường xã hội chủ nghĩa.

Nếu với Vang Bóng Một Thời, Nguyễn Tuân được ca ngợi như một bậc thầy của thể văn tuỳ bút trong văn học Việt Nam, thì sau này với những bút ký hết lòng phục vụ Đảng và chủ nghĩa xã hội, Nguyễn Tuân cũng chỉ đáng được xếp là một cây bút tuyên huấn hạng hai. Nguyễn Tuân còn được nhớ và nhắc tới với câu nói: “Tôi còn sống được đến hôm nay là nhờ biết sợ…”

Người bạn tấm cám Nghiêu Đề kể lại, sau 1975 khi Nguyễn Tuân vào Sài Gòn, tới Hội Văn Nghệ Thành Phố, khi thấy Vang Bóng Một Thời được Nxb Cảo Thơm 1962 in tuyệt đẹp với những tranh minh hoạ của Nghiêu Đề, thì đó là một Nguyễn Tuân hả hê về cuộc hội ngộ với đứa con tinh thần mà ông ta đã hơn một lần dứt khoát chối từ.

Bình trà nhỏ mà Gs Trần Ngọc Ninh đang cầm trên tay ngắm nghía kia, không phải của cụ Ấm với Chén trà trong sương sớm, mà là của một Nguyễn Tuân theo kháng chiến, mỗi ngày đã rót ra những chén đắng trong suốt hành trình bi kịch của hơn nửa đời người.

Hình 13: thăm nhà văn Võ Phiến trên Los Angeles, từ trái, Gs Trần Ngọc Ninh, nhà văn Võ Phiến, Ngô Thế Vinh; phải: Trần Ngọc Ninh cầm trên tay ấm trà nhỏ của Nguyễn Tuân mà Võ Phiến đem khoe. Photo by Viễn Phố

Hình 14: Làm Gì? một cuốn sách viết về chính trị (1979) mà Gs Trần Ngọc Ninh, không muốn được nhắc tới. Là một giáo y khoa với tiếng tăm quốc tế nhưng khi tới Mỹ như một bác sĩ ngoại quốc, ông vẫn phải khởi nghiệp từ đầu. Giữa thời gian đèn sách, ông vẫn có hùng tâm hoàn tất một tập luận đề chính trị trên 300 trang, với ghi chú nơi cuối sách: “Viết xong lúc giữa trưa ngày 24 tháng 3 năm 1979 tại Trường Sơn của Mỹ Châu” (Rocky Mountains Ranges Denver, Colorado). Nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh

MỘT CHÚT RIÊNG TƯ

Năm 2004, khi bản tiếng Anh The Green Belt của cuốn Vòng Đai Xanh do Nxb Ivy House xuất bản, Gs Trần Ngọc Ninh đã viết:

Ngô Thế Vinh bắt đầu viết văn khi đang còn là một sinh viên. Từ 1963, cùng với các bạn trong đại học Y khoa làm báo Tình Thương như một diễn đàn cho những ý tưởng nhân bản, hướng tới một xã hội lý tưởng và không mang nặng tính “chủ nghĩa”. Ngay khi còn là một nhà báo sinh viên, từ rất sớm, Ngô Thế Vinh đã quan tâm tới vấn đề người Thượng.

Sau khi tốt nghiệp Y khoa, là bác sĩ Mũ Xanh của một đơn vị Biệt Cách Dù chủ yếu hoạt động trong vùng núi rừng Cao nguyên Trung phần. Vòng Đai Xanh là bối cảnh về cuộc chiến tranh Việt Nam trên vùng cao nguyên với cảnh thật, người thật, và “thật hơn nữa” là nỗi thống khổ của các sắc dân Thượng giữa cuộc chiến tranh và ngay sau cuộc chiến. Và chúng ta không thể nào quên là hòa bình bi thảm ra sao đối với phe bại trận tiếp theo sau một cuộc chiến tranh ý thức hệ. Vòng Đai Xanh là một công trình của lương tâm và dấn thân can đảm. Ngay khi xuất bản lần đầu tiên, cuốn sách đã được giới trí thức miền Nam đón nhận rộng rãi và tán thưởng nhưng đồng thời cũng bị chính quyền miền Nam lên án là phá hoại.

Bây giờ đã 30 năm sau cuộc chiến tranh chấm dứt, một ấn bản tiếng Anh rất tuyệt của Nha Trang và Pensinger chắc chắn sẽ lại được đón nhận rộng rãi, bởi vì vấn đề sống còn của các sắc dân Thượng trên Cao nguyên Trung phần được đề cập tới trong Vòng Đai Xanh vẫn còn nguyên tính thời sự của hôm nay.

Đối với người Việt, thì thảm kịch của thời đại chúng ta là mọi cuộc chiến tranh hôm nay và cả trong tương lai đều mang mầm mống hủy hoại mà Vòng Đai Xanh như một điển hình đa diện và ở nhiều mức độ khác nhau. Những sắc dân Thượng ấy đã không có tiếng nói. Đến bao giờ thì “tiếng nói thầm lặng” của họ mới thực sự được lắng nghe? Trần Ngọc Ninh, Viện Việt Học, tác giả Tuyết Xưa

Hình 15: bìa The Green Belt, bản tiếng Anh cuốn Vòng Đai Xanh do Ivy House, USA xuất bản 2004. Nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh

Sau này, khi có một tác phẩm mới sắp ra mắt, tôi đều có gửi biếu Thầy Ninh và xin một nhận xét, Thầy đã thẳng thắn từ chối với một câu trả lời: “Vinh bây giờ đã thành danh và không cần thêm lời giới thiệu của tôi nữa.” Tôi lãnh hội ý Thầy với tất cả sự khiêm cung và biết ơn.

MỘT ĐỊNH MỆNH SINH HỌC

Khác với thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, dấn thân vào chính trị và cả đảng phái, nay sắp bước vào tuổi bách niên, tôi ngỏ ý viết về Gs Trần Ngọc Ninh và có cảm tưởng với Thầy Ninh, chính trị nay như một giai đoạn đã vượt qua và Thầy chỉ muốn được nhắc tới như một “chân dung văn hoá”.

Nói về văn hoá, Gs Trần Ngọc Ninh đã chọn một trích đoạn trong Tuyết Xưa [tr.100]:Đối với các cộng đồng người, văn hoá vừa là một dấu hiệu để nhận nhau và phân biệt ‘kẻ-kia’ vừa là một dụng cụ để giảng giải và hướng dẫn sự sống của đoàn thể trong cái phong cảnh thiên nhiên mà họ đã làm chủ…” (2)

Viết về Gs Trần Ngọc Ninh chắc phải cần tới hơn một cuốn sách. Cũng nhân đây gợi ý với các bạn trẻ trong và ngoài nước, đang chuẩn bị luận án tiến sĩ, thì chân dung văn hoá của Gs Trần Ngọc Ninh là một đề tài rất phong phú và hấp dẫn để các bạn khám phá dấn thân vào.

Như một tâm sự cuối đời, khi trả lời Trần Uyên Thi, một môn sinh rất trẻ sau này ở Viện Việt Học, Gs Trần Ngọc Ninh phát biểu:

Đến nay tuổi đã lớn rồi [89 tuổi, ở thời điểm 2012], lại càng thấy rằng sự hiểu biết, sự biết, và cả sự thấy của mình chỉ ở bề mặt nông cạn của các hiện tượng (trong đó có lịch sử, khoa học), và đó là cái thân phận sinh học của con người trên mặt đất này.” (1)

NGÔ THẾ VINH

Hà Nội 1954 – Sài Gòn 1975

California 11.07.2018

Tham Khảo:

1/ Ước Vọng Duy Tân / A Dream for Vietnam. Tuyển Tập Trần Ngọc Ninh. [chủ biên Trần Uyên Thi]; Viện Việt Học xuấn bản 2012

2/ Tuyết Xưa; Tuyển tập các Vấn đề Văn hoá Việt Nam, Nxb Khởi Hành California Hoa Kỳ 2000

3/ Giáo sư Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, Biểu tượng của Y đạo Y học Y thuật. Tập San Y Sĩ Canada 201, tháng 05.2014

4/ Mười lăm năm ấy, Kỷ niệm về Triều Sơn [Trần Ngọc Ninh, với bút hiệu Trần Ngọc], Nguyệt san Tình Thương, số 1, Tháng 1, 1964

5/ Nhà Văn Triều Sơn (1921-1954). Trần Hoài Thư, Thư Quán Bản Thảo, Số 77 Tháng 11.2017

6/ Một Chút Lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn. Trần Ngọc Ninh, et al. Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada 2002

7/ Tạp chí Bách Khoa: Thư Viện Người Việt Online https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/thuvien-NV.php