“Chẳng có bảng xếp hạng đại học nào đáng tin cậy”

Theo GS Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Trung tâm Công nghệ y tế thuộc ĐH Kỹ thuật Sydney (Úc), việc các trường đại học nổi tiếng, chất lượng đào tạo được xã hội thừa nhận nhưng có thứ hạng tương đối thấp là thường tình.

Link: https://vietnamnet.vn/gs-nguyen-van-tuan-chang-co-bang-xep-hang-dai-hoc-nao-dang-tin-cay-2112512.html

GS Nguyễn Văn Tuấn cho hay, trào lưu xếp hạng đại học trên thế giới chỉ mới xuất hiện khoảng chừng 25 năm trước đây. Bắt đầu từ bảng xếp hạng AsiaWeek, Đại học Giao thông Thượng Hải (1999), rồi đến phụ trang giáo dục đại học của tạp chí Times, QS World University Ranking. Ở Việt Nam, 5 năm trước đã có nỗ lực xếp hạng đại học và công bố bảng xếp hạng, tuy nhiên ngay cả không có bảng xếp hạng thì công chúng cũng đã hình thành một bảng xếp hạng. 
 
Việt Nam cần thiết có bảng xếp hạng đại học
 
Trên thế giới vẫn có nhiều người nghi ngờ các bảng xếp hạng đại học. Xin hỏi ông là có cần bảng xếp hạng đại học Việt Nam không?
 
GS Nguyễn Văn Tuấn: Câu trả lời có lẽ sẽ gây ra tranh cãi. Tôi biết sẽ có người cho là không cần thiết các bảng xếp hạng vì các trường đại học Việt Nam vẫn còn ‘non trẻ’ và khoa học chưa đủ bề dày để tính toán. Tôi ghi nhận những nhận định đó. Nhưng cá nhân tôi vẫn nghĩ là cần thiết phải có xếp hạng đại học. Có nhiều lí do để các bảng xếp hạng đại học tồn tại, nhưng tôi nghĩ đến 3 lí do chính sau đây:
 
Thứ nhất là thị trường và nhu cầu của ‘khách hàng’. Việt Nam đã có hơn 150 trường đại học và rất nhiều chương trình đào tạo. Do đó, học sinh sau khi tốt nghiệp trung học đứng trước những lựa chọn và bảng xếp hạng đại học sẽ giúp cho họ và phụ huynh đi đến một quyết định.
 
Thứ hai, là động lực để cải cách. Có những trường đại học lâu đời và quy mô lớn, được công chúng đánh giá cao, nhưng khi đưa vào tính toán và phân tích khách quan thì lại không được xếp hạng cao. Ở Úc đã xảy ra vài trường hợp như thế, mà theo đó các trường ‘trẻ’ có hạng cao hơn các đại học có tuổi hơn 120 năm. Kết quả xếp hạng như thế làm cho đại học tụt hạng ngạc nhiên và tìm cách cải tiến cho tốt hơn. 

Thứ ba, là tạo ra sự cạnh tranh dẫn đến chất lượng đào tạo và nghiên cứu tốt hơn. Kết quả xếp hạng là một cách để các đại học tự nhìn lại mình, đối chiếu và so sánh, tìm ra những khía cạnh chưa tốt để cải tiến cho tốt hơn. Do đó, tôi nghĩ bảng xếp hạng đại học có giá trị kích thích sự cạnh tranh, kết quả là sinh viên và xã hội sẽ được hưởng lợi. 

 
Trước đây, bảng xếp hạng đại học do nhóm ĐH Giao thông Thượng Hải (còn gọi là ARWU) thực hiện là để nhằm “đánh thức” và nâng cao năng lực nghiên cứu của các trường đại học Trung Quốc, còn bảng xếp hạng QS thì mang tính thương mại và nhắm đến sinh viên chọn trường. Bảng xếp hạng này của Việt Nam thì chưa rõ mục tiêu, nhưng nhóm muốn đặt ra những tiêu chuẩn phù hợp với tình hình ở Việt Nam.
 
Vậy theo ông bảng xếp hạng đại học nên dựa vào những tiêu chí nào?  
 
GS Nguyễn Văn Tuấn: Theo tôi, câu trả lời liên quan đến sứ mệnh của một đại học, bao gồm kiến tạo ra tri thức mới, đào tạo và phụng sự cộng đồng. Từ cách nhìn đó tôi nghĩ có 3 nhóm tiêu chí xếp hạng: nghiên cứu khoa học, giảng dạy và cơ sở vật chất. 
 
Tuy nhiên, nói như thế là đơn giản, vấn đề khó khăn hơn là đề ra những tiêu chuẩn cụ thể và càng khó hơn là tìm trọng số cho mỗi tiêu chuẩn cụ thể. Ví dụ như nếu chúng ta lấy số bài báo khoa học được công bố làm 1 tiêu chuẩn (trong bộ tiêu chuẩn), thì câu hỏi đặt ra là trọng số cho tiêu chuẩn đó là bao nhiêu. Sẽ khó có trọng số hợp lí nếu chưa có những nghiên cứu khoa học nghiêm túc. 
 
Tôi nghĩ đó là một lí do mà tất cả các bảng xếp hạng đại học trên thế giới đều bị phê bình: cơ sở khoa học cho trọng số. Ví dụ như bảng xếp hạng ARWU bị phê bình là tuỳ tiện và chẳng dựa vào phương pháp thống kê và nhóm xếp hạng cũng chấp nhận phê bình này.
 
Trường nổi tiếng nhưng hạng thấp là thường tình
 
Theo ông những trường nổi tiếng, chất lượng đào tạo được xã hội thừa nhận nhưng có hạng tương đối thấp, kết quả này có hợp lí không?
 
GS Nguyễn Văn Tuấn: Vấn đề ‘xã hội’ là ai? Tôi thấy nếu bảng xếp hạng đại học được thực hiện bài bản và có phương pháp có thể chấp nhận được. Còn kết quả thì có thể làm cho nhiều người ngạc nhiên, nhưng đối với tôi thì không ngạc nhiên. Tôi đã theo dõi và phân tích các ấn phẩm nghiên cứu khoa học từ các trường đại học Việt Nam, và kết quả của chúng tôi cũng rất nhất quán với bảng xếp hạng đại học. Những đại học lâu đời, qui mô lớn, và được nhà nước ưu đãi đầu tư lại là những đại học có năng suất khoa học kém hơn các đại học mới. 
 
 Ông có thể cho biết ở nước ngoài, việc xếp hạng được tiến hành như thế nào và tiêu chí ra sao? Các số liệu được thu thập thế nào hay dựa vào số liệu do chính các trường đưa ra và như thế có đáng tin cậy?
 
GS Nguyễn Văn Tuấn: Có nhiều bảng xếp hạng đại học trên thế giới, trong số này nổi tiếng nhất là ARWU, QS và THE – Times Higher Education. Nhóm AWRU dựa vào 4 tiêu chí chính là số cựu sinh viên tốt nghiệp đoạt giải Nobel và Fields, số giáo sư đoạt giải Nobel và Fields, số nhà khoa học được trích dẫn nhiều lần, số bài báo khoa học trên hai tập san Nature và Science, số bài báo khoa học trên tập san trong danh bạ SCIE, SSCI, và thành tựu của giáo sư và đội ngũ giáo sư. 
 
Ngược lại, thay vì tập trung vào các tiêu chí nghiên cứu khoa học của ARWU, nhóm QS dựa vào sự đánh giá của giới khoa bảng từ các trường khác, số sinh viên tốt nghiệp làm việc trong các công ty toàn cầu, phần trăm giáo sư là người nước ngoài, phần trăm sinh viên là người nước ngoài, tỉ số sinh viên/giáo sư, và số lần trích dẫn tính trên đầu người giáo sư. 
 
Phần lớn giới làm khoa học đều biết rằng những tiêu chí như số lần trích dẫn cao và số công trình 2 tập san danh tiếng Science và Nature là thước đo quan trọng của nghiên cứu khoa học. Giả dụ rằng chúng ta cho trọng số 30% cho những giáo sư có trích dẫn cao và bài báo trên 2 tập san danh tiếng Science và Nature, và trọng số 10% cho các tiêu chí còn lại, thì tổng số điểm của đại học A sẽ là 81.73 và đại học B là 65.56. Theo cách đánh giá này thì đại học A có chất lượng cao hơn đại học B. Ví dụ đơn giản trên cho chúng ta thấy một vấn đề nổi cộm, đó là vấn đề phương pháp xác định trọng số. Câu hỏi then chốt cần đặt ra là làm thế nào để xác định được trọng số cho mỗi tiêu chí?

Chẳng có bảng xếp hạng đại học nào là đáng tin cậy cả. Mối tương quan giữa xếp hạng của các bảng xếp hạng đại học rất thấp, thấp đến độ chẳng có ý nghĩa gì đáng kể. Một số trường trong danh sách Top 50 của ARWU thậm chí có năm không nằm trong danh sách Top 500 của THE. Tính tổng cộng, chỉ có 133 trường nằm trong cả hai danh sách. Phân tích này một lần nữa cho thấy cách xếp hạng của cả hai nhóm không đáng tin cậy. 
 
Chính vì tính phi khoa học này nên trong thực tế đã xảy ra chuyện khôi hài như: Năm 2004, ĐH Malaya (một đại học lâu đời nhất của Mã Lai) được THE xếp hạng 89. Trước “tin vui” này, hiệu trưởng trường ra chỉ thị treo biển to tướng ở cổng trường với hàng chữ “University of Malaya a world’s top 100 university”. Nhưng chỉ một năm sau, khi THE xếp hạng lại thì ĐH Malaya tụt xuống hạng 169, dù trong thời gian ngắn đó đại học này chẳng có thay đổi gì về nghiên cứu khoa học hay nhân sự. Hệ quả là sau đó vị hiệu trưởng này mất chức. 
 
Ba yêu cầu cho một bảng xếp hạng đại học
 
Xếp hạng ĐH là một trong những thước đo về chất lượng của trường ĐH đó. Làm thế nào để có thước đo chính xác về phân tầng cũng như xếp hạng ĐH thưa ông?
 
GS Nguyễn Văn Tuấn: Sẽ không bao giờ có thước đo nào chính xác về chất lượng. Ngay cả khái niệm “chất lượng” trong giáo dục đại học đã khó có thể đi đến một sự đồng thuận. Theo tôi, một cách làm tốt hơn trong việc xếp hạng đại học là thu thập dữ liệu theo thời gian thì mới phản ảnh chính xác hơn cách thu thập dữ liệu chỉ một năm.  
 
Vậy theo ông một bảng xếp hạng đại học phải đáp ứng những điều kiện gì để công chúng có thể tin vào và giới giảng viên chấp nhận? 
 
GS Nguyễn Văn Tuấn: Tôi không dám nói là mình phản ảnh tiếng nói của giới giảng viên đại học nhưng tôi có quan điểm riêng. Quan điểm của tôi là một bảng xếp hạng đại học hợp lí phải đáp ứng 3 yêu cầu: khoa học, phương pháp và phương pháp luận, minh bạch. 
 
Về khoa học, bất cứ bảng xếp hạng nào cũng phải mang tính khoa học, hiểu theo nghĩa phải có nghiên cứu và nghiên cứu phải được công bố. Nghiên cứu khoa học giúp quyết định tiêu chuẩn nào quan trọng và cần thiết, để xác định trọng số, vì nếu không có nghiên cứu thì trọng số sẽ rất tuỳ tiện và không thuyết phục được ai. 
 
Về phương pháp và phương pháp luận, bảng xếp hạng đại học phải dựa trên cơ sở của một phương pháp phân tích thích hợp và phương pháp luận phải được xây dựng trên một cơ sở triết lí vững vàng. Những bảng xếp hạng như QS theo tôi là kém thuyết phục vì phương pháp luận không được đánh giá cao. 
 
Về minh bạch, bất cứ bảng xếp hạng nào nên công bố tất cả số liệu cho mỗi đại học và cách mà họ xử lí số liệu. Trong thế giới khoa học mở ngày nay, minh bạch là điều kiện rất quan trọng. Các bảng xếp hạng về chỉ số hạnh phúc và xếp hạng đại học, người ta đều công bố số liệu cụ thể để độc giả có thể đánh giá và các chuyên gia có thể phân tích. 

Tại sao các đại học Việt Nam không có trong bảng xếp hạng những đại học hàng đầu Châu Á?

Báo Đất Việt (phóng viên Thanh Huyền) có nhã ý hỏi tôi câu hỏi trên. Nhân dịp này tôi cũng bày tỏ một số ý nghĩ chung quanh câu hỏi đó. Tôi cũng nghĩ đến một “bức tranh lớn” hơn rằng chúng ta không nên chạy theo các bảng xếp hạng, mà nên xây dựng năng lực nghiên cứu khoa học trước. Tôi cũng đề nghị nên Anh ngữ hóa các chương trình đào tạo tiến sĩ và cao học.

PV: Tạp chí Times Higher Education (THE – Anh) vừa công bố Bảng xếp hạng những trường Đại học (ĐH) hàng đầu châu Á. Bảng xếp hạng năm nay có hơn 350 trường tới từ 25 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong khi các nước bạn như Thái Lan, Indonesia, Malaysia lần đầu tiên có tên trong danh sách này, thì các trường ĐH của Việt Nam vẫn tiếp tục vắng bóng tại bảng xếp hạng này. Là một chuyên gia có nhiều tâm huyết với nền giáo dục Việt Nam, ông đánh giá và nhìn nhận ra sao về kết quả này?

NVT: Tôi thiết nghĩ sự vắng bóng của các đại học Việt Nam trong các bảng xếp hạng đại học hàng đầu trên thế giới không phải là điều ngạc nhiên. Chúng ta không kì vọng điều đó xảy ra hiện nay và trong tương lai gần. Chúng ta không kì vọng là vì tiêu chuẩn xếp hạng đại học của các nhóm dựa vào nghiên cứu khoa học (NCKH) và cái mà tôi gọi là “điểm nổi” (hay tiếng Anh là visibility), cả hai đều là điểm yếu của hầu hết các đại học ở Việt Nam.

Như tôi có lần đề cập trước đây, NCKH có trọng số đến 60% trong các bảng xếp hạng đại học. Nói cách khác, NCKH hay phẩm chất của khoa học là yếu tố quyết định thứ hạng của một đại học. Mà, NCKH lại là một điểm yếu của các đại học Việt Nam. Những đại học có nhiều công bố khoa học trên các tập san quốc tế như Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Duy Tân, v.v. mỗi năm chỉ có trên dưới 300 bài. Con số đó còn quá ít để có thể cạnh tranh với các đại học trong vùng như Mahidol, Chulalongkorn, Malaya, Sains Malaysia, Indonesia, (chưa nói đến Nanyang hay NUS). Mỗi đại học vừa kể mỗi năm công bố từ 3000 đến 4500 bài báo khoa học, tức tương đương cả nước Việt Nam cộng lại!

Lí do thứ hai là khía cạnh điểm nổi (hay nói đúng ra là “điểm chìm”). Hiện nay, hầu hết các đại học Việt Nam chưa tạo được uy danh (prestige) trên trường quốc tế. Nguyên nhân là vì công bố khoa học còn khiêm tốn, nhưng một nguyên nhân khác là Việt Nam thiếu những nhà khoa học mà thế giới khoa học có thể nhìn vào và nhận ra “Việt Nam”. Dĩ nhiên, Việt Nam cũng có các nhà khoa học nổi tiếng, nhưng con số còn rất ít (có thể chỉ trên dưới 20 người) để có thể tạo ra một “động lượng” đem tên tuổi Việt Nam và đại học Việt Nam vào trường khoa học quốc tế. Tôi thấy rất rất ít giới lãnh đạo giáo dục và đại học nhận ra tầm quan trọng của tính visibility này. Do đó, không ai ngạc nhiên khi các đại học Việt Nam còn lu mời trong thế giới đại học quốc tế.

Trong tương lai gần, tôi nghĩ giới báo chí không nên đặt câu hỏi tại sao các đại học Việt Nam không có tên trong các bảng xếp hạng đại học hàng đầu thế giới, mà nên hỏi sự tiến triển của NCKH đến đâu, và các trường đã làm gì để nâng cao tính visibility hay điểm nổi của đại học Việt Nam trên trường quốc tế. Chỉ khi nào Việt Nam có một đại học mà mỗi năm công bố ít nhất 2000 công trình nghiên cứu khoa học thì mới bàn đến việc đứng ở đâu trong các bảng xếp hạng đại học thế giới.

PV: Được biết, bảng xếp hạng này chú trọng tiêu chí nghiên cứu khoa học. Trong vài năm vừa qua, đây cũng là vấn đề được các trường quan tâm chú trọng tuy nhiên kết quả vẫn chưa được như mong muốn. Thưa ông, đâu là nguyên nhân của thực trạng này? Muốn nâng hạng nghiên cứu khoa học, chỉ với quyết tâm và sự thạo thuộc cách bình xét của các tạp chí khoa học, dùng những cách thức phù hợp để đáp ứng liệu đã đủ?

NVT: Chúng ta không nên nghĩ đến việc “đi tắt đón đầu”, bởi vì nghiên cứu khoa học phải được xây dựng từ cơ bản, chứ không có chuyện “đi tắt”, càng không có chuyện “đón đầu”. Ý tôi muốn nói rằng nên đầu tư nhiều vào việc quan trọng nhất là xây dựng năng lực khoa học.

Tôi xin giải thích thêm. Nền khoa học của một quốc gia trải qua 4 giai đoạn: tiền phát triển, xây dựng, củng cố và mở rộng, và quốc tế hóa. Tôi thấy nền khoa học Việt Nam đang ở trong giai đoạn xây dựng (như các nước Indonesia và Phi Luật Tân), tức còn thấp hơn Mã Lai và Thái Lan (giai đoạn củng cố và mở rộng) hay Singapore và Hàn Quốc (giai đoạn quốc tế hóa).

Do đó, vấn đề không phải là am hiểu các “luật chơi” khoa học (vì đó chỉ là đầu ra thứ phát), mà là xây dựng năng lực nghiên cứu khoa học. Chúng ta đang thiếu những nhà khoa học nổi tiếng, thiếu những công trình nghiên cứu lớn, thiếu đầu tư cho khoa học, và năng lực quản lí khoa học còn kém. Do đó, xây dựng năng lực nghiên cứu khoa học ở đây có nghĩa là thu hút, đào tạo và gìn giữ người có tài; là đầu tư mạnh về cơ sở vật chất một cách thích hợp và chính đáng; là chọn những chủ đề nghiên cứu có tác động lớn để theo đuổi; và nâng cao năng lực quản lí đầu ra của nghiên cứu khoa học.

PV: Thông tin được tạp chí THE đưa ra trong lúc dư luận Việt đang có nhiều nghi vấn về việc trong số 85 giáo sư được xét duyệt năm 2017, có tới 29 giáo sư (34%) không có bài báo đăng trên tạp chí ISI/Scopus. Trong số 1.141 phó giáo sư được xét duyệt thì có tới 609 người không có bài báo ISI/Scopus (chiếm 53%). Ông bình luận thế nào về hai thông tin này? Có phải không thưa ông rằng tâm lý chạy đua lấy thành tích khiến cho nhiều trường đại học không vững chân đi theo chuẩn mực thế giới? Và điều này có phải là nguyên nhân căn bản khiến đại học Việt Nam vẫn cứ mãi lạc nhịp so với thế giới hay không?

NVT: Tôi có suy nghĩ hơi khác về mối tương quan giữa số lượng giáo sư và thứ hạng trong bảng xếp hạng đại học. Trong thực tế, mối tương quan đó không hiện hữu, và do đó chúng ta không nên nghĩ hễ tăng số lượng giáo sư hay nhà khoa học là dẫn đến tăng hạng đại học Việt Nam trên trường quốc tế.

Vấn đề của Việt Nam là khá đặc thù ở chỗ 50% giáo sư (tôi dùng chữ đó cho cả “phó giáo sư”) được công nhận không có công trình công bố trên các tập san quốc tế. Nếu điều này xảy ra vào thế kỉ 20 hay thập niêm 1970 hay 1980 thì có thể hiểu được và thông cảm được, nhưng khổ thay nó lại xảy ra ngay trong thời đại mà văn hóa “công bố hay là diệt vong” trong khoa bảng là một qui luật! Điều này có thể nói lên rằng hơn phân nửa giáo sư Việt Nam không làm nghiên cứu khoa học.

Ngay cả trong số các giáo sư có công bố khoa học thì số lượng cũng chưa nhiều và phẩm chất cũng còn hạn chế. Chẳng hạn như trong ngành y (ngành có nhiều giáo sư được công nhận), gần 90% công bố khoa học là do hợp tác quốc tế và người nước ngoài chủ trì, chứ đa số các giáo sư Việt Nam chỉ là tác giả “lính đánh bộ”. Ngoài ra, cũng trong ngành y, 90% các bài báo khoa học được công bố trên những tập san có ảnh hưởng thấp (impact factor dưới 5). Đó là tình hình ngành y, nhưng tôi xem qua các ngành khác thì xu hướng cũng chẳng có gì quá khác biệt. Lượng có tăng (dù ít) nhưng phẩm thì còn quá khiêm tốn.

Những dữ liệu thực tế trên đây cho thấy tiêu chuẩn đề bạt (hay “công nhận”) chức danh giáo sư của Việt Nam chưa nhắm đến mục tiêu nâng cao năng lực khoa học. Có thể nói rằng các tiêu chuẩn cho chức danh giáo sư hiện nay quá đơn giản và dường như có mục tiêu đạt được số lượng theo một kế hoạch duy ý chí nào đó. Nếu giả thuyết này đúng thì các tiêu chuẩn học thuật cho giáo sư chưa phục vụ cho việc xây dựng năng lực khoa học quốc gia.

PV: Để có những sự lột xác thực sự tại các trường Đại học, theo ông việc cần làm đầu tiên của Việt Nam là gì? Những khó khăn mà chúng ta có thể sẽ gặp phải? Bản thân ông có đặt kỳ vọng gì vào nền giáo dục nước nhà trong thời gian tới?

NVT: Đây là một câu hỏi quá lớn, mà tôi thì không có khả năng suy nghĩ bao quát được. Tôi chỉ muốn chia sẻ một số suy nghĩ về những việc cần/nên làm trước mắt:

Tổ chức lại nhân sự nghiên cứu khoa học. Trong bất cứ đại học nào, chỉ có một số ít (khoảng 20%) người làm nghiên cứu và năng suất của họ chiếm đa phần (có thể 80%) năng suất của cả trường. Do đó, vấn đề là qui tụ họ lại theo những nhóm nhỏ gọi là “research group”, và nhiều nhóm nhỏ thành một “research division” (giống như ‘sư đoàn khoa học’) sao cho họ tương tác với nhau nhiều hơn nữa.

Tạo cơ hội cho nhiều người nghiên cứu khoa học. Ở Việt Nam nhiều người dường như bị “ám ảnh” bởi văn bằng tiến sĩ, và người ta nghĩ rằng phải có tiến sĩ mới có thể làm nghiên cứu khoa học. Điều này chỉ đúng ở một số ngành, nhưng ở các ngành như y khoa thì văn bằng bác sĩ có khi quan trọng hơn tiến sĩ, và nhiều bác sĩ làm nghiên cứu mà không cần và không có bằng tiến sĩ. Cũng phải tạo điều kiện cho những người có bằng cao học (masters) làm nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học quan trọng là ý tưởng và khả năng, chứ không phải bằng cấp. Nô lệ vào bằng cấp là một hình thức loại trừ những người có khả năng khoa học và có khả năng đóng góp vào việc xây dựng năng lực khoa học cho Việt Nam.

Tăng cường đầu tư. Ở cấp quốc gia, theo thông tin từ Quốc hội, ngân sách cho khoa học và công nghệ chỉ 1.5 đến 1.7% tổng chi, so với ở các nước phát triển tỉ lệ này là 3-4%. Tuy nhiên, ngay cả con số 1.5-1.7% này chủ yếu là cho nhân sự là chính, chứ không hẳn cho nghiên cứu khoa học hay cơ sở vật chất. Không thể nào đòi hỏi có công trình nghiên cứu có phẩm chất cao với mức đầu tư quá thấp.

Tài trợ cho khoa học. Tài trợ cho nghiên cứu khoa học hiện nay đã thấp, mà còn quá tập trung nhưng lại dàn trải. Thật ra, ngoại trừ vài trường có tài trợ cho nghiên cứu khoa học, đại đa số thì không có hoặc có thì cũng rất ít. Một công trình nghiên cứu thực nghiệm mà chỉ được đầu tư 10-20 triệu thì không có ý nghĩa gì cả (thà không tài trợ thì đỡ tốn kém hơn).

Anh ngữ hóa khoa học. Tôi nghĩ đã đến lúc phải “Anh ngữ hóa” một số hoạt động nghiên cứu khoa học. Nên dùng tiếng Anh cho tất cả các đề cương nghiên cứu. Tất cả các bài báo khoa học và luận án cao học trở lên trong nước nên dùng tiếng Anh, và tiếng Việt chỉ dùng cho phần tóm tắt (abstract). Trong thực tế, các nước Âu châu dù tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Anh vẫn dùng tiếng Anh trong các luận án, bài báo khoa học, và đề cương khoa học. Anh ngữ hóa giúp cho việc hội nhập nhanh hơn và thông tin khoa học chính xác hơn.

Nâng cao năng lực quản lí khoa học. Quản lí khoa học tốt có thể góp phần nâng cao năng lực khoa học của một trường đại học. Quản lí khoa học ở đây bao gồm kĩ năng và kinh nghiệm chọn đề tài nghiên cứu, thẩm định giá trị khoa học, quản lí đầu ra của nghiên cứu khoa học (kể cả phân biệt tập san khoa học). Nhưng đây là một khía cạnh ít được chú ý, và thay vào đó là những qui định mang tính hành chánh hóa và làm khổ giới khoa học hơn là giúp họ.

Nói chung, tôi nghĩ cần phải có một cuộc điều tra độc lập để tìm hiểu tình hình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong thời gian 20 năm qua, và từ đó đề ra định hướng mới cho Nhà nước. Không thể nào tiếp tục chi tiền hết năm này sang năm khác, mà hiệu quả của việc đầu tư thì không được đánh giá một cách có hệ thống và độc lập. Cần phải có một ủy ban với các giáo sư trong và ngoài nước, những người không hưởng lợi từ các tài trợ trong quá khứ, thẩm định lại hiệu quả của đầu tư cho khoa học trong quá khứ và đề ra chiến lược trong tương lai.

Bài đã đăng trên Đất Việt:

http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/giao-duc/vn-khong-co-truong-dh-lot-top-chau-a-khong-la-3352795/

Sau khi báo Đất Việt đăng bài viết, có một số độc giả bình luận như sau:

http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/giao-duc/khong-co-truong-dh-lot-top-chau-a-ai-se-buon-3353091/

Không có trường ĐH lọt top châu Á: Ai sẽ buồn?

(Giáo dục) – Muốn có tên trong các bảng xếp hạng Đại học hàng đầu trong khu vực cần có những chiến lược cụ thể, đừng đi tắt đón đầu.

Sau khi Đất Việt đăng tải bài viết: “VN không có trường ĐH lọt top châu Á: Không lạ!”, ngày 18/2, với những ý kiến của GS Nguyễn Văn Tuấn – Viện Garvan, Australia khi Việt Nam không có trường Đại học nào lọt top trường Đại học châu Á, đã nhận được rất nhiều phản hồi của độc giả về vấn đề này.

Con số đầu tư khiêm tốn cho nghiên cứu khoa học

Đưa ra quan điểm của mình, độc giả Hoàng Nga viết: “Đầu tư của Việt Nam cho nghiên cứu khoa học chỉ là con số cực kỳ khiêm tốn so với Thái Lan, Singapore…chứ đừng nói đến Trung Quốc (chỉ so được với 1 tỉnh của họ).

Nên cần phải có chiến lược làm lại từ đầu, từ bước cơ bản và nâng dần, không có chuyện đi tắt hay đón đầu trong khoa học”.

Thế nhưng, ở một góc nhìn khác, độc giả Hưng Vương cho rằng, thực ra chi phí cho khoa học của nước ta khá lớn: chi nuôi các đơn vị sự nghiệp khoa học (mà không làm khoa học); chi cho những dự án khoa học lớn (cấp nhà nước, nghị định thư…) mà không thu được gì (nhưng được kể đến trong xét duyệt GS, PGS)…

Trong khi, nghiên cứu khoa học thâm sâu như Toán học thì chỉ cần thời gian, giấy với bút và cái đầu to, chứ không có tốn kém nhiều.

Ngay cả khoa học thực nghiệm bây giờ người ta cũng dùng mô hình toán để giả lập và thí nghiệm ảo trên máy tính trước, rồi cuối cùng mới dùng mô hình thật để kiểm chứng.

Nói thật người Việt mình vốn không có tính thiên hướng yêu khoa học thực sự, phần đông thích nghe tin đồn, rất tin vào thần thánh, bói toán, tướng số, phong thủy, địa lý các thứ, nhiễm nặng thói đi tắt đón đường giật tiền nhanh, để ăn nhậu hưởng thụ cho sướng, ít ai muốn sống đời đơn giản, hợp lý, thanh cao, kiên trì hướng đến các giá trị cao cả, lâu bền“, độc giả này thẳng thắn.

Các nhà quản lý giáo dục có buồn?

Cũng đưa ra quan điểm của mình, độc giả Tuấn Văn đưa ra câu hỏi băn khoăn không hiểu các nhà quản lý giáo dục có buồn khi các trường đại học nước nhà luôn vắng bóng trong các bảng xếp hạng quốc tế.

Cứ hô mãi khẩu hiệu và chạy theo thành tích thì biết bao giờ đất nước phát triển. Nói thật người dân buồn vì đất nước lạm phát chức danh, học vị nhưng mãi vắng bóng.

Thậm chí, có lẽ thế giới họ “tự ái” vì thua kém Việt Nam về số lượng GS, PGS, TS, Ths nên cho Việt Nam đứng thứ hạng cao về mặt….số học.

Lý giải cho các con số đào tạo lớn, độc giả Nguyên Minh ví von: “Chỉ tiêu 20.000 tiến sĩ là quá ít, cần phải tạo ra 200.000 hoặc 2.000.000 tiến sĩ thì may ra chúng ta sẽ có được 10% tiến sĩ trong số đó có chất lượng khoa học thực sự, đảm bảo chúng ta sẽ đứng đầu thế giới vì người Việt Nam rất thông minh, thông minh vô cùng.

Đặc biệt, nếu một nền giáo dục quay cuồng với bằng cấp, chức danh thì còn thời gian đâu để ngiên cứu cạnh tranh với thế giới”.

Từ việc đặt ra các chỉ tiêu con số đào tạo nên các trường Đại học mọc ra như nấm chủ yếu là để phổ cập Đại học, vậy làm sao đòi hỏi chất lượng tốt.

“Tôi khẳng định ngay cả ASEAN còn khó lọt Top nói chi thế giới, châu Á. Tôi biết mỗi năm nhà nước chi hàng nghìn tỷ cho nghiên cứu khoa học nhưng rút cuộc nghiên cứu những gì cũng không ai biết, nhưng kết luận thì vẫn thụt lùi”, độc giả Minh phân tích.

Những cách tháo gỡ hiệu quả

Đưa ra một số giải pháp, độc giả có nickname Hoài Dân chỉ rõ: “Chúng ta cần yêu cầu GS, PGS, TS, Ths chỉ làm nghiên cứu khoa học, không được làm quản lý. Như vậy công trình nghiên cứu khoa học sẽ tăng đột biến và giảm đột biến số GS, PGS, TS, Ths.

Thêm nữa, hãy xóa bỏ đi tâm lý bằng cấp còn đang tồn tại trong xã hội, đặc biệt các nhà tuyển dụng lao động”.

Đồng thời, theo độc giả trên thì cần bỏ chạy theo thành tích, bằng cấp, số lượng hãy đầu tư vào chất lượng, vào thực tế may ra sẽ có trường lọt top Đông Nam Á chứ châu Á.

Cả nước có cả nghìn GS, PGS mà chưa có các phát minh sáng chế được công nhận, toàn các ông nông dân phát minh ra như tàu ngầm, máy bay, trực thăng…

Điều này chính là thực tế biết trước khi các GS, PGS của Việt Nam đều được ra lò từ những cuộc xét duyệt và công nhận không giống ai (trên thế giới). Do đó, không thể đòi hỏi họ có khả năng làm ra những công trình khoa học có đóng góp gì đó cho nền khoa học nước nhà và thế giới.

Sơn Ca