Đông Nam Á là nguồn gốc tất cả giống gà trên thế giới

Đó là kết luận của một công trình nghiên cứu quan trọng mới công bố tuần qua [1]. Dữ liệu di truyền của nghiên cứu một lần nữa khẳng định rằng tất cả các giống gà trên thế giới đều xuất phát từ Đông Nam Á.

Một trong những gia cầm phổ biến nhứt có lẽ là gà, vốn có một lịch sử rất thú vị. Đa số, nếu không muốn nói tất cả, giống gà mà chúng ta biết ngày nay là xuất phát từ giống gà rừng lông đỏ (red jungle fowl, tên khoa học là Gallus gallus). Giống gà rừng này được thuần hoá từ chim rừng hơn 10,000 năm trước. Nói như vậy để ghi nhận rằng con gà đã ‘song hành’ cùng con người rất lâu năm, và trở thành một yếu tố trong văn minh nông nghiệp.

Đa số giới khảo cổ học cho rằng tất cả những giống gà ngày nay xuất phát từ miền Bắc Trung Hoa. Một số khác thì cho rằng nguồn gốc của gà là từ Ấn Độ, rồi mới du nhập qua Đông Nam Á. Đa số các giả thuyết này dựa vào nghiên cứu về ngôn ngữ, lịch sử, và đặc biệt là khảo cổ vật. Thế nhưng ngày càng có nhiều chứng cớ sinh học (DNA) cho thấy giả thuyết này sai. Nghiên cứu mới nhứt được công bố trên Cell Research [1] cho thấy tất cả giống gà trên thế giới đều xuất phát từ Đông Nam Á.

Nghiên cứu mới nhứt này do một nhóm nghiên cứu thuộc Viện hàn lâm khoa học Tàu thực hiện, có sự hợp tác của nhiều trung tâm, kể cả Việt Nam. Họ phân tích DNA của 787 giống chim, kể cả 627 con gà (gia cầm) và 147 gà rừng lông đỏ. Dùng phân tích thống kê, các tác giả nhận xét rằng tất cả các giống gà hiện đại có nguồn gốc từ gà thuần hoá ở những nước [ngày nay] như Miến Điện, Lào, Thái Lan, Việt Nam, và tỉnh Vân Nam. Một chuyên gia nhận xét một cách khẳng định rằng “This region is a center of domestication” (đây là trung tâm thuần hoá gà). Nhóm tác giả còn ước tính rằng gà hiện đại ‘tách’ khỏi tổ tiên gà rừng lông đỏ chừng 6200 đến 12800 năm trước.

Nói đúng ra, phát hiện của nghiên cứu này [1] cũng không hẳn là mới, vì chừng 8 năm trước đã có một nghiên cứu Úc phân tích mitochondrial DNA [2] cũng cho thấy tất cả gà đều xuất phát từ Đông Nam Á. Điều ngạc nhiên là nghiên cứu của nhóm bên Tàu không đề cập đến nghiên cứu năm 2002 [2].

Một điều ngạc nhiên khác là nhóm tác giả bài báo mới nhứt không đề cập đến Việt Nam, mà chỉ đề cập đến Miến Điện, Lào, Thái Lan, và miền “South China” như là nguồn gốc của gà trên thế giới!

Quay lại nhận xét về con gà trong văn minh nhân loại. Các chuyên gia khảo cổ cho rằng gà (cùng với chó, mèo, bò, và heo) là những con vật được ví von là ‘guồng máy’ của văn minh nhân loại, vì nó xuất hiện trong tất cả xã hội từ cổ chí kim. Con gà gắn liền với văn minh nông nghiệp. Phát hiện mới nhứt này củng cố giả thuyết rằng Đông Nam Á chính là cái nôi của nền văn minh nông nghiệp của thế giới.

____________

[1] https://www.nature.com/articles/s41422-020-0349-y

[2] https://journals.plos.org/plosone/article?id=10.1371/journal.pone.0039171

Nguồn gốc heo trên thế giới: Đông Nam Á

Nhân dịp năm con heo (Kỉ Hợi 2019), chúng ta ta bàn qua nguồn gốc của nó. Rất ít người biết rằng có thể (tất cả) các giống heo trên thế giới được thuần hóa ở Đông Nam Á vào khoảng 10,000 năm trước đây. Đây là một trong những phát hiện rất quan trọng, vì nó hàm ý nói rằng Đông Nam Á là một trung tâm văn minh nông nghiệp trên thế giới.

Heo là con vật thông minh

Heo là con vật có một mối liên hệ lâu đời nhất với con người, không chỉ đối với người Á châu mà còn cả Âu châu. Đối với người Việt Nam và Trung Quốc, heo gần gũi đến độ được nhân cách hóa qua nhân vật hư cấu nửa người nửa heo Trư Bát Giới, một vị thần trên Thiên đình, trong truyện nổi tiếng Tây du kí. Đối với người theo đạo Ấn Độ giáo, thần Visnu có hình dạng con heo, chuyên hành hiệp cứu độ chúng sinh. Đối với các dân tộc sống tại các đảo ngoài lục địa Đông Nam Á, heo còn là biểu tượng của sự giàu có, là quà cưới cho cô dâu, và có khi còn là đơn vị hàng hóa quan trọng trong thương trường.

Ở các bán đảo Thái Bình Dương, loại heo không lông Kapia có địa vị như con người có danh xưng, được mặc áo nghiêm chỉnh, và mặt còn được trang điểm. Heo thường được dùng làm con vật để tế thần, vì người ta tin rằng heo có linh hồn. Ở Âu châu thời cổ đại, heo là con vật được nữ thần Demeter (thần sinh sản trong truyền thuyết Hi Lạp) ưa thích, và do đó heo còn là con vật biểu tượng cho sự thịnh vượng, trù phú. Người thổ dân da đỏ ở Mĩ cũng xem heo là biểu tượng của sự thịnh vượng và may mắn. Ở Đức, tham dự vào buổi tiệc có thịt heo vào đêm Noel có ý nghĩa ngăn ngừa ma quỉ và đem lại thịnh vượng, tiền tài cho năm mới [1].

Dù được xem là biểu tượng của sự may mắn và trù phú như thế, con heo trong dân gian Việt Nam mang nhiều hình tượng tiêu cực. Nói đến heo là ngừơi ta nói đến tính lười biếng (lười như heo), ham ăn, bẩn thỉu, và ngu (ngu như heo), v.v. Nhưng đứng trên phương diện sinh học mà nói, heo không ngu; trái lại, heo rất thông minh, dễ dạy, và thân thiện.

Thật ra, heo được xem là con vật có mức độ thông minh hàng thứ 4 (sau khỉ, dolphin, và voi). Heo thông minh hơn chó. Trong một thí nghiệm vào thập niên 1990s, các nhà nghiên cứu dạy cho heo cách dùng cursor trên màn hình máy tính. Chúng họ những việc này rất nhanh, chẳng kém gì khỉ. Chúng có thể di chuyển cursor trên màn hình bằng miệng, và có thể phân biệt cursor với những chữ ngoáy trên màn hình. Heo còn là con vật xã hội, vì chúng có thể học hỏi lẫn nhau và làm việc chung với nhau. Khác với các động vật khác, heo có khả năng biểu lộ thấu cảm và lòng trắc ẩn. Heo có thể cảm nhận được khi người đối xử tử tế hay không tử tế với chúng. Do đó, trái với những nhận xét chủ quan và tiêu cực, heo là con vật thông minh và dễ mến.

Có lẽ vì tính dễ mến mà heo có mối liên hệ gần gũi với con người hơn các con vật như chuột, trâu, cọp, v.v. Thuở sinh thời, cựu thủ tướng Anh từng tuyên bố “con chó ngước lên nhìn chúng ta, con mèo thì nhìn xuống chúng ta, còn con heo thì ngang hàng với chúng ta”. Có lẽ đúng như thế. Trong ba con vật cuối cùng của 12 địa chi (gà, chó và heo), heo là con vật có thể nói đã từng song hành với con người trong suốt quãng đường dài tiến hóa.

Quê hương của heo: Đông Nam Á

Nhưng trong bối cảnh và môi trường nào đã dẫn đến mối liên hệ mật thiết giữa người và heo như ngày nay. Tất cả các loài heo ngày nay có nguồn gốc từ heo rừng. Nhưng chúng được thuần hóa từ hồi nào và ở đâu? Đây là những câu hỏi quan trọng, vì thuần hóa cây cối và thú vật rừng là một phát triển rất quan trọng trong lịch sử tiến hóa và văn minh của con người. Thuần hóa là yếu tố khởi động và thúc đẩy văn minh, có ảnh hưởng trực tiếp đến qui mô, cấu trúc, và phân bố của dân số trên thế giới. Thuần hóa động vật hoang dã là một phần quan trọng trong sự thay đổi hành vi và cách sống của con người, chuyển biến từ cuộc sống hái lượm và săn bắt sang cuộc sống canh tác nông nghiệp và ổn định. Cuộc sống nông nghiệp có lẽ bắt đầu từ thời Pleisteocene (tức khoảng 12 đến 14 ngàn năm về trước) và cuộc sống này có lẽ do hệ quả của tình trạng bất định thời tiết, suy giảm về số động vật rừng làm mồi, và sự bành trướng các cộng đồng ổn định.

Trong quá khứ (trước khi công nghệ sinh học ra đời), các nhà khảo cổ học dựa vào những di chỉ khảo cổ học (chủ yếu là xương xọ) được khai quật từ nhiều vùng khác nhau để đặt giả thuyết và tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên. Theo các di chỉ này, heo được thuần hóa vào khoảng 9000 năm về trước ở vùng mà ngày nay thuộc miền Đông Thổ Nhĩ Kì [2]. Ngoài ra, cũng có các di chỉ khảo cổ học cho thấy (hay được diễn dịch) là heo cũng từng được thuần hóa vào khoảng thời gian này tại Trung Quốc ngày nay [3].

Nhưng vài thập niên gần đây, với sự phát triển của di truyền học và sinh học phân tử, giới khoa học đã có một phương tiện mới, chính xác hơn, và đáng tin cậy hơn để truy tìm nguồn gốc heo. Phương tiện đó chính là gen, hay nói chính xác hơn là DNA. Cũng như trong người, đơn vị cấu trúc cơ bản của heo là DNA. Khác với con người có 23 nhiễm sắc thể, heo chỉ có 20 nhiễm sắc thể. Vì đặc tính di truyền của DNA, qua phân tích sự phân bố và đồng dạng của các chuỗi DNA giữa các giống heo, các nhà khoa học có thể truy tìm chính xác nguồn gốc của heo.

Một nghiên cứu qui mô nhất từ trước đến nay về nguồn gốc heo được tiến hành với sự hợp tác giữa các nhà di truyền học Mĩ và Thụy Điển. Qua phân tích xu hướng phân bố và đồng dạng DNA của các giống heo (700 con) trên thế giới, các nhà nghiên cứu đi đến kết luận rằng tổ tiên của heo ngày nay chính là heo rừng, và quê hương của heo rừng nguyên thủy này chính là vùng Đông Nam Á ngày nay [4]. Sau khi được thuần hóa ở Đông Nam Á, heo tản mát theo con người đến các vùng Âu Á (Eurasia), vượt biển đến Âu châu, và ra các bán đảo Thái Bình Dương [4]. Sau khi tản mát ra khỏi Đông Nam Á, heo được tiếp tục thuần hóa nhiều lần ở nhiều vùng tại Trung Quốc, vùng cận đông, và Âu châu [4].

Một nghiên cứu di truyền mới nhất qua phân tích DNA các giống heo thuộc các hải đảo Thái Bình Dương và đặc biệt là heo không lông thuộc đảo Vanuatu, các nhà nghiên cứu Úc và Mĩ khẳng định rằng heo tại các hải đảo này cũng xuất phát và được thuần hóa từ lục địa Đông Nam Á (đặc biệt là từ Việt Nam) khoảng 3000 năm trước đây [5]. Sau đó, chúng theo con người “di dân” ra khỏi lục địa và đến các hải đảo như Vanuatu và Ryukyu. Ngoài ra, các giống heo tại các hải đảo này cũng có “hồ sơ” DNA rất giống với heo ở Âu châu.

Năm 2012, một nhóm nghiên cứu Âu Á trong Dự Án “International Swine Genome Sequencing Consortium” công bố một nghiên cứu qui mô nhất từ trước đến nay về giải mã gen của heo [6]. Các nhà nghiên cứu so sánh hệ gen của loài heo Duroc với heo Sus crofa (heo gia cầm) và 10 giống heo rừng khác từ Âu châu sang Á châu. Họ còn so sánh hệ gen của heo với các loài vật khác như người, chuột, chó, ngựa và bò. Nhóm nghiên cứu đi đến kết luận rằng ‘tổ tiên’ của các giống heo gia cầm ngày nay xuất phát từ heo rừng, và chúng xuất hiện ở Đông Nam Á chừng 3 triệu năm trước, rồi sau đó theo người ‘di cư’ sang các vùng Âu Á [6].

Dấu tích văn minh nông nghiệp

Trước đây vài năm, cũng qua phân tích DNA, các nhà khoa học khẳng định rằng gà và chó trên thế giới ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Heo, gà, trâu, v.v. là các con vật thuộc nền văn minh nông nghiệp. Các bằng chứng mới này càng phù hợp với giả thiết rằng nền nông nghiệp và quê hương nguyên thủy của cây lúa nước là ở chung quanh vùng Đông Dương – Mã Lai – Miến Điện (chứ không phải Trung Quốc, nơi mà bằng chứng về cây lúa lâu đời nhất chỉ 5.900 đến 7.000 năm về trước, thường thấy ở các vùng xung quanh sông Dương Tử). Văn minh Hòa Bình là nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới, khoảng 15.000 năm trước dương lịch [7]. Vài ngàn năm trước Công nguyên, cư dân Đông Nam Á đã đưa cây lúa đến vùng Đông Á và Tây Á, những nơi mà cư dân chỉ quen với nghề trồng lúa mạch. Nhận xét này cũng hợp lí bởi vì với khí hậu nhiệt đới Đông Nam Á là môi trường thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp.

Như vậy có thể suy luận rằng trước khi tiếp xúc và chịu ảnh hưởng hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, vùng Đông Nam Á đã hình thành một nền văn hóa lúa nước, và cư dân cổ ở đây (dân Bách Việt) đã phát triển một nền văn minh nông nghiệp lúa nước, trong đó có cả văn minh châu thổ sông Hồng, hay văn minh Đông Sơn. Theo Trần Quốc Vượng, chính nghề trồng lúa nước (một ngành nghề đòi hỏi người dân phải nắm vững và thích nghi với thời tiết, môi trường sông nước) đã dẫn người cư dân cổ Đông Nam Á sáng tạo ra lịch dùng 12 con vật gần gụi với nền văn minh lúa nước làm biểu tượng. Do đó, có khả năng lịch 12 con giáp có nguồn gốc từ Đông Nam Á, chứ không phải từ Trung Hoa [8]. Có thể qua giao lưu văn hóa, người Trung Hoa cổ đã vay mượn lịch Đông Nam Á và cải tiến lại. Do đó, 12 con vật trong lịch của Ta không giống với 12 con vật trong lịch của Trung Hoa (thử, ngưu, hổ, miêu, long, xà, mã, dương, hầu, kê, khuyển, trư).

Tất cả những bằng chứng này cho thấy Đông Nam Á có thể là một cái nôi văn minh nông nghiệp đầu tiên của con người [9], và cư dân tại đây rất có thể là những người phát minh ra kĩ thuật trồng lúa nước, chăn nuôi, và truyền các kĩ thuật này lên phía Bắc (tức miền Nam Trung Quốc ngày nay). Phát hiện mới nhất về quê hương Đông Nam Á của loài gà da cầm cho chúng ta thêm một cơ sở để suy luận rằng trong quá trình định cư và phát triển nông nghiệp, người Đông Nam Á cổ đã thuần dưỡng giống gà rừng, và từ đây giống gà này được truyền bá đến miền Nam Trung Quốc, và từ Trung Quốc “di cư” sang Âu châu. Những phát hiện này, cộng với những di chỉ khảo cổ học và di truyền học mới nhất củng cố thêm cho giả thuyết Đông Nam Á là một trung tâm văn minh nông nghiệp cổ xưa nhất của thế giới [10].

Tham khảo:

[1] A. McElroy và P K Townsend. Medical Anthropology. Colorado: Wadsworth 1996.

[2] J. Epstein, M Bichard, trong cuốn “Evolution of Domesticated Animals” do I L Mason biên soạn. Longman, New York, 1984, trang 145-162.

[3] G Giuffra, et al. The origin of domestic pig: independent domestication and subsequent intrpgression. Genetics 2000; 154:1785-1791.

[4] G Larson, et al. Worldwide phylogeography of wild boar reveals multiple centers of pig domestication. Science 11/3/2005; 307:1618-1621.

[5] J K Lum, et al. Recent Southeast Asian domestication and Lapita disperal of sacred male pseudohermaphroditic “tuskers” and hairless pigs of Vanuatu. Proc Natl Acad Sci USA 2006; 103:17190-17195.

[6] Groenen et al Analyses of pig genomes provide insight into porcine demography and evolution. Nature 2012;491:393-398.

[7] Chesnov Ja. V. Dân tộc học lịch sử các nước Đông Nam Á. 1976. (Trích dẫn theo Trần Ngọc Thêm, “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2001.

[8] Trần Quốc Vượng. Văn hóa Việt Nam: Tìm tòi và suy ngẫm. Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật. Hà Nội, 2000.

[9] Su B, et al. Y-chromosome evidence for a northward migration of modern humans into eastern Asia during the last Ice Age. Am J Hum Genet 1999; 65:1718-1724

[10] Trong cuốn Agriculture; origin and dispersal, Giáo sư C. O. Sauer viết: “…Tôi đã chứng minh rằng những động vật gia cầm được thuần dưỡng đầu tiên ở Đông Nam Á, và đây chính là trung tâm nông nghiệp quan trọng của thế giới”.

Lí lịch sinh học của chó

Chó (tên khoa học là canis familiaris) có mặt trên trái đất này rất lâu đời. Tất cả các giống chó, dù là chó rừng hay chó gia dụng, đều thuộc một họ động vật canidae, (từ đó mới có danh từ carnivores – động vật ăn thịt) khởi sinh vào khoảng 50 triệu năm về trước. Chó là động vật tách rời khỏi đại gia đình canoidae (bao gồm cả gấu và chồn) sớm nhất, và đó là lí do tại sao chất liệu di truyền của chó giống với các động vật vừa kể hơn là giống với mèo hay cầy hương. Trong họ canidae có 3 chi: cáo (fox), chó sói (wolf) và chó nhà.

Chó và con người có một lịch sử dài chung sống với nhau, và tương kính nhau. Chả thế mà người ta vẫn thường nói chó là bạn tốt nhất của con người. Theo nghiên cứu khảo cổ học mới nhất thì chó và người đã đồng hành và chung sống với nhau ít nhất là 60 ngàn đến 100 ngàn năm về trước, tức là từ thời con người còn trong giai đoạn săn bắt hái lượm. Đó là một mối liên hệ rất lâu đời, lâu hơn cả mối liên hệ giữa con người và các gia cầm khác như gà, heo hay mèo (trên dưới 8 ngàn năm).

Nhìn qua lăng kính di truyền học, cấu trúc DNA của con người giống với chó hơn là giống với chuột. Có nhiều bệnh mà con người mắc phải cũng là những bệnh mà chó hay bị như ung thư, tiểu đường, bệnh tim mạch, động kinh, v.v… Giới khảo cổ học nghiên cứu về cách thức chôn cất chó của con người khắp nơi trên thế giới và đi đến một nhận xét là cách chôn cất chó ngày xưa cũng rất giống với cách chôn cất con người. Ở Việt Nam ta còn có tục thờ chó bằng cách chôn chó trước cổng nhà hay đặt chó vào bàn thờ như một thần linh.

Quê hương của chó: Đông Á

Một số nghiên cứu trong vòng mười năm trở lại đây cung cấp cho chúng ta rất nhiều thông tin thú vị về lí lịch sinh học của chó và mối liên hệ giữa chó và con người. Cũng như trong con người, đơn vị cấu trúc cơ bản của chó là gen, hay nói cho đúng hơn là DNA. Khác với con người chỉ có 23 nhiễm sắc thể, chó có đến 39 nhiễm sắc thể. Không ai biết chó có bao nhiêu gen, nhưng có ước tính cho rằng con số khoảng 35.000 đến 50.000 gen. Qua so sánh sự phân phối gen và khoảng cách di truyền giữa các loài chó trên thế giới, các nhà khoa học có thể truy tìm nguồn gốc của chó.

Ngày 8/12/2005, một nhóm gồm 47 nhà khoa học Mĩ và Âu châu tuyên bố rằng họ đã giải mã khoảng 99% DNA (tức khoảng 2,5 tỉ mẫu tự DNA) trong chó [1]. Trước đó chỉ 4 tháng (Tháng 8/2005) một nhóm khoa học gia Hàn Quốc tuyên bố rằng họ đã thành công nhân bản chó (còn gọi là cloning – tạo sinh vô tính) bằng cách dùng tế bào mầm (stem cells) [2]. Thành công này được xem là một bước tiến ngoạn mục của khoa học, vì nó có thể dẫn đến các thuật điều trị những bệnh như ung thư, tiểu đường, tâm thần phân liệt, v.v… bằng tế bào mầm. Nhưng con chó đó (tên là SNUPPY, viết tắt Seoul National University) đã chết vào năm 2016, thọ đúng 10 tuổi.

Hơn 10 năm trước, một loạt 3 công trình nghiên cứu [3-5] dựa vào DNA được công bố đã cho chúng ta một “câu chuyện” khác với câu chuyện xương xậu của loài chó mà chúng ta từng biết. Những phát hiện của ba công trình nghiên cứu này đều nhất quán hai điều: tổ tiên của các loài chó hiện nay ở Mĩ là loài chó sói, và quê hương của chúng là vùng Đông Á. (Tưởng cần nhắc lại rằng trước đây, dựa vào các hiện vật khảo cổ, giới khoa học tin rằng quê hương của loài chó là ở Trung Đông. Quan điểm này được xem là một “chân lí”, được giảng dạy trong nhà trường trong một thời gian khá lâu.)

Phát hiện về Đông Á là quê hương của các loài chó cũng gây ra một vài tranh chấp khá … khôi hài. Khi nghe tin này, một số nhà khoa học Trung Quốc bèn nhanh nhẹn tuyên bố rằng “Đông Á” ở đây có nghĩa là Trung Quốc, và Trung Quốc mới đích thực là quê hương của chó. Tuy nhiên, các nhà khoa học phương Tây, kể cả tác giả công trình nghiên cứu, thì dè dặt hơn, họ nói bằng chứng hiện nay chưa cho phép họ xác định được Đông Á là Trung Quốc hay một nơi khác như Đông Nam Á chẳng hạn.

Gia súc, kể cả chó, gắn liền với nền văn minh nông nghiệp. Đã từ lâu, thế giới vẫn cho rằng Trung Quốc là cái nôi của nông nghiệp, thế nhưng ngày nay chúng ta cũng biết rằng quê hương nguyên thủy của cây lúa rất có thể là ở chung quanh vùng Đông Dương – Mã Lai – Miến Điện, vì ở đây khí hậu nhiệt đới là môi trường thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp, và văn minh Hòa Bình là nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới, khoảng 15.000 năm trước. Ngoài kĩ thuật trồng lúa và cây trái, một thành tựu đáng kể khác của người Hòa Bình là thuần hóa một số gia súc như trâu, chó, lợn, gà, v.v… Theo E. Darwin và nhiều nhà khảo cổ học sau này, Đông Nam Á đóng vai trò rất lớn trong việc phổ biến các gia súc này.

Tuy chưa thể nói Đông Nam Á là quê hương của chó, nhưng cần chú ý thời điểm 15.000 năm phát triển nông nghiệp ở Đông Nam Á trùng hợp với thời điểm thuần hóa loài chó như vừa đề cập trên. Gần đây, nhiều bằng chứng di truyền học cho thấy nhiều loài gia cầm như dê và gà đều có nguồn gốc từ Đông Nam Á, quê hương nguyên thủy của nông nghiệp.

Thời điểm thuần hóa: 15.000 năm ?

Chó có lẽ là con vật đầu tiên được con người thuần hóa. (Nhưng cũng có nhiều nhà nhân chủng học cho rằng con người mới chính là sinh vật được thuần hóa đầu tiên!) Tuy nhiên thời điểm chó được thuần hóa vẫn còn là một nghi vấn khoa học đang được bàn cãi. Giới khảo cổ học dựa vào các di chỉ khảo cổ nhận xét rằng xương chó cổ xưa nhất chỉ mới 14.000 năm mà thôi. Ngày nay, dựa vào phân tích DNA, các nhà khoa học tại Thụy Điển ước đoán rằng thời điểm mà chó được thuần hóa là khoảng 15.000 năm đến 40.000 năm về trước. Thời điểm 40.000 năm dựa theo giả định rằng tất cả loài chó được thuần hóa từ một con chó sói duy nhất, và rõ ràng là giả định này khó mà chấp nhận được, cho nên các nhà khoa học chọn con số 15.000 năm (tức thời con người còn sống trong xã hội săn hái) là đáng tin cậy và có cơ sở nhất.

Nhưng bằng cách nào mà con người thời săn hái biết trước được ích lợi của việc thuần hóa loài chó sói? Cụ thể hơn, câu hỏi được đặt ra là chó được chọn lựa để thuần hóa vì chúng dễ bảo hay dễ huấn luyện? Có quan điểm cho rằng chó sói tự chúng thuần hóa. Chó sói, vừa là một sinh vật săn và lượm, chắc chắn đã từng quanh quẩn các chòi của con người để tìm thức ăn, và những con nào “học” hay sợ hãi con người, chúng sẽ sống sót và sinh sôi nẩy nở. Nếu giả thuyết này đúng thì đó chỉ là một hình thức lựa chọn tự nhiên. Từ quan điểm này, có thể cho rằng con người đã thuần hóa chó như là loài vật trong nhà vì chúng dễ huấn luyện hơn là dễ sai bảo.

Một quan điểm khác thì cho rằng con người đã thuần hóa chó cho các mục tiêu săn bắt. Những người sống bằng nghề săn lượm thời tiền sử thường bắt những thú hoang nhỏ và giữ chúng trong nhà để chúng trưởng thành trong nhà đến khi không còn “quản lí” được nữa. Một khi chó đã được thuần hóa, chúng trở nên có ích trong xã hội săn bắt, dù rất khó mà biết được đặc tính nào của chúng làm cho chúng trở nên đối tượng để thuần hóa. Chúng có thể là những thú vật giữ nhà, săn bắt, hay nguồn thực phẩm trong trường hợp khẩn cấp.

Nhiều nghiên cứu tâm lí cho thấy chó có khả năng nhận thức được hành vi và tín hiệu từ con người nhạy hơn khỉ. Khi nhìn vào con người, khỉ không biết người này có mang theo một món thức ăn hay không; trong khi đó chó có thể nhận biết rằng người đó có hay không có mang theo thức ăn! Chó sói, dù lanh lẹ và thông minh, nhưng không có khả năng tiếp nhận và diễn dịch các tín hiệu từ con người như loài chó nuôi trong nhà. Điều này cho thấy loài chó gia dụng ngày nay đã được thuần hóa vì chúng có khả năng diễn dịch được hành vi của con người.

Tuy nhiên, khi hai sinh vật sống gần nhau trong một thời gian dài, một sinh vật có thể ảnh hưởng đến một sinh vật khác và làm thay đổi vài đặc tính của nó. Có thể nói rằng chó có khả năng cảnh giác con người hay săn lùng những con vật khác để đôi bên, con người và chó, cùng có lợi. Con người có lẽ chọn những khả năng của chó, nhưng chó cũng có lẽ muốn hành xử như con người – dĩ nhiên là không cố ý – nhưng giúp cho con người dùng có khả năng tồn tại tốt hơn. Và chính vì thế mà chó ngày nay có khả năng nhận thức được những hành vi của con người.

Chó sói không phải là sinh vật dễ thuần hóa. Các nhà nghiên cứu Nga từng tiêu ra 26 năm để thuần hóa loài chó sói màu xám (silver fox), họ chỉ chọn chó nào có tính dễ chế ngự để thuần hóa. Sau khi chọn lựa từ 45.000 chó sói trong vòng 40 năm, họ chỉ thành công thuần hóa khoảng 100 con! Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng khi bị được thuần hóa (hay chế ngự) các chú chó sói này cũng biểu hiện một vài thay đổi về sắc diện: tai trở nên mềm mại hơn, và đuôi biến thành màu trắng.

Đọc đến đây có lẽ nhiều bạn đọc ngạc nhiên tại sao thế giới lại bỏ ra hàng triệu đô-la để nghiên cứu những vấn đề có vẻ xa rời thực tế như thế? Câu trả lời ngắn là tri thức: chúng ta muốn có thêm tri thức. Vả lại, cái thời điểm mà tổ tiên chúng ta bắt đầu có liên hệ với chó là một sự kiện cực kì quan trọng trong lịch sử con người. Khi con người biết thuần hóa chó cũng có nghĩa là thời điểm mà con người biết chi phối đến cuộc sống (và số phận) của của loài vật khác và cây cỏ. Thành công này dẫn đến phát minh nông nghiệp, nuôi gia cầm và tiến bộ công nghiệp cho đến ngày nay.

Một điều khá trớ trêu là dù Đông Á nay được chính thức xem là quê hương của chó, và cấu trúc di truyền của chó rất gần với con người, nhưng cũng chính từ Đông Á, một số dân lại có truyền thống … ăn thịt chó! Không ít người Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam ta một mặt xem chó là bạn thân thiết của con người, nhưng mặt khác cũng không ngần ngại biến “bạn” thành mâm cỗ! Hi vọng rằng phát hiện mới nhất về quê hương của chó là một điểm khởi đầu để những cư dân nào ở Đông Á, kể cả Việt Nam, còn xem chó là một nguồn thực phẩm nên suy nghĩ lại thói quen này.

Chú thích và tài liệu tham khảo:

[1] Lindblad-Toh K, et al. Genome sequence, comparative analysis and haplotype structure of the domestic dog. Nature 2005; 438:803-819.

[2] Lee BC, et al. Dogs cloned from adult somatic cells. Nature 2005 4;436:641. Xem phần đính chính tại trong số Nature 2005;436:1102.

[3] Savolainen P, et al. Genetic Evidence for an East Asian Origin of Domestic Dogs. Science 2002: 1610-1613.

[4] Leonard JA, et al. Ancient DNA Evidence for Old World Origin of New World Dogs. Science 2002: 1613-1616

[5] Jonathan I. Bloch and Doug M. Boyer. Grasping Primate Origins. Science 2002: 1606-1610.

Bài đã đăng trên TT: https://tuoitre.vn/cho-chan-doan-ung-thu-ruot-426274.htm